1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lược sử tên họ người Việt

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi nguyenthanhchuong, 07/06/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. nguyenthanhchuong

    nguyenthanhchuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/05/2003
    Bài viết:
    176
    Đã được thích:
    0
    Lược sử tên họ người Việt

    LƯỢC SỬ TÊN HỌ NGƯỜI VIỆT

    Nguyễn Vy-Khanh

    Nghiên cứu tất cả hệ thống tên họ các dân tộc trên thế giới cho thấy người Việt có lẽ là một dân tộc đầu tiên, cùng với người Trung Hoa và Ðại Hàn, có một hệ thống tên họ đơn giản và hợp lý nhất. Người Nhật mải đến năm 1872 mới được quyền có họ, trước đó chỉ có các ngài đạiđanh (samourais) là có đặc quyền đó. Theo lịch sử Trung quốc, việc đặt họ tên bắt đầu từ năm 2852 trước Công nguyên, khi vua Phục Hi ra lệnh bắt dân chúng phải có một "gia tính" hay "tộc tính" để dễ phân biệt các hệ phái gia đình và định phép tắc hôn nhân. Ðến thế kỷ thứ V trước Công nguyên ở Trung quốc đã có hai loại "gia tính" được dùng: "tính" là họ gốc, do cha truyền con nối hoặc do vua ban, và dành cho nam giới; "thị" là họ cành, tức tên đặt khi mới sanh dùng cho cả nam lẫn nữ. Giới quý tộc vừa có Tính vừa có Thị, dân giả thì chỉ có tính. Từ đó phát xuất thành ngữ "bá" hoặc "bách tính". Con trai đàn ông xưng "thị" để phân biệt sang hèn, con gái đàn bà xưng "tính" để phân biệt hôn nhân.

    Theo huyền thoại, Lạc Long Quân và các vua Hùng đều rất gần dân chúng, biết hết sự tình của con dân. Như Lạc Long Quân chỗ ở là thủy phủ nhưng khi dân cần đến, đứng trên bờ gọi là ngài sẽ lên giúp dân. Nhân số bành trướng, lãnh thổ Bách Việt cũng thiên di từ phía nam sông Dương-tử xuống đồng bằng sông Hồng, hội nhập văn hóa và đồng hóa người Mường và các sắc dân địa phương. Tuy nhiên văn hóa nông nghiệp nền tảng của Việt tộc vẫn luôn trội bật. Do đó hơn hai ngàn năm trước, tổ tiên ta đã nghĩ lập ra "sổ điền" cốt để nhà vua kiểm kê nhân và dân số hàng năm hoặc theo một thời hạn cố định, mục đích nhằm phân chia ruộng nương thời đó thuộc về nhà vua. Việc phân chia này đòi hỏi một sự hiểu biết tường tận từng nóc gia. Với họ và tên gọi, quan chức triều đình có thể ấn định số người trong mỗi gia đình. Về sau thêm "sổ đinh" hoặc "sổ bộ", ghi họ tên chính thức về hộ tịch từng cá nhân và gia đình. Rồi từ "sổ bộ", mỗi gia đình lập một sổ riêng, ghi chú tất cả những việc cưới hỏi, sinh đẻ và tang ma. Ðó là nguồn gốc của gia phả.

    Nếu lịch sử là quá khứ và nền tảng của một dân tộc thì gia phả là lịch sử hình thành và phát triển của gia tộc. Gia phả phát xuất từ Trung quốc dưới dạng thức "thế bản" từ thời nhà Chu (111-256 trước Công nguyên) trong khi ở Việt Nam có thể gia phả đã có từ trước, nhưng theo lịch sử biên chép thì gia phả xuất hiện từ năm 1026 vào thời vua Lý Thái Tổ, gia phả đầu tiên được gọi là Hoàng-triều ngọc-điệp. Tục làm gia phả phát triển mạnh ở hai miền Bắc và Trung, trong Nam rất ít gia đình làm gia phả ở đấy còn được gọi là "gia phổ" và biến thái thành "tông chi" tức tờ "tông chi tông đồ" cốt để phân phối gia tài hơn là để phân chia ngành ngọn của gia đình. Theo ông Dã Lan Nguyễn Ðức Dụ, lý do là để tránh sự khủng bố của thực dân Pháp (1).

    Trong gia phả, người đứng đầu ngành trưởng (trưởng họ, trưởng tộc) có bổn phận ghi hết những chi tiết về thân thích và dòng dõi; những người con khác sao lại bản gia phả chính đó. Các gia đình giữ gìn kỹ lưỡng và truyền từ đời cha tới đời con. "Họ" theo nghĩa gốc có liên hệ với nhà và dưới chế độ phong kiến, nối kết con người với đất ruộng: một mái nhà, một gia đình, một họ. Họ và tên của một người định vị trí của cá nhân người đó trong xã hội, xác định cá thể trong một toàn thể.
    Họ tên của người Việt thông thường gồm có theo thứ tự: họ, chữ lót hoặc tên đệm, và tên gọi. Trừ một vài ngoại lệ, người Việt thường gọi nhau bằng tên gọi (prénom, petit nom; first name): bà Nhị, cô Yến, ông Khanh, cụ Mục, cháu Khuê, v.v.

    Họ (Tính):

    Số họ người Việt rất hạn chế, có khoảng 140 họ khác nhau - chúng tôi ghi lại trong danh sách ở cuối bài. Do đó có thành ngữ "trăm họ" (bách tính, còn đọc là "bá tánh") thời xưa thường dùng để chỉ dân chúng cả nước. Ông Dã Lan Nguyễn Ðức Dụ trong cuốn Gia Phả đã dẫn có nói đến ba trăm họ tối đa có thể có nhưng ông đã không lập danh sách (2). Cũng theo ông, người Trung quốc cũng chỉ có ba trăm họ trong khi người Nhật Bản xử dụng đến một trăm ngàn tên họ khác nhau. Người Pháp gọi "họ" là "nom de famille" và "patronyme", người Anh Mỹ, "family name" và "patronym".

    Những họ Việt Nam thường gặp nhất là Nguyễn, Phạm, Phan, Trần, Lê, Vũ/Võ, Trương, Huỳnh/Hoàng. Nhiều người mang cùng một họ không có nghĩa là họ có cùng một gốc gác. Thời xưa và nhất là ở nhà quê, người ta phân biệt nhau bằng cách gọi "họ Nguyễn làng Tiên Ðiền", "họ Nguyễn làng Tây Sơn", v.v. Trong nhiều làng thôn, tất cả mọi người cùng mang một họ. Có người cắt nghĩa là vì vào thời lập quốc, người Việt chỉ có một tổ tiên chung là Lạc Long Quân và Âu Cơ. Ðến thời hiện đại, những người Việt này chứng minh mỗi dòng họ một tổ tiên riêng.

    Từ khi bị người Tàu đô hộ, người Việt chính thức theo chế độ phụ hệ, do đó con cái phải lấy họ cha. Theo dân luật, con phải lấy họ cha, không có vấn đề tự do lựa chọn. Họ không thể cho người ngoài họ dùng và trên nguyên tắc không thể thay đổi. Có hẳn cả một hiệp ước quốc tế năm 1959 về thay đổi họ. Tuy nhiên trong Nam từ thời Pháp thuộc có khuynh hướng dùng cả họ cha và họ mẹ mà đặt cho con, thí dụ con đầu lấy họ cha thì con thứ lấy họ mẹ, anh chị em ruột mà họ khác nhau là vì vậy!

    Họ kép:

    Nhiều gia đình mang họ kép, như Vũ-Ðỗ Thìn, Ðặng-Trần Huân, Trần-Lê Quang, v.v.. Tuy nhiên cần phân biệt hai loại họ kép:

    - Họ + tên đệm: Các họ Ðặng-Xuân, Ðặng-Vũ và Ngô-Vi, Ngô-Thời, xuất phát từ một gia đình gốc họ Ðặng và họ Vũ, nhưng vì muốn phân biệt chi nhánh nên đã thêm tên đệm vào họ. Yếu tố này không phải là họ, nhưng giữ nhiệm vụ tên lót trung gian giữa họ và tên. Nhưng những họ đi kèm với tên đệm "Bá, Thúc" phải được coi như họ đơn, vì những tên lót này chỉ là những chữ lót chung.

    - Họ kép hợp bởi hai họ: Ðây là những họ kép chính thức. Thường thấy có: Vũ-Ðỗ, Nguyễn-Trần, Trần-Lê, Hồ-Ðặng, Lê-Phan, Vũ-Phạm, Ðặng-Trần. Vì một lý do nào đó, một người xử dụng họ kép và truyền lại cho các thế hệ sau. Trước hết là trường hợp người con nuôi, y thêm họ gia đình cha mẹ nuôi vào họ gốc. Họ mới đi trước họ gốc. Ðó là hoàn cảnh của nhà thơ Ðặng-Trần Côn, tác giả Bích-Câu kỳ-ngộ và Chinh Phụ Ngâm Khúc. Là con nuôi của một gia đình họ Ðặng, ông vốn tên là Trần Côn. Con cháu thường vẫn tiếp tục giữ họ kép đó. Nhưng có trường hợp có người con lấy lại họ cũ, như con cháu Vũ-Phạm Hàm, gốc họ Phạm, làm con nuôi người bạn của cha họ Vũ nên mới có họ kép là Vũ-Phạm. Về sau, có người còn giữ họ Vũ-Phạm, nhưng đa số lấy lại họ gốc là Phạm vì ông chỉ truyền họ kép Vũ-Phạm cho một trong chín người con.

    Một lý do khác thông thường hơn. Vua chúa ngày xưa thường cho phép một số quan lại có công với triều đình hoặc đỗ đạt cao được đổi tên và có khi cho phép theo họ của vua (quốc tính), xem đó là một cách tưởng thưởng trọng hậu. Có người bỏ hẳn họ gốc để lấy họ vua như Mạc Cảnh Vinh được chúa Sãi Nguyễn-Phúc Nguyên cho phép đổi thành Nguyễn-Phúc Vinh. Nhưng thường người được đổi họ được phép giữ họ gốc ghép vào họ mới mà thành ra họ kép. Huỳnh Ðức, quan triều đại Gia-Long trở thành Nguyễn-Huỳnh Ðức. Các con ông là Nguyễn-Huỳnh Thành, Nguyễn-Huỳnh Thừa, v.v.. Tuy nhiên con gái vẫn giữ họ gốc Huỳnh vì con gái không mang quốc tính. Chỉ có thời Tống Nho mới có những phân biệt nam nữ như vậy!

    Hiện nay người ta thấy có nhiều họ kép loại nhưng thường gồm hai họ của vợ chồng dùng đặt cho con cái. Các họ kéo mới này không thể trường tồn vì không được mọi người và tục lệ chấp nhận. Hơn nữa, những người con của họ, một khi lập gia đình lại sẽ đổi họ kép đặt cho con, họ kép của người phối ngẫu mới có thể là một họ khác.

    Nguồn gốc họ người Việt:

    - Họ các triều đại: Ða số người Việt mang một họ trong số 16 dòng họ đã từng cai trị lẫy lừng trong lịch sử. Theo thứ tự niên đại, đó là những họ Thục, Trưng, Triệu, Mai, Khúc, Lý, Phùng, Kiều, Ngô, Ðinh, Lê, Trần, Hồ, Mạc, Trịnh và Nguyễn. Hoặc họ là con cháu thật sự của những dòng họ kể trên, hoặc họ xử dụng như mượn họ hoặc bị bắt buộc mang những họ đó nhưng khác họ thật.

    Có gia đình tự ý đổi lấy họ đương triều để chứng tỏ sự trung thành. Có người do nhà vua ban cho như Nguyễn Trãi có lúc đổi tên là Lê Trãi theo họ nhà vua. Một số khác bị bắt buộc phải đổi họ của triều đại vừa bị lật đổ để lấy họ đương triều để chứng giám lòng trung thành với triều đại mới. Trong nhiều trường hợp, triều đình bó buộc dân gian bỏ họ gốc để lấy quốc tính để tránh những nhóm ********* có ý lật đổ triều đình hay làm loạn đưa người họ triều triều đại vừa bị lật đổ vào cho có lý do chính trị (ý trời, "thuận thiên"). Nhà Nguyễn thời Gia Long và MInh Mạng đã bắt những người họ Lê đổi họ thành Nguyễn chỉ vì thời đó những kẻ cầm đầu những phong trào ********* mang họ Lê: Lệ

    Riêng họ Nguyễn, còn là họ triều đại quân chủ cuối cùng, có thêm một lý do khác khiến họ này trở nên thông dụng nhưng lại khó hiểu dưới mắt người Tây phương. Ðời Trần Thái-Tông (1232), sau khi đã đoạt ngôi nhà Lý, Trần Thủ Ðộ lấy lý do tổ nhà Trần tên Lý, đã bắt tất cả những người họ Lý là họ dòng vua vừa bị hoán vị, lẩn dân gian, phải đổi làm họ Nguyễn; tuy nhiên ý đồ thật sự là khai tử dòng vua Lý để sẽ không còn ai nhớ đến dòng họ Lý nữa.

    Ngoài ra, có người cải đổi tên họ vì trốn sưu thuế, trốn lính hoặc bất đắc dĩ phải đổi lấy họ đương triều vì ông cha bị tội hình như "tru di tam tộc" - cũng là lý do tại sao ngày xưa khi đi thí phải khai họ ba đời. Có người đổi họ vì một lý do riêng tư khác. Như Hàn Thuyên vốn họ Nguyễn, được vua Trần ban cho họ Hàn vì ông làm bài văn ném xuống sông khiến cá sấu bỏ đi, như chuyện Hàn Dũ bên Trung Hoa trước đó. Và vì Hàn Thuyên hay làm thơ phú bằng quốc âm nên về sau các nhà văn học sử có khi gọi thơ văn chữ Nôm là thơ văn "Hàn luật". Hoặc như Hồ Quý Ly tổ tiên gốc người Chiết Giang (Trung Hoa) sang nước ta định cư, đến tổ tiên đời thứ tư là Hồ Liêm làm con nuôi nhà họ Lê nên đổi lấy họ Lê. Nhưng khi Hồ Quý Ly dấy nghiệp, ông lấy lại họ Hồ và đặt cả quốc hiệu là Ðại Ngu vì ông nhận làn dòng dõi nhà Ngu.

    Hoặc vì kiên tên húy của vua chúa, nhiều người phải đổi họ, như ông trạng Hoàng Nghĩa Phú (1511), tổ tiên vì kiêng tên vua Lý mà đổi ra họ Trịnh, rồi lại phải đổi ra họ Trần; đến đời Trần Khắc Minh mới đổi lấy lại họ Hoàng. Vua Quang Trung Nguyễn Huệ vốn họ Hồ và dòng dõi Hồ Quý Ly, sau lấy họ mẹ là Nguyễn. Cùng trường hợp với Nguyễn Quang Bích là cháu đời thứ hai của Ngô Quyền.

    Hoàng-tộc (patriline) nhà Nguyễn:

    Chúng tôi mở dấu ngoặc bàn về họ gia đình vua nhà Nguyễn (1802-1945) vì các họ thuộc về gia đình này không khỏi gây thắc mắc cho nhiều người, nhất là đối với người nước ngoài, như làm sao họ có thể hiểu cha họ Bửu mà con họ Vĩnh. Dòng chúa Nguyễn đến đời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) mới dùng chữ lót "phúc". Con cháu gia đình họ Nguyễn này, từ đời Minh Mạng (1820-1841) trở đi, đã phân biệt nhau theo dòng và thế hệ bằng nhiều "họ mới" khác nhau. Theo thứ tự, con cháu cùng một đời mang cùng một họ riêng nhưng luôn hiểu ngầm là họ Nguyễn. Cứ mỗi "họ mới" là một đời, bắt nguồn từ bài Ðế-hệ thi của vua Minh Mạng, dùng cho "chánh hệ" (primary royal branch) tức dòng vua Gia Long:

    Miên Hồng (Hường) Ưng Bửu Vĩnh

    Bảo Quý Ðịnh Long Trường

    Hiền Năng Khang Kế Thuật

    Thế Thoại Quốc Gia Xương

    Thí dụ: Miên Tông (Thiệu Trị), Miên Thẩm Tùng Thiện Vương, Miên Trinh Tuy Lý Vương

    Hồng Nhậm (Tự Ðức), Hồng Bảo (nổi loạn năm 1848), Hồng Dật (Hiệp Hòa)

    Ưng Trình, Ưng Quả, Ưng Kỳ, Ưng Lịch (Hàm Nghi), Ưng Thuyên Bửu Ðảo (Khải Ðịnh), Bửu Lân (Thành Thái), Bửu Lộc, Bửu Hội Vĩnh San (Duy Tân), Vĩnh Thụy (Bảo Ðại), Vĩnh Lộc Bảo Long, Bảo Quốc, v.v.

    Như sẽ trình bày trong phần tiếp về chữ lót, cách định họ trước này bị ảnh hưởng người nhà Thanh (Mãn Châu) lúc đó đang cai trị Trung Hoa. Vua Minh Mệnh là vị vua nhà Nguyễn chịu nhiều ảnh hưởng của Trung quốc. Theo phong cách của những người trong giới vua chúa và quan lại nhà Thanh, một ông tổ dụng công nghĩ ra đặt saûn chữ lót cho nhiều thế hệ nối tiếp, có khi cho là do thần truyền mộng. Ðó là nguồn gốc của nguyên tắc "hệ thi" có thể dùng cho nhiều đời liên tiếp.

    Tuy nhiên các họ từ bài "đế-hệ thi" nói trên chỉ được dùng cho hậu duệ dòng vua Minh Mạng, vì ngoài "dế-hệ thi" vua còn làm mười bài "phiên-hệ thi" nhắm cho mười ông hoàng anh em của vua. Tưởng cũng cần biết, vua Gia Long có cả thảy 13 hoàng nam; vua Minh Mạng tên Nguyễn-Phúc Ðãm là hoàng tử thứ tư và trưởng nam là hoàng tử Cảnh đã qua đời lúc trẻ tuổi. Sau khi phổ biến 10 bài "phiên-hệ thi" thì Quang-Oai Công, ông hoàng thứ 10 cũng chết trẻ, còn một số ông hoàng khác cũng tuyệt tự sớm hoặc từ đời thứ hai. Ðó là lý do tại sao đến nay trong thực tế chỉ có bốn bài "phiên-hệ thi" được dùng cho hậu duệ bốn ông hoàng kể sau:

    - AnhÐuệ Hoàng Thái-tử (Nguyễn-Phúc Cảnh, hoàng trưởng-tử của vua Gia Long):
    Mỹ Duệ Tăng Cường Tráng

    Liên Huy Phát Bội Hương

    Linh Nghi Hàm Tấn Thuận

    Vỹ Vọng Biểu Khôn Quang

    Hoàng-tử Cảnh mất khi 22 tuổi, ông có hai con trai: Mỹ Ðường bị chú là Minh Mạng kết tội và giáng làm dân đinh, con cháu chỉ được phụ chép vào sau tôn-phả, và người con thứ hai Mỹ Thùy mất sớm. Kỳ-Ngoại Hầu Cường Ðể và các con ông là Tráng Cử, Tráng Liệt, Tráng Ðinh thuộc nhánh (phòng) này.

    - Kiến-An Vương (hoàng tử thứ năm):
    -
    Lương Kiến Ninh Hòa Thuật

    Du Hành Suất Nghĩa Phương

    Dưỡng Dĩ Tương Thức Hảo

    Cao Túc Thể Vi Tường

    Kiến-An quận-công Lương Viên cũng như ông Hòa Giai và con Thuật Hanh, Thuật Hy thuộc phòng này.

    - Ðịnh-Viễn Quận-vương (hoàng tử thứ sáu):

    Tĩnh Hoài Chiêm Viễn Ái

    Cảnh Ngưỡng Mậu Thanh Kha

    Nghiêm Khắc Do Trung Ðạt

    Liên Trung Tập Bát Da

    Ông Tĩnh Cơ cũng như Chiêm Nguyên và các con Viễn Ngô, Viễn Cẩm, Viễn Tống hay ông Chiêm Tân và con Viễn Bào đều thuộc nhánh này.

    - Từ-Sơn Công (hoàng tử thứ mười ba):

    Từ Thể Dương Quỳnh Cẩm

    Phu Văn Ái Diệu Dương

    Bách Chi Quân Phụ Dực

    Vạn Diệp Hiệu Khuông Tương

    Từ Ðàn, Thể Ngô cũng như giáo sư Dương Kỵ và con là Quỳnh Trân, ông Dương Thanh và con Quỳnh Nam đều là hậu duệ con trai út của vua Gia Long.
  2. nguyenthanhchuong

    nguyenthanhchuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/05/2003
    Bài viết:
    176
    Đã được thích:
    0
    Các bài "phiên-hệ thi" và "đế-hệ thi" đồng thời là những bài thơ chữ Hán đúng niêm luật và có ý nghĩa; tài của "tác giả" là ở đó, không một chữ trùng điệp. Ở mười một bài tứ tuyệt! Người ta vẫn tương truyền là "ngự chế" do thần mộng! Các bài này năm 1823, được vua Minh Mạng ra lệnh cho khắc lên một cuốn sách kim-loa.i ("kim sách") bằng vàng ròng cho bài "đế-hệ thi" và muời cuốn bằng bạc ("ngân sách") cho mười bài "phiên-hệ thi". Các kim và ngân sách này được bảo trì kỹ lưỡng cho đến thời Tự Ðức thì phần lớn phải nấu ra kim loại để trả nợ chiến phí bốn triệu đồng cho Pháp và Tây-ban-nha theo hiệp ước Nhâm-tuất (1962). Không ai biết sự thật ra sao vì đến ngày Bảo Ðại, vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn thoái vị, các sách kim loại này đã biến mất!
    Vua Minh Mạng cũng quyết định rằng hậu duệ của Triệu-tổ Tịnh Hoàng-đế Nguyễn Kim mà không phải là hậu duệ ngành vua Gia Long, tức hoàng tộc "tiền hệ", thì chỉ dùng họ "Tôn-thất". Riêng về nữ giới hậu duệ của vua Minh Mạng thì dùng các cách gọi sau đây, thay đổi theo thứ tự thế hệ:
    o Công-chúa : chị em vua Minh Mạng
    o Công-nữ : con của vua
    o Công tôn-nữ: cháu của vua
    o Công-tằng tôn-nữ : chắt của vua
    o Công-huyền tôn-nữ: chít của vua
    o Lai-huyền tôn-nữ : con của chít của vua MM.
    Người trong hoàng tộc thuộc "đế-hệ thi" thường không để "Nguyễn-phúc" hay "Tôn-thất" phía trước họ mới như Bảo Long, Bửu Dưỡng, Ưng Quả,... trong khi những người thuộc "phiên-hệ thi" thì lại hay dùng "Tôn-thất" trước họ mới như Tôn-thất Viễn-Bào, Tôn-thất Dương Kỵ,...
    Nói chung, các "họ mới" này giúp đoán biết người nào thuộc hoàng tộc nhà Nguyễn và là hậu duệ của ngành Gia Long, Minh Mạng hay Nguyễn Kim. Tuy nhiên, các "họ" này không thật là "họ" theo nguyên nghĩa, do đo chúng tôi sẽ không ghi vào danh sách các họ ở cuối bài. Riêng con cháu dòng nhà Lê cũng có một hệ thống tên lót "Cam, Hồng, Phước" để phân biệt thế hệ, tuy nhiên chúng tôi chưa tìm được tài liệu (*) để có thể xác nhận.
    Họ dân gian:
    Trong số "trăm họ" hiện được dùng, có chừng 30 họ là gốc Việt hoàn toàn, lúc đầu vốn là họ bộ tộc. Chúng tôi nói "họ" Việt mà không nói "người" Việt vì đến nay, mấy ai có thể chứng minh là thuần "len" hay "máu" Việt.
    Ngược dòng lịch sử, Việt tộc xuất phát từ đồng bằng phía Nam sông Dương-tử bên Tàu. Bị người Hán xâm chiếm, tổ tiên ta đã phải thiên cư xuống phía Nam và lập quốc ở vùng đồng bằng sống Hồng, Bắc Việt. vào khoảng thế kỷ thứ IV trước Công-nguyên. Từ năm 1069, người Việt nam tiến chiếm toàn thể nước Chiêm-Thành năm 1693 và chiếm đóng phần đồng bằng phía đông Cam-Bốt tức Thủy Chân-Lạp năm 1759. Cuộc Nam tiến đã dừng lại khi người Pháp chiếm đóng và thành lập Ðông dương thuộc địa. Phần khác, nước ta từng bị nhà Hán và các triều đại Trung quốc sau đó đô hộ cả ngàn năm, một số quân lính sang đất Giao Chỉ rồi ở lại lập gia đình sanh con đẻ cháu. Mặt khác nữa, nước ta đã từng đón nhận nhiều người Hoa đến tị nạn hoặc di trú. Ðáng kể nhất là quần thần nhà Minh tới định cư ở Nam Việt ta sau khi bị người Mãn Châu (Thanh) xâm chiếm nước họ.
    Ðó là lý do lịch sử của một số họ Việt gốc Hoa như Khổng, Lưu, Trương, Mai, Lâm, Lữ, Nhan, Sử, Tăng, Trịnh, Vương, v.v. hoặc gốc Miên như Thạch, Sơn, Danh, Kim, Lâm là năm họ nhà Nguyễn đã ban cho, hoặc gốc Chàm như Chế, Chiêm, v.v. hoặc họ của đồng bào thiểu số (trong nước hiện gọi là "dân tộc") như Linh, Giáp, Ma, Ðèo, Kha, Diêu, Vi, Quách, Nông, Chữ, Ngân, Ông, Trà, Lang, Lục, sầm, v.v.

    Ý-NGHĨA HỌ NGƯỜI VIỆT:
    Tất cả họ Việt Nam đều có một ý nghĩa ngữ nguyên. Trong số "trăm họ", có những họ xưa tới ba bốn ngàn năm, vào thời đại mà mỗi bộ tộc có một tượng vật riêng, hoặc cây cỏ hoặc cầm thú. Sau đó những tên biểu hiệu tượng vật đó được một số gia tộc dùng làm họ, thí dụ họ Âu. Một số khác biểu tượng nghề nghiệp như họ Ðào (thợ gốm), hoặc cách sinh sống của bộ tộc, như họ Trần. Một số biểu tượng nơi bắt gốc bộ tộc hoặc gia đình. Họ lúc đầu là họ bộ tộc, đó là lý do người Anh và Pháp gọi là "patronym(e)" để phân biệt với "nom de famille / family name".
    Lúc đầu được ghi chép bằng chữ Hán, sau thêm chữ Nôm rồi "quốc ngữ" hóa, họ người Việt theo dòng lịch sử bị nhiều ảnh hưởng, đã biến đổi hoặc hiểu sai lạc, khiến cho người thời nay khó hiểu được ý nghĩa sơ nguyên của họ. Cùng một phát âm như của ngày hôm nay, chưa chắc một chữ đã gợi lên cùng một ý nghĩa, như các họ Ðinh hiện được hiểu là "công dân", "người". Quách nghĩa là vật chắc chắn, có sức đối kháng mà cũng có nghĩa là "lớp thành ngoài". Họ Lê vốn nghĩa là "dân chúng" nói chung.
    Vì những lý do đã nêu, các họ được ghi chép lại, được hiểu là phải viết như một danh từ chung, nhưng không nên hiểu là có cùng một ý nghĩa như danh từ đó. Cũng như người Pháp có các họ Boucher, Boulanger ... có thể từ nguyên gốc để chỉ những nghề của tổ tiên họ. Các chữ không nhất thiết phải gợi lên hành động, trạng thái hoặc đối tượng của danh từ, nhất là từ khi có chữ quốc ngữ la-tinh, các chữ gợi hình ít hơn và cũng dễ gây hiểu lầm hơn. Tên họ ghi chép trong các từ điển hiện nay nên được xem như không có ý nghĩa chắc chắn, vì thế ta không thể khẳng định họ viết như thế phải nghĩa là thế này hoặc họ đó tương đương với danh từ chung diển tả sự vật hoặc hành động.
    Phần II
    Yếu tố tạo thành tên họ người Việt
    Ðặt tên cho con hoặc để gọi một người nào, người Việt vẫn dùng một họ đơn hoặc kép, một chữ lót hoặc tên đệm biểu chỉ tính giống hoặc chữ lót chung và một tên (gọi) đơn hoặc kép. Cách dùng này có từ thời lập quốc, ít ra là từ khi có sách sử và thư tịch. Tuy nhiên ngày xưa và nhất là ở một số tỉnh miền Trung, người đàn ông thường có tên họ đơn giản chỉ gồm hai thành tố mà thôi, tên và họ : Trần Ðiền, Bùi Kỷ, Nguyễn Du, Võ Hồng, ... Ở trên chúng tôi đã trình bày về lai lịch và các loại họ đơn và kép. Trong phần này chúng tôi nói đến các yếu tố chính gồm tên lót và tên gọi cũng như những loại tên khác người Việt vẫn dùng để cá nhân hoặc độc đáo hoá chính mình.
    1. CHỮ LÓT :
    "Chữ lót" hay "tên đệm" trong tiếng Anh thường gọi là "middle name" nhưng đúng ra phải là "padding/qualifying name". Tiếng Pháp có thể là "nom interme'diaire" hay "mot intercalaire". Chữ lót đã được xử dụng từ thời lập quốc xa xưa : ngư phủ Chử Cù Vân trong huyền thoại Chử Ðồng-tử và công chúa Tiên Dung thời vua Hùng (2 tới 3 ngàn năm trước Công-nguyên), anh bà Triệu Ẩu (248) tên gọi là Triệu Quốc Ðạt.
    Chữ lót hoặc tên đệm thường được xử dụng nhất là "văn" và "thị" phân biệt phái nam với phái nữ. "Văn" nghĩa là "người có học", "nhà nho". "Thị" có nghĩa là "đàn bà". Có thuyết lịch sử cho rằng "thị" phát sinh ra gốc họ hàng (thị tộc), có ý ám chỉ nhờ người đàn bà mà tộc họ được tồn tại và kéo dài. Theo một số nhà ngữ học, "văn" và "thị" có nghĩa là "con trai của...", "con gái của..." và là dấu vết ảnh hưởng văn hóa Mã Lai. Cách phân biệt nam nữ tiện lợi và dễ hiểu này không còn được người thời nay yêu chuộng lắm, vì người ta cho là thiếu cá tính. Do đó người Việt nay có khuynh hướng chọn những chữ lót khác, hay, đẹp và được chủ quan xem là thích hợp hơn với từng cá nhân.
    Sự thay đổi này có thể có nhiều mục đích: làm rõ nghĩa tên gọi, tạo một âm hưởng dễ nghe, hoặc tạo giây liên lạc họ hàng. Ngoài "văn" và "thị", những tên lót chung thường thấy dùng là: phúc, đình, ngọc, bá, thúc, cao, công, huy, như, tường, anh, đức, sĩ, viết, quang, ...
    Một loại chữ lót thứ ba dùng để chỉ thứ tự con cái cùng một gia đình và chỉ dùng cho con trai: "Mạnh" cho con cả, "Trọng" cho thứ nam và "Quý" cho con trai thứ ba trở đi. Mạnh, Trọng, Quý vốn gốc chỉ ba tháng của một mùa theo âm lịch. Cách dùng này đã thành thông thường dù nguyên gốc, "Mạnh" dùng cho con cả dòng thứ trong khi "Bá" mới là con cả dòng trưởng. Tuy nhiên Bá, Trọng, Quý còn có những nghĩa khác tùy tên gọi đi sau chứ không nhất thiết thuộc vào ý nói trên. Thí dụ Bá Tòng, Trọng Kiều (cầu nặng), Quý Châu. "Giáp" và "nguyên" cũng thuộc loại chữ lót này, dùng để chỉ con trai đầu lòng, thí dụ : Lê Giáp Hải, Vũ Nguyên Khang.
    Loại chữ lót thứ tư dùng để phân biệt các ngành cùng một gia đình gốc mà ra. "Bá", "Thúc" thường được dùng trong loại này. "Bá" dùng đặt cho con nhà bác hoặc dòng trưởng, "Thúc" con nhà chú hoặc dòng thứ. Ngoài ra, cũng cùng một mục đích kể trên, một số gia đình dùng những chữ lót khác như "Vi, Thời", "Xuân, Vũ" : Ngô Vi Thụ, Ngô Thời Nhậm và Ðặng Xuân Quang, Ðặng Vũ Biền.
    Một số gia đình khác, thường thuộc giới quan cách, sáng chế chữ lót để phân biệt thế hệ: tất cả con cái một thế hệ sẽ mang cùng một chữ lót. Chế độ đặt tên này rất bành trướng bên Trung-Hoa trong giới quan lại, bắt chước người Mãn Châu tức nhà Thanh lúc bấy giờ. Một ông tổ dụng công đặt chữ lót cho nhiều đời nối tiếp, theo nguyên tắc "hệ thi" chúng tôi đã trình bày ở phần trên, khiến con cháu dù tẩu tán lập nghiệp phương xa cứ nhìn chữ lót là nhận được họ hàng và biết thuộc thế hệ thứ mấy để tiện bề xưng hô. Thường những chữ lót định trước này được ghi trong gia phả để con cháu đời sau biết mà theo, dưới hình thức những câu thơ 4 hoặc 5, 7 chữ. Theo thứ tự, những chữ này trở nên tên đệm. Và đến thế hệ cuối cùng, phải nghĩ ra những tên đệm khác !
    Ở Việt Nam có họ Dương Khuê (Hà Ðông) đã phỏng theo cách này. Ông đã đặt một bài hệ thi gồm 16 chữ, mỗi thế hệ cứ dựa vào đó mà đặt tên lót: Dương Tự Quán, Dương Tự Ðề > Dương Thiệu Tống, Dương Thiệu Tước > Dương Hồng Tuân, Dương Hồng Phong > Dương Vân Hán, v.v.
    Về phần phái nữ, ngoài chữ lót thông dụng "thị" còn thấy dùng những tên lót khác như "Nữ" và "Diệu", chữ lót sau thường dùng ở Huế : Lê thị Diệu Trang, ... Ở thời hiện đại, tên phụ nữ thường mất hẳn chữ lót "thị" và nhiều chữ lót khác được dùng như : ngọc, thanh, mỹ, thu, tuyết, v.v. dù các chữ lót này không hẳn chỉ dùng cho phái nữ. Nữ có thể là Vũ Ngọc Lan, Trương Thu Thủy, Nguyễn Mỹ Dung, ... trong khi Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Thành Công, ... rõ là nam giới !
    2. Tên Gọi (Danh) :
    Tên gọi còn được gọi là "tên đẻ", đặt khi mới sinh và "tên bộ", tên ghi ở sổ Bộ. Tên, người Pháp gọi là "prénom" và người Anh, Mỹ gọi là "first name" (hay "personal name") vì đặt trước họ, trong khi người Việt cũng như nhiều dân tộc Á đông khác, tên được đặt sau họ. Một lý do là truyền thống tôn kính gia tộc họ hàng trên trước cá nhân.
    Tên thường được chọn một cách tự do hơn. Một cách tổng quát, người nhà quê và bình dân chỉ lựa một tên (đơn, tức độc văn danh), người giàu hoặc có học hoặc tự cho sang trọng hoặc học làm sang, thì có khuynh hướng đặt tên kép (song văn thanh). Ý nghĩa tên gọi trong trường hợp sau cùng này nằm trong cả hai hoặc ba yếu tố tạo nên tên gọi. Tên gọi kép thường dễ tìm thấy trong các từ điển, thí dụ : Hào-Kiệt, Tuấn-Kiệt, Anh-Hùng, AnhÐũng, Bạt-Tu.y, Kỷ-Cương, An-Khang, Chi-Lan, Diễm-Kiều, Ðoan-Trang, Tinh-Hoa, v.v.. Cùng trường hợp với một số chữ lót như "ngọc, thanh, ...", nhiều tên gọi có thể dùng cho cả nam lẫn nữ vì nói chung toàn bộ tên họ của một người thường mới cho biết người đó là nam hay nữ : Hiền, Tuyền, Kim, Hoàng, Nhân, v.v.
    Trên lý thuyết, mỗi người có một tên gọi khác nhau. Khác, vì tùy theo tín ngưỡng hoặc tư tưởng người ta muốn gán cho tên gọi, hoặc tùy theo tính tình và trí tưởng tưỡng của người đặt tên. Mỗi người có thể đặt tên cho con cháu hoặc đổi tên mình theo ý muốn, cả những tên kỳ dị hay đặc thù không giống ai. Tên đơn giản thường thấy ở giới bình dân hoặc ở thôn quê như: Ổi, Mít, Tèo, ****, Tí, Hĩm, Cu, ... Nhà nào sanh con khó nuôi hoặc hay bị bệnh tật sài đẹn thường đặt cho con những tên xấu xí để "quỷ thần" tha như Vẹo, Ðủi, Ðen, ... Có người không dám đặt tên con quá hay sợ bị quở hay chê cười. Thời xưa, các cụ còn phải tham khảo các bậc túc nho hoặc biết chữ và tỏ ra thận trọng trong việc đặt tên cho con cháu.
    Tuy nhiên, theo thói tục, việc đặt tên thường được căn cứ theo truyền thống và tín ngưỡng, nhất là trên nguồn gốc và quyền lực có thể có của tên gọi. Tên gọi còn có thể diễn tả những ước ao hoặc lý tưởng đặt cho đứa trẻ mới chào đời như một thông điệp nhờ đứa trẻ tinh khiết làm người đưa tin hoặc báo tin cho đời. Từ khi hàng triệu người Việt phải bỏ nước ra đi chẳng hạn, nhiều người đặt tên cho con là Nam Quân, Phục Quốc, Hồi Hương,... cũng trong ý nghĩa đó. Nhà nhân chủng học Claude Le'vi-Strauss trong La pensée sauvage (1962) đã đề cao tầm quan trọng của ý nghĩa tiềm ẩn của tên gọi (4).
    Ở hải ngoại, người Việt khi đổi quốc tịch có khuynh hướng đổi tên hoặc thêm tên gọi tiếng bản xứ, đã làm mất hẳn hay giảm đi yếu tố duy nhất và độc đáo của tên gọi. Dĩ nhiên có những tên gọi đẹp và đầy ý nghĩa trong tiếng Việt đã trở nên ... khó nghe khi phát âm theo tiếng bản xứ như Côn, Công, Dung, Dũng, Phúc, Quy, ...
    Tóm một chữ, tên gọi có quan hệ đến tương lai của đứa trẻ và mọi người nói chung sẽ cùng mang tên gọi suốt đời.
    Một cách cụ thể, tên gọi có thể là tên sông hồ, núi non, hoa quả, cây cỏ (Tùng, Bách, Mai, Trúc, Lan, Hòe, Quế,...), màu sắc, chim chóc hoặc cầm thú (Long, Lân, Quy, Phượng, Loan, Yến,...), bốn mùa (Xuân, Hạ, Thu, Ðông), tháng, năm (Tí, Sửu, Dần. Mão, Mẹo, Thìn, Tỵ,...), ngọc quý (Pha, Châu, Ngọc, Quỳnh,...), tên thuộc về loại kim (Cương, Chung, Liệu,...), loại đá (Thạch, Bích, Thạc, Nha, Sa, ...), phúc đức, phẩm hạnh hoặc hình dung tốt đẹp (Phúc, Lộc, Khang, Ninh, Thạnh, Vĩnh, Trường, ...). Nhiều người thông hiểu chữ Hán có khuynh hướng lấy từ kinh sách, châm ngôn, điển tích hoặc đặt tên theo bộ chữ Hán. Học giả Phạm Quỳnh, tên Quỳnh thuộc bộ Ngọc, nên đã đặt tên con theo cùng bộ Ngọc : Khuê, Dao, ... Người ta cũng lấy địa danh, chổ ở, nơi sanh quán hay nguyên quán hoặc tên các nhân vật tiểu thuyết (nhưng tránh lấy tên các nhân vật lịch sử). Cũng vì lý do tôn trọng tổ tiên, mọi người đều tránh lấy tên ông bà cha mẹ đặt cho con cháu, khác với người Tây phương. Cuốn gia phả là cẩm nang để con cháu tránh đặt trùng tên gọi với ông bà tổ tiên.
  3. nguyenthanhchuong

    nguyenthanhchuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/05/2003
    Bài viết:
    176
    Đã được thích:
    0
    Về cách đặt tên trong một gia đình, có người đặt tên con cái theo vần hoặc lấy cùng một chữ cái, hoặc tất cả tên gọi các con tạo thành một ý hoặc dùng tất cả tên một loại mà đặt cho con: thí dụ tên bốn mùa, tên các phẩm hạnh (Hạnh, Nhân, Trí, Tín,..; Phước, Lộc Thọ,..) tên ngũ hành hay ngũ tinh (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ), ngũ phúc (Phú, Quý, Thọ, Khang, Ninh), tứ duy (Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ), tứ đức (Hiếu, Ðễ, Trung, Tín cho con trai; Công, Dung, Ngôn, Hạnh cho con gái), tứ linh (Long, Lân, Quy, Phượng). Trở ngại là khi con sanh ra nhiều hay ít hơn bộ chữ. Và cách đặt tên này chỉ dễ dàng trong xã hội xưa "tam thê bảy thiếp" và sanh con còn là "bổn phận" của phụ nữ như ghi trong luật Hồng Ðức và Gia Long cũng như đàn ông tuyệt tự còn là lỗi lớn với ông bà tổ tiên. Ðời nay, người phụ nữ bình quyền, ly dị đã thành thói thường, tình gia tộc ngày càng suy yếu thì cách đặt tên này ngày càng khó thực hiện.
    Một khuynh hướng đặt tên khác cũng nên ghi nhận dù không thật sự phổ biến, đo là cách đặt một tên gọi cho tất cả con trai hoặc gái, chữ lót sẽ làm phần việc phân biệt mỗi đứa con. Con gái : Hồng Ly, Mai Ly, Trúc Ly; con trai : Anh Khoa, Tuấn Khoa, v.v.
    Ngoài tên bộ là tên gọi chính thức trên giấy tờ hộ tịch, người ta có thể có thêm tên tục (vulgar name), tên cúng cơm, tên thân mật, tên lịch sự, do chính mình hoặc do người ngoài đặt cho mình. Trước khi có tên bộ thường đã có tên tục (domestic name) để gọi trong nhà; nhất là thời xưa chỉ khi đến tuổi đi học, cha mẹ mới làm giấy tờ hộ tịch cho con, lúc đó mới chọn tên đẹp đẽ cho con - đứa trẻ lúc đó sẽ có hai tên gọi, tên tục đã có và tên gọi ở trường (name at school). Các tên tục thường nghe : Cu Tí, Cu Nhớn, Cu Tẹo, Ðĩ Lớn, Ðĩ Con, Ðĩ Út,... Trong Nam người ta còn gọi con theo thứ tự: Hai, Ba, Tư,.. Tên bộ có thể thay đổi. Cụ Nguyễn Khuyến vốn tên Nguyễn Thắng vì rớt thi Hội năm 1865 đã xin đổi thành Khuyến. Nhà thơ sông Vị Trần Tế Xương từng đổi hai lần nhưng chỉ đổi tên lót, từ Cao thành Tế và cuối cùng là Kế.
    3. Các tên khác :
    Ngoài tên ra, người Việt có bút hiệu, bí danh khi cần và theo truyền thống Nho giáo và Trung-Hoa, ta còn có tên tự, tên hiệu, tên tước, tên thụy và tên đạo..
    Tên tự là tên chữ, thường phải đi đôi với tên gọi (Danh) và theo kinh sách, thường là một câu chữ Nho có ý hay nghĩa lạ, như Tố-Như Nguyễn Du, Sĩ-Tải Trương Vĩnh Ký, Lệ-Thần Trần Trọng Kim, Ưu-Thiên Bùi Kỷ, Sở-Cuồng Lê Dư, Ứng-Hoè Nguyễn Văn Tố, Quán-Chi Ðào Trinh Nhất, ...
    Khác với tên tự, tên hiệu và bút hiệu không theo nguyên tắc đi với tên gọi mà tự do lựa chọn, tùy sở thích. Tên hiệu (symbolic name) do chính đương sự hoặc cha mẹ đặt cho, thường có ngụ ý hoài bảo, chí khí như Sào-Nam Phan Bội Châu, Ức-Trai Nguyễn Trãi, Bạch-Vân Nguyễn Bỉnh Khiêm, Tiên-Ðiền Nguyễn Du, Hạo-Nhiên Nghiêm Toản, hoặc nói lên gốc gác, liên hệ như Tản-Ðà Nguyễn Khắc Hiếu, Lương-Ðường Phạm Quỳnh, ....
    Bút hiệu (nom de plume, penname) là tên hiệu của người cầm bút, tự do đặt và có thể thay đổi nhiều lần hoặc dùng nhiều bút hiệu một lúc. Bút hiệu thường gồm hai chữ hoặc hơn và có thể mang hình thức của tên thật như Hồ Biểu Chánh (Hồ Văn Trung), Hoàng Cầm (Bùi Tằng Việt), Thẩm Thệ Hà (Tạ Thành Kỉnh), Cung Trầm Tưởng (Cung Thúc Cần), Dương Nghiễm Mậu (Phí IÙch Nghiễm), Lý Hoàng Phong (Ðoàn Tường), Tô Kiều Ngân (Lê Mộng Ngân), Nguyễn Kiên-Trung (Nguyễn Mạnh Côn), Hà Thượng Nhân (Phạm Xuân Ninh), Mai Trung Tĩnh (Nguyễn Thiệu Hùng), Vương Ðức Lệ (Lê Ðức Vượng), Trần Thy Nhã-Ca (Trần Thị Thu-Vân), Trần Tuệ-Mai (Trần Thị Gia-Minh), Hoàng Hương Trang (Hoàng Thị Diệm Phương), Lê Xuyên (Lê Bình Tăng), Tô Thùy Yên (Ðinh Thành Tiên), Chu Vương Miện (Nguyễn Văn Thưởng), Phạm Thiên Thư (Phạm Kim Long), Trần Dạ Từ (Lê Hà Vĩnh), Võ Phiến (Ðoàn Thế Nhơn), Trần Hoài Thư (Trần Quý Sách), Vũ Hạnh (Nguyễn Ðức Dũng), v.v.. Bút hiệu có thể là tên địa lý như sinh quán, trường hợp của Tô Hoài, Thanh Châu, Sa-Giang Trần Tuấn Kiệt, Kiên Giang Hà Huy Hà, có khi do đảo lộn tên thật như Biển Ngũ Nhy (Nguyễn Bính, thân phụ nhà văn An Khê), Khái Hưng (Trần Khánh Giư), Thế-Lữ (Nguyễn Thứ Lễ), J. Lebai (Lê Bái), có khi có thể chỉ là tên những người thân yêu như Mai Thảo, Thế Uyên, Thanh Tâm Tuyền, thậm chí có khi do tình cờ như Tam IÙch trước đã hay ký mật hiệu XXX. Nhiều nhà văn không hề dùng bút hiệu như Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Thị Vinh, Nguyễn Mộng Giác. Có nhà ký tên thật nhưng lược tên gọi như Nguyễn Bính (Thuyết), Phạm Duy (Cẩn), hay lược họ như Nguyên Hồng (Nguyễn), Hữu Loan (Nguyễn), Huy Cận (Cù), Xuân Diệu (Ngô), Nhật Tiến (Bùi), Túy Hồng (Nguyễn Thị). Có người lại chỉ nỗi tiếng với tên thật như Hồ Hữu Tường, Võ Hồng, Nguyễn Ngọc Ngạn, v.v.
    Riêng "biệt danh" hay "sước hiệu" (surnom, deuxième prénom, sobriquet ; nickname) thường do người khác đặt cho, gán cho và thường có ý trêu chọc hoặc miêu tả ác ý diện mạo hoặc tật xấu của người đó. Nhà văn Nguyễn Tuân có sước hiệu là "Tuân mũi to", Phạm Quỳnh "kính trắng tiên sinh", một cựu tổng thống miền Nam "tổng lì", v.v.
    "Tên tước" hay "tước hiệu" thường được phong cho, chỉ thấy ở giới quý tộc, quan lại: Ôn-Như hầu Nguyễn Gia Thiều, Tùng-Thiện vương Miên Thẩm, v.v.
    Bí danh thường được những người làm chính trị, cách mạng và cả công an, quân đội sử dụng để bảo mật. Bí danh khác với tên "cách mạng" như của một số đảng viên cộng sản ở Việt Nam, trong thực tế là một cách đổi tên, muốn dâng hiến cho công tác hay chối bỏ quá khứ, gia đình: Lê Ðức Thọ, Mai Chí Thọ, Xuân Thủy, Trường Chinh, v.v.
    Trong các tên khác có "tên thụy" tức tên hèm (posthumous name). Khác với "tên cúng cơm" là tên vốn có của một người khi mới sanh hay lúc nhỏ, tên hèm là tên tự chọn khi tuổi già để dùng vào việc cúng giỗ và thờ phượng, ý là người chết sẽ biết tên mà về. Nếu không kịp tự chọn, người nhà tìm đặt cho người vừa chết để con cháu khấn vái, cúng giỗ. Tên thụy còn là tên ghi vào sớ hoặc do nhà vua truy tặng để tưởng nhớ công đức người chết. Tục lệ đặt tên thụy khởi từ đời Tây Chu bên Trung-quốc : đình thần căn cứ vào sự nghiệp hoặc hành vi, đức độ của nhà vua lúc còn sống mà đặt tên thụy cho vua. Lúc đầu thường dùng một trong bốn chữ Văn, Vũ, U và Lệ nhưng về sau chỉ dùng Vũ và Văn là hai chữ để khen. Sau lại đổi thành "miếu hiệu" như vua Gia Long có miếu hiệu Thế-tổ Cao Hoàng-đế, Tự Ðức được tặng là Dực-tôn Anh Hoàng-đế, v.v.
    Riêng "tên húy" tức tên phải kiêng tránh, thường là tên thành hoàng của làng xã hoặc tên của vua chúa và hoàng gia cũng như miếu hiệu, hoặc tên của quan lớn sở tại. Người dân giả lỡ trùng tên phải đổi hay đọc trại ra hay lệch đi. Phan Huy Chú vốn tên tục là Hiệu vì kiêng húy đã phải đổi thành Chú. Ðời vua Minh Mạng thứ 13 (1832) còn đặt ra lệ hễ các quan cùng tỉnh trùng tên thì người kém phẩm trật phải đổi tên. Ðó là lý do Cảnh đọc thành Kiểng, Thái thành Thới, Hòa thành Huề, Anh thành Yêng, v.v. Hay tìm tiếng giống nghĩa mà thay vào : Riêu thay Canh, Tập thay Học, v.v. Ngày xưa đi thi mà không biết để tránh tên húy là phạm trường qui, bị hỏng thi đã đành, có khi còn bị tù tội.
    Cuối cùng là "tên đạo" : nếu theo đạo Phật là "pháp danh" (Buddhist religious name), là những tên đặt khi quy y; nếu theo Thiên Chúa giáo, có "tên thánh" (nom de baptême, patron-saint's name) khi rửa tội, thí dụ Pétrus Ký tức Trương Vĩnh Ký. Có ngộ nhận cho rằng tên thánh là lai căng mất gốc. Thật ra tên thánh là tên chỉ dùng trong phạm vi tôn giáo, cũng như phápđanh của người theo đạo Phật, còn thì người theo đạo Thiên Chúa hay Cơ Ðốc vẫn mang tên họ như bất cứ người theo đạo nào khác. Ngộ nhận này đã dần mất sau biến cố 30-4-1975 khi người Việt vì nhu cầu hội nhập ở nước ngoài, đã lấy cả tên gọi của người bản xứ.
    TÊN HỌ NGƯỜI VIỆT Ở XỨ NGƯỜI
    Nguyễn Vy-Khanh

    Sau khi đã trình bày lịch sử, nguồn gốc và ý nghĩa họ tên người Việt, chúng tôi xin được bàn đến một số vấn đề liên quan đến việc xử dụng tên họ và khía cạnh chính tả của tên họ Việt Nam dùng ở xứ người nói chung.
    Phương cách lý tưởng nhất vẫn là phép viết họ tên như ở quê nhà. Người Việt ở Pháp vẫn theo giải pháp này vì người Pháp đã quen với tên họ người mình từ thời thực dân ở Việt Nam, biết phân biệt họ với tên.
    Sau 1975, hàng triệu người Việt đã bỏ nước tới định cư ở nhiều nước khắp thế giới. Vấn đề viết tên họ được đặt ra khi hệ thống hành chánh bắt buộc và sự xử dụng máy điện toán trở thành phổ thông. Người Việt phải thật sự đương đầu với tên họ của chính mình. Nhu cầu nảy sinh tìm hiểu tên họ, giải thích cho người bản xứ và ngay cả lựa chọn họ tên mình. Ðó là chưa kể những trường hợp hy hữu phải kể cả giai thoại mới mong có người hiểu như tên họ con cháu nhà Nguyễn. Sở di trú làm sao hiểu được cha họ Vĩnh mà con ruột lại họ Bảo !
    Ở Việt Nam ta vẫn có thói quen lấy tên gọi (prénom, first name) làm mốc để lập danh sách: Nguyễn An-Khang sẽ được liệt kê ở vần Kh, trước Khanh và sau Kha. Cách dùng này có từ đã mấy ngàn năm và được sử dụng trong mọi trường hợp, từ thư tịch, lịch sử cũng như sổ lương bổng, danh sách cử tri, ở học đường.
    Một khi ở hải ngoại, dù thế nào đi nữa, ta vẫn phải giữ lấy "họ" (family name, nom de famille) cho minh bạch. Có người cốt tránh hiểu lầm hay cốt dễ phát âm, vì muốn tránh họ một chữ cụt ngủn như "Lê", "Lý", "Ðỗ", "Võ / Vũ", đã ghép tên lót vào làm họ mới : Lê Văn, Ðỗ Văn biến thành "Levan", "Dovan". Phái nữ thường họ tên dài có khi gồm 4, 5 chữ, thành ra có người ghép tên lót "thị" vào làm họ : Võ Thị thành Vothi. Dễ cho người bản xứ nhưng đồng hương làm sao nhận ra nhau, nhất là người đó lại có tên gọi theo người bản xứ như Mike, André, Katherine, Joseph, v.v. !
    Trong trường hợp "họ kép", ta cứ dùng họ kép như người bản xứ, đàn ông cũng như đàn bà (vì lập gia đình theo dân luật cũ), thí dụ Maurice Marleau-Ponty, Claude Le'vi-Strauss, Cecil Day-Lewis, vv. Vậy Phan-Trần Nam và Ðặng-Vũ Tuấn-Kiệt nên trở thành Nam Phan-Tran và Tuan-Kiet Dang-Vu. Với cách này, ta còn có thể phân biệt họ kép với họ đơn + tên lót vì tên lót vẫn nên giữ thứ tự của nó dù họ tên có phải đảo ngược theo người bản xứ: Nguyễn Thị Nhị nên trở thành Nhi Thi Nguyen.
    Về họ kép, cả hai yếu tố phải viết hoa và nên dùng gạch nối. Theo lệ tổng quát và phép chính tả Việt ngữ, tất cả những yếu tố bổ túc cho nhau về ngữ ý phải viết với gạch nối, cũng như những yếu tố chính trong danh từ riêng (địa lý hoặc họ, tên) phải viết hoa. Trên nguyên tắc, "Văn", "Thị" và tất cả những chữ lót chung như "Ðình, Ngọc, Xuân, Huy,..." tương đương với "von, vonder, von und zu" của người Ðức, "op de, ten, van den, van der" của người Hà Lan không phải viết hoa và không được gạch nối với họ cũng như tên (nhưng vì nhu cầu thực tế, chúng tôi viết hoa trong bài này). Từ khi có chữ "quốc ngữ" la tinh, trên các sách báo xuất bản ở Việt Nam, các nhà văn nhà báo có thói quen gạch nối tất cả các yếu tố của họ tên, ngay cả trường hợp chỉ có 2 yếu tố như Nguyễn Du, Phạm Duy. Ðiều này nhiều nhà ngữ học Việt Nam không chấp nhận. Về ngữ ý cũng như theo truyền thống, cách dùng này rất sai lầm.
    Ðối với "tên kép", ta nên giữ thứ tự của cả hai yếu tố tạo thành vì trong nhiều trường hợp, nếu đảo ngược tên kép đó sẽ mất hết ý nghĩa đối với người Việt và khó mà cắt nghĩa với người bản xứ ý nghĩa tên của mình. Một khuynh hướng dung hòa dùng cả hai tên gọi kép để con cái có thể xử dụng theo nhu cầu ở xứ người hay sau này về nước: Catherine Hy-Khuê, Joseph An-Khang. Nói chung, ta cứ dùng "tên kép" như người bản xứ : Jean-Paul Sartre, Paule-Andrée T., Jean-Marie B.. Do đó Lê Hào-Kiệt nên viết là Hao-Kiet Lê, Nguyễn Joseph An-Khang thành Joseph An-Khang Nguyen hơn là Kiet Hao Le và Joseph Khang An Nguyen. Vũ Thị Ngọc-Lan, Trần Thị Bích-Ngo.c thành Ngoc-Lan Thi Vu và Bich-Ngoc Thi Tran, tránh Bich-Ngoc Tran-thi hay Thi Bich Ngoc Tran và Lan Ngoc Thi Vu, vì Lan-Ngo.c và Ngọc-Bích khác nghĩa với Ngọc-Lan và Bích-Ngo.c! Cũng vậy, Cung Văn Hòa nên đổi thành Hoa Van Cung thay vì Hoa Cung Van. Riêng đối với tên họ dài như họ hậu duệ nhà Nguyễn, ta có thể viết tắt yếu tố tên dệm.
    Họ tên phái nữ là một phức tạp khác. Khác với người Tây phương, người đàn bà Việt Nam dù đã lập gia đình vẫn xử dụng tên họ con gái trên giấy tờ hộ tịch, hành chánh và thư từ, dù ngoài đời họ vẫn thường được gọi theo tên gọi của chồng, nhất là trong giới trí thức và chính trị gia: bà giáo sư Tăng Xuân An, bà đại sứ Trần Văn Chương, v.v.. Người đàn bà Tây phương từ tạo thiên lập địa tới gần đây đã không có những "quyền lợi" đó của nữ giới con Rồng cháu Tiên, họ phải đổi lấy họ chồng một khi lập gia đình. Mọi người chỉ biết họ qua họ chồng, dù làm thủ tướng và dù đã ly dị. Khi các bà khám phá gì mới cho nhân loại hay ra luận án tiến sĩ, người ta cũng chỉ biết họ qua tên chồng: bà Marie Curie, mấy ai biết họ bà là Sklodowska và là người Ba-lan !
    Mấy thập niên gần đây, dưới áp lực của các phong trào đòi bình quyền của nữ giới, dân luật nhiều quốc gia đã bắt đầu cho các bà đổi lấy họ thời con gái và còn đi xa hơn khi không còn bắt phải có tên cha cho đứa trẻ sơ sinh và đứa bé có thể lấy họ mẹ. Nữ giới Việt Nam đến xứ người đông đảo vào cuối thời thịnh đạt của chế độ tộc trưởng, phải theo luật xứ người mà mất họ gốc, từ nay có thể đổi lấy lại họ thời con gái.
    ***
    Ở Việt Nam khó mà nói rằng người mình lầm lộn nhau vì tên họ hiểu theo nghĩa rộng. Họ được bổ túc bởi tên gọi và chữ lót chung hoặc tên thế hệ, luôn tạo thành một đơn vị độc đáo. Một lớp học có thể có nhiều học sinh tên Hùng, nhưng khác họ và tên lót. Ngoài ra ta còn có nhiều cách để phân biệt nhau tùy hoàn cảnh, bằng nguồn gốc địa lý, bằng chức tước, địa vị xã hội, bằng lãnh vực chuyên môn hay nghề nghiệp, bằng diện mạo, gốc gác, cha mẹ, họ hàng, v.v..
    Hoàn cảnh sống mới ở xứ người đặt người Việt trước những lựa chọn khó khăn về văn hóa. Hội nhập hay giữ bản sắc nguồn cội? Uốn theo tục người hay nên giữ phong hóa dân tộc? Nên "Pháp hóa" / "Anh hóa" tên Việt như đã từng xảy ra với những người Do thái và Ðông Âu ở Pháp hay Bắc Mỹ (5). Thiết tưởng sự sống còn của văn hóa Việt Nam ở ngay những đặc điểm Việt. Một trong những đặc điểm đó là tên họ Việt Nam. Làm sao giữ được tên họ tức gốc nguồn thì ta vẫn là ta. Nếu để mất gốc, mình sẽ hết là mình mà ta cũng chẳng còn là ta. Tên họ vừa là vốn liếng văn hóa vừa là ký hiệu làm người. Họ tên là yếu tố văn hóa nền tảng của một dân tộc và là báu vật văn hóa mà tổ tiên đã để lại cho con cháu, nhất là tổ tiên Việt Nam đã luôn ở vào thế chẳng đặng đừng, bị động, luôn bị xâm lăng và thu hút bởi những nền văn hóa vừa mạnh vừa bạo như Hoa Ấn lân bang và Tây phương thực dân. Ngày nay con cháu Việt đang phải chịu nhận văn hóa người và ở ngay trên lãnh thổ của người ! Hy vọng một số ý kiến đã trình bày sẽ giúp ích cho người Việt trong việc xử dụng, cải đổi hay vay mượn tên họ nơi xứ người.
  4. niuncc

    niuncc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/06/2003
    Bài viết:
    42
    Đã được thích:
    0
    Trong bài bạn có đề cập danh sách khoảng 140 họ Việt Nam. Bạn có thể post danh sách này lên không?
  5. SilverWings

    SilverWings Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/01/2003
    Bài viết:
    492
    Đã được thích:
    0
    Hay quá, vote cho bài của bác 5 Sao.
    140 cái họ, mà đến cái năm 2000 này, con cháu các cụ vất tiệt, thay toàn bằng những cái nick name dở tây dở tầu, rõ chán.
    à, tiện đây các bác cho em hỏi, nếu con cháu các cụ cố tình thay tên đổi họ thì có gọi là có tội với tổ tông không ?
    Ví dụ, em họ Trần, hôm nào buồn tình em đổi sang họ Phạm cho vui, hoặc em lấy chồng Tây, đổi sang họ chồng thì em có bị cái tội bất hiếu với tổ tiên họ Trần nhà em không ạ ?
    Rất mong các bác chỉ giáo


    Người cầm 4-6 đi trong Thảo Luận, diệt trừ những tên camping.
  6. thienhadebetanhhung

    thienhadebetanhhung Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    14/07/2003
    Bài viết:
    350
    Đã được thích:
    0
    Toi gui vao day bai viet tong hop ve ho ten, ca nguoi Viet va mot so nuoc khac. Cac bac xem xong thay hay thi vote cho toi 5 sao nhe, cam on truoc.
    =====
    CHƯƠNG I
    TÊN HỌ NGƯỜI VIỆT NAM
    Hiện nay, chúng ta không có tài liệu gì chính xác để biết rõ trước thời Bắc thuộc tổ tiên chúng ta đặt tên như thế nào. Chúng ta chỉ có thể suy đoán là họ tất phải có tên để dễ xưng hô và có thể các tên đều có ý nghĩa.
    Sau thời Bắc thuộc hơn 1000 năm, dân Việt đã theo nền văn hóa Trung Quốc. Việc đặt tên là một lãnh vực trong đó người Việt Nam chúng ta đã bị ảnh hưởng của nền văn hóa này. Tuy nhiên, cũng như trong các lãnh vực khác, người Việt Nam vẫn giữ vài chỗ khác người Trung Hoa.
    Nói chung thì trước đây, người Việt Nam cũng như người Trung Hoa đã có nhiều loại tên, và cho đến hiện nay, các tên của người Việt Nam cũng như của người Trung Hoa đều có ý nghĩa theo ngôn ngữ thông thường.
    Mục 1
    TÊN CHÁNH TỨC LÀ DANH THEO TỪ NGỮ HÁN VIỆT
    I. Thời kỳ đặt tên chánh cho người.
    Hiện nay, theo luật pháp, người sanh con ra thì phải đặt tên và khai vào hộ tịch ngay.
    Thời trước, người Trung Hoa và người Việt Nam không phải sanh con là đặt tên chánh ngay, như vậy là theo Kinh Lễ, thiên Đàn cung sơ thì trẻ con sanh ra 3 tháng mới được đặt tên. Có lẽ người thời đó phải đợi một thời gian xem đứa trẻ có nuôi được hay không rồi mới đặt tên cho nó.
    Mặt khác, cho đến đời Xuân Thu tên này được dùng luôn cho đến khi lớn.
    Từ đời Tần, Hán về sau tên chánh phân biệt với tiểu danh hay nhũ danh được đặt lúc người còn bé và có thể đặt một lượt với tên này, hoặc đặt ra khi người đã lớn.
    Người Việt Nam thời trước không phải theo đúng Kinh Lễ và đặt tên cho con lúc nó vừa được ba tháng. Nhưng dù sao, việc đặt tên như vậy cũng chỉ được thực hiện một thời gian sau khi đứa bé sanh ra, khi cha mẹ đã chắc là nuôi được nó.
    Về vấn đề phân biệt tên chánh với tiểu danh và nhũ danh, người Việt Nam vốn bị ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa từ đời nhà Hán nên cũng theo phong tục Trung Hoa.
    II. Việc đặt tên chánh.
    Tên chánh của mỗi người đều do cha mẹ ông bà hoặc người cấp trên khác trong gia tộc đặt cho mình. Trên nguyên tắc, tên này được dùng cho đến mãn đời. Tuy nhiên, cũng có những
    trường hợp tên chánh của người được thay đổi khi người lớn lên.
    Ngày nay, muốn đổi tên, người phải xin phép chánh quyền và sự thay đổi này thường được xác nhận bằng một án lịnh của cơ quan tư pháp, rồi được ghi vào hộ tịch. Thời trước, việc đổi tên chánh giản dị hơn nhiều.
    A. Việc tự nguyện đổi tên.
    Những người bị chánh quyền truy nã, hay bị một kẻ địch đáng sợ, tìm cách giết hại, thì thường tự nguyện đổi tên, và có khi đổi luôn cả họ, để dễ bề trốn lánh. Những người dấn thân vào một cuộc tranh đấu cách mạng gay go cũng thường lấy tên hoặc lấy cả họ khác, và việc lấy tên họ khác này có thể thực hiện nhiều lần. Trong lịch sử cận đại, có nhiều nhơn vật Việt Nam đã từng đổi tên và đồng thời đổi cả họ.
    · Ông Nguyễn Ngọc Nhân đã đổi tên họ thành Vũ Tam Anh; ông Nguyễn Văn Giảng, một lãnh tụ của Việt Nam Quốc Dân Đảng đã đổi tên họ thành Vũ Hồng Khanh; ông Vũ Hải Thần, một nhà cách mạng lãnh đạo Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, đã đổi tên họ thành Nguyễn Hải Thần.
    · Cũng có những người tự nguyện đổi tên vì cho rằng điều này có thể mang đến cho mình một vận hội mới tốt đẹp hơn. Trường hợp được biết nhiều nhất là trường hợp một danh sĩ nổi tiếng vốn tên là Nguyễn Văn Thắng và về sau đổi tên thành Nguyễn Khuyến (1848-1904), theo Dương Quảng Hàm (1898-1946).
    · Phần ông Trần Tế Xương (1870-1907) thì vốn tên là Trần Duy Yên, sau khi thi hỏng đổi lại là Trần Kế Xương, rồi lại đổi tên là Trần Cao Xương, nhưng rồi cũng hỏng, chớ không được may mắn như ông Nguyễn Khuyến.
    B. Việc đổi tên do người cấp trên hay người có quyền thế.
    Việc đổi tên có thể thực hiện do người cấp trên hay người có quyền thế.
    Ngày trước, khi một cậu bé bắt đầu nhập học, thầy cậu có thể cho là tên cha mẹ cậu đặt ra không thanh nhã nên đổi lại một tên khác tốt hơn.
    Ngoài ra, người còn bị bắt buộc phải đổi tên vì tỵ húy. Khi một nhà vua lên ngôi, những người trùng tên hoặc trùng hiệu với nhà vua phải lập tức đổi tên khác để khỏi phạm húy.
    Cũng có khi nhà vua thấy tên một bầy tôi không làm đẹp ý mình, hoặc có hàm ý bất lợi cho triều đại mình, hay trùng với tên một thân nhơn mà mình kính trọng, nên ban cho tên khác.
    · Đời nhà Trần, vua Minh Tông (t.v. 1314-1329) đã vì tôn trọng một số người trong hoàng tộc mà đổi những người tên Độ thành Sư Mạnh, và những người tên T?... thành Thúc Cao.
    · Đời nhà Lê, ông Đỗ Nhân (1472-1517) phải đổi tên lại là Đỗ Nhạc khi vua Tương Dực (t.v. 1509-1516) lấy hiệu là Nhân Hải Động Chủ.
    · Đời nhà Nguyễn thì ông Hà Tông Quyền (1798-1839) phải đổi lại là Hà Quyền để
    tránh tên vua Thiệu Trị (t.v. 1840-1848) vốn tên là Miên Tông.
    · Ngoài ra, còn có trường hợp ông Phí Mộc Lạc được Thượng hoàng Nhân Tông nhà Trần đổi tên họ thành Bùi Mộc Đạc vì cho rằng họ Phí xưa không nghe có, còn tên Mộc Lạc thì không tốt.
    · Phần vua Lê Thánh Tông (1460-1497) thì đổi tên ông Đỗ Viễn (thế kỷ 15) đỗ Tiến sĩ năm 1478 thành Đỗ Cận và đổi tên ông Vũ Nghĩa Chí đỗ Hoàng giáp năm 1490 thành Vũ Duệ. Đối với ông Dương Bang Bản (1451-?), đỗ Hoàng giáp năm 1484 thì nhà vua không những cho quốc tánh là họ Lê của nhà vua mà còn ban cho tên mới tức là Lê-Tung.
    · Đời nhà Nguyễn, vua Tự Đức đã đổi tên ông Trần Bích San (1839-1874) thành Trần Hy Tăng để ví với Vương Tăng đời nhà Tống (960-1276); lại đổi tên ông Trần Thời Mẫn thành Tiễn Thành.
    Mặt khác, nhà vua có thể đặt cho người dưới quyền mình một tên xấu để hạ nhục. Như ở Trung Quốc, đời Võ Hậu (684-704) có hai ông Ly Tân Trung và Tôn Vạn Vinh chống lại triều đình, nên Võ Hậu đã đổi tên Trung thành Diệt và tên Vinh thành Trảm để bêu xấu.
    Ngoài việc đổi tên người chống báng mình, nhà cầm quyền Trung Quốc thời xưa còn dùng lối giữ âm của tên người ấy nhưng viết ra thành một chữ khác có ý nghĩa xấu xa. Nhà Thanh (1644-1911) muốn bêu xấu ông Tôn Văn nên đổi chữ Văn ( ) hàm ý có học thức và thanh nhã thành chữ Văn ( ) là mờ tối dơ dáy.
    Trong lịch sử Việt Nam, cũng có những trường hợp tương tự. Cứ theo một học giả cận đại, hai vị nữ anh thư họ Trưng của chúng ta là người sống trong một vùng có trồng dâu nuôi tằm và vùng đó phân biệt hai loại kén: kén lớn gọi là kén chắc, kén nhỏ hơn gọi là kén nhì. Có thể hai chị em Bà Trưng vốn tên là Chắc và Nhì, nhưng quan lại Trung Hoa vì ghét hai Bà chống lại họ nên đã âm chữ Chắc thành Trắc ( ) và chữ Nhì thành Nhị ( ). Trong ngôn ngữ Trung Hoa, hai chữ Trắc và Nhị đều hàm ý xấu: Trắc là nghiêng lệch tà vạy như trong ngôn ngữ phản trắc, Nhị là hai, hàm ý ăn ở hai lòng, tức là không trung thành. Giả thuyết này có thể đúng sự thật, nên các sử gia Việt Nam cận đại theo sử Trung Quốc chép tên hai Bà là Trưng Trắc và Trưng Nhị đã vô tình phạm tội bất kính đối với hai Bà.
    III. Phép đặt tên chánh.
    A. Tên và con số.
    Ở Trung Quốc đời nhà Nguyên (1277-1368), chỉ những người có chức vụ mới được có tên chánh, người không chức vụ thì gọi bằng một con số tính theo tuổi của cha mẹ. Như người cha 24 tuổi, người mẹ 22 tuổi, hai tuổi cộng lại là 46 thì đứa con được gọi là Tứ Lục (bốn sáu); người cha 23 tuổi, người mẹ 22 tuổi, hai tuổi cộng lại là 45 thì đứa con được gọi là Ngũ Cửu (năm chín) vì năm lần chín là 45.
    Trong lịch sử Việt Nam, không lúc nào có việc hạn chế về việc đặt tên như vậy. Nếu có người đặt tên con là Hai, Ba, Năm, Bảy,... thì các con số này chỉ được dùng như là một chữ có nghĩa
    thông thường và cốt để biểu lộ thứ tự của đứa trẻ đối với anh chị em trong gia đình.
    B. Tên Nôm và tên Hán Việt.
    Người bình dân ít học thường đặt cho con một tên Nôm mà họ biết rõ ý nghĩa như Chắc, Bền, Bông, Dạn, ... Người có học cũng có khi đặt tên Nôm như vậy cho con, nhưng thường thì họ chọn một tên Hán Việt có ý nghĩa tốt như Hùng, Dũng, Nhơn, Nghĩa,...
    C. Tên đơn và tên đôi.
    Ngoài ra, tên mà người Trung Hoa và người Việt Nam đặt cho con có thể là một tên đơn, chỉ gồm một chữ, hay một tên đôi gồm hai chữ.
    1. Ở Trung Quốc, khi giữ chức vụ Phụ chánh vào cuối đời Tiền Hán (206 tr. CN - 7 s. CN), Vương Mãng đã ra lịnh cấm đặt tên đôi. Do đó, cháu ông ta là Vương Hội-Tông phải đổi tên lại là Tông. Về sau Tông phạm tội phải tự sát. Vương Mãng ra lịnh gọi lại tên anh ta là Hội-Tông để biếm nhục.
    Do đó, từ đời Hậu Hán (25-220) cho đến đời Ngụy (220-265) và Tấn (265-420), người Trung Hoa xem việc có tên đôi là xấu và phần lớn người có địa vị xã hội đều có tên đơn.
    Ta có thể nhận thấy riêng trong bộ Tam quốc chí diễn nghĩa, hầu hết các nhơn vật đều có tên đơn như Lưu Bị, Tào Tháo, Tôn Quyền, Lữ Bố, Viên Thiệu, ... Những người tên họ gồm ba chữ như Tư-Mã Ý, Gia-Cát Lượng, Hạ-Hầu Đôn, Công-Tôn Toản, Thái-Sử Từ, ... đều là những người có họ đôi: Tư-Mã, Gia-Cát, Hạ-Hầu, Công-Tôn, Thái-Sử.
    Ở Việt Nam từ thời độc lập không có tục như thế, và việc đặt tên đơn hay tên đôi hoàn toàn do cha mẹ hay bậc trên trước của người quyết định chớ không có một sự khiên chế pháp lý hay xã hội nào.
    2. Tên đôi của người Việt Nam thường là tên Hán Việt và được chọn lựa theo nhiều cách khác nhau.
    a. Nó có thể gồm hai từ ngữ bổ túc cho nhau. Hai từ ngữ này có thể đều là danh từ như Xuân-Hương, Kim-Khánh, hoặc một tĩnh từ với một danh từ như Bội-Châu, Thượng-Hiền, hoặc một động từ như Tấn-Phát, hoặc một trạng từ với một tĩnh từ như Thường-Kiệt, hoặc một giới từ với một danh từ như Tự-Đạo, Như-Hổ, ...
    b. Tên đôi cũng có thể gồm hai từ ngữ đồng loại có ý nghĩa khác nhau, nhưng chỉ những ý niệm có giá trị tương đương, và thường đi chung nhau như Phú-Thứ là giàu và đông, hai tình trạng tốt của nhơn dân một nước theo lý tưởng Nho gia; hay Thanh-Giản là trong sạch và bình dị là hai đức tánh của một cá nhơn thời trước.
    D. Tên con trai và tên con gái.
    Trên nguyên tắc, cha mẹ sanh con thì muốn đặt tên thế nào cũng được.
    Ngày trước người ta chỉ cần giữ đúng phép tỵ húy, tức là không lấy tên người trên trước của mình mà đặt tên cho con mình là đủ rồi.
    Tuy nhiên, một số người cố ý đặt tên cho con trai và con gái khác nhau, để nghe tên thì phân biệt được người mang tên đó thuộc phái nam hay phái nữ.
    Nói chung thì người thuộc phái nam được đặt cho một tên biểu lộ sự mạnh mẽ cứng rắn như Hùng, Dũng, Cương, ... hay tên một mãnh thú như Hổ, Báo, ...
    Người thuộc phái nữ thì thường được đặt cho một tên biểu lộ sự đẹp đẽ khả ái như Diễm-Lệ, Phương-Dung; hoặc một tên chỉ một vật trong phòng khuê, tức là phòng của phụ nữ, như Thoa, Xuyến; hoặc một tên hoa hay tên chim như Lan, Huệ, Phụng, Oanh; hoặc một tên chỉ vật trân bảo như Châu, Ngọc,...
    Nhưng, thật ra, sự phân biệt giữa tên con trai và con gái nhiều khi rất khó, vì người ta cũng dùng các tên hoa, tên chim, hay tên chỉ một vật trân bảo, để đặt cho con trai.
    thienhadebetanhhung
  7. thienhadebetanhhung

    thienhadebetanhhung Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    14/07/2003
    Bài viết:
    350
    Đã được thích:
    0
    Đ. Chữ lót.
    Người có thể chỉ có họ và tên, nhưng cũng có thể giữa họ và tên một người còn có một chữ lót. Việc phân biệt giữa chữ lót và họ với tên thật sự không phải lúc nào cũng giản dị.
    1. Đối với những người có một họ đơn và một tên đơn như Trịnh Kiểm, Nguyễn Hoàng thì dĩ nhiên là không có vấn đề gì khó khăn.
    2. Nhưng có thể tên và họ của một người gồm ba hay bốn chữ như Hồ Xuân-Hương, Tôn-Thất Thuyết, Nguyễn Đình Chiểu, Trần Văn Giáp, Âu-Dương Tùng-Thiện, Nguyễn-Khoa Diệu Liễu, Lê Thanh Minh-Châu,... thì vấn đề phân biệt họ tên và chữ lót có phần khó khăn hơn.
    Trong các tên họ trên đây, có cái gồm một họ đơn và một tên đôi như Hồ Xuân-Hương, có cái gồm một họ đôi và một tên đơn như Tôn-Thất Thuyết, có cái gồm một họ đôi và một tên đôi như Âu-Dương Tùng-Thiện.
    Trong trường hợp Nguyễn Đình Chiểu và Trần Văn Giáp, ta có một họ đơn, một tên đơn và một chữ lót; với Nguyễn-Khoa Diệu Liễu, ta có một họ đôi, một tên đơn và một chữ lót, còn với Lê Thanh Minh-Châu, ta lại có một họ đơn, một tên đôi và một chữ lót.
    3. Việc phân biệt chữ lót với họ tên trong các họ tên gồm ba chữ trở lên dựa vào các nguyên tắc sau đây :
    a. Các họ đôi của Trung Quốc đã được liệt kê đầy đủ trong các từ điển và tự vựng đặc biệt về các họ. Trong số này, chỉ có một vài họ như Âu-Dương, Gia-Cát, Hạ-Hầu, Hoàng-Phủ, Mộ-Dung, Tư-Mã được du nhập vào Việt Nam. Ngoài ra, Việt Nam còn có họ Tôn-Thất do vua Minh Mạng đặt ra.
    b. Tên đôi gồm hai chữ ghép lại nhau và mang một ý nghĩa do cả hai hợp lại mà có như Xuân-Hương là mùi thơm của mùa xuân hay Thanh-Giản là trong sạch và bình dị.
    Trái lại, chữ lót không ghép với tên để trở thành từ ngữ có ý nghĩa rộng thêm như Đình trong Nguyễn Đình Chiểu, Văn trong Trần Văn Giáp không ghép được với Chiểu và Giáp, và bổ túc ý nghĩa của Chiểu và Giáp.
    Tuy nhiên, việc áp dụng các nguyên tắc trên đây cũng có thể gặp trở ngại.
    1/ Có những gia tộc dùng một chữ lót trong nhiều đời và chữ lót được xem như là gắn liền với họ thành một họ đôi mặc dầu họ đôi này không được các từ điển công khai nhìn nhận.
    Như có người họ Vũ vì làm con nuôi một người họ Đặng mà không muốn bỏ luôn họ gốc của mình và lấy nó làm chữ lót. Con cháu vị này về sau cứ dùng chữ Vũ làm chữ lót thành ra gần như một họ đôi là Đặng-Vũ.
    Ngoài ra, có người họ Đỗ vì mến phục ông thầy học họ Phạm mà theo họ Phạm của thầy rồi dùng họ gốc của mình làm chữ lót, con cháu về sau cứ dùng chữ Đỗ làm chữ lót thành ra gần như một họ đôi là Phạm-Đỗ.
    2/ Có khi chữ lót và tên ghép lại vẫn có nghĩa như trong tên Trần Văn Minh, Huỳnh Ngọc Diệp; Văn Minh có nghĩa là tình trạng tiến hóa khá cao của một cộng đồng loài người về các mặt nghệ thuật, khoa học, xã hội, chánh trị; Ngọc Diệp có nghĩa là cái lá bằng ngọc. Đọc các tên họ trên đây, người ta rất khó đoán biết chữ Văn và Ngọc là chữ lót hay là một thành phần của một tên đôi.
    3/ Các chữ lót thường được dùng là Bá, Công, Danh, Duy, Đẳng, Đình, Huy, Hữu, Minh, Ngọc, Như, Quang, Quí, Thanh, Thành, Xuân, ... nhưng được dùng nhiều nhứt là Văn đối với phái nam và Thị đối với phái nữ.
    a/ Ở Trung Quốc, chữ Văn không phải dành riêng cho phái nam. Một phụ nữ nổi tiếng của Trung Quốc mang tên là Trác Văn Quân, đó là người tình của Tư Mã Tương Như, tác giả bản nhạc trứ danh Phụng Cầu Hoàng.
    Riêng ở Việt Nam thì đại đa số người phái nam đều lót chữ Văn, không những người ít học mà người có học cũng dùng chữ lót này khi đặt tên con.
    b/ Chữ Thị vốn có nghĩa là họ và người Trung Quốc không dùng nó để đặt tên cho người phái nữ.
    Trong ngôn ngữ Trung Quốc, người ta gọi người vợ bằng họ của chồng kèm theo hai chữ phu nhơn. Nhưng vì tục đa thê nên một người đàn ông có thể có nhiều vợ. Một ông họ Trần có thể cưới ba bà vợ, một người họ Vương, một người họ Lê, một người họ Phạm. Tất cả các bà này đều được gọi là Trần phu nhơn. Khi muốn phân biệt các bà phu nhơn đó với nhau, người Trung Quốc lại dùng họ của mỗi bà kèm theo chữ Thị, thành ra Vương Thị phu nhơn, Lê Thị phu nhơn, Phạm Thị phu nhơn.
    Có lẽ người Việt Nam chúng ta trước đây cũng bắt đầu dùng chữ Thị y như người Trung Quốc, nhưng sau đó vì chữ Thị thường được dùng cho phụ nữ nên người Việt Nam lại lấy nó làm biểu hiệu cho phái nữ và cuối cùng dùng nó làm chữ lót cho con gái mình.
    E. Sự biểu lộ mối liên hệ giữa những người trong một gia tộc qua cách đặt tên chánh.
    Cũng như người Trung Hoa, người Việt Nam có nhiều cách biểu lộ mối liên hệ giữa những người trong một gia tộc qua cách đặt tên chánh.
    1. Sự biểu lộ liên hệ qua tên chánh.
    a. Mối liên hệ cha con, anh chị em có thể được biểu lộ bằng cách có những tên chánh dùng chung nhau trong ngôn ngữ thông thường, như cha tên Khôn thì con tên Khéo, cha tên Nhân thì con tên Nghĩa, anh tên Dạn thì em tên Dĩ, anh tên Hùng thì em tên Cường.
    Ngoài ra, nó có thể được biểu lộ qua các tên chánh cùng thuộc một nhóm nhiều từ ngữ chỉ những sự vật hay ý tưởng đồng loại. Các anh em có thể cùng mang tên mãnh thú như Hổ, Báo, ... hoặc cùng mang tên các đức tánh căn bản của đạo Nho như Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín.
    Một phương thức khác thường được áp dụng là cha với con, hoặc anh với em, hay chị với em, đều mang tên đôi với một chữ chung nhau, thí dụ như Quốc-Ân, Quốc-Long, Phương-Dung, Phương-Mai,...
    Chữ chung nhau trong các tên đôi này có thể là chữ thứ nhì chớ không phải là chữ thứ nhứt. Như trong gia đình họ Tống nổi tiếng ở Trung Quốc có 4 chị em : Khánh-Linh (tức là bà Tôn Văn), Mỹ-Linh (tức bà Tưởng Giới-Thạch), Diệu-Linh và Ái-Linh. Ông Tưởng Giới-Thạch có hai con trai là Kinh-Quốc và Vĩ-Quốc.
    Ở Việt Nam, có một gia đình học giả có tên đôi với chữ sau trong tên đôi này là Chi, như Nguyễn Đổng-Chi, Nguyễn Việt-Chi,...
    b. Mọi liên hệ giữa cha con, anh chị em cũng có thể được biểu lộ qua cách viết tên chánh bằng chữ Quốc ngữ hay bằng Hán tự.
    Thân phụ và thân mẫu chúng tôi đều có tên bắt đầu bằng chữ H nên các con do hai cụ sanh ra đều được đặt những tên bắt đầu bằng chữ H. Tiện nội vốn tên là Thu nên chúng tôi ghép hai tên Huy và Thu lại rồi dùng chữ Thụy để đặt cho con trai và Thúy để đặt cho con gái.
    Thời người Việt Nam còn dùng Hán tự làm chữ viết chánh thức thì mối liên hệ gia đình được biểu lộ qua những tên thuộc một bộ như nhau.
    Tên các vua nhà Hậu Lê Trung Hưng từ đời Thần Tông (t.v. 1619-1643 và 1649-1662), Kỳ,
    Hữu, Vũ, Hội, Hợp, Đường, Phương, Tường, Thìn, Diêu đều thuộc bộ kỳ ( ).
    Tên các chúa Trịnh: Kiểm, Tùng, Tráng, Tạc, Căn, Cương, Giang, Doanh, Sâm, Cán, Khải đều thuộc bộ mộc ( ).Tên các chúa Nguyễn: Cam, Hoàng, Nguyên, Lan, Tần, Trăn, Chu, Trú, Khoát, Thuần đều thuộc bộ thủy ( ).
    2. Sự biểu lộ liên hệ giữa những người trong một gia tộc qua chữ lót.
    Mối liên hệ giữa cha con và anh chị em cũng có thể được biểu lộ bằng cách có một chữ lót chung nhau. Chữ lót này có thể có nhiều nguồn gốc khác nhau:
    a. Chữ lót có thể là một chữ lót thông thường.
    Các hoàng tử nhà Hậu Lê Trung Hưng bắt đầu từ vua Trang Tông Duy Ninh đều lót chữ Duy như Lê Duy Ninh, Lê Duy Huyên, Lê Duy Bang, Lê Duy Đàm, Lê Duy Tân, Lê Duy Kỳ, Lê Duy Hữu, Lê Duy Vũ, Lê Duy Hội, Lê Duy Hợp, Lê Duy Đường, Lê Duy Phương, Lê Duy Tường, Lê Duy Thìn, Lê Duy Thao(?),...
    Ngày nay, con cháu nhà văn nổi tiếng Hồ Biểu Chánh vốn mang tên chánh là Hồ Văn Trung đều lót chữ Văn và có tên đôi như Hồ Văn Kỳ-Trân, Hồ Văn Di-Hinh, Hồ Văn Kỳ-Thoại, Hồ Văn Di-Hấn,...
    b. Chữ lót biểu lộ mối liên hệ thân thuộc có thể vốn là một họ.
    Có những người vì một lý do nào đó mà đổi họ nhưng vẫn muốn giữ gốc tích mình nên lấy họ cũ làm chữ lót và con cháu đời đời vẫn noi theo lệ đó. Trên đây, chúng tôi đã kể trường hợp những người họ Đặng đời đời lấy họ Vũ làm chữ lót và những người họ Phạm đời đời lấy họ Đỗ làm chữ lót.
    c. Chữ lót biểu lộ mối liên hệ thân thuộc có thể là một chữ được chọn một cách đặc biệt do quyết định của một cá nhơn quan trọng.
    Theo truyền thuyết thì khi có thai, bà vợ của chúa Nguyễn Hoàng đã nằm chiêm bao thấy thần cho mình chữ Phúc, khi thức dậy bà đã nói cho chúa biết và chúa nghĩ rằng nên lấy chữ Phúc làm tên chánh cho đứa con sẽ được sanh ra. Nhưng bà vợ của chúa Nguyễn Hoàng bàn rằng làm như vậy thì chỉ có đứa con đó được hưởng phúc, còn nếu dùng chữ Phúc làm chữ lót thì con cháu nhiều đời về sau cũng được hưởng. Chúa Nguyễn Hoàng đã theo ý kiến của bà nên con cháu của ông về sau đều dùng chữ Phúc làm chữ lót như Nguyễn Phúc Lan, Nguyễn Phúc Tần, Nguyễn Phúc Trân, Nguyễn Phúc Chu, Nguyễn Phúc Trú, Nguyễn Phúc Khoát, Nguyễn Phúc Thuần, ...
    d. Chữ lót được dùng biểu lộ mối liên hệ thân thuộc giữa cha con và anh chị em có thể vốn là chữ đầu của một tên đôi.
    Như ông Phạm Phú-Thứ vốn mang tên đôi, nhưng về sau con cháu ông được đặt cho một tên chánh trong đó chữ Phú làm chữ đầu thành ra chữ này trở thành một chữ lót.
    Dầu nguồn gốc thế nào thì một chữ lót được một gia tộc dùng nhiều đời cũng biểu lộ được sự liên hệ giữa những người thuộc gia tộc đó, và họp với họ thành ra gần như một họ đôi.
    thienhadebetanhhung
  8. thienhadebetanhhung

    thienhadebetanhhung Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    14/07/2003
    Bài viết:
    350
    Đã được thích:
    0
    3. Vài trường hợp đặc biệt trong lịch sử Việt Nam về việc biểu lộ mối thân thuộc qua cách đặt tên chánh.
    Trong lịch sử Việt Nam, có những trường hợp đặc biệt về việc biểu lộ mối thân thuộc qua cách đặt tên chánh.
    a. Khi ông Mạc Cửu đem đất Hà Tiên sáp nhập vào lãnh thổ của chúa Nguyễn, chúa Nguyễn rất tin yêu ông. Để biểu thị sự tin yêu này, chúa Nguyễn Phúc Chu (t.v. 1691-1725) đã thêm bộ ấp vào chữ Mạc để chỉ họ của người bầy tôi này, tuy cũng đọc là Mạc, nhưng viết khác với họ Mạc của Mạc Đăng Dung là một bầy tôi phản loạn.
    Ngoài ra, chúa còn ban cho gia đình Mạc Cửu một phương pháp đặt tên chánh cho con cháu gọi là "Thất diệp phiên hàn".
    Theo phương pháp này, con cháu Mạc Cửu sẽ lần lượt lấy làm chữ lót 7 chữ chỉ định các chức vụ tôn quí sau đây : thiên, tử, công, hầu, bá, tử, nam; cứ mỗi thế hệ dùng một chữ và khi đến chữ chót thì đời sau đó sẽ trở lại chữ đầu.
    Về tên chánh thì con cháu Mạc Cửu sẽ mang những tên mà chữ viết ra Hán tự thuộc các bộ chỉ ngũ hành, cứ mỗi đời dùng một bộ theo thứ tự ngũ hành tương sinh kim thủy mộc hỏa thổ và bắt đầu với bộ kim.
    Nói cách khác, thế hệ đầu mang những tên chánh có bộ kim, thế hệ kế đó mang những tên chánh có bộ thủy, ... và sau thế hệ mang những tên chánh có bộ thổ lại đến thế hệ mang những tên chánh có bộ kim trở lại.
    Trước khi được chúa Nguyễn ban cho phương pháp đặt tên trên đây, ông Mạc Cửu đã có một đứa con trai tên là Mạc Tứ. Chữ Tứ viết theo Hán tự ( ) gồm bộ bối ( ) và chữ dịch ( ). Áp dụng "Thất diệp phiên hàn", ông Mạc Cửu đã dùng chữ Thiên làm chữ lót cho con, và đem bộ kim ( ) thay bộ bối ( ) trong tên chánh người con này. Do đó, tên họ người con ông Mạc Cửu từ Mạc Tứ ( ) đã trở thành ra Mạc Thiên Tích ( ).
    Cũng do chỗ áp dụng phương pháp "Thất diệp phiên hàn" được chúa Nguyễn ban cho trong việc đặt tên con cháu, nên đời con Mạc Thiên Tích lót chữ Tử và có tên chánh thuộc bộ thủy (?.) như Mạc Tử Thiêm (?.. ), Mạc Tử Duyên (?.. ); đến đời cháu Mạc Thiên Tích thì lót chữ Công và có tên chánh thuộc bộ mộc (?.. ) như Mạc Công Tài (?. ).
    b. Năm 1823, vua Minh Mạng đã có một quyết định liên hệ đến tên họ những người thuộc gia tộc nhà Nguyễn đang trị vì trên đất Việt Nam.
    Gia tộc này vốn ở làng Gia Miêu Ngoại Trang, tổng Thượng Bạn, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa.
    Năm 1803, vua Gia Long đã đổi tên Gia Miêu Ngoại Trang thành Quí Hương và Tống Sơn thành Quí Huyện.
    Cứ theo quyết định của vua Minh Mạng thì con cháu những người theo chúa Nguyễn Hoàng vào nam thì mang họ Tông Thất Nguyễn Phúc, còn con cháu những người vẫn ở lại Bắc Hà thì mang họ Công Tánh Nguyễn Hựu.
    Tông Thất Nguyễn Phúc đã được đổi lại thành Tôn Thất Nguyễn Phúc vì cữ tên vua Thiệu Trị.
    Mặt khác, trong thực tế thì về sau hai họ được dùng cho những người nói trên đây được thâu gọn thành Nguyễn Hựu và Tôn Thất.
    Đối với con cháu vua Gia Long (t.v. 1802-1819) vua Minh Mạng đã ấn định cách đặt tên chánh theo một số nguyên tắc.
    Nói chung thì các tên chánh này đều là tên đôi. Về chữ đầu của tên đôi này, vua Minh Mạng đặt ra những bài thơ, mỗi bài gồm 20 chữ, và dành cho mình và các anh cùng em trai của mình.
    Vua Gia Long vốn có 13 người con trai, nhưng hai người mất sớm, còn lại 11 người có con cháu, nên vua Minh Mạng đã đặt ra cả thảy 11 bài thơ gồm 1 bài Đế-hệ thi và 10 bài Phiên-hệ thi (Xin xem nguyên tác chữ Hán các bài thi này ở phần Phụ-lục). Chữ đầu của mỗi bài thơ này được dùng cho các cháu nội của vua Gia Long, và sau đó, cứ mỗi thế hệ lại dùng một chữ, sau thế hệ dùng chữ chót của bài thơ thì đến thế hệ dùng lại chữ đầu.
    Bài thơ dành cho con cháu vua Minh Mạng được gọi là "Đế hệ thi" như sau:
    Miên Hồng Ưng Bửu Vĩnh
    Bảo Quí Định Long Trường
    Hiền Năng Kham Kế Thuật
    Thế Thoại Quốc Gia Xương
    Ngoài ra, lại còn mười bài dành cho con cháu những người anh em trai của vua Minh Mạng và được gọi là "Phiên hệ thi" :
    - Bài dành cho Tăng Duệ hoàng thái tử tức là Đông Cung Cảnh, anh ruột vua Minh Mạng như sau :
    Mỹ Duệ Tăng Cường Tráng
    Liên Huy Phát Bội Hương
    Linh Nghi Hàm Tốn Thuận
    Vĩ Vọng Biểu Khôn Quang
    - Bài dành cho Kiến An vương, hoàng tử thứ 5 của vua Gia Long, em vua Minh Mạng, như sau :
    Lương Kiến Ninh Hòa Thuật
    Du Hành Suất Nghĩa Phương
    Dưỡng Di Tương Thực Hảo
    Cao Túc Thể Vi Tường
    - Bài dành cho Định Viễn quận vương, hoàng tử thứ 6 của vua Gia Long như sau :
    Tịnh Hoài Chiêm Viễn Ái
    Cảnh Ngưỡng Mậu Thanh Kha
    Nghiễm Khác Do Trung Đạt
    Liên Trung Tập Cát Đa
    - Bài dành cho Diên Khánh vương, hoàng tử thứ 7 của vua Gia Long như sau :
    Diên Hội Phong Hanh Hiệp
    Trùng Phùng Tuấn Lãng Nghi
    Hậu Lưu Thành Tú Diệu
    Diễn Khánh Thích Phương Huy
    - Bài dành cho Điện Bàn công, hoàng tử thứ 8 của vua Gia Long như sau:
    Tín Diện Tư Duy Chánh
    Thành Tồn Lợi Thỏa Trinh
    Túc Cung Thừa Hữu Nghị
    Vinh Hiển Tập Khanh Danh
    - Bài dành cho Thiệu Hóa quận vương, hoàng tử thứ 9 của vua Gia Long như sau :
    Thiện Thiệu Kỳ Tuấn Lý
    Văn Tri Tại Mẫn Du
    Ngưng Lân Tài Chí Lạc
    Địch Đạo Doãn Phu Hưu
    - Bài dành cho Quảng Oai công, hoàng tử thứ 10 của vua Gia Long như sau :
    Phụng Phù Trưng Khải Quảng
    Kim Ngọc Trác Tiêu Kỳ
    Điển Học Kỳ Gia Chí
    Đôn Di Khắc Tự Trì
    - Bài dành cho Thường Tín quận vương, hoàng tử thứ 11 của vua Gia Long như sau :
    Thường Cát Tuân Gia Huấn
    Lâm Trang Túy Thạnh Cung
    Thận Tu Di Tấn Đức
    Thọ Ích Mậu Tân Công
    - Bài dành cho An Khánh vương, hoàng tử thứ 12 của vua Gia Long như sau:
    Khâm Tùng Xưng Ý Phạm
    Nhã Chánh Thủy Hoằng Qui
    Khải Dễ Đang Cần Dự
    Quyến Ninh Cộng Tráp Hy
    - Bài dành cho Từ Sơn công, hoàng tử thứ 13 của vua Gia Long như sau:
    Từ Thể Dương Quỳnh Cẩm
    Phu Văn Ái Diệu Dương
    Bách Chi Quân Phụ Dực
    Vạn Diệp Hiệu Khuông Tương
    Chúng ta có thể nhận thấy rằng trong 11 bài thơ trên đây, có những chữ giống nhau như Thuật (Đế hệ thi và Phiên hệ thi Kiến An vương), Gia (Đế hệ thi và Phiên hệ thi Quảng Oai công, Thường Tín quận vương) nhưng đó là vì ta đã phiên âm các chữ ấy ra chữ Quốc ngữ chớ viết ra Hán tự thì các chữ ấy đều khác nhau (Xem nguyên tác Hán văn các bài thi này trong phần Phụ-lục).
    Về chữ thứ nhì trong tên đôi của những người con cháu vua Gia Long, vua Minh Mạng cũng ấn định là mỗi đời phải dùng tên thuộc một bộ.
    Theo Nguyễn-Phước tộc lược biên, năm 1823, vua Minh-Mạng có lựa sẵn 20 chữ (toàn bộ Nhật) để đặt tên cho các vị vua kế thống sau này. Ngài lại làm bài thơ Ngự-chế Mạng danh thi gồm 20 bộ, các vua triều sau cứ noi theo thế thứ mà đặt tên cho các hoàng-tử (Xem nguyên tác Hán văn bài này trong phần Phụ-lục).
    Sau đây là phiên âm các bài Ngự-chế Mạng danh thi:
    Miên Nhơn Kỳ Sơn Ngọc
    Phụ Nhơn Ngôn Tài Hòa
    Bối Lực Tài Ngôn Tâm
    Ngọc Thạch Hỏa Hòa Tiểu
    Ta nhận thấy rằng trong bài thơ này, có những bộ được dùng hai lần như Nhơn, Tài và Ngọc.
    Con cháu của những người anh và em trai của vua Minh Mạng thì chọn chữ thứ nhì trong tên đôi thuộc các bộ chỉ ngũ hành, cứ mỗi đời một bộ, bắt đầu với bộ thổ và kế tiếp nhau theo thứ tự ngũ hành tương sanh thổ kim thủy mộc hỏa.
    Với quyết định của vua Minh Mạng năm 1823, việc nhận vai vế những người thuộc hoàng tộc rất dễ. Những người mang họ Nguyễn Hựu là bà con rất xa đối với vua nhà Nguyễn, những người mang họ Tôn Thất gần hơn nhưng không phải là con cháu vua Gia Long.
    Về con cháu vua Gia Long thì những người thuộc dòng vua Minh Mạng được biết nhiều nhứt,
    những người thuộc dòng Đông Cung Cảnh được biết ít hơn, còn những người thuộc dòng các người em trai của vua Minh Mạng thì có lẽ không mấy ai được biết.
    Về dòng vua Minh Mạng thì ta biết rằng con ông có tên bắt đầu bằng chữ Miên và tiếp theo đó là một chữ thuộc bộ Miên như Miên Tông (vua Thiệu Trị), Miên Thẩm (Tùng Thiện vương), Miên Trinh (Tuy Lý vương).
    Đời cháu nội vua Minh Mạng thì có tên bắt đầu bằng chữ Hồng và tiếp theo đó là một chữ thuộc bộ Nhơn như Hồng Nhậm (vua Tự Đức), Hồng Bảo,...
    Nhờ bài Đế hệ thi, ta biết rằng các vua Thành Thái (tên Bửu Lân) và Khải Định (tên Bửu Đảo) thuộc một thế hệ với nhau, và các vua Duy Tân (tên Vĩnh San) và Bảo Đại (tên Vĩnh Thụy) thuộc một thế hệ sau đó.
    Nhờ bài đầu của Phiên hệ thi, ta biết rằng ông Cường Để là dòng dõi Đông Cung Cảnh. Đối chiếu với Đế hệ thi thì những người mang tên bắt đầu bằng chữ Cường trong dòng Đông Cung Cảnh tương ứng với những người mang tên bắt đầu bằng chữ Bửu trong dòng vua Minh Mạng. Vậy ông Cường Để là vai anh các vua Thành Thái và Khải Định và con ông là Tráng Liệt và Tráng Cử là vai anh các vua Duy Tân và Bảo Đại.
    Những người thuộc dòng dõi vua Gia Long đã áp dụng các bài thơ do vua Minh Mạng đặt ra năm 1823 để đặt tên con cháu.
    Nhưng riêng vua Duy Tân ở vào một trường hợp đặc biệt. Như trên đây đã nói, nhà vua này vốn tên là Vĩnh San và sau khi bị người Pháp truất phế rồi đem đi an trí ở đảo Réunion, ông mang tên là hoàng tử Vĩnh San. Khi sanh con trai tại đây, ông muốn theo nguyên tắc của hoàng tộc đặt những tên bắt đầu bằng chữ Bảo. Các viên chức Pháp coi hộ tịch tại đảo Réunion tưởng rằng hai chữ Vĩnh San gồm cả tên lẫn họ nên không thể chấp nhận để cho trong tên con ông Vĩnh San không có chữ nào liên hệ đến hai chữ Vĩnh và San và không chịu ghi vào hộ tịch tên đứa con trai ông đưa cho họ.
    Giá như vua Duy Tân chịu khó giải thích cho họ biết rằng họ ông là Nguyễn Phúc và Vĩnh San chỉ là tên, và khai tên họ con trai mình là Nguyễn Phúc Bảo ... thì vấn đề đã giải quyết được ổn thỏa. Nhưng có lẽ lúc ấy nhà vua bực bội với người Pháp nên không chịu giải thích, thành ra trong sổ hộ tịch các viên chức Pháp đã kể Vĩnh San là họ của vua Duy Tân và thêm vào một tên Pháp thông thường cho con ông thành ra Georges Vĩnh San.
    Trên đây là nói về tên đặt cho các hoàng tử của nhà Nguyễn từ đời vua Minh Mạng trở đi.
    Ngoài ra, năm 1823 vua Minh Mạng lại còn làm một bài thơ 20 chữ thuộc bộ nhựt để đặt cho những người được kế vị làm vua. Do đó, các nhà vua triều Nguyễn từ đời vua Thiệu Trị (1820-1848) đều có hai tên chánh, một tên lúc còn là hoàng tử, một tên từ lúc lên ngôi. Như vua Tự Đức lúc còn là hoàng tử đã mang tên là Hồng Nhậm và khi lên ngôi lại mang tên là Thì.
    c. Triều vua Tự Đức, gia đình của hai ông Dương Khuê và Dương Lâm được nhà vua trọng
    vọng là gia đình khoa bảng lớn, và ban cho bài thơ 16 chữ sau đây dùng để làm chữ lót:
    Tự Thiệu Hồng Nghiệp
    Vi Bang Gia Cơ
    Tế Thế Kỳ Mỹ
    Phú Khánh Du Chi
    Từ khi được bài thơ này, thế hệ con của hai vị khoa bảng trên đây lấy chữ Tự làm chữ lót, thế hệ kế đó thì dùng chữ Thiệu, như các ông Dương Thiệu Tước, Dương Thiệu Đệ (?), thế hệ sau nữa thì dùng chữ Hồng như các ông Dương Hồng Văn, Dương Hồng Võ, v.v...
    Với bài thơ do vua Tự Đức ban cho, những người trong gia tộc họ Dương nói trên đây chẳng những có thể nhận ra được mối liên hệ họ hàng với nhau mà còn biết được vai vế của mỗi người trên trong gia tộc.
    thienhadebetanhhung
  9. thienhadebetanhhung

    thienhadebetanhhung Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    14/07/2003
    Bài viết:
    350
    Đã được thích:
    0
    Mục 2
    CÁC LOẠI TÊN KHÁC NHAU CỦA MỘT CÁ NHÂN THỜI TRƯỚC
    Ngoài tên chánh tức là danh, người Việt Nam thời trước còn có nhiều loại tên khác, trong số này hiện nay có cái vẫn còn, nhưng có cái không còn được dùng nữa.
    I. Tiểu danh hay nhũ danh.
    A. Ý nghĩa của tiểu danh hay nhũ danh.
    Hiện nay người Việt Nam thường dùng từ ngữ nhũ danh với một ý nghĩa đặc biệt là tên người
    đàn bà lúc chưa có chồng. Như khi nói đến bà vợ của ông Ngô Đình Nhu, người ta thường gọi là bà Ngô Đình Nhu nhũ danh Trần Thị Lệ Xuân.
    Từ ngữ nhũ danh theo nghĩa nói trên đây thật ra không đúng với gốc chữ, và đáng lẽ thay vào đó ta phải dùng chữ bản danh hay nguyên danh tức là tên gốc của một người phụ nữ.
    Chữ nhũ vốn có nghĩa là vú nên theo nghĩa gốc nhũ danh là tên người mang khi còn bú mẹ. Nó đồng một ý với tiểu danh, và chỉ cái tên của đứa trẻ còn bé bỏng.
    B. Tiểu danh hay nhũ danh so với tên chánh.
    Ở Trung Quốc thì đời Xuân Thu trở về trước, tiểu danh hay nhũ danh không phân biệt với tên chánh. Tên này được đặt từ lúc đứa bé được ba tháng và được giữ luôn khi lớn.
    Từ đời Tần (221-207 tr CN), Hán (206 tr CN-220 s CN) về sau, người Trung Hoa mới được đặt cho tên chánh phân biệt với tiểu danh, và khi tên chánh được dùng thì người ta thường giấu biệt tiểu danh không cho ai biết.
    Tuy nhiên, trong thời kỳ này cũng có người giữ tiểu danh hay nhũ danh làm tên chánh luôn, như bà Lữ Hậu (t.v. 187-179 tr CN) giữ tiểu danh Nga Chước ( ) làm tên chánh; vua Quang
    Võ (t.v. 25-58) giữ tiểu danh Tú làm tên chánh.
    Việc nhà vua này giữ tiểu danh làm tên chánh có tánh cách đặc biệt, là vì thời ông lớn lên, có câu sấm nói rằng Lưu Tú sẽ làm vua, nên khi mưu đồ tái lập nhà Hán, ông giữ tiểu danh Tú làm tên chánh cho phù hợp với lời sấm này.
    Ngoài ra, ở Trung Quốc, còn có những người lớn tuổi và thường dùng tên chánh, nhưng vẫn còn được gọi với tiểu danh. Đó là trường hợp Tào Tháo còn được gọi bằng tiểu danh là A Man và Lưu Thiện còn được gọi bằng tiểu danh là A Đẩu.
    C. Cách thức đặt tiểu danh hay nhũ danh.
    Nói chung thì nhũ danh hay tiểu danh biểu lộ lòng yêu mến hết mực của ông bà cha mẹ đối với đứa con trong thời kỳ thơ ấu.
    1. Lòng yêu mến này có thể được thể hiện một cách giản dị bằng những tên chỉ vị trí của đứa con trong gia đình như Năm, Bảy, Út,... hoặc chỉ tánh cách bé bỏng của đứa con như Bé Em, Tý Hon, hoặc chỉ một đặc tánh của đứa con như Lanh, Liến,...
    2. Nó cũng có thể được thể hiện bằng những tên chỉ vật trân bảo như Ngọc, Châu; hay những tên chỉ vật tốt lành, sang trọng, như Phước, Đức, Quyền, Quý. Với các tên này, ông bà cha mẹ đứa trẻ xem nó là bậc phi thường và hy vọng sau này nó sẽ làm nên danh phận.
    3. Nhưng, mặt khác, lòng yêu mến hết mực của ông bà cha mẹ đối với đứa bé cũng có thể được thể hiện bằng những tên xấu xí.
    Người ta có thể dùng tên một con vật thân thuộc như chó nhỏ, mèo con; hoặc những tên chỉ một tánh thật sự không tốt đối với người lớn, nhưng đối với trẻ con thì được dễ dàng dung nạp như xạo, điếm,... Ngoài ra , còn có những tiểu danh rất tục như thằng cu, con hĩm được dùng để gọi những đứa trẻ được thương yêu.
    Một trong những lý do đặt tên xấu cho đứa bé là lòng e sợ rằng mang tên tốt nó có thể bị người khuất mặt dòm ngó khuấy phá và nuôi không được. Với một tiểu danh xấu, ông bà cha mẹ hy vọng rằng đứa bé sẽ được sờn sơ và trưởng thành một cách yên ổn.
    Có những gia đình sanh ra con trai không nuôi được; lúc sanh được đứa con trai khác, ông bà cha mẹ đặt cho nó cái tên dùng để chỉ phụ nữ như xẩm (từ ngữ dùng để chỉ người đàn bà Trung Hoa).
    Các tiểu danh xấu xí dĩ nhiên là không còn được dùng khi người đã thành nhơn. Nếu nó còn được nói đến thì đó là do những kẻ ghen ghét đã mang tên đó nhắc lại để bêu xấu người ấy, như trường hợp Tào Tháo còn bị gán là A Man vì chữ Man có nghĩa xấu là xảo trá, gian giảo.
    II. Tên tự.
    Nếu tục đặt tiểu danh hay nhũ danh phân biệt với tên chánh ngày nay vẫn còn tồn tại ở Trung
    Quốc và Việt Nam thì tục đặt tên tự hiện tại gần như mất hẳn.
    Thật sự thì lúc tục này còn thạnh hành, nó cũng chỉ dành cho những gia đình có học, chớ không phải phổ biến cho mọi hạng người như tiểu danh hay nhũ danh.
    A. Lý do đặt tên tự.
    Sở dĩ người Trung Hoa và người Việt Nam trước đây có tên tự là vì họ theo tục cữ tên chánh. Tục này đã có ở Trung Quốc từ đời nhà Châu (1122-249 tr CN) và được người Trung Hoa các triều đại sau noi theo.
    Phần người Việt Nam thì từ khi bị người Trung Hoa chinh phục và đô hộ rồi chấp nhận ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa thì giới Nho sĩ đã theo tục này.
    Cứ theo tục cữ tên thì chỉ có những người trên trước như ông bà cha mẹ anh chị, thầy, vua và các quan cấp cao hơn người, mới được gọi người bằng tên chánh. Những người khác không được dùng tên chánh của người để gọi người. Những kẻ đồng hàng với nhau chỉ dùng tên chánh để gọi nhau trong trường hợp hai bên rất thân với nhau và có thể đùa bỡn nhau một cách suồng sã.
    Thời trước, việc dùng tên chánh để gọi nhau giữa người đồng hàng như vậy cũng giống như ngày nay, hai người đồng hàng thân thiết với nhau dùng các đại danh từ mày tao để đối thoại với nhau. Về phần người vai vế hay địa vị xã hội thấp hơn thì tuyệt đối không được gọi người trên trước mình bằng tên chánh.
    Chính vì tục cữ tên này mà tên chánh một người cũng được gọi là tên húy, và một trong
    những phép xử thế của người thời trước là "nhập gia vấn húy", nghĩa là khi vào nhà người nào thì phải kín đáo dò hỏi xem người trong nhà đó cữ những tên gì, để tránh không nói đến những tên phải cữ đó trong khi đàm thoại.
    Tên đặt cho một người là để cho kẻ khác dùng để gọi người đó, nhưng một số người lại phải cữ tên đó không được dùng. Tên tự được đặt ra để giải quyết vấn đề này, nó được mọi người dùng để gọi một người khác mà tên chánh cần phải cữ.
    Theo sách Lễ Ký thì tên tự được đặt lúc người 20 tuổi. Ở Trung Quốc thời cổ, con trai bắt đầu đội mão và có thể nhận lãnh một chức vụ, con gái bắt đầu cài trâm và có thể gả chồng; do đó họ phải có tên tự để người khác gọi họ.
    B. Phương pháp đặt tên tự.
    1. Việc đặt tên tự ở Trung Quốc.
    a. Các nguyên tắc căn bản.
    Vì tên tự được đặt ra để gọi thay tên chánh, nên nguyên tắc căn bản lúc khởi thủy là tên tự và tên chánh phải có mối liên hệ với nhau, thành ra như sách Bạch Hổ Thông đã nói "Hễ nghe
    tên chánh thì biết tên tự và nghe tên tự thì biết tên chánh" (Vấn danh tức tri kỳ tự vấn tự tức tri kỳ danh).
    Tuy nhiên, nguyên tắc này thật sự đã không được áp dụng một cách nghiêm chỉnh, nên có nhiều xuất lệ.
    Người Trung Quốc bắt đầu áp dụng tục cữ tên và đặt tên tự từ đời nhà Châu. Lúc ấy, các tên chánh và tên tự phần lớn có sự liên hệ với nhau, và xuất lệ tương đối hiếm có. Trái lại, từ đời Hán về sau, xuất lệ có nhiều hơn, thành ra ngày nay, căn cứ vào tên tự chúng ta có khi rất khó biết được tên chánh của một người.
    Về mặt hình thức thì cho đến đời Tây Hán (206-7 tr CN) tên tự có thể là một tên đơn, một tên đôi hay một tên ba chữ. Từ đời Đông Hán (25-220) trở đi, phần lớn các tên tự là tên đôi, nhưng đời nhà Đường (618-907) lại có nhiều người mang tên tự một chữ(75). Trong các tên tự nhiều chữ, có thể có một chữ dùng để biểu lộ vai vế trong gia tộc, để tỏ ý tôn trọng, hoặc để cho tên được đẹp hơn.
    1/ Từ đời Châu, người Trung Hoa đã có nhiều chữ dùng trong tên tự để biểu lộ vai vế lớn nhỏ của người trong gia tộc. Trong các chữ này, hai chữ Bá và Mạnh đều được dùng để chỉ vai anh, nhưng Bá dành cho dòng đích còn Mạnh thì dành cho dòng thứ.
    Từ đời Hán trở đi, người ta không còn áp dụng qui tắc này một cách nghiêm chỉnh nữa, lại đặt thêm một số chữ mới để biểu lộ vai vế lớn nhỏ của người trong gia tộc.
    Nói chung thì người anh cả có tên tự mang một trong các chữ Bá, Mạnh, Nguyên, Trưởng; người em kế đó có tên tự mang một trong các chữ Thúc, Trọng, Thứ, các em nhỏ hơn có tên mang một trong các chữ Quý, Ấu, Trĩ.
    2/ Về mục đích biểu lộ sự tôn trọng, ta thường gặp trong tên tự các chữ Công, Ông, Phủ, Phụ, Quản, Tử, Thúc, ...
    3/ Việc dùng chữ làm cho tên tự được hoa mỹ đã bắt đầu với đời Hán (206 tr CN-220 s CN) và từ đời Đường (618-907) lại còn được thạnh hành hơn. Các chữ này có thể chỉ thân phận người mang tên tự như Sĩ, Dân; hoặc mô tả hành động người như Khổng, Đại, Cự, Vĩ, Mậu, Huyền; hoặc chỉ một đặc tánh của người như Đức, Thánh, Nghĩa, Huệ, Hiến, Cung, Chánh, v..v...
    Đời nhà Đường, mỹ từ có thể là chữ chỉ người ở ngôi thứ nhất như Dư, Thần (đều có nghĩa là tôi) hoặc ở ngôi thứ hai như Nhữ (anh), Hữu (bạn).
    b. Phép đặt tên tự theo cổ tục.
    Theo cổ tục thì tên tự và tên chánh phải có ý nghĩa liên hệ với nhau. Sự liên hệ này có thể được thể hiện theo 5 cách thức sau đây:
    1/ Tên tự là chữ đồng nghĩa với tên chánh.
    Đời Xuân Thu Chiến Quốc có các ông Tệ Dư (môn đệ Khổng Tử) tự Tử Ngã; Tiểu Hoạch tự Tử Cầm; Công tử Khứ Tật tự Lương; Nhan Hồi tự Uyên. Đời Tam Quốc, có ông Gia Cát Lượng tự Khổng Minh.
    Trong các trường hợp trên đây, tên tự và tên chánh đồng nghĩa với nhau: Dư với Ngã đều có nghĩa là ta hay tôi; Hoạch và Cầm đều có nghĩa là bắt giữ; Khứ Tật là trừ bỏ tật xấu, bịnh hoạn, nên đồng nghĩa với Lương là tốt đẹp lành mạnh; Hồi có nghĩa là nước sâu như Uyên; Lượng với Minh đều có nghĩa là sáng. Các chữ Tử và Khổng được thêm vào chữ đồng nghĩa với tên chánh để tỏ ý tôn trọng hoặc để cho tên tự được hoa mỹ.
    2/ Tên tự là chữ phản nghĩa với tên chánh.
    Đời Xuân Thu Chiến Quốc có các ông Đoan Mộc Tứ (môn đệ Khổng Tử) tự Tử Cống; Triệu Thôi tự Tử Dư; Bốc Thương (môn đệ Khổng Tử) tự Tử Hạ. Đời Đường có ông Hàn Dũ tự Thoái Chi.
    Cống là kẻ dưới đem dâng lên cho người trên, trái nghĩa với Tứ là người trên ban cho kẻ dưới; Dư hàm ý thêm hay thừa, trái nghĩa với Thôi hàm ý giảm thiểu; Hạ là triều đại đối chọi với Nhà Thương; Thoái là lui bước trái nghĩa với Dũ là tiến lên. Các chữ Tử và Chi dùng để tỏ ý tôn trọng hoặc cho tên tự được hoa mỹ.
    3/ Tên tự và tên chánh có ý liên nghĩa với nhau thành ra dựa vào chữ này, ta có thể suy ra chữ kia.
    Đời Xuân Thu Chiến Quốc có ông Nam Cung Quát tự Tử Dung; các ông Công Tử Qui Sanh, Công Tôn Qui Phụ và Công Tôn Qui Sanh đều tự Tử Gia; ông Bá Lý Thị tự Mạnh Minh. Đời Tam Quốc có các ông Quan Võ tự Vân Trường; Châu Du tự Công Cẩn; và Gia Cát Cẩn tự Tử Du.
    Chữ Dung hàm ý dung nạp nên liên nghĩa với Quát hàm ý bao gồm; Gia là nhà nên liên nghĩa với Qui là về; Minh là sáng nên liên nghĩa với Thị là xem; Vân là mây nên liên nghĩa với Võ là cánh chim, Cẩn với Du là hai loại ngọc giống nhau nên người tên Du có tên tự là Cẩn và người tên Cẩn có tên tự là Du. Các chữ Tử, Công thêm trong tên tự dùng để tỏ ý tôn trọng, chữ Mạnh để cho thấy rằng người mang tên tự là người anh cả trong gia đình, chữ Trường dùng để cho tên tự được hoa mỹ.
    Một trường hợp đặc biệt là trường hợp Khổng Tử, ông vốn tên là Khâu, và có tự là Trọng Ni. Chữ Trọng dùng để cho biết rằng ông là người con thứ trong gia đình, chữ Ni cùng với chữ Khâu họp lại làm tên núi Ni Khâu, nơi cha mẹ Khổng Tử cầu đảo mà sanh ra ông, thành ra chữ Khâu được dùng làm tên chánh còn chữ Ni được dùng làm tên tự.
    4/ Tên tự và tên chánh chỉ hai vật, hoặc hai việc, hoặc một vật và một việc, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nên nghe chữ này thì ta liên tưởng ngay đến chữ kia.
    Đời Xuân Thu Chiến Quốc có các ông Nhiên Đơn tự Tử Cách; Chu Trương tự Tử Cung; Tư
    Mã Canh tự Tử Ngưu; Nhiêu Canh tự Bá Ngưu; Biện Trọng Do (môn đệ Khổng Tử) tự Tử Lộ. Đời Tam Quốc có các ông Triệu Vân tự Tử Long; Tôn Sách tự Bá Phù; Tôn Quyền tự Trọng Mưu.
    Cách là tấm da trâu nhuộm màu đỏ để dùng làm giáp, còn đơn là màu đỏ nên nghe chữ Cách người ta liên tưởng đến chữ Đơn; muốn dùng cung phải giương nó lên nên nghe đến Cung thì người ta liên tưởng đến Trương; Ngưu là con bò hay trâu còn Canh là cày và khi nói đến bò hay trâu thì người ta liên tưởng đến việc cày; Lộ là đường đi, Do là chỗ xuất phát, hễ nói đến đường đi thì người ta nghĩ đến chỗ xuất phát; Long là rồng, Vân là mây và rồng thường ẩn trong mây nên khi nghe chữ Long người ta liên tưởng đến Vân; Phù là cái thẻ tre dùng để làm tín hiệu còn Sách là thẻ tre dùng để ghi chép sự việc, thành ra khi nói đến Phù thì người ta liên tưởng đến Sách; Mưu là kế hoạch bày ra để làm cho công việc thành tựu, Quyền nghĩa đen là trái cân, nghĩa bóng là cân nhắc tính toán, nên khi nghe chữ Mưu thì người ta liên tưởng đến chữ Quyền. Chữ Tử dùng để biểu lộ sự tôn trọng, còn Bá dùng để chỉ vai anh, và Trọng dùng để chỉ vai em.
    5/ Tên tự chỉ loại vật chung trong đó tên chánh thuộc vào.
    Đời Xuân Thu Chiến Quốc, các ông Lương (?) Chiên, Dương Thiệt (?) Phụ đều tự Thúc Ngư; ông Khổng (?) Lý (con Khổng Tử) tự là Bá Ngư; các ông Công Tử (?) Phường, Chúc (?) Đà đều tự Tử Ngư; ông Từ (?) Viện tự là Bá Ngọc; ông Trần (?) Quán tự là Tử Ngọc.
    Chiên, Phụ, Lý, Phường, Đà đều là loài cá nên những người mang tên ấy đều dùng chữ Ngư là cá làm tên tự; Viện và Quán đều là ngọc nên những người mang tên ấy đều dùng chữ Ngọc làm tên tự; Hành là tên ngọn núi, nên người mang tên ấy dùng chữ Sơn làm tên tự; Diệm là một loại ngọc, nên người mang tên ấy dùng chữ Trân là vật quý làm tên tự. Chữ Tử dùng để biểu lộ sự tôn trọng, các chữ Bá và Thúc dùng để biểu lộ vai vế trong gia đình của người mang tên tự, còn chữ Tòng và Cảnh dùng để làm cho tên tự được hoa mỹ.
    thienhadebetanhhung
  10. thienhadebetanhhung

    thienhadebetanhhung Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    14/07/2003
    Bài viết:
    350
    Đã được thích:
    0
    c. Phép đặt tên tự theo một số lề lối mới.
    Ngoài các phép đặt tên tự theo cổ tộc như trên đây, người ta còn có những lối đặt tên tự được thêm vào sau này.
    1/ Từ nhà Hán trở đi, người Trung Hoa đã dùng phép lấy các thành phần của chữ Hán dùng làm tên chánh để đặt tên tự.
    Đời (?) có Tống Mai tự Vân Ngọc và Mai Kỳ Linh tự Đại Khả. Chữ Mai ( ) vốn gồm hai chữ Vân ( ) và Ngọc ( ) hợp lại, nên người tên Mai có tự là Vân Ngọc; trong Mai Kỳ Linh, chữ Kỳ ( ) là tên chánh gồm hai chữ Đại ( ) và chữ Khả ( ) hợp lại, nên Mai Kỳ Linh lấy hai chữ Đại Khả làm tên tự.
    Chữ dùng làm tên tự của một người có thể chỉ là một thành phần của chữ dùng làm tên chánh.
    Như đời nhà Tống có Tần Cối tự Hội Chi, chữ Cối ( ) vốn gồm hai chữ Mộc ( ) và Hội ( ) hợp lại, và chữ Hội dùng làm tên tự chỉ gồm một thành phần của chữ Cối.
    Trong các tên kể ra trên đây, Linh trong Mai Kỳ Linh và Chi trong Hội Chi là những chữ đệm thêm vào cho tên được hoa mỹ,
    2/ Cũng từ nhà Hán trở đi, người ta dùng làm tên tự những chữ có liên hệ với chữ dùng làm tên chánh qua một thành ngữ hay điển tích.
    Đời nhà Hán có Ngụy Triết tự Tri Nhơn; Lộc Long tự Tại Điền; Phan Nhạc tự An Nhân.
    Thành ngữ Trung Hoa có câu "Tri nhơn tức triết" (Biết người là triết) nên người tên Triết lấy hai chữ Tri Nhơn làm tự. Hào Cửu Nhị của quẻ Càn trong kinh Dịch có câu "Hiện long tại điền" nên người tên Long lấy hai chữ Tại Điền làm tên tự. Nhạc có nghĩa là hòn núi lớn mà trong sách Luận Ngữ (Ung Dã VI) có câu "Nhân giả nhao sơn" (Người có lòng nhơn thì thích núi) nên người có tên Nhạc lấy hai chữ An Nhân làm tên tự(80).
    3/ Có khi tên chánh của người giống họ, tên chánh, hay tên tự của một danh nhơn, và tên tự của người cũng liên hệ với họ tên chánh hay tên tự của danh nhơn đó.
    Như đời Xuân-Thu có ông Diên Bình Trọng tự Hy Yến; Đời Tống có ông Tống Học Chu tự Dụng Hối.
    Thời Xuân Thu có ông Yến Anh tự Bình Trọng làm Tể tướng nước Tề và có tiếng là một người thanh liêm, trung trực, mẫn cán, lại có tài hùng biện nên rất được mọi người khâm phục. Ông Diên Bình Trọng có tên chánh trùng với tên tự của ông Yến Anh nên lấy tên tự là Hy Yến hàm ý hy vọng sẽ noi được gương của ông Yến Anh.
    Đời nhà Tống có nhà học giả phái Lý Học là Chu Hy tự Nguyên Hối, sau đổi lại làm Hối Trọng. Tên chánh và tên tự của ông Tống Ngọc Chu đều liên hệ đến nhà học giả này; tên chánh có nghĩa là học theo ông ấy và tên tự hàm ý lấy ông ấy làm gương mẫu.
    4/ Với lối đặt tên tự trên đây, tên chánh và tên tự của người có sự liên hệ chặt chẽ với nhau, và nghe tên tự người ta có thể suy đoán ra tên chánh được.
    Đến như lối dùng can chi ngũ hành để đặt tên tự, sự liên hệ giữa tên tự và tên chánh vẫn còn, nhưng khó nhận thấy hơn.
    Từ đời cổ, người Trung Hoa đã đặt ra 10 Thiên can là Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý; và 12 Địa chi là Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Các yếu tố này được dùng để chỉ ngày, giờ, tháng, năm. Ngoài ra, người Trung Hoa còn có quan niệm về ngũ hành là Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ nếu sắp theo thứ tự tương sanh; hay Kim Mộc Thổ Thủy Hỏa nếu sắp theo thứ tự tương khắc. Giữa can, chi, ngũ hành có sự liên hệ mật thiết với nhau.
    Đời Thương Ân, người ta thường lấy can chi của ngày sanh để đặt tên chánh như sanh ngày
    Giáp Tý thì đặt tên Giáp, sanh ngày Mậu Thìn thì đặt tên Mậu. Sang đời Xuân Thu Chiến Quốc người ta mới dùng can chi để đặt cả tên chánh và tên tự.
    Mặt khác, việc áp dụng nguyên tắc can chi ngũ hành vào việc đặt tên chánh và tên tự trở thành phức tạp hơn. Lúc này Âm Dương gia có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng người Trung Hoa, nên việc dùng can chi làm tên chánh và tên tự có khi họ phải tính như thế nào cho hợp với nguyên tắc tương sanh, tránh sự tương khắc, cốt để cho âm dương điều hòa cũng như trợ giúp cho nhau.
    Nói chung, thì người Trung Hoa thời này có thể lấy can của ngày sanh làm tên chánh và chi của ngày sanh làm tên tự. Họ cũng có thể lấy thiên can phối hợp nhau hay thiên can cùng địa chi phối hợp nhau để đặt tên và tự. Trong sự phối hợp này, họ phải tính toán như thế nào cho tên chánh và tên tự thuộc những can có thể cứu giúp nhau.
    Đời Xuân Thu Chiến Quốc có các ông Bạch Bính tự Ất; Thạch Quí tự Giáp Phụ; Công Tri Nhâm Phu tự Tri Tân; Hạ Mậu tự Đinh; Công Tử Giáp tự Quí Phu.
    Hai can Giáp và Ất đều thuộc hành Mộc, nhưng Giáp tánh cương và Ất tánh nhu; hai can Bính và Đinh đều thuộc hành Hỏa nhưng Bính tánh cương còn Đinh tánh nhu; can Mậu thuộc hành Thổ và tánh cương; can Tân thuộc hành Kim và tánh nhu; hai can Nhâm và Quí đều thuộc hành Thủy nhưng Nhâm tánh cương mà Quí tánh nhu.
    Tên Bính tự Ất là lấy ý mộc sanh hỏa và cương nhu giúp nhau. Tên Giáp tự Quí là lấy ý thủy sanh mộc và cương nhu giúp nhau. Các chữ Phu và Tử dùng để tỏ ý tôn trọng người mang tên tự.
    5/ Theo nguyên tắc, tên tự được đặt ra là để dùng thay tên chánh cần phải cữ. Tuy nhiên, từ đời Xuân Thu Chiến Quốc đã có nhiều nhơn vật được gọi bằng tên chánh với tên tự trộn vào nhau.
    Tất cả các nhà viết tiểu sử Khổng Tử đều bảo rằng thân phụ ông là Thúc Lương Ngột; và hiện nay, có lẽ nhiều người đọc tiểu sử Khổng Tử rồi thì tự hỏi tại sao cha là Thúc Lương Ngột mà con không phải là Thúc Lương Khâu mà lại là Khổng Khâu?
    Kỳ thật, thân phụ Khổng Tử tên chánh là Ngột, tên tự là Thúc Lương và đáng lẽ khi nói đến ông, người ta phải bảo rằng ông là Khổng Ngột tự Thúc Lương. Khi dùng tên tự là Thúc Lương đặt trước tên chánh là Ngột, các nhà viết tiểu sử Khổng Tử xưa đến nay đã làm cho chúng ta phải bỡ ngỡ.
    Nhưng việc dùng tên tự trộn với tên chánh để gọi một người có lẽ là một xuất lệ đặc biệt thời Xuân Thu Chiến Quốc. Ngoài trường hợp của thân phụ Khổng Tử vốn là người nước Lỗ, ta còn có thể kể trường hợp của Nam Cung Trường Vạn người nước Tống, và Mạnh Minh Thọ người nước Tần.
    Thật sự thì nhơn vật được bộ Đông Châu Liệt Quốc gọi là Nam Cung Trường Vạn họ Nam
    Cung, tên Vạn, tự Trường; và nhơn vật được gọi là Mạnh Minh Thọ là con Bá Lý Hề, tên là Thọ, tự là Mạnh Minh; ghép tên chánh và tên tự của họ với nhau và gọi là Trường Vạn hay Mạnh Minh Thọ. Các nhà viết sách thời trước đã khiến cho kẻ hậu học tò mò, nhiều lúc phải bối rối, không biết đường nào mà mò.
    Cũng trong chiều hướng chọn tên chánh với tên tự người Trung Hoa thời Xuân Thu Chiến Quốc lại có kẻ đặt tên tự bằng cách thêm vào tên chánh một từ ngữ khác; như ở nước Tề có ông Công Dã Trường tự Tử Trường; nước Lỗ có ông Hữu Nhược tự Thử Nhược; nước Vệ có ông Cú Tĩnh Cương tự Tử Cương.
    Từ nhà Hán trở đi tục này càng thạnh hành. Đời Hán có ông Tạ An mang tên tự là An Thạch. Đời Đường có thi sĩ Đỗ Mục tự là Mục Chi.
    2. Việc đặt tên tự ở Việt Nam.
    Trong việc đặt tên tự, người Việt Nam trước đây đã theo các phương pháp mà người Trung Hoa đã áp dụng. Do đó, ta có thể nhận thấy sự liên hệ giữa tên chánh và tên tự của một số danh nhơn.
    Tuy nhiên, hiện nay, việc tìm hiểu mối liên hệ giữa tên chánh và tên tự một người rất khó khăn vì nhiều lý do.
    Trước hết, vì hiện nay tiểu sử các danh nhơn đã được viết theo chữ Quốc ngữ, nên khi đọc tên chánh và tên tự của họ chúng ta khó hiểu đúng nghĩa của tên ấy, không như ta đọc các tên ấy bằng Hán văn.
    Mặt khác, có khi giữa tên chánh và tên tự một người có sự liên hệ chặt chẽ rõ rệt, nên dầu có đọc các tên ấy bằng Hán văn chúng ta vẫn không biết chắc được vì sao nhơn vật đó có những tên chánh và tự như vậy.
    Sau đây là một số trường hợp trong đó tên chánh và tên tự có sự liên hệ rõ rệt:
    a. Trường hợp tên chánh và tên tự đồng nghĩa với nhau.
    Chúng tôi đã được ngoại tổ đặt cho tên tự là Trọng Minh, vì chữ Minh vốn có nghĩa là sáng cũng như chữ Huy; và Trọng dùng để cho biết rằng chúng tôi là con trai thứ chớ không phải là con trai trưởng.
    Xét tên chánh và tên tự các danh nhơn Việt Nam, chúng ta có thể nhận thấy nhiều trường hợp tương tự.
    Nhà chí sĩ cuối đời Trần, Lê Cảnh Tuân, tác giả bức Vạn Ngôn Thư nổi tiếng, gởi cho ông Bùi Bá Kỳ, là người đã yêu cầu nhà Minh đánh Việt Nam, sau khi Hồ Quí Ly cướp ngôi, với hy vọng khôi phục lại nhà Trần, vốn có tên tự là Tử Mưu. Ông Nguyễn Trực (1417-1473) đỗ Trạng nguyên năm 1442 đời vua Lê Thái Tông có tên tự là Công Đĩnh. Ông Lê Quí Đôn (1726-1784) nhà bác học đời Hậu Lê, đã trước tác nhiều tác phẩm nổi tiếng, có tên tự là Doãn Hậu. Ông Phạm Huy Ôn (1755-1786) đỗ Tiến sĩ năm 1779 có tên tự là Hòa Phủ. Ông Nguyễn Đăng Tuân (?-1843) danh sĩ triều Nguyễn vốn là thầy học vua Thiệu Trị (t.v. 1841-1847) có tên tự là Tín Phu. Nhà chí sĩ thời Pháp mới đến Việt Nam là Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) có tên tự là Mạnh Trạch.
    Các tên chánh và tên tự của các nhơn vật trên đây đều đồng nghĩa với nhau, vì chữ Tuân trong
    Lê Cảnh Tuân có nghĩa là mưu kế. Trực với Đĩnh đều có nghĩa là ngay thẳng. Đôn với Hậu đều có nghĩa là dày dặn. Ôn với Hòa hàm nghĩa êm đềm, không nóng nảy, không xung đột với người khác. Chữ Tuân trong Nguyễn Đăng Tuân có nghĩa là tin thật như chữ Tín. Còn Chiểu với Trạch đều có nghĩa là ao đầm. Các chữ Từ, Công, Doãn, Phu, Phủ dùng để biểu lộ sự tôn trọng hay để làm cho tên tự được hoa mỹ.
    Một trường hợp đáng lưu ý là tên tự của hai nhà học giả thời Pháp mới đến Việt Nam là Trương Vĩnh Ký (1837-1898) và Trương Minh Ký. Các sách Quốc ngữ nói về hai ông này đều ghép là ông Trương Vĩnh Ký tự là Sĩ Tải và ông Trương Minh Ký tự là Thế Tải.
    Sự thật, chữ Hán đọc là Tải và có nghĩa là chuyên chở, như trong từ ngữ vận tải, khi đọc là Tái thì có nghĩa là ghi chép như chữ Ký. Bởi đó ta phải nói rằng ông Trương Vĩnh Ký có tên tự là Sĩ Tái và ông Trương Minh Ký có tên tự là Thế Tái; và các tên tự được đặt theo lối dùng chữ đồng nghĩa với tên chánh, kèm theo một chữ dùng để làm cho tên tự được hoa mỹ là Sĩ hay Thế.
    b. Trường hợp tên chánh và tên tự có ý nghĩa liền nhau.
    Danh thần nhà Trần, Trương Hán Siêu (?-1354) có tên tự là Thăng Phủ. Ông Đàm Văn Lễ (1451-1504) đổ Tiến sĩ năm 1469 đời vua Lê Thánh Tông và là một hội viên của hội Tao Đàn thời đó có tên là Hoằng Kính. Ông Nguyễn Thật (?-1637) đỗ Tiến sĩ năm 1594 đời vua Lê Thế Tông và là một trọng thần đời Hậu Lê Trung Hưng có tên là Phác Phủ. Ông Phan Huy Ôn (1755-1786) lúc mang tên Uông có tên tự là Trọng Dương. Ông Lê Quang Định (1760-1813), một công thần của vua Gia Long có tên tự là Tri Chỉ. Ông Nguyễn Hàm Ninh (1808-1867), danh sĩ triều Nguyễn và là thầy học vua Thiệu Trị có tên tự là Thuận Chi. Ông Đinh Nhật Thận đỗ Tiến sĩ năm 1838 đời vua Minh Mạng, tác giả bài Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm có tên tự là Tử Úy. Ông Lê Ngô Cát (1827-1876) tác giả quyển Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca có tên tự là Bá Hanh.
    Sự liên hệ ý nghĩa của các tên chánh và tên tự trên đây có thể nhận thấy rõ ràng: Siêu hàm ý vượt lên trên nên liền nghĩa với Thăng là tiến lên chỗ cao hơn; Kính là dáng điệu nghiêm chỉnh tỏ ý tôn trọng người khác nên liền nghĩa với Lễ là qui tắc cư xử của người quân tử đặt nền tảng trên sự biểu lộ sự tôn trọng đối với người khác; Phác là chơn chất, không trau chuốt, nên liền nghĩa với Thật là chơn thành, không dối trá; Dương là biển liền nghĩa với Uông là nước sâu rộng; Tri Chỉ là biết dừng lại ở chỗ phải dừng, một đức tánh của người học theo đạo quân tử, do đó hai chữ này ghép lại liền nghĩa với chữ Định là ngưng yên một chỗ; Ninh có nghĩa là thả và hàm ý chấp nhận một việc gì nên liền nghĩa với Thuận là nghe theo, đi theo; Cát là tốt đẹp, là điều phúc, điều lành nên liền nghĩa với Hạnh là may mắn được trời cho làm
    việc gì cũng thông suốt không bị cản trở.
    Các chữ Phủ, Hoằng, Chi, Tử được thêm vào để tỏ ý tôn trọng hoặc để cho tên tự được hoa mỹ. Chữ Bá hàm ý rằng người mang tên tự là con trưởng. Chữ Trọng hàm ý rằng người mang tên tự là con thứ trong gia đình.
    thienhadebetanhhung

Chia sẻ trang này