1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lược sử tên họ người Việt

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi nguyenthanhchuong, 07/06/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. thienhadebetanhhung

    thienhadebetanhhung Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    14/07/2003
    Bài viết:
    350
    Đã được thích:
    0
    c. Trường hợp tên chánh và tên tự là những vật hay việc có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
    nên nghe chữ này thì ta liên tưởng ngay đến chữ kia.
    Ông Ngô Thời Sĩ (1726-1780), một danh sĩ làm quan thời Hậu Lê Trung Hưng có tên tự là Thế Lục. Ông Phạm Quí Thích (1760-1825) một di thần nhà Hậu Lê, sau ra làm quan với nhà Nguyễn, và là tác giả bài Tựa Truyện Kiều của Nguyễn Du, có tên tự là Dữ Đạo. Ông Phạm Đình Hổ, một danh sĩ khác của nhà Hậu Lê và là tác giả quyển Vũ Trung Tùy Bút có tên tự là Tùng Niên. Nhà chí sĩ nổi danh Phan Bội Châu (1867-1940) có tên tự là Hải Thu. Và nhà chí sĩ Dương Bá Trạc (1884-1940) có tên tự là Tuyết Huy.
    Các tên chánh và tên tự kể trên đây chỉ những vật hay những việc có mối quan hệ làm cho ta nghe tên này thì liên tưởng đến tên kia: Thế Lực là tiền bạc của cải vua ban cho quan suốt đời, Sĩ là làm quan, nên nghe đến hai chữ Thế Lực người ta liên tưởng đến chữ Sĩ; Dữ Đạo có nghĩa là cùng người khác nói về đạo lý, còn Thích là giảng giải, nên nghe nói đến hai chữ Dữ Đạo người ta liên tưởng đến chữ Thích; Hổ là hổ phách, còn Tùng Niên thì có nghĩa là tuổi của cây tùng, vì Hổ Phách vốn do nhựa của cây tùng lâu năm biến thành nên nghe nói đến Tùng Niên thì người ta liên tưởng đến Hổ Phách; Châu là hột ngọc sanh ở trong mình con trai sống ở biển, Hải Thu là vật thâu được từ trong biển nên nghe nói đến Hải Thu người ta liên tưởng đến Châu; Trạc có nghĩa là rửa sạch, Tuyết Huy là ánh sáng của tuyết, hàm ý trắng trẻo, trong sạch, nên nghe nói đến hai chữ Tuyết Huy người ta liên tưởng đến Trạc là việc rửa cho sạch.
    d. Trường hợp tên tự viết theo chữ Hán là thành phần của tên chánh viết theo chữ Hán.
    Ở Nam Việt trước đây có nhiều bộ truyện Tàu được dịch ra Việt ngữ như Phong Thần diễn nghĩa, Tây Du diễn nghĩa,... với một lời văn rất điêu luyện và những bài thơ rất hay. Dịch giả các bộ truyện này là ông Trần Phong Sắc. Theo chúng tôi được biết, Phong Sắc là tên tự của ông và tên chánh của ông là Diễm, ông sở dĩ lấy tên tự như vậy là vì chữ Diễm viết theo Hán tự ( ) gồm hai chữ Phong ( ) và Sắc ( ) ghép lại với nhau.
    đ. Trường hơp tên chánh và tên tự có liên hệ nhau qua những thành ngữ hay điển tích.
    Ông ngoại chúng tôi là Trần Minh Đức và có tên tự là Nhuận Thân, cậu chúng tôi là Trần Minh Giáo thì có tên tự là Kính Phu. Các tên tự trên đây đều có liên hệ với tên chánh qua kinh sách Nho gia.
    Trong sách Đại Học có câu "Phú nhuậnốc đức nhuận thân", nghĩa là sự giàu có làm cho nhà ở tốt đẹp, còn đức hạnh làm cho thân người tốt đẹp. Trong kinh Thư có câu "Kính phu ngũ giáo", nghĩa là kính cẩn phô bày năm điều giáo hóa tốt cho dân theo. Người có học trước đây nghe tên tự Nhuận Thân thì nhớ đến câu "Đức nhuận thân" và suy ra tên chánh là Đức; nghe tên tự Kính Phu thì nhớ đến câu "Kính phu ngũ giáo" và suy ra tên chánh là Giáo.
    Xét tên chánh và tên tự của một số nhơn vật Việt Nam chúng ta có thể nhận thấy nhiều trường hợp tương tự.
    Một danh thần triều Nguyễn là ông Phạm Đăng Hưng (1765-1825), thân phụ bà Thái hậu Từ Dũ, là vợ vua Thiệu Trị, có tên tự là Khiết Củ. Ông Trương Quốc Dụng (1797-1864) đỗ Tiến sĩ năm 1829 đời vua Minh Mạng và làm quan dưới đời ba vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức có tên tự là Dĩ Hành. Ông Phan Thanh Giản (1796-1867) đỗ Tiến sĩ năm 1826 đời vua Minh Mạng và là đại thần của triều Nguyễn, có tên tự là Đạm Như. Ông Phạm Phú Thứ (1820-1881) đỗ Tiến sĩ năm 1843 đời vua Thiệu Trị và làm quan dưới đời hai vua Thiệu Trị và Tự Đức có tên tự là Giáo Chi. Thời Pháp thuộc nhà học giả nổi tiếng Bùi Kỷ có tên tự là Ưu Thiên. Một học giả nổi tiếng khác là Đào Trinh Nhất có tên tự là Quán Chi.
    Các tên tự kể trên đây đều được đặt theo phương pháp dựa vào kinh điển Nho giáo. Cứ theo sách Đại Học thì "Thượng lão lão nhi dân hưng hiếu, thượng trưởng nhi dân hưng để, thượng tuất cô nhi dân bất bội, thụ dĩ quân tử hưu khiết củ chi đạo dã" (Bề trên tôn trọng người già cả thì người dân ở dưới noi lên theo đạo hiếu, bề trên tôn trọng người lớn tuổi hơn mình thì người dân ở dưới noi lên theo đạo để, bề trên cứu giúp trẻ con côi cút thì dân không ăn ở bội bạc, cho nên người quân tử có cái đạo làm mẫu mực cho người khác).
    Do đó, khi nghe nói tới tên tự Khiết Củ làm mẫu mực người ta nhớ đến câu trên đây và biết rằng người mang tên tự đó có tên chánh là Hưng. Trong sách ?... có câu "Dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng" (Bề trên dùng ta thì ta ra làm việc, bề trên bỏ ta thì ta đi ở ẩn). Do đó, nghe tên tự Dĩ Hành nghĩa là đã ra làm việc, người ta nghĩ đến chữ Dụng và suy ra tên chánh. Sách Trung Dung lại có câu "Quân tử chi đạo đạm nhi bất yếm, giản nhi văn ôn nhi lý" (Đạo của người quân tử lạt mà không chán, bình dị mà có văn vẻ, ôn hòa mà hợp lý); vậy Đạm (lạt) và Giản (bình dị) là hai tánh cách đặc thù của đạo người quân tử; người thuộc kinh điển Nho giáo nghe tên tự Đạm Như thì nghĩ đến câu nói trên đây trong sách Trung Dung và suy ra tên chánh của người là Giản.
    Mặt khác, trong sách Luận Ngữ (Tử Lộ XIII) có chép lại rằng khi học trò sang nước Vệ, Khổng Tử đã khen nước này dân chúng đông đảo (thư). Học trò ông là Nhiệm Hữu hỏi dân đã đông rồi thì nên làm gì thêm nữa? Ông trả lời: Làm cho họ giàu (phú chi). Nhiệm Hữu lại hỏi: Dân đã giàu rồi thì nên làm gì thêm nữa? Ông trả lời: Dạy họ (giáo chi).
    Vì dựa vào điển tích này mà ông Phạm Phú Thứ lấy tên tự là Giáo Chi; nghe đến tên tự Giáo Chi, người biết câu chuyện trên đây nghĩ ngay đến hai chữ Phú và Thứ và đoán ra tên chánh của ông là Phú Thứ.
    Về ông Bùi Kỷ thì tên tự Ưu Thiên rút ra từ các sách Liệt Tử và Tả Truyện. Theo các sách này thì nước Kỷ có người lo xa, suốt ngày cứ sợ trời sập xuống chôn mình chết. Người thuộc kinh điển nghe đến tên tự Ưu Thiên là lo sợ trời sập thì nghĩ đến người nước Kỷ và biết rằng
    người mang tên tự đó có tên chánh là Kỷ.
    Tên tự Quán Chi của ông Đào Trinh Nhất rút ra từ câu nói của Khổng Tử trong sách Luận Ngữ (Lý Nhân IV): "Ngô đạo nhất thôi". Nghe đến hai chữ Quán Chi thì người ta nghĩ đến câu này và suy đoán được rằng người mang tên tự Quán Chi phải có tên chánh là Nhất.
    e. Trường hợp tên chánh và tên tự có liên hệ đến họ và tên của một danh nhơn.
    Thân phụ chúng tôi tên là Nguyễn Ngọc Hứa, và mang tên tự là Sanh Dương. Nguyên đời Đường có ông Hứa Sanh Dương là một lãnh tụ Đạo giáo.
    Ngoài ra, ta còn được biết con ông Phan Đình Phùng tên Phan Đình Cừ có tên tự là Bá Ngọc. Tên chánh và tên tự này có liên hệ đến ông Cử Viện tự Bá Ngọc là một ?...
    g. Trường hợp tên tự và tên chánh thêm vào một từ ngữ khác.
    Đó là trường hợp ông Lý Tấn tức Nguyễn Tấn (1378-1387) đỗ Thái học sinh năm 140 đời Hồ Quí Ly; ông gốc họ Lý, nhưng vì đời Trần họ Lý phải đổi thành họ Nguyễn, nên ban đầu ông được biết với tên là Nguyễn Tấn. Ông đã theo Bình Định Vương khởi nghĩa chống quân Minh; rồi làm quan cho nhà Hậu Lê dưới đời các vua Thái Tổ, Thái Tông và Nhân Tông; và trong thời kỳ này vì chữ Lý đã không còn kỵ húy nữa nên ông trở về với họ Lý và được biết dưới tên Lý Tấn.
    Xét hết các cách đặt tên tự trên đây của người Việt Nam ta có thể nhận thấy rằng hầu hết các cách đặt tên tự của người Trung Hoa đã được áp dụng ở Việt Nam, trừ ra ba cách: Tên tự phản nghĩa với tên chánh; tên tự với tên chánh cùng chỉ một loại vật chung nhau; và tên tự với tên chánh dựa vào can chi và ngũ hành.
    III. Tên hiệu
    Ngoài nhũ danh, tên chánh và tên tự, người thời trước còn có một hay nhiều tên hiệu.
    Hiện nay cũng có một số người Việt Nam còn dùng tên hiệu ngoài tên chánh.
    A. Lý do đặt tên hiệu.
    1. Nhũ danh, tên chánh và tên tự của người vốn do người trên trước của người như cha mẹ, ông bà, thầy học hay nhà vua đặt cho người. Người có thể tự mình đổi các tên đó, nhưng không mấy khi người làm như vậy. Đối với đa số, người muốn tự do chọn lựa một cái tên cho mình, phương pháp hay nhứt là dùng tên hiệu.
    Trong việc tự đặt tên hiệu, người có thể biểu lộ ý muốn, sở thích, nguyện vọng hay sự tự hào về một đức tánh hay một đặc điểm của mình. Ngoài một tên hiệu chánh, người còn có thể có thêm biệt hiệu và ngoại hiệu, bởi đó, một người có thể mang nhiều tên hiệu khác nhau.
    2. Đối với những người có tên tuổi lớn, người khác có thể đặt hiệu để gọi thay cho tên chánh hay tên tự của họ.
    Việc dùng hiệu như vậy thường được biểu lộ lòng tôn kính người được nói đến, vì gọi một người bằng hiệu như vậy có tánh cách long trọng hơn là gọi người ấy bằng tên tự của ông ta.
    Nhưng việc đặt hiệu cho người có tên tuổi cũng có thể dùng để biểu lộ sự thích mến hay trái lại, dùng để chế giễu người ấy.
    Các tên hiệu biểu lộ đặc tánh của người, dầu để tôn xưng hay để chế giễu, được gọi là ngoại hiệu hay xước hiệu.
    B. Phương pháp đặt tên hiệu.
    1. Việc đặt tên hiệu ở Trung Quốc.
    Nói chung thì việc đặt tên hiệu thường thực hiện một cách tự do nên không có qui tắc gì đặc biệt. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận thấy rằng ngoài việc biểu lộ ý muốn, sở thích, nguyện vọng, một đức tánh hay một đặc điểm của một người, tên hiệu còn có thể dựa vào một vài yếu tố làm gốc và có một vài nét đặc thù.
    a. Các yếu tố làm gốc cho việc đặt tên hiệu.
    1/ Trước hết là quê quán hay nơi cư trú của người, hoặc một đặc điểm của nơi cư trú đó.
    Ông Tôn Văn vốn là người thuộc huyện Trung Sơn nên đã lấy hiệu là Trung Sơn. Ông Khương Hữu Vi trú quán ở Nam Hải nên có hiệu là Nam Hải. Thi sĩ Đỗ Phủ đời Đường có ở đất Đỗ Lăng nên mang hiệu là Đỗ Lăng Bố Y, nghĩa là người mặc áo vải ở Đỗ Lăng. Văn hào Tô Thức đời Tống lúc ở Hoàng Châu thì làm nhà ở sườn núi phía đông nên lấy hiệu là Đông Pha cư sĩ. Nhà thi sĩ đời Tấn là Đào Tiềm có trồng năm cây liễu ở trước nhà mình nên mang hiệu là Ngũ Liễu tiên sinh(84).
    2/ Quan chức hay tước của người cũng được dùng để đặt tên hiệu.
    Thi sĩ Đỗ Phủ đời Đường đã làm chức Viên Ngoại Lang ở bộ Công nên được gọi là Đỗ Công Bộ; ông Gia Cát Lượng tự Khổng Minh, Thừa Tướng nước Thục được phong tước Võ Khanh Hầu nên cũng được người ta gọi là Gia Cát Võ Hầu.
    3/ Về xước hiệu, chúng ta thường gặp trong các bộ truyện võ hiệp.
    Các nhơn vật trong bộ Thủy Hử, phần lớn đều có ngoại hiệu hay xước hiệu, như Tống Giang được đặt xước hiệu là Cập Thời Võ Nghi là Mưa Phải Lúc vì ông sẵn sàng giúp đở các bạn trong giới giang hồ những lúc họ có nhu cầu; Lý Quỳ người đen đúa mà có sức mạnh, lại nóng nảy, lỗ mãng nên có ngoại hiệu là Thiết Ngưu (bò sắt hay trâu sắt) mà cũng được gọi là Hắc Toàn Phong nghĩa là Gió Lốc Đen.
    Trong các truyện võ hiệp của Kim Dung, ta cũng thấy có nhiều ngoại hiệu hay xước hiệu dùng để biểu lộ tài nghệ hay đặc tánh của một nhơn vật, năm vị bá chủ trong võ lâm có xước hiệu là Trung Thần Thông, Đông Tà, Tây Độc, Bắc Cái, Nam Đế hay Nam Tăng; Bang chủ Thiết Chưởng Bang là Cừu Thiên Nhận, vì có thuật khinh công cao nên mang xước hiệu là Thủy Thượng Phiên(?).
    b. Các nét đặc thù trong việc đặt tên hiệu.
    1/ Người Trung Quốc có thể đặt xước hiệu cho mọi người. Ngay đến các vua chúa cũng bị họ đặt cho xước hiệu, như vua Tống Nhân Tông (t.v. 1023-1064 ) vì không thích đi giày nên đã bị đặt cho xước hiệu là Xích Cước Đại Tiên, tức là ông Đại Tiên Chơn Trần.
    2/ Khác với nhũ danh, tên chánh hay tên tự, tên hiệu có thể gồm rất nhiều chữ. Viên danh tướng nhà Thanh là Tăng Quốc Phiên đã có một tên hiệu rất dài là Dưỡng Đức Dưỡng Thân Miên Miên Mục Mục Chi Thất, nghĩa là cái nhà dùng làm nơi nuôi dưỡng đức tốt và thân thể một cách lâu dài và tốt đẹp.
    2. Việc đặt tên hiệu ở Việt Nam.
    Người Việt Nam đã theo người Trung Hoa trong việc đặt tên hiệu, và tại Việt Nam, chúng ta thấy có đủ các loại tên hiệu ở Trung Quốc.
    a. Tên hiệu do người tự đặt cho mình.
    Các nhà nho Việt Nam trước đây phần lớn đều có tên hiệu do họ tự đặt, có khi một người mang nhiều tên hiệu khác nhau với danh nghĩa là hiệu và biệt hiệu.
    Nghiên cứu tên hiệu của các danh nhơn, chúng ta nhận thấy một vài yếu tố chung sau đây.
    1/ Một số tên hiệu đã nói đến một địa phương, chỗ sinh quán, hay chỗ người mang tên hiệu đó thích ở.
    Ông Nguyễn Phi Khanh đỗ Tiến sĩ năm 1475 đời Trần Duệ Tông và là thân phụ ông Nguyễn Trãi có hiệu là Nhị Khê vì ông đã đến ngụ cư làng Nhị Khê , thuộc huyện Thượng Phúc, phủ
    Thường Tín, tỉnh Hà Đông.
    Ông Nguyễn Nghiễm đỗ Hoàng giáp năm 1731 và làm quan cho nhà Hậu Lê có biệt hiệu là Hồng Ngự cư sĩ vì ông ngụ cư ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh, và vùng ông ở có dãy núi Hồng Lãnh.
    Con ông là thi hào Nguyễn Du (1765-1820) tác giả Truyện Kiều thì có biệt hiệu Hồng Sơn Liệp Hộ, có nghĩa là người săn bắn ở núi Hồng, vì trong thời kỳ chống lại nhà Tây Sơn (1788-1802) ông đã về ở quê nhà tại Tiên Điền.
    thienhadebetanhhung
  2. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Bài này ở bên LSVH đã lâu mà không ai tham gia, tôi xin gửi qua cho bác Le_Professionel và bác home@ phát triển tiếp nhé.
    Chúc các bác vui vẻ.

Chia sẻ trang này