1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lượm lặt từ điển Anh-Việt.

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi Tran_Thang, 14/03/2013.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    [​IMG]
    Lần cập nhật cuối: 14/02/2014
  2. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    TƯ CÁCH NGƯỜI LÍNH HAY DANH DỰ CUỐI CÙNG ?

    Tên lính Nhật Hiroo Onoda này đã không tin Nhật Hoàng đã đầu hàng đồng minh và nước Nhật đã trở thành cường quốc kinh tế. Hắn thà chịu gian khổ đói rét, một mình ẩn náu suốt 30 năm trong rừng trên đảo Lubang của Philippin...Nhưng rồi người ta cũng thuyết phục được hắn nhìn ra thế giới. Hắn là kẻ rừng rú man rợ hay là người lính kiên cường trong một thân hình ốm đói...???

    [​IMG]

    C
    hính thức đầu hàng:

    [​IMG]
  3. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    Mấy cái vụ ngoại cảm này người ta đã không biết cách xử lí, để đám báo chí chì chiết bét nhầy. Chẳng ai lạ gì đám báo chí, chủ yếu chỉ khai thác tâm lí xã hội...Sao mấy đài truyền hình trung ương không làm hẳn một bộ phim truyện về vấn đề này, như phim Hollywood "Hồn Ma" chẳng hạn...

    Về vấn đề này tớ có cách lí giải theo 3 luận điểm sau:

    1. Mọi tôn giáo đều nói về cái chết, về thế giới "bên kia".

    2. Theo Lacan thì tiềm thức con người cũng được xây dựng bằng ngôn ngữ, mà ngôn ngữ chính là cổng vào cộng đồng xã hội, một khi đứa bé biết ngôn ngữ thì nó vĩnh viễn tách biệt khỏi thế giới tức điều Thực (the Real).

    3. Đa số các tôn giáo đều xem tu tập là thoát khỏi những luật lệ xã hội mà dục vọng con người dựa vào đó để mưu lợi, tất thảy những gì thuộc về xã hội con người đều được xem là "bụi trần" cần phải giũ sạch. Đây chính là hướng chung giữa người chân tu và người đã khuất, tại "vùng" này họ có thể "gặp" nhau, tức hiện tượng ngoại cảm. Đặc biệt tôn giáo như Phật giáo có đề cập cái mà tớ tạm gọi là "giải trừ ngôn ngữ" có thể liên quan đến việc khai thác những khả năng tiềm thức...

    [​IMG]

    Hình ảnh trong phim Hollywood "Hồn Ma".
    [​IMG]
  4. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    Bà già tớ năm nay cũng 80 rồi, hơi lẫn chút, thỉnh thoảng vẫn nhắc chuyện ông anh liệt sĩ (nhà tớ đến 9 người, tớ là út), nói xưa ổng rất thích bài hát "Việt Nam trên đường chúng ta đi". Cũng thỉnh thoảng mấy đứa bà con mồm mép vào nhắc toàn chuyện lớn lao làm bả xúc động...Má có nhắc chuyện gặp...hồn ma. Có một cô hàng xóm vẫn thường cùng má dạy sớm làm hàng bán, cổ bệnh chết. Mấy hôm sau má đang ngồi lúi húi thì thấy vai mình lành lạnh, quay sang thì thấy cổ ...đứng ngay bên cạnh. Má hốt hoảng la lên...

    Hồi đó ở Campuchia bộ đội miền bắc cũng nhiều. Toàn lính gốc Hanoi, Nam Định, Nghệ An. Mấy chú Hanoi hay trăng hoa thì chuyển đi sớm, chỉ còn Nam Định (hay người vùng giữa Nam Định và Thái Bình, có giọng bắc khá chuẩn), Nghệ An. Thanh niên Nghệ An xưa không khác mấy bây giờ, vừa nho nhã, tỉ mủn vừa sĩ diện hợm hĩnh. Có một chú tên Nhiệm hay diện bảnh, chải đầu, bỏ áo thùng đút tay túi dẫn bọn nhóc chụp hình (hình hồi đó có cạnh răng cưa, tiếc là nhà tớ đánh lạc mất). Cứ bức ảnh nào không vừa ý thì trả tiền và ...xé ngay tại tiệm, chụp lại. Sổ sách các chú thường vẽ hình một chiếc máy bay bị bắn cháy đang lao xuống. Nói chung thị trấn này khá bình yên, trù phú. Khi về vùng Tây Ninh nhà vẫn còn giữ một cuốn tập viết bìa có vẽ Thiệu, Kỳ, Hương đang ngậm bút. Năm 80 mới lên Saigon...Việt kiều lập dân quân hẳn hòi. Nghe kể có lần dân quân nghe tin có hai anh bộ đội bị hy sinh bị địch cho xe tăng cán qua, họ liền đến chôn cất...Có một bà lão, phải gọi là phú nông vùng này, có vườn cây bát ngát, rất khó tính, trẻ con thường vào hái trộm trái cây...Bà cụ có nhận một anh bộ đội tên Đức làm con nuôi. Sau giải phóng mọi người đều trách móc, hòa bình mấy năm mà không thấy chú Đức vào thăm bà cụ...Cả chú Nhiệm cũng chẳng thấy ghé, không biết các chú có ra mặt trận phía bắc không. Chỉ còn một chú tên Đạt thường ghé nhà chơi, nhưng rồi cũng nghe tin báo chú hy sinh ở biên giới Tây Nam...
    Lần cập nhật cuối: 28/02/2014
  5. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    Huy Đức: Bên nào thắng cuộc thì chúng tôi cũng nhận được tiền, thậm chí nhiều tiền!

    [​IMG]
    Lần cập nhật cuối: 15/03/2014
  6. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    [​IMG]
  7. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193

    Văn Học có còn duyên?


    [​IMG]

    Hai quan điểm:

    Văn Học là mô tả thế giới.
    Văn Học là một cái gì đó kết nối mọi người.

  8. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    Tham khải một bài mà tớ dịch mấy năm trước:
    http://www.crvp.org/book/Series03/III-13/chapter_ix.htm

    ĐẠO CỦA SỰ KHÁC BIỆT: CHỦ NGHĨA GIẢI CẤU TRÚC TRANG TỬ.
    She Bipeng

    Trong cuộc thảo luận về ngôn ngữ, Trang Tử thường sử dụng từ “lý sự” (dispute). Về từ nguyên học, “lý sự”liên quan đến “vi biệt”, giữa là “gươm” và “để phân biệt”. Từ khắc trên biểu diễn thanh gươm (sword) cắt một vật thành 2. Vì thế, trong đạo giáo của Trang Tử (Taoism), “lý sự” hàm ý “sử dụng ngôn ngữ để phân biệt hoặc phân tích”. Như hầu hết nhà triết học cùng thời tiền –Tần, Trang Tử cũng xem ng'ngữ như công cụ phân loại và phân biệt hiện thực một cách có hệ thống.

    Trong các thời đại này, ngôn ngữ thường được thay thế bằng “danh tính” (names) vì ngôn ngữ chứa đựng “danh tính” mà chức năng của nó là biểu thị những sự vật trần tục và điều kiện của chúng. Đặt tên một sự vật là chỉ ra khác biệt giữa sự vật này với các sự vật khác và để khám phá tồn tại lệ thuộc của nó. Theo quan điểm Trang Tử, những vấn đề liên quan là việc tạo nghĩa của ngôn ngữ và tác động của nó lên giác quan con người. Liên quan lớn nhất làlưỡng phân ngôn ngữ hoặc thuyết nhị nguyên khái niệm (dichotomy of language or conceptual dualism).

    Theo đạo giáo của Trang Tử, ngay khi thế giới được phân loại và phân tích bởi thuyết nhị nguyên khái niệm – có/không, tốt/xấu, sống/chết, đẹp/ xấu, được/mất, thắng/bại, thêm/bớt, dài/ngắn, to/nhỏ, v.v – sử dụng những cái tên này trong tiềm thức dẫn ta đến việc xét đoán tức thời về giá trị dẫn đến cách hành động riêng của ta. Hệ quả của của thuyết nhị nguyên k’niệm này là “sự thiên vị” (preferenc) hay “dục vọng”(desire). Con người luôn theo đuổi cái gọi là “tốt” (good) và loại trừ “xấu” (evil). Đáp ứng dục vọng ta cảm thấy tự mãn, ngược lại thất bại sinh thất vọng và nỗi khổ.

    Quá trình “thiên vị” “tham vọng” này là một vòng lẩn quẩn với những ràng buộc mâu thuẫn: vui mừng và giận dữ, u buồn và hạnh phúc, thận trọng và hối tiếc, chợt đến với ta tuần tự, luôn thay đổi trạng thái (trong “Identity of contraries”). Con người bị điều khiển bởi những khái niệm nhị nguyên này. Như Trang Tử nói: “trong đấu tranh giữa bình lặng và náo động, sự va chạm giữa thiện và ác, chỉ thêm lửa hủy diệt sự hài hòa bên trong của con người. Nhưng trí tuệ ta không thể chống lại ngọn lửa ấy. Nó bị phá hủy, cùng với nó, Đạo cũng kết thúc” (Contingencies).

    Trong mọi loại dục vọng, Trang Tử xem “dục vọng về đạo đức” (desire of morality) là nguy hiểm nhất. Các nhà tr’học luôn căn cứ vào những khái niệm nhị nguyên về thiện/ác, đúng/sai, thật/giả. Trang Tử đã nhạo báng họ, cho rằng: “một cách khách quan, ta ý thức về một sự phân định giữa đúng/sai, quan hệ/ràng buộc, phân chia/phân biệt, thi đua/cạnh tranh. Ta gọi những điều này là Tám điều khả kiến" (Eight Predicables).

    Đặc biệt, ông phê bình giáo điều Khổng Tử. Ý tưởng trọng tâm của Khổng giáo có thể qui giảm về khái niệm “nhân đức”(benevolence). Nghĩa là “con người”: gồm tính người và những tương quan với luật lệ Thượng giới. Ý tưởng về “nhân đức” là “nghi thức” (etiquette)“trí thức” (intellect), dĩ nhiên bao hàm luôn chính sự “nhân đức”. Từ 4 đức tính này, môn đồ Khổng giáo phát triển thành phép phân loại danh xưng phức tạp, bao gồm “chân thật”, “tin tưởng”, “trung thành” và “hiếu thảo”, vv. Theo quan điểm của các Nho sĩ sự hỗn độn xã hội là do người ta thiếu hiểu biết về những danh xưng này hoặc hiểu biết bị che dấu bởi những danh xưng giả mạo. Chừng nào mà còn phân chia khác biệt về nhân đức/không-nhân đức, lễ nghi/vô-lễ nghi, trí thức/không-trí thức , thì xã hội vẫn còn trật tự. Vì thế, các Nho sĩ kêu gọi “tái xác lập những danh xưng” (reconfirming the names) ấy.

    Tuy nhiên, theo quan điểm Trang Tử, nếu khác biệt giữa đúng/sai, thiện/ác được phân định rạch ròi, thì không cần nhấn mạnh “tái xác lập những danh xưng”.

    Với việc tham chiếu về điều khẳng định và phủ định, về những gì là như thế và không là như thế…, nếu điều khẳng định là xác thực, nó nhất thiết phải khác với điều phủ định của nó: thế thì đâu còn gì để tranh cãi. Và nếu điều gì thực sự là như thế, nó nhất thiết phải khác với điều nó không thực sự là như thế: như thế cũng chẳng cần tranh cãi.

    Bởi vì nó phù hợp với luật lệ về dục vọng nên dục vọng xuất hiện chỉ khi đối tượng dục vọng không tồn tại. Do đó, sự tồn tại dục vọng chứng tỏ một loại thiếu hụt hay vắng mặt. Nếu “nhân đức” là xu hướng bẩm sinh của con người theo Khổng giáo, thì ta không cần thiết nhấn mạnh và đề cao những đức tính này. Trang Tử kết luận :“Nếu đức hạnh được trọng vọng, cạnh tranh sẽ đến. Nếu tri thức được khuyến khích, hậu quả sẽ là trộm cắp”. Một khi những danh xưng này được khuyến khích, người ta có thể đấu tranh chống lại nhau vì chính họ, và kết quả việc “tái xác lập danh xưng” là: sẽ không còn trật tự xã hội, mà chỉ là hỗn độn chết chóc.

    Hơn nữa, các Nho sĩ xem hệ thống danh xưng của họ như những phạm trù tuyệt đối. Hóa ra rằng để kêu gọi và làm gương bằng những danh xưng này mà những tín đồ này thậm chí xâm phạm chính cuộc sống riêng của họ. Trang Tử nói: “kẻ nào không màng đến thanh danh của mình, kẻ đó không phải là điều mà người ta muốn. Kẻ nào quên lãng sự tồn tại của mình, kẻ đó không thể cai trị người khác. Vì thế Hu Pu Hsieh, Wu Kuang, Poh I, Shu Ch’I, Chi Tzu, Hs’yu, chi T’o, và Shen Tu Ti là những tôi trung, và tuân theo mệnh lệnh người khác, mà không là của riêng họ”.

    Để phá hủy nhị nguyên k’niệm, Trang Tử đã đảo ngược trật tự về các khái niệm đối lập. Ví dụ:

    (1)Giá trị về những điều vô giá trị: theo quan điểm người thợ, những cái cây vô dụng là hữu dụng (vì nó có thể tránh bị chặt và sống tiếp cuộc sống riêng). Ngược lại, những cái hữu dụng lại trở nên vô dụng (vì nó không thể sống cuộc sống của mình).
    (2) Dế và ve sầu (Rukh and Cicada)
    (3) Nàng Li Ji: “khóc trước cười sau” (The lady Li Ji’s "crying first and laughing finally")
    (4) Một con ếch cừ khôi: cái hay của 1 con ếch cừ khôi chính là sự vô nghĩa về dòng chảy của con sông (A well-frog: the greatness of well-frog is the insignificance of the spirit of the river).

    Các ví dụ này không những chỉ ra những giá trị đó là tương đối và hữu hạn bởi điều đối lập của chúng, mà rằng mọi giá trị đều là tương đối, không cần thiết và gò bó vào bản chất sự-vật, bởi con người. Vì thế, để thực hiểu bản chất sự-vật hoặc nội cấu trúc của chúng, ta phải hiểu ý nghĩa “qui luật về sự khác biệt (the law of difference): “Khi ta nói một vật là lớn hay nhỏ là vì nó lớn hoặc nhỏ một cách tương đối, và cũng chẳng có cái gì được tạo ra là lớn hay nhỏ. Biết vạn vật chỉ như mầm cỏ dại, và đầu ngọn tóc như khối núi, đó chính là diễn đạt về qui luật khác biệt”.

    Dựa vào qui luật khác biệt, các khái niệm đối lập hoặc tương phản có thể được thay thế lẫn nhau. Trật tự thiện–ác và cao–thấp giữa những tương phản này sẽ bị tháo dỡ. Một cách công khai, trong trật tự các khái niệm đối lập, sự tương phản không thể hài hòa với nhau. Tuy nhiên, ở mức độ sâu hơn chúng độc lập và bổ sung cho nhau. Trang Tử nói: “Nếu không có ngoại-tại này thì không có tôi. Nếu không có tôi, chúng cũng không thể phát huy. Ta chỉ có thể nói như thế”.

    Nếu có một sự khởi đầu, thì cũng có một thời lượng trước đó. Và một thời lượng trước cả cái thời lượng của tiền khởi đầu. Nếu có sự tồn tại thì cũng phải có không-tồn tại. Và nếu có một thời lượng mà không-có-gì đã tồn tại, thì cũng phải có một thời lượng trước đó, khi mà thậm chí cái không-có-gì chưa tồn tại. Khi cái không-có-gì bất chợt xuất hiện, thì ta có thể nói liệu nó có thuộc về phạm trù tồn tại hoặc phạm trù không-tồn-tại?

    Trong tác phẩm của Trang Tử, qui luật về khác biệt là nội cấu trúc các khái niệm, danh xưng và biểu tượng.

    Chiến lược mà Trang Tử sử dụng để phá hủy đối lập ngôn ngữ cũng được gọi là “chủ nghĩa giải cấu trúc”. Như J. Derrida, Trang Tử bắt đầu với trật tự khái niệm, và chứng minh cái gọi là cao-hơn (tồn-tại, cuộc-sống, Tôi, Đây) đã luôn được hàm nghĩa cái thấp-hơn (không-có-gi, Chết, Đó, sự-vật) được giả định cho cái trước. Vì thế, Trang Tử đã phơi bày những giới hạn của những đối lập này.

    Lưu ý sự tương đồng giữa Luật về khác biệt của Trang Tử và “khác biệt” của Derrida. Cả 2 phơi bày những tương phản, chúng thực sự lệ thuộc lẫn nhau, bổ sung cho nhau. Trong bài luận về sự trì-biệt (différance), Derrida so sánh từ “trì-biệt” với từ “tạo thuận lợi” (facilitation) của Freud, vốn xuất xứ từ tiếng Đức “bahnung”. Từ này hàm nghĩa “mở ra một con đường” và gợi nhớ đến từ “Taos” với nghĩa đen là “cách-thức” hoặc “con đường”. Qui giảm từ nguyên học đến chữ tượng hình (chữ "Đạo").

    Tương tự Trang Tử, Derrida cố gắng xuyên tạc khái niệm “khác biệt” khỏi những kiểu cách cổ điển vốn phát sinh từ một sự hiện diện nguyên thủy. Derrida tuyên bố "bất-khả-quyết" (undecidable) không thể qui giảm về logic này-hoặc-kia của siêu hình phương Tây. Logic này dựa trên tập quán dĩ ngôn vi trung về đối lập nhị phân và hoạt động dựa trên 3 nguyên tắc chính:

    (1) nguyên tắc về tính đồng nhất (A là A);
    (2) nguyên tắc phi mâu thuẫn (A không thể là -A); và
    (3) nguyên tắc bài trung (sự thật hoặc là A hoặc là -A).

    Derrida biến đổi logic nhị phân này-hoặc-kia thành logic giải cấu trúc về cả hai-và, hoặc chính xác hơn, không này-chẳng nọ. Bằng cách này, ông giải cấu trúc các khái niệm khả quyết thành các dấu-tích bất-khả-quyết (undecidable),chúng không thể đồng nhất với chính chúng, mà ẩn chứa ý nghĩa khác với chính chúng. Do đó, chúng phủ định với chính chúng, khác biệt với chính chúng và phát huy tác dụng ngay cả khi ở dưới dấu-xóa (erase). Derrida nói về việc sắp đặt để làm việc trong phạm vi văn bản lịch sử triết học thuật ngữ“bất khả quyết”, thuật ngữ này đã không còn nằm trong phạm vi đối lập triết học, kháng cự và phá rối, chưa bao giờ là thuật ngữ thứ ba, chưa bao giờ có chỗ cho một giải pháp hình thức của suy đoán biện chứng. Vì thế, Pharmakon (thầy phù thủy) chẳng phải phương thuốc hay độc chất, không thiện chẳng ác, không nói mà cũng chẳng phải viết…không này-chẳng nọ, đồng thời với này-hoặc nọ.
  9. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    [​IMG]
  10. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193

    [​IMG]

    Lần cập nhật cuối: 11/05/2014

Chia sẻ trang này