1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lý luận của chúng ta ra sao về công hàm của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng?

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi shimamura, 15/09/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. shimamura

    shimamura Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/03/2006
    Bài viết:
    156
    Đã được thích:
    0
    Lý luận của chúng ta ra sao về công hàm của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng?

    Cứ vào dịp này là các bạn chống phá lại rộn ràng hô hào về "công hàm của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng", cái mà các bạn ấy quy kết là chúng ta cũng chẳng khác các bạn ấy là mấy. :D Tuy nhiên, chúng ta nên hiểu cụ thể công hàm đó như thế nào? Tác dụng của nó ra sao? Giá trị quốc tế? vân vân và vân vân... Tại sao TQ lại không tung ngay công hàm đó ra để mang quân lên chiếm hết các đảo mà lại nhì nhằng như thế?
    Trích bài của dự án mở HS-TS wiki, coi như là một ý kiến để phản bác lại lập luận của kẻ thù muốn cướp HS-TS cũng như kẻ thù muốn nhân dịp HS-TS gây ra bạo loạn.

    I. Hoàn Cảnh:



    Ngày 4 tháng 9 năm 1958, Chu Ân Lai, Thủ tướng nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa công khai tuyên bố với quốc tế về quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý (khoảng 12000 km) kể từ đất liền của Hoa Lục, có đính kèm bản đồ về đường ranh giới lãnh hải rất rõ ràng (trong đó bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa).

    Thủ tướng Phạm Văn Đồng, đại diện chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã công nhận bản tuyên cáo trên của Trung Quốc về chủ quyền của họ trên các quần đảo biển Đông. Ông đã viết công hàm ngày 14 tháng 9 và cho đăng trên báo Nhân Dân ngày 22 tháng 9 năm 1958...

    II. Nội Dung:
    "Thưa đồng chí Tổng lý

    Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa trên mặt bể. Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng lý lời chào trân trọng".

    III. Phân Tích:

    1. Bàn về chủ quyền của các chính quyền Việt Nam (sau thời kháng Pháp) trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:


    Những lời tuyên bố trên không có hiệu lực vì trước năm 1975, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không quản lý những đảo này. Lúc đó, những đảo này nằm dưới sự quản lý của Việt Nam Cộng hoà; mà các chính phủ Việt Nam Cộng hoà luôn luôn khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo. Còn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam cũng không tuyên bố điều gì có thể làm hại đến chủ quyền này cả.



    Ở thời điểm 1958, phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa k0 đủ lực lượng để chiếm đảo, phía Việt Nam Cộng Hòa đã nhanh tay đưa quân ra chiếm Trường Sa, Hoàng Sa và xác lập chủ quyền ở đó, thế có nghĩa là 2 quần đảo đó thuộc về phía Việt Nam Cộng Hòa, chính phủ được Mĩ dựng lên sau để quản lí miền Nam Việt Nam. Nói ?oViệt Nam Dân Chủ Cộng Hòa dâng Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Quốc? là k0 đúng vì đơn giản vì họ k0 có chủ quyền ở đó, người ta k0 thể nhượng cái mà người ta k0 có. Tựa như cố tổng thống VNCH Dương Văn Minh khi nói là ông bàn giao chính quyền cho Quân Giải Phóng vào ngày 30/4/1975 là k0 đúng vì khi đó chính quyền đã nằm trong tay Quân Giải Phóng, ông ta k0 thể bàn giao cái ông ta k0 có.

    Còn phía Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, người thay thế chính phủ Việt Nam Cộng Hòa quản lí miền Nam Việt Nam sau 30/4/1975, cũng chưa từng đưa ra tuyên bố tán thành quyết định về lãnh hải của Trung Quốc.

    Năm 1976, miền Bắc và miền Nam Việt Nam thống nhất, tạo thành nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Miền Bắc có đất và biển của miền Bắc, miền Nam có đất và biển của miền Nam, kết hợp lại thành đất và biển của nước Việt Nam thống nhất. Thế nên CHXHCN Việt Nam hoàn toàn có chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa vì đó là phần biển của miền Nam Việt Nam.
    Vì thế nếu coi VNCH, CHCMLTMNVN và CHXHCNVN là 3 chính phủ khác nhau thì từ 1956 cho tới 1975, Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Việt Nam Cộng Hòa; còn từ 1975 tới 1976, Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Còn từ năm 1976 tới nay thì Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
    Tác giả Monique Chemillier-Gendreau đã viết như sau:
    ?oDans ce contexte, les declarations ou prise de position éventuelles des autorités du Nord Vietnam sont sans consequences sur le titre de souveraineté. Il ne s?Tagit pas du gouvernement territorialement competent à l?Tégard des archipels. On ne peut renoncer à ce sur quoi on n?Ta pas d?Tautorité??
    (Có thể dịch là: ?oTrong những điều kiện này, những lời tuyên bố hoặc lập trường nào đó của chính quyền miền Bắc Việt Nam không có hiệu lực gì đối với chủ quyền. Đây không phải là chính quyền có thẩm quyền trên quần đảo này. Người ta không thể chuyển nhượng những gì người ta không kiểm soát được??).
    Một lý lẽ thứ hai nữa là đứng trên phương diện thuần pháp lý, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc đó không phải là một quốc gia trong cuộc tranh chấp. Trước năm 1975, các quốc gia và lãnh thổ tranh chấp gồm: Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam Cộng hoà và Philippin. Như vậy, những lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xem như lời tuyên bố của một quốc gia thứ ba không có ảnh hưởng đến vụ tranh chấp.

    2. Vấn đề chủ quyền nếu coi VNDCCH và CHXHCNVN là một:

    (Lập luận ở phần 1 dựa trên giải thiết là coi VNDCCH, VNCH, CHCMLTMNVN và CHXHCNVN là các chính phủ khác nhau. Nhưng 1 số người vẫn cho rằng CHXHCNVN và VNDCCH thực ra là 1, chỉ có cái tên là đổi mà thôi. Ở trong trường hợp này thì: )


    Nếu đặt giả thuyết Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một thì dựa trên luật quốc tế, những lời tuyên bố đó cũng không có hiệu lực. Tuy nhiên, có tác giả đã nêu thuyết ?oestoppel? (có thể hiểu là ?oràng buộc lời nói?) để khẳng định những lời tuyên bố đó có hiệu lực bó buộc đối với Việt Nam, và Việt Nam bây giờ không có quyền nói ngược lại.


    Theo luật quốc tế, không có một văn bản pháp lý nào có thể gắn cho những lời tuyên bố đơn phương một tính chất bó buộc, ngoại trừ thuyết ?oestoppel? (ràng buộc lời nói). Điều 38 Quy chế Toà án Quốc tế không liệt kê những lời tuyên bố đơn phương trong danh sách những nguồn gốc của luật pháp quốc tế.

    2a. Thuyết Estoppel:

    Estoppel là một nguyên tắc theo đó một quốc gia không có quyền nói hoặc hoạt động ngược lại với những gì mình đã nói hoặc hoạt động trước kia. Câu tục ngữ thường dùng để định nghĩa nó là ?oone cannot at the same time blow hot and cold." (Người ta k0 thể đun nóng hoặc làm lạnh thứ gì cùng 1 lúc) Nhưng thuyết estoppel không có nghĩa là cứ tuyên bố một điều gì đó thì quốc gia tuyên bố phải bị ràng buộc bởi lời tuyên bố đó.


    Thuyết estoppel bắt nguồn từ hệ thống luật quốc nội của Anh, được thâu nhập vào luật quốc tế. Mục đích chính của nó ngăn chặn trường hợp một quốc gia có thể hưởng lợi vì những thái độ bất nhất của mình, và do đó, gây thiệt hại cho quốc gia khác.Vì vậy, estoppel phải hội đủ các điều kiện chính:


    1. Lời tuyên bố hoặc hành động phải do một người hoặc cơ quan đại diện cho quốc gia phát biểu, và phải được phát biểu một cách minh bạch (clair et non equivoque).


    2. Quốc gia nại ?oestoppel? phải chứng minh rằng mình đã dựa trên những lời tuyên bố hoặc hoạt động của quốc gia kia, mà có những hoạt động nào đó, hoặc không hoạt động. Yếu tố này trong luật quốc nội Anh-Mỹ gọi là ?oreliance? (nghĩa là ?ocó cơ sở?).


    3. Quốc gia nại ?oestoppel? cũng phải chứng minh rằng, vì dựa vào lời tuyên bố của quốc gia kia, mình đã bị thiệt hại, hoặc quốc gia kia đã hưởng lợi khi phát biểu lời tuyên bố đó.


    4. Nhiều bản án còn đòi hỏi lời tuyên bố hoặc hoạt động phải được phát biểu một cách liên tục và trường kỳ. Thí dụ: bản án ?oPhân định biển trong vùng Vịnh Maine?, bản án ?oNhững hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragua?, bản án ?oNgôi đền Preah Vihear?,?



    Thuyết estoppel với những điều kiện trên đã được án lệ quốc tế áp dụng rất nhiều. Trong bản án ?oThềm lục địa vùng Biển Bắc? giữa Cộng hòa Liên bang Đức và Đan Mạch/Hà Lan, Toà án quốc tế đã phán quyết rằng estoppel không áp dụng cho Cộng hòa Liên bang Đức, mặc dù quốc gia này đã có những lời tuyên bố trong quá khứ nhằm công nhận nội dung của Công ước Genève 1958 về thềm lục địa, vì Đan Mạch và Hà Lan đã không bị thiệt hại khi dựa vào những lời tuyên bố đó.


    Trong bản án ?oNhững hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragua? giữa Nicaragua và Mỹ, Toà đã phán quyết như sau: ?o? ?~Estoppel?T có thể được suy diễn từ một thái độ, những lời tuyên bố của một quốc gia, nhằm chấp nhận một tình trạng nào đó; thái độ hoặc lời tuyên bố không những phải được phát biểu một cách rõ rệt và liên tục, mà còn phải khiến cho một hoặc nhiều quốc gia khác dựa vào đó mà thay đổi hoạt động, và do đó phải chịu thiệt hại?.


    Áp dụng những nguyên tắc trên của estoppel vào những lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chúng ta thấy thiếu điều kiện 2. và 3. đã nêu ở trên. Năm 1956, năm 1958 và năm 1965, Trung Quốc đã không có thái độ nào, hoặc thay đổi thái độ vì dựa vào lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ý thứ 2. ). Và Trung Quốc cũng không thể chứng minh được rằng mình bị thiệt hại gì do dựa vào những lời tuyên bố đó (ý thứ 3.) . Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng không được hưởng lợi gì khi có những lời tuyên bố đó (ý thứ 3.). Lúc đó hai dân tộc Việt Nam và Trung Hoa rất thân thiện, ?ovừa là đồng chí, vừa là anh em?. Những lời tuyên bố của Thủ tướng Phạm Văn Đồng hoàn toàn do tình hữu nghị Hoa-Việt. Hơn nữa, lời văn của bản tuyên bố không hề nói rõ ràng minh bạch là công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên Hoàng Sa. Bức công hàm chỉ nói: ?oChính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy (quyết định ấn định lãnh hải 12 dặm của Trung Quốc), và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc??.

    2b. Về vấn đề những lời tuyên bố của chính phủ:

    Lời tuyên bố của Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng có thể hiểu là một lời hứa đơn phương, một lời tuyên bố ý định sẽ làm một việc gì (declaration d?Tintention). Thật vậy, đây là một lời hứa sẽ tôn trọng quyết định của Trung Quốc trong việc ấn định lãnh hải của Trung Quốc, và một lời hứa sẽ ra lệnh cho cơ quan công quyền của mình tôn trọng lãnh hải đó của Trung Quốc.

    (Nhưng chưa thấy có văn bản nào nói là Trung Quốc hồi đó nói là họ đồng ý với lời hứa đó đơn phương đó. Mà khi 2 bên chưa nhất trí thì lời hứa đó chỉ coi là lời nói suông, k0 có tác dụng.)

    Một lời hứa thì lại càng khó ràng buộc quốc gia đã hứa. Toà án Quốc tế đã ra thêm một điều kiện nữa để ràng buộc một lời hứa: đó là ý chí thực sự của một quốc gia đã hứa. Nghĩa là liệu quốc gia đó có thực sự muốn bị ràng buộc bởi lời hứa của mình hay không. Để xác định yếu tố ?oý chí? (intention de se lier), Toà xét tất cả những dữ kiện xung quanh lời tuyên bố đó, xem nó đã được phát biểu trong bối cảnh, trong những điều kiện nào (circonstances). Hơn nữa, nếu thấy quốc gia đó có thể tự ràng buộc mình bằng cách ký thoả ước với quốc gia kia, thì lời tuyên bố đó là thừa, và Toà sẽ kết luận là quốc gia phát biểu không thực tình có ý muốn bị ràng buộc khi phát biểu lời tuyên bố đó (vì nói suông nhưng k0 kí thỏa ước để chứng minh rằng mình thực sự muốn như vậy). Vì vậy, lời tuyên bố đó không có tính chất ràng buộc.

    Trong bản án ?oNhững cuộc thí nghiệm nguyên tử? giữa Úc/Tân Tây Lan và Pháp, Pháp đã tuyên bố là sẽ ngừng thí nghiệm nguyên tử. Toà án đã phán quyết rằng Pháp bị ràng buộc bởi lời hứa vì Pháp thực sự có ý muốn bị ràng buộc bởi lời hứa đó.

    Trong trường hợp Việt Nam, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, khi tuyên bố sẽ tôn trọng lãnh hải của Trung Quốc, không hề có ý định nói đến vấn đề chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa. Ông đã phát biểu những lời tuyên bố trên trong tình trạng khẩn trương, chiến tranh với Mỹ bắt đầu leo thang, Hạm đội 7 của Mỹ hoạt động trên eo biển Đài Loan và đe doạ Trung Quốc. Ông đã phải lập tức lên tiếng để ủng hộ Trung Quốc nhằm gây một lực lượng chống đối lại với mối đe doạ của Mỹ. (nghĩa là kể cả khi k0 muốn ủng hộ Trung Quốc thì vẫn phải nói suông là ủng hộ Trung Quốc để có đối trọng với Mĩ, còn thực tình có muốn ủng hộ hay k0 lại là chuyện khác)

    Lời tuyên bố năm 1965 của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng như vậy. Động lực của lời tuyên bố đó là tình trạng khẩn trương, nguy ngập ở Việt Nam. Đây là những lời tuyên bố có tính chính trị, chứ không phải pháp lý.

    Nếu xét yếu tố liên tục và trường kỳ thì ba lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng không hội đủ tiêu chuẩn này. Estoppel chỉ đặt ra nếu chấp nhận giả thuyết Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một; và cả Pháp trong thời kỳ thuộc địa, và Việt Nam Cộng hoà trước năm 1975 cũng là một đối với Việt Nam hiện thời. Nếu xem như Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia riêng biệt với Việt Nam hiện thời, thì estoppel không áp dụng, vì như đã nói ở trên, lời tuyên bố sẽ được xem như lời tuyên bố của một quốc gia không có quyền kiểm soát trên lãnh thổ tranh chấp. Như vậy, nếu xem Việt Nam nói chung như một chủ thể duy nhất từ xưa đến nay, thì ba lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ là một sự phát biểu có ý nghĩa chính trị trong đoản kỳ thời chiến, so với lập trường và thái độ của Việt Nam nói chung từ thế kỷ XVII đến nay.

    Tóm lại, những lời tuyên bố mà chúng ta đang phân tích thiếu nhiều yếu tố để có thể áp dụng thuyết estoppel. Yếu tố ?oreliance? (có cơ sở) (tức là quốc gia kia có dựa vào lời tuyên bố của quốc gia này mà bị thiệt hại), và yếu tố ?oý chí? (tức là quốc gia phát biểu lời hứa có ý muốn bị ràng buộc bởi lời hứa đó) rất quan trọng. Không có ?oreliance? để giới hạn sự áp dụng của estoppel thì các quốc gia sẽ bị cản trở trong việc hoạch định chính sách ngoại giao. Các quốc gia sẽ phải tự ép buộc cố thủ trong những chính sách ngoại giao lỗi thời. Khi điều kiện chung quanh thay đổi, chính sách ngoại giao của quốc gia kia thay đổi, thì chính sách ngoại giao của quốc gia này cũng phải thay đổi. Các quốc ga đổi bạn thành thù và đổi thù thành bạn là chuyện thường.

    Còn những lời hứa đơn phương trong đó quốc gia không thật tình có ý muốn bị ràng buộc, thì nó chẳng khác gì những lời hứa vô tội vạ, những lời hứa suông của các chính khách, các ứng cử viên trong cuộc tranh cử. Trong môi trường quốc tế, nguyên tắc ?ochủ quyền quốc gia? (état souverain) rất quan trọng. Ngoại trừ tục lệ quốc tế và những điều luật của Jus Congens, không có luật nào ràng buộc quốc gia ngoài ý muốn của mình, khi mà quốc gia này không gây thiệt hại cho quốc gia nào khác. Vì vậy ý chí của quốc gia đóng một vai trò quan trọng trong việc quyết định tính chất ràng buộc của một lời hứa đơn phương
  2. cavalryman

    cavalryman Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2007
    Bài viết:
    553
    Đã được thích:
    0
    cái công hàm kia nói cái gì thì đã rõ rồi. Cần bàn cái gì nữa. Tui thì quan tâm đến cái bản đồ gì mà bạn nói đính kèm ấy, kèm là kèm thế nào? Có ai biết không. VNCH nếu biết mà không phản đối thì tức là đồng ý với TQ? Còn nếu không ai biết, tự nhiên mấy chục năm sau TQ lại xì ra 1 cái bản đồ nói là các ông đã đồng ý với quyết định của tui, tức là đồng ý với cái bản đồ này??.
    Hơn nữa xác định ranh giới thì phải có vị trí mốc đầy đủ vĩ tuyến, kinh tuyến chứ vẽ khơi khơi trên giấy tỉ lệ tí xíu ấy thì ăn nói cái gì đây?
  3. ou08kani

    ou08kani Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/09/2008
    Bài viết:
    1
    Đã được thích:
    0
    thực ra thì "ý chí dân tộc" ở đây phải được biểu hiện bằng văn bản nghị quyết do quốc hội thông qua thì mới mang đủ tính pháp lý ràng buộc
  4. dinhnghia81

    dinhnghia81 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/01/2002
    Bài viết:
    57
    Đã được thích:
    0
    Cái này mình có nghe từ lâu rồi. CŨng trên Lịch Sử Văn Hoá thôi. Đây la chuyện bối cảnh lịch sử thôi. Mình nghĩ rằng đây là quyết định sáng suốt, đó là do những nguyên nhân sau:
    + Khi đó quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc quản lý của Việt Nam cộng hoà.
    + Khi đó chưa biết có dầu lửa ở đây.
    + Khi đó ta cần chị hai Trung Quốc hỗ trợ nhiều, để kháng chiến chống Mỹ, Nguỵ.
    Vậy có đáng gì đâu khi bỏ một quần đảo nhỏ để dành độc lập cho cả đất nuớc, cả dân tộc.
  5. cuonglhvt

    cuonglhvt Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/10/2003
    Bài viết:
    5.262
    Đã được thích:
    0
    Nói thẳng ra bản công hàm này được phổ biến rất hạn chế, không phải vì giá trị pháp lý của nó. Đơn giản chỉ vì chính quyền sợ mất lòng tin của nhân dân.
  6. ov10

    ov10 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/02/2006
    Bài viết:
    6.093
    Đã được thích:
    6
    ???
  7. sehr_giftig

    sehr_giftig Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/03/2006
    Bài viết:
    406
    Đã được thích:
    0
    Chả hiểu phổ biến để làm gì? VN không công nhận giá trị pháp lý của nó, hoặc nó chẳng có giá trị gì về mặt tranh chấp đảo, chẳng lẽ cũng phải phổ biến ?
    Chưa thấy TQ khai thác được gì từ công hàm này trong việc đàm phán chủ quyền, mà đám bán nước cũ đã nhìn thấy "giá trị" của nó rồi rêu rao phổ biến ầm ĩ trên mạng. Chắc sợ TQ không nhớ tới đây
  8. shimamura

    shimamura Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/03/2006
    Bài viết:
    156
    Đã được thích:
    0
    Nhà em quên không để câu trích ở cuối, sợ các bác ném đá quá nên cũng phải nhắc lại là "Trích bài của dự án mở HS-TS wiki, coi như là một ý kiến để phản bác lại lập luận của kẻ thù muốn cướp HS-TS cũng như kẻ thù muốn nhân dịp HS-TS gây ra bạo loạn." Mong các bác hiểu cho và cố gắng đọc kỹ. Cám ơn các bác đã tham gia topic.
  9. cavalryman

    cavalryman Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2007
    Bài viết:
    553
    Đã được thích:
    0
    Cái này là sao, bạn có thể cho tui trích dẫn tại nguồn nào tử tế 1 chút không. Tui thấy trên mạng 3 que các bác ấy bảo là ta tuyên bố trên đài (bằng tiếng Việt?) gì gì đấy, nhưng nói thật là tui cóc có tin các bác ấy vốn chuyên đi sưu tầm bằng chứng chứng minh HS-TS đã là của Trung Quốc!
  10. mltr_sg

    mltr_sg Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/04/2002
    Bài viết:
    404
    Đã được thích:
    0
    Các bạn tham khảo link sau: http://www10.ttvnol.com/ThaoLuan/1005271/trang-53.ttvn

Chia sẻ trang này