1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lý luận của chúng ta ra sao về công hàm của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng?

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi shimamura, 15/09/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Vo_Quoc_Tuan

    Vo_Quoc_Tuan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    01/03/2002
    Bài viết:
    2.374
    Đã được thích:
    11
    Bác đừng suy đoán thế. Đừng nhìn thấy cái gì có vẻ bất lợi cho chính quyền thì suy ra cái đó không được phổ biến. Tớ lại thấy công hàm này là phổ biến nhất, công hàm các loại khác có ai thấy phổ biến nhiều đâu? Về cái công hàm trên, trong kỷ yếu văn bản VNDCCH và CHXHCNVN có, trong Văn bản đối ngoại VNDCCH cũng có. Bác chịu khó tìm là thấy. Trên bình diện lưu trữ và phổ biến, độ khó và dễ trong tìm kiếm tương đương các công hàm khác.
    Hồi trước em nhớ có bác gì dẫn sách ở đâu nói đường 12 hải lý khác đường cơ sở. Mà đường cơ sở mới là cái có pháp lý khi đường 12 hải lý của các quốc gia chồng lấn lên nhau.
    Lại nói về công hàm trên, bối cảnh của nó là khi vấn đề eo biển Đài Loan cực kỳ căng thẳng về mấy hòn đảo Bành Hồ, Mã Tổ ... Khi đó, để tranh thủ sự ủng hộ và do TQ vận động nên VN ra công hàm trên với mục đích ủng hộ lập trường TQ (TQ không coi Đài Loan là một nước hay một bên đàm phán bình đẳng về pháp lý). Lúc này, vấn đề biển đông chưa nổi lên như là một vấn đề nóng ngoài việc Đài Loan chiếm đảo Ba Bình vốn trước đây có sự hiện diện của QGVN - tiền thân của VNCH. Cũng phải thấy, quan hệ VN-TQ về vấn đề biển đảo lúc đó cũng rất tốt đẹp, đúng theo mọi ngữ nghĩa. Khi quân Pháp rút khỏi miền bắc, ta không có đủ khả năng tiếp quan đảo Bạch Long Vĩ. Trước tình hình đó, TQ đã tiếp quản hộ và năm 1956 đã trao trả chủ quyền lại cho VN.
  2. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    Kẻ muốn chiếm thì đã tìm mọi cách để chiếm, cần gì tín nghĩa, (nhờ tín nghĩa mà có được thì càng ít tổn hao). Kẻ muốn lấy lại thì cũng thừa lý lẽ để lấy lại, chỉ e chưa hợp thời và có lẽ sẽ chẳng bao giờ còn cơ hội...
    Còn một cách "láu cá" thế này, một khi họ dự định trục lợi từ các quần đảo trên thì à hà, chú ý nhé...
  3. thahuong13281

    thahuong13281 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/07/2005
    Bài viết:
    74
    Đã được thích:
    0
    Tôi chỉ muốn hỏi một câu : Về HS và TS, Trung Quốc cùng với Đài Loan luôn thống nhất quan điểm, đó là lãnh thổ của Trung Quốc, của dân tộc Trung Hoa. Vậy tại sao VNDCCH lại công nhận hải phận đó là thuộc TQ, dù lúc đó HS và TS ko phải của VNDCCH nhưng phải là lãnh thổ của Việt Nam, do tổ tiên người Việt để lại, và phải có trách nhiệm bảo vệ. Cũng giống như gia tài cha mẹ để lại cho hai anh em, anh em đánh nhau, thằng anh nhờ hàng xóm đánh thằng em, bảo là tao công nhận cái ti vi nhà nó là của mày đấy, mày giúp tao đánh nó đi. Thật buồn cười. Có thể do mục đích chính trị nữa, tôi là dân đen tôi không biết, nhưng dù sao đây cũng trở thành một trường hợp há miệng mắc quai.
  4. TieuNgocLang

    TieuNgocLang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2002
    Bài viết:
    897
    Đã được thích:
    0
  5. starboard_side

    starboard_side Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/05/2003
    Bài viết:
    463
    Đã được thích:
    0
    Bạn không biết thì đọc lại các bài anh em post đi. Công hàm của cố TT PVĐ không có 1 dòng nào công nhận hải phận của TQ quanh HS và TS cả. Nếu có thì TQ đã chẳng ngu gì mà không sử dụng công hàm đó vào mục dích của mình đâu bạn ạ.
  6. Tank

    Tank Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/01/2003
    Bài viết:
    425
    Đã được thích:
    0
    Tôi nghĩ mọi người đang tranh luận lại một vấn đề khá cũ nhưng lại chưa update thông tin mới. Đài BBC đã từng làm một nghiên cứu công phu về vấn đề này và câu trả lời tương đối đầy đủ. Link và nguyên văn cả bài như dưới đây:
    -----------------------------------------------------------------------------------------------
    http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/01/080124_vietnamchinaphamvandong.shtml
    Vê? lá thư cu?a Phạm Văn Đô?ng năm 1958


    Năm 1958 Thủ tướng của miền Bắc Việt Nam, ông Phạm Văn Đồng, đã ký một lá thư mà sau này gây rất nhiều tranh cãi. Lá thư ngày 14-9-1958 nói chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tán thành với một tuyên bố của Bắc Kinh về hải phận của Trung Quốc.
    Lá thư này được nhiều người xem là sự thừa nhận của Bắc Việt đối với chủ quyền của Trung Quốc đối với Trường Sa và Hoàng Sa.
    Gần đây, sau những tranh cãi giữa hai nước về chủ quyền ở hai hòn đảo, lá thư của ông Phạm Văn Đồng lại được đưa ra thảo luận, tuy không chính thức, ở Việt Nam va? trong giới ngươ?i Việt ơ? nước ngoa?i.
    Vậy nhận định của giới nghiên cứu nước ngoài về lá thư là như thế nào?
    BBC Tiếng Việt đã hỏi tiến sĩ Balazs Szalontai, một nhà nghiên cứu về châu Á đang sống ở Hungary. Đầu tiên ông giải thích hai quan điểm khác nhau của Bắc Việt trong thập niên 1950 và 1974, năm Hoàng Sa rơi vào tay Trung Quốc.
    Tiến sif Balazs Szalontai: Trong các năm 1955-1958, ban lãnh đạo Bắc Việt chưa đạt tới mục tiêu thống nhất đất nước vì phải đối phó với khó khăn nội bộ và thiếu ủng hộ của quốc tế. Đồng minh chính của họ lúc này là Trung Quốc. Trong hoàn cảnh này, Hà Nội không thể hy vọng xác lập quyền kiểm soát đối với Hoàng Sa và Trường Sa trong tương lai gần, và vì vậy họ không thể có sự bất đồng lớn với Trung Quốc về các hòn đảo. Lúc này, chính phủ Bắc Việt tìm cách có được giúp đỡ của Trung Quốc, và họ chỉ cố gắng tránh đưa ra tuyên bố công khai ủng hộ những tuyên bố chủ quyền cụ thể của Trung Quốc hay ký vào một văn kiện bắt buộc mà sẽ công khai từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với các đảo này.
    Sang năm 1974, tình hình hoàn toàn khác. Việc thống nhất Việt Nam không còn là khả năng xa vời. Giả sử Trung Quốc có không can thiệp, Hà Nội có thể dễ dàng lấy các đảo cùng với phần còn lại của miền Nam. Từ 1968 đến 1974, quan hệ Việt - Trung đã xuống rất thấp, trong khi Liên Xô tăng cường ủng hộ cho miền Bắc. Trong tình hình đó, quan điểm của Bắc Việt dĩ nhiên trở nên cứng cỏi hơn trước Trung Quốc so với thập niên 1950.
    Vì những lý do tương tự, thái độ của Trung Quốc cũng trở nên cứng rắn hơn. Đến năm 1974, Bắc Kinh không còn hy vọng Hà Nội sẽ theo họ để chống Moscow. Thực sự vào cuối 1973 và đầu 1974, Liên Xô lại cảm thấy sự hòa hoãn Mỹ - Trung đã không đem lại kết quả như người ta nghĩ. Washington không từ bỏ quan hệ ngoại giao với Đài Loan cũng không bỏ đi ý định tìm kiếm hòa hoãn với Liên Xô. Ngược lại, quan hệ Xô - Mỹ lại tiến triển tốt. Vì thế trong năm 1974, lãnh đạo Trung Quốc lại một lần nữa cảm thấy bị bao vây. Vì vậy họ muốn cải thiện vị trí chiến lược ở Đông Nam Á bằng hành động chiếm Hoàng Sa, và tăng cường ủng hộ cho Khmer Đỏ và du kích cộng sản ở Miến Điện.
    BBC: Theo nhận định của ông, lá thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã được viết trong hoàn cảnh nào?

    Chính phu? nước Việt Nam DCCH ghi nhận va? tán tha?nh tuyên bố nga?y 4 tháng 9 năm 1958 cu?a nước CHND Trung Hoa, quyết định vê? ha?i phận cu?a Trung Hoa. Chính phu? nước VNDCCH tôn trọng quyết định ấy va? sef chi? thị các cơ quan Nha? nước có trách nhiệm triệt đê? tôn trọng ha?i phận 12 ha?i lý cu?a Trung Hoa trong mối quan hệ với nước CHND Trung Hoa trên mặt biê?n

    Nội dung lá thư cu?a Thu? tướng Phạm Văn Đô?ng nga?y 14.9.1958 gư?i Tô?ng lý Quốc vụ viện Chu Ân Lai
    Tiến sif Balazs Szalontai: Trước tiên, ta nói về tuyên bố của Trung Quốc. Nó ra đời trong bối cảnh có Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1956 và các hiệp định được ký sau đó năm 1958. Lẽ dễ hiểu, Trung Quốc, mặc dù không phải là thành viên của Liên Hiệp Quốc, cũng muốn có tiếng nói về cách giải quyết những vấn đề đó. Vì lẽ đó ta có tuyên bố của Trung Quốc tháng Chín 1958.
    Như tôi nói ở trên, trong những năm này, Bắc Việt không thể làm phật ý Trung Quốc. Liên Xô không cung cấp đủ hỗ trợ cho công cuộc thống nhất, trong khi Ngô Đình Diệm ở miền Nam và chính phủ Mỹ không sẵn sàng đồng ý tổ chức bầu cử như đã ghi trong Hiệp định Geneva. Phạm Văn Đồng vì thế cảm thấy cần ngả theo Trung Quốc.
    Dẫu vậy, ông ấy có vẻ đủ thận trọng để đưa ra một tuyên bố ủng hộ nguyên tắc rằng Trung Quốc có chủ quyền đối với hải phận 12 hải lý dọc lãnh thổ của họ, nhưng tránh đưa ra định nghĩa về lãnh thổ này. Mặc dù tuyên bố trước đó của Trung Quốc rất cụ thể, nhắc đến toàn bộ các đảo bao gồm Trường Sa và Hoàng Sa mà Bắc Kinh nói họ có chủ quyền, thì tuyên bố của Bắc Việt không nói chữ nào về lãnh hải cụ thể được áp dụng với quy tắc này.
    Dù sao trong tranh chấp lãnh thổ song phương này giữa các quyền lợi của Việt Nam và Trung Quốc, quan điểm của Bắc Việt, theo nghĩa ngoại giao hơn là pháp lý, gần với quan điểm của Trung Quốc hơn là với quan điểm của miền Nam Việt Nam.
    BBC: Ngoài ra người ta còn nghe nói đến một tuyên bố tán thành với Trung Quốc của Ung Văn Khiêm, đưa ra năm 1956 khi ông này là Thứ trưởng Ngoại giao của Bắc Việt. Phía Trung Quốc đã công khai viện dẫn đến tuyên bố này. Nó có giúp ta hiểu thêm về lá thư của ông Phạm Văn Đồng?
    Tiến sif Balazs Szalontai: Theo trang web của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, vào giữa năm 1956, Ung Văn Khiêm đã nói với đại biện lâm thời của Trung Quốc rằng Hoàng Sa và Trường Sa về mặt lịch sử đã thuộc về lãnh thổ Trung Quốc. Ban đầu tôi nghi ngờ sự chân thực của tuyên bố này. Năm 2004, Bộ Ngoại giao Trung Quốc thậm chí xóa đi những chương tranh cãi của lịch sử Triều Tiên khỏi trang web của họ. Tức là họ sẵn sàng thay đổi quá khứ lịch sử để phục vụ cho mình.
    Tôi cũng chấp nhận lý lẽ rằng nếu ông Khiêm quả thực đã nói như vậy, thì có nghĩa rằng ban lãnh đạo Bắc Việt thực sự có ý định từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng nay tôi nghĩ khác, mà một lý do là vì tôi xem lại các thỏa thuận biên giới của Mông Cổ với Liên Xô.

    Tôi nhận ra rằng tuyên bố của Ung Văn Khiêm thực ra không có tác dụng ràng buộc. Trong hệ thống cộng sản, tuyên bố của một quan chức như ông Khiêm được coi như đại diện cho quan điểm chính thức của ban lãnh đạo. Nhưng ban lãnh đạo cũng có thể bỏ qua ông ta và những tuyên bố của ông ta bằng việc sa thải theo những lý do có vẻ chả liên quan gì. Đó là số phận của Ngoại trưởng Mông Cổ Sodnomyn Averzed năm 1958. Trong lúc đàm phán về biên giới Liên Xô ?" Mông Cổ, ông ta có quan điểm khá cứng rắn, và rất có thể là vì ông ta làm theo chỉ thị của ban lãnh đạo. Nhưng khi Liên Xô không chịu nhả lại phần lãnh thổ mà Mông Cổ đòi, và chỉ trích ?othái độ dân tộc chủ nghĩa? của Averzed, Mông Cổ cách chức ông ta.

    Thu? tướng Trung Quốc Chu Ân Lai la? ngươ?i nhận thư cu?a Thu? tướng Việt Nam Phạm Văn Đô?ng năm 1958
    Trong trường hợp Ung Văn Khiêm, ông ta khi ấy chỉ là thứ trưởng, và chỉ có một tuyên bố miệng trong lúc nói riêng với đại biện lâm thời cu?a Trung Quốc. Trong hệ thống cộng sản, tuyên bố miệng không có cùng sức mạnh như một thông cáo viết sẵn đề cập đến các vấn đề lãnh thổ. Nó cũng không có sức nặng như một tuyên bố miệng của lãnh đạo cao cấp như thủ tướng, nguyên thủ quốc gia hay tổng bí thư. Rõ ràng các lãnh đạo Bắc Việt không ký hay nói ra một thỏa thuận nào như vậy, vì nếu không thì Trung Quốc đã công bố rồi.

    BBC:Theo ông, lá thư của Phạm Văn Đồng có ý nghĩa pháp lý nào không?
    Tiến sif Balazs Szalontai: Nó khiến cho quan điểm của Việt Nam bị yếu đi một chút, nhưng tôi cho rằng nó không có sức nặng ràng buộc. Theo tôi, việc các tuyên bố của Trung Quốc nhấn mạnh nguyên tắc ?oim lặng là đồng ý? không có mấy sức nặng. Chính phủ miền Nam Việt Nam đã công khai phản đối các tuyên bố của Trung Quốc và cố gắng giữ các đảo, nhưng họ không ngăn được Trung Quốc chiếm Hoàng Sa. Trung Quốc đơn giản bỏ mặc sự phản đối của Sài Gòn. Nếu Hà Nội có phản đối lúc đó, kết quả cũng sẽ vậy thôi.

    BBC:Ngày nay, người ta có thể làm gì với lá thư của ông Đồng? Trong một giai đoạn dài, ở Việt Nam chỉ là sự im lặng. Ông nghĩ liệu người Việt Nam bây giờ có thể công khai tranh luận về nó mà không sợ là điều này chỉ có lợi cho Trung Quốc?
    Theo tôi, do lá thư của Phạm Văn Đồng chỉ có giá trị pháp lý hạn chế, nên một sự thảo luận công khai về vấn đề sẽ không có hại cho cả Việt Nam và Trung Quốc. Nhưng dĩ nhiên chính phủ hai nước có thể nhìn vấn đề này theo một cách khác.
    Tiến sĩ Balazs Szalontai từng dạy ở Đại học Khoa học Công nghệ Mông Cổ và hiện là một nhà nghiên cứu độc lập ở Hungary. Ông là tác giả cuốn sách Kim Nhật Thành trong thời kỳ Khruschev (Đại học Stanford và Trung tâm Woodrow Wilson xuất bản, 2006)
  7. mltr_sg

    mltr_sg Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/04/2002
    Bài viết:
    404
    Đã được thích:
    0
    1 hải lý (Nautical Mile = NM) = 1852m. 12 NM = 22224 m
    Tính lhộ các bạn cho đỡ nhầm . Sai 1 ly ở đây là đi tới chục ngàn dặm chứ không phải 1 dặm đâu.
  8. do_re_mi

    do_re_mi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/04/2006
    Bài viết:
    1.160
    Đã được thích:
    4
    12 hải lý là hơn 22 km, tính từ đường cơ sở.
    Trước đó TQ tuyên bố hải phận (lãnh hải) 6 hải lý, nhưng khi tàu Mỹ vào eo biển ĐL đe doạ bờ biển TQ thì TQ tuyên bố hải phận 12 hải lý (phù hợp luật pháp quốc tế). VN ta ủng hộ nó chống DL thì công nhận chớ sao, có đả động gì đến mấy quần đảo kia đâu.
    Mấy quần đảo kia theo luật quốc tế có hải phận không nhỉ các bác ???
    Trước khi bàn đến vấn đề chính chị, các bác cũng cần nắm rõ luật biển cái đã , không dễ mắc mưu mấy thèng đã dốt lại còn giỏi xuyên tạc nói phét bán giời không văn tự.
  9. mcforever

    mcforever Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/09/2008
    Bài viết:
    54
    Đã được thích:
    0
    Bác nào rành về luật biển quốc tế có thể cho e biết hải phận 12 hải lý sao lại ra tạn TS và HS nhỉ?
  10. sonha79

    sonha79 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/12/2004
    Bài viết:
    20
    Đã được thích:
    0
    Tớ đọc cái công hàm đó chả thấy chỗ nào là bán/dâng hay nhượng gì cả, vậy mà các chú tàu viễn dương cứ nhặng xị cả lên

Chia sẻ trang này