1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Ly Thân - Trần Mạnh Hảo

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi A6188, 29/09/2003.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. A6188

    A6188 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/09/2002
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    0
    Ly Thân - Trần Mạnh Hảo

    Ly Thân


    Chương 1




    Thế là tôi đã bỏ nhà ra đi, từ giã người vợ ba mươi mốt năm xưa đã lấy theo chỉ thị. Tôi đã còn cuộc đời này bằng hai bàn tay trắng, và sắp tới sẽ trở về thế giới bên kia bằng sự trắng tay. Đầu vào và đầu ra, như vậy là huề. Cuộc đời đã tước đoạt của tôi cũng có nghĩa là tôi đã trả hết nợ nần trong suốt năm mươi tám năm sống nhạt nhẽo và dối trá.

    Bây giờ tôi đang ngồi trong một xó tối, dưới ánh đèn đỏ như đom đóm đực, rọi xuống trang giấy cái bóng đèn dài như một cây sào đi biển của chiếc bút bi. Nếu gọi chỗ tôi ngồi là căn phòng thì quả là một sự xúc phạm ngôn từ một cách ghê gớm. Nó là cái hầm chứa đồ cũ, tôi nì nèo xin xỏ mãi ông chủ tịch hội văn nghệ mới cho mượn. Như vậy là tốt với tôi lắm rồi, đủ trải một chiếc chiếu nằm, một cái bàn trà làm bàn viết, vài ba cái ghế đầu, đặt cái bếp điện cùng một lũ ba bốn cái niêu, cái chén đũa con. Gia tài của tôi chỉ độc chiếc vali đựng ít sách vở bản thảo cùng mấy bộ quần áo tàng tàng. Tôi kê mấy hòn gạch lên để biến cái vali thành cái bàn lý tưởng. Ngồi trên chiếc ghế đẩu, nghe gián bay rào rào xung quanh, tôi hăm hở viết những dòng này, ngõ hầu được trình bày với các bạn về kinh nghiệm thất bại của đời tôi, một kễ cầm bút đã ít ra một lần bị đời rủa là bịp, là xạo. Chẳng nói giấu gì các bạn, trong ba chục năm qua, tôi đã được in hàng chục cuốn sách. Có khi tôi còn được người ta tung hô là nhà văn lớn, một tài năng hiếm có về sự minh họa đường lối chính sách.

    Nhưng tại sao bây giờ tôi lại cho rằng những tác phẩm đã được báo chí lăng-xê kia chẳng qua chỉ là những cuốn sách cực dở? Ôi cay đắng cái thằng tôi là nhường nào khi phải nhắc lại câu nói người xưa văn mình, vợ người. Trong một trăm ông viết văn, có tới chín mươi chín ông tự cho mình là hay, là nhất. Chỉ có tôi tuyên bố văn chương mình là hạng bét mà thôi.

    Dù sao, tôi cũng cần phải cám ơn số phận. Rằng tôi một con thỏ năm mươi tám tuổi vẫn còn được trời thương ban cho một tí ******* và tôi đã liều mạng nuốt chửng cái ân huệ này.

    Có thể bất cứ lúc nào công an văn hóa cũng sẽ gõ cửa phòng tôi: xin mời ông đi. Vâng, tôi cũng đang chuẩn bị cho mình cái khả năng ngồi tù đây. Ba mươi mốt năm qua, từ ngày gắn bó với bà ấy, gắn bó với nghề văn, tâm hồn tôi rõ ràng đã phải ngồi tù.

    Bây giờ đến lượt thể xác vào ngục Basti ấy thì có gì mà cuống cà kê lên. Chuyện đâu còn đó, tôi cứ viết đến khi nào người ta không cho tôi viết nữa. Vả lại, vào tù, biết đâu lại là chuyện hay cho tôi. Xưa nay, biết bao vĩ nhân đã phải ở tu. Bao nhiêu người đã trước tác trong gông xiềng để gởi lại hậu thế những trang văn thơ cao đẹp thấm đẫm tình người.

    Tôi đã toan bẻ bút, vĩnh biệt cái nghề văn bạc bẽo sinh nghề tử nghiệp, xin hưu về quê làm cái anh cắm câu đơm lờ đặt đó, thậm chí đi hoạn lợn hay làm bõ coi chùa. Nhưng ông bạn Hai Giỡn can:

    - Bậy, anh mà bẻ bút là tôi bẻ giò anh đó. Viết đi, chưa muộn đâu cha nội ơi.

    Tôi biết Hai Giỡn từ ngày ông ra tập kết năm 1954 và đã thành bạn thân với tôi từ đó. Hai Giỡn ăn sóng nói gió thế thôi, chứ nếu tôi có về quê đơm đó hay hoạn lợn thiệt thì không những ông không bẻ giò tôi mà còn tìm mọi cách giúp đỡ tôi là đằng khác. Lúc ấy, tôi uống cạn ly rượu hỏi:

    - Viết, hừ, từ năm 1955 đến nay, tôi chả viết khối ra là gì, đã ngốn của trời cả mấy chục tấn giấy để rốt cuộc chỉ gặt về toàn sự sỉ nhục đấy thôi. Giờ ông lại còn bắt tôi viết gì nữa nào Hai Giỡn?

    - Viết về chính ông ấy.

    - Đời tôi á, mười phần thì đã có tới chín phần dối trá rồi còn đâu mà viết với chả lách.

    Hai Giỡn lên mặt dạy:

    - Thì ông cứ trình bày sự dổi trá của mình một cách thành thực chính là văn chương đó Trần Hưng ạ. Hãy kể lại đời mình từ đầu chí cuối, chả cần bịa làm chó gì đã hay lắm rồi. Suốt ba mươi năm qua, ông đã bịa ra bao nhiêu chuyện nhưng vẫn chỉ là tô vẽ theo ý đồ của kẻ khác, bất chấp sự thật, chỉ cốt để vừa lòng cấp trên, hầu như chả có tí gan ruột máu huyết của mình trong đó cả. Đó là thứ văn chương xu thời, bẻ cong ngòi bút viết cho kẻ cầm quyền đọc chứ nào phải viết cho nhân dân.

    Tôi biết, từ xưa đến nay, thời nào cũng nhan nhản bọn viết mướn, làm cái thứ văn chương cung đình, cốt để vui cho vua chúa và quan lại chốc lát. Ngày nay người ta gọi cái đám ăn theo a dua này bằng một cái tên rất khó nghe là bồi bút. Hãy tha cho tôi Hai Giỡn ạ. Tôi không thích viết nữa. Hình như lương tri đã từ bỏ tôi như tôi đã từ bỏ nó. Tôi đã chán tất cả, muốn quên đi tất cả, về hưu hay vào tù với tôi bây giờ không có gì khác nhau.

    - Vào tù, đỡ phải lo cơm Hai Giỡn ạ.

    Hai Giỡn làm ra vẻ cực kỳ quan liêu quát:

    - Tù cái đếch á. Sao đầu hàng sớm quá vậy cha nội. Hãy cứu lại danh dự của anh lần cuối cùng. Tôi cho anh một cơ hội viết. Anh hãy viết về chính cuộc đời mình, kể lại đầu cua tai nheo vì đâu mình nói dối, viết dối. Hãy thành thực như đang làm bản kiểm thảo với bạn đọc của mình về tất cả mọi chuyện. Nếu không, dù có xuống lỗ rồi, người ta vẫn còn réo tên anh ra để chưởi, rằng cái thằng nhà văn Trần Hưng sống cốt để viết ra những cuốn sách bịp.

    Trúng ý. Tôi bèn vỗ đùi cái đét, cụng ly với Hai Giỡn rồi khà một cái rõ to hể hả:

    - Hay, ý kiến hay. Viết một bản kiểm thảo về đời mình với độc giả. Trình bày mọi dối trá và lầm lẫn một cách thành thật, không thèm hư cấu với hư chí gì ráo. Đó chính là văn chương.

    Tôi phục ông Hai Giỡn.

    Hai Giỡn đắc ý cười ha hả, rót tiếp rượu rồi gắp bỏ vào miệng tôi cái phao câu con vịt xiêm tơ. Hai chúng tôi sôi sục bàn chuyện văn chương viết lách.

    Đời tôi có lẽ đã phải làm mấy nghìn bản kiểm thảo dâng cấp trên như một con chiên ghẻ thú tội, xưng tội trước vị linh mục với những tín điều hết sức nghiệt ngã. Tôi xin được một lần cuối cùng làm bản tự kiểm này trước các bạn, những người đã đọc và chưa đọc tôi, như lời tự thú của kẻ cóc chết, ba năm quay đầu về núi này.

    Hai Giỡn còn hứa sẽ nuôi tôi cho đến khi nào viết xong tập Ly thân này. Hai Giỡn năm nay sáu mươi hai tuổi, đã từng làm cục trưởng, về hưu được ba năm, làm nghề nuôi ong nên cũng khá. Ông có căn nhà đẹp, vườn rộng ở ngoại ô thành phố An Hải thuộc tỉnh Sơn Giang này, tài sản của ông già vợ cho.

    Hai Giỡn bảo tôi về nhà tớ mà ngồi viết, cơm bưng nước rót sướng hơn tiên. Tôi cám ơn lòng tốt của bạn, xin phép được ngồi một mình trong cái hầm tối này để đối diện với gián và trang giấy. Như vậy tiện hơn, lại cực kỳ im lặng với không khí của một người sám hối.

    Hai Giỡn rút túi đưa tôi sáu nghìn đồng, bảo: để ăn phở, uống cà phê sáng. Còn cơm, cứ ngày hai bữa ông sẽ sai sắp nhỏ mang tới. Tôi từ chối cám ơn bạn nhưng Hai Giỡn quát: bộ khinh tao hả Trần Hưng. Tao thương mày tao mới giúp. Còn nếu sau này đọc bản nháp của mày thấy viết không thành thật, một là tao đòi lại tiền, hai là bẻ giò chịu không?

    - Chịu. Tôi chịu.

    Khi tuổi tác chúng tôi đã sáu mươi, có cháu nội cháu ngoại cả rồi mà còn xưng hô mày tao như thế này, tức là cái sự thân tình không thể tìm được nơi nào đủ giấu cất nổi nữa. Tôi xúc động tận lòng về sự chăm sóc vô tư của ông bạn. ấy, cái ông Hai Giỡn bạn tôi suốt cuộc đời toàn dọa nạt thiên hạ, hết tao bẻ giò đến tao đánh cho nhừ xương, để rồi rốt cuộc chả dám đánh ma nào, toàn bị cuộc đời nó đánh cho thừa sống thiếu chết. Thì ra, cái anh hay đánh người ta bằng lỗ miệng, thế nào cũng bị người ta nện cho bằng roi.

    Chuyện quan trọng nhất của nhà văn Việt Nam ta khi ngồi viết là cái ăn, để cho dạ dày đừng có lộn xộn nhảy lên thay thế vị trí não bộ và ngược lại. Trong trường hợp của tôi lúc này, thật hạnh phúc, hai bữa ăn đã được ông bạn vàng Mạnh Thường Quân lo cho tới khi nào viết xong bản nháp. Suốt ba mươi năm qua, gần như tôi đã phải sống cầm hơi để viết theo yêu cầu, viết theo chỉ thị của bề trên. Nhiệm vụ ba thập niên lãnh đạo giao cho những cuốn sách của tôi, nói không ngoa, chỉ cần dăm bài báo là giải quyết xong. Vậy mà tôi đã đai ra tới hàng nghìn trang sách, toàn những chuyện dông dài vô bổ, cốt tô son vẽ phấn lên cái bộ mặt tèm lem có tên là cuộc đời này. Nay, lần đầu tiên tôi được ông bạn thân nuôi cho ăn no, cốt chỉ để viết lại sự thật của đời mình, dù sự thật ấy kể ra sẽ làm mất lòng bao nhiêu người đang cố bấu víu vào sự giả trá để tồn tại và để trục lợi.

    Trước mắt mọi người, hiện nay tôi đã mất tất cả: vợ con, sự nghiệp, cửa nhà. Đứa con gái út xinh đẹp hai mươi bốn tuổi, niềm hy vọng cuối cùng của tôi vào cuộc đời vừa bỏ nhà ra đi để lại bức thư vĩnh biệt.

    Trước ngày biến mất, con gái tôi từ bệnh viện tỉnh Sơn Giang về gặp bố. Vì đau khổ tới mức gần như mất trí, con gái tôi phải nằm trong bệnh viện gần ba tháng trời. Tôi hiểu rằng sau khi người yêu, người chồng chưa cưới của nó bị giết chết, cuộc đời đã đẩy con bé vào con đường không lối thoát. Nó nằm trong bệnh viện suốt thời gian dài như vậy với sự câm lặng đáng sợ.

    Tôi nhớ hôm ấy trời mưa to lầm. Gió thổi ầm ầm vặt trụi lá cây, ném xuổng phòng tôi như vãi trẩu. Tôi đang ngồi đọc lại bài ca ngợi rất dơ dáy do tôi viết về tập thơ Đêm mặt trời của tác giả Hoài Bão tức bí thư tỉnh ủy Tràng Giang, với những dòng bốc thơm rất sáo rỗng và buồn cười hồi trước, với bài thơ tứ tuyệt:

    Mặt trời nghị quyết chói muôn nơi

    Hạnh phúc tung bao ánh thác cười

    áo cơm từng đến theo chỉ thị

    Thiên đường đã thấy rõ mười mươi.

    Tiếng gọi cửa rất khẽ khiến tôi sững người, rùng mình, y hệt có ai đang bắt gặp tôi làm một điều phi pháp vậy. Suốt cuộc đời, tôi sợ đủ thứ, nhất là những tiếng gõ cửa. Biết đâu, đây là tiếng gõ cửa cuối cùng của định mệnh, của cái ác xấu đến bắt tôi. Kinh nghiệm đã dạy tôi không được tin vào bất cứ điều gì trên đời.

    Đằng sau sự bình yên kia là bão tố. Bên trong nụ cười có vẻ thành thật kia là dối lừa và cạm bẫy.

    Tuy vậy, tôi vẫn lẩy bẩy như con lật đật, run run tay cầm chìa khóa hồi hộp mở cửa. Trời ơi, Trần Thị Vương Thi, con gái cưng, con gái rượu của tôi. Hồi sinh cháu, tôi đang làm thơ như điên, từng ôm mộng thi hào thi bá nên đặt tên con gái là Vương Thi - vua thơ mà.

    Vương Thi mặc chiếc áo mưa màu trang rất tang tóc, trông nó giống bức tượng cổ Hy Lạp đứng trước mặt tôi. Nó ướt như chuột lột, nhìn tôi bằng con mắt khác lạ, nửa nảy lửa, nửa băng giá, nửa thân thuộc, nửa hững hờ. Tôi định ôm chầm lấy đứa con gái thân yêu nhưng lại thôi, nhẹ nhàng dìu cháu vào nhà. Nó khẽ chào tôi một tiếng rất nhỏ, rất cộc: bố. Tôi bảo nó vào buồng trong thay ngay quần áo không cảm lạnh chết, nhưng nó lắc đầu bảo ngồi chút là đi ngay. Tôi chạy vào buồng lấy cái khăn bông tắm khô đưa cho con, giúp nó cởi áo mưa ra, rót đưa cho nó một ly trà đường rất nóng. Tôi hoảng sợ trước tình trạng kiệt quệ của con gái, nhất là bị cơn mưa thế này lúc đang nằm bệnh viện điều dưỡng.

    Vương Thi ngồi xuống chiếc ghế mây cũ kỹ đã xơ xác, lau sơ mặt và tay, nhấm một hớp trà hỏi tôi:

    - Mẹ đâu?

    - Bận đi họp.

    - Kỳ thật. Suốt đời mẹ toàn có họp là họp. Nghị quyết này chưa kịp triển khai, trên đã nhét vào tay nghị quyết mới. Rốt cuộc, toàn có nói suông, phí cả cuộc đời cho những trò phiếm. Rõ khổ thân cho mẹ.

    Tôi đốt điếu thuốc, bảo con:

    - Vì mẹ con làm phó giám đốc trường Đảng, bận lắm. May mà còn chưa phải họp hai mươi bốn trên hai mươi bốn tiếng đấy

    Con gái tôi bĩu môi:

    - Thế thì mẹ sinh ra để làm cán bộ lãnh đạo chứ đâu phải để làm người vợ, người mẹ. Điều con không thể hiểu là tại sao mẹ lại cuồng tín đến như vậy nhỉ?

    Tôi tính lờ đi không trả lời con gái, nhưng rồi lại làm ra bộ bênh mẹ nó, mặc dù tôi rất ngán bà ấy:

    - Thời đại mà con. Con người là sản phẩm của hoàn cảnh. Thời thế làm bố mẹ ra thế, biết làm thế nào?

    Con bé nhìn tôi rất dữ, đay nghiến:

    - Thời thế. Cái gì bố cũng đổ cho thời thế. Thời thế nào cũng bắt đầu từ mỗi con người, mọi con người. Chính các người đã tạo ra thời thế quỷ quái này rồi đổ oan cho nó. Rằng thời đại nhiễu nhương bùa chú, biến cải các người. Chính các người đã góp phần đẩy anh ấy, một người trung thực tài năng tỉnh táo nhất vào nhà thương điên rồi bóp cổ tới chết.

    Con gái tôi thở gấp với một thái độ căm giận. Tôi hiểu tâm hồn nó đang tan nát.

    - Vương Thi, sao hôm nay con gay gắt với bố thế? Bố đã làm gì đến nỗi con phải lên án dữ vậy nào? Hay bố không thương con, bỏ bê con, con đau bệnh không thăm nom chiều chuộng?

    Nó im lặng, nhíu mày. Mặt con gái tôi tái nhợt, môi thâm lại chứng tỏ nó lạnh vì mưa ướt. Tôi giục con:

    - Con bị cảm lạnh rồi. Vô nhà thay quần áo đi.

    Vương Thi ngoan ngoãn vô nhà thay đồ. Từ hôm ngất xỉu trước cái chết thê thảm của Trần Khuất Nguyên, phải vào bệnh viện cấp cứu, tôi đã đến nơi con gái ở dạy học để lấy vali đồ đạc về nhà này. Nó lục vali lấy một ít đồ, một cuốn album cho vào giỏ xách để ngoài salông. Xong, ngồi xuống ghế, nó bảo tôi:

    - Suốt mấy tháng nằm viện, con đã có dịp nghĩ nhiều đến cách thương của bố mẹ. Rằng cái tình thương yêu ấy không đi cùng sự thật, nói cho văn hoa là không có bóng dáng của lẽ phải và chân lý.

    - Nghĩa là con bảo bố mẹ dối trá?

    - Vâng, ít ra là với con.

    - Về những điều gì?

    - Về tất cả.

    - Cụ thể.

    - Như niềm tin, như lý tưởng chẳng hạn. Con biết bố chẳng tin vào những điều bố nói, bố viết. Sao bố lại dạy con tin vào những điều ấy?

    - Sao con biết bố không tin vào những điều mình nói, mình viết?

    - Con đã đọc cuốn nhật ký của bố viết từ xưa. Trong đó với chính mình, ít ra bố cũng đã nói đến tám mươi phần trăm sự thật. Tất cả đều ngược với những gì bố nói và viết công khai.

    Tôi giật mình như vừa ngồi vào ghế điện vậy. Lẽ nào mẹ nó lại đưa cuốn nhật ký của tôi bị bà ấy bắt làm tù binh của tình yêu từ khi nó chưa ra đời cho con gái đọc ư?

    Tôi vẫn cố làm ra vẻ bình tĩnh hỏi:

    - Con đọc cuốn nhật ký đó ở đâu?

    - ở trên bàn làm việc của phó giám đốc trường Đảng.

    (còn tiếp)
  2. A6188

    A6188 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/09/2002
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    0
    Trời, cuốn nhật ký nhỏ bé tôi đã giấu rất kỹ trong ba lô từ Tây Bắc về. Nhưng cuối cùng đã lọt được vào tay bà vợ, cho đến ngày nay chưa trả lại. Bà ấy đưa ra một điều kiện bất nhẫn trói buộc tôi: hoặc là tôi bỏ vợ con hoặc là cuốn nhật ký này vào tay tổ chức. Tôi đã viết sự thật, ý nghĩ thật hàng ngày lên trang nhật ký kia hệt như một tên trộm. Tôi đã phải giấu giếm sự thật theo kiểu con mèo giấu cái sự bê bối của nó. Nhưng rốt cuộc, sự thật nhỏ nhoi kia vẫn bị đánh cắp.
    Tôi ngồi lặng hồi lâu trên ghế, trước cái nhìn có điện của con gái. Như thể chính tôi là cuốn nhật ký bí mật, đang bị lật lên từng tờ, để con gái vừa đọc vừa giễu cợt ông bố có hai ba bộ mặt.
    Tôi chợt nhớ lại những giai đoạn của đời mình, có khi chỉ cần ngồi lặng nghĩ đến những gì ngược với các giáo điều, các chỉ thị, hay khám phá ra cái nghịch lý của nghị quyết, cái đối lập giữa tuyên truyền và hiện thực là tôi đã sợ toát mồ hôi. Như thể có hàng trăm tên mật vụ đang nấp trong các khe hở của những suy tư trong đầu, rình rập ghi chép các ý nghĩ kia để đi báo cáo vậy.
    Thế là tôi lại nguyền rủa mình, hay nói đúng hơn, nguyền rủa cái bộ óc hay suy tư nghĩ ngợi của mình, vốn hay đi tìm cái ngược đời cái nghịch lý trong mọi sự, để rồi không giải quyết được gì, có khi còn mang vạ vào thân. Hãy tiếp tục sống theo các chỉ thị, làm theo ý cấp trên, đã có người khác nghĩ thay thì cần chó gì đến cái đầu óc của mày nữa, hỡi tên công dân tội nghiệp kia. Cho hay, có trí thức một tí, có suy nghĩ biết phải trái một tí, có ý kiến cá nhân một tí, sống trên đời này mệt thật, nguy hiểm thật. Hèn chi Mao Trạch Đông, Pôn Pốt chủ trương giết sạch trí thức, Stalin giết các đồng chí cộng sản chân chính để dễ bề độc tài quân phiệt, hay Tần Thủy Hoàng đốt sách giết học trò đi để dễ cai trị không phải là điều khó hiểu.
    Vương Thi đổi thế ngồi, uống gần hết ly trà đường đã nguội, rồi phá tan sự im lặng bằng một câu hỏi của quan tòa:
    - Tại sao bố mẹ không yêu nhau mà vẫn phải sống với nhau, đôi khi còn phải giả vờ yêu nhau, phải đóng kịch với nhau như những nhân viên trong nghề phản gián để làm gì hả bố?
    Tôi đớ người. Con gái tôi đã đánh trúng huyệt của đời tôi.
    Nó đọc nhật ký tôi nên biểt tất cả. Tôi không thể dùng ngụy lý để trả lời một câu hỏi đã nốc ao tất cả sự dối trá đã làm nên đời mình. Câu hỏi của đứa con gái gói toàn bộ bi kịch của đời tôi.
    Trả lời nó tức là phủ nhận hết đời mình, ném vào vực thẳm tất cả những năm tháng vô nghĩa, như ném cái ly thủy tinh vào núi đá.
    Tim tôi đập cấp gió mười hai, toàn thân đang toát mờ hôi hột. Tôi là kẻ tội lỗi đang phải đứng trước Chúa Trời trong ngày phán xét cuối cùng trên đồng Araphat. Thà tôi không được sinh ra trên cõi đời này còn hơn. Dù sao, tôi cũng cần phải trả lời đứa con gái quấy quá cho qua chuyện, phải dùng mẹo vặt của kẻ liều thôi:
    - Dù sự việc có thật như thể đi chăng nữa thì rốt cuộc, bố mẹ đã sinh ra con đấy Vương Thi ạ.
    Con gái tôi cười phá lên. Nó tiếp tục tấn công, quyết đuổi con thỏ già bị thương này vào đường cùng, để thỏa mãn sự tức tối, hay để khuây khỏa cái đau mà nó phải chịu quá sức mình:
    - Con hoàn toàn không muốn được sinh ra bởi một tình yêu dối trá. Con bị sinh ra chứ không phải được sinh ra, để rồi bố mẹ đẩy con vào hoàn cảnh tuyệt vọng này đây. Con nguyền rủa cuộc sống tàn ác này. Giá khi sinh ra, bố mẹ làm cho con mù và điếc có hay hơn không.
    Tôi rùng mình kinh sợ. Bạn hãy đặt mình vào cương vị tôi lúc này, mới thấy hết cái đau đớn nhục nhã, cái xót xa của kẻ làm cha mẹ bị con mình nguyền rủa. Tôi đã không sòng phẳng với cuộc đời, để rồi cuối cùng, cuộc đời đang sòng phẳng với tôi đây.
    Trong thâm tâm, đời đang bảo tôi: mày đã ăn quỵt tất cả của tao Trần Hưng ạ, giờ mày phải trả. Tao chính là lương tâm của mày. Hãy trả cho tao ý nghĩa của tồn tại.
    Vương Thi lau nước mắt. Tôi như kẻ vô hồn, chả khác gì con voi sứ mình đang ngồi. Hai bố con, hai thế hệ cùng im lặng.
    Nó đang nhìn vào đáy của đời tôi, của cội nguồn nó với một nỗi cô đơn tuyệt vọng. Còn tôi chợt nhớ lại cái đêm mùa đông năm 1961, sau gần ba năm đi lao động cải tạo trên Tây Bắc về với cuốn nhật ký và mười mấy bài thơ con con giấu kỹ trong ba lô. Nhưng mẹ nó, bà Lê Thị Mộng Ruộng đã lục được và giấu biến.
    Nguy rồi. Vì ghen, vì thù ghét tôi, cô ấy có thể nộp cái của lạ này cho tổ chức bất cứ lúc nào. Những trang nhật ký, những bài thơ nói về nỗi cô đơn, nỗi buồn đau, về những nghi vấn trước những hiện thực xã hội, trước những tuyên bố hay ho về dân chủ, tự do nhưng sao việc làm lại toàn là một biện pháp trấn áp... Tất cả cái đám chữ nghĩa lôm côm vô tổ chức kia, lúc bấy giờ đồng nghĩa với *********. Tôi phải dụ dỗ, phải đóng kịch yêu đương với vợ mình, con người tôi đã lấy theo chỉ thị của tổ chức. Tôi đã phải chiều chuộng, đã phải ăn nằm với cô ấy để cốt đòi lại cuốn nhật ký nguy hiểm kia, nhưng tôi đã thắt bại. Vợ tôi cũng như tổ chức, đã học được phương pháp làm kẻ khác phải yêu mình vì sợ.
    Sau hai mươi lăm năm, đứa con gái đã nói toẹt ra sự thật một cách không hề thương xót. Sự thật nhìn từ góc độ nào đấy, đôi khi thật tàn nhẫn, thật đau đớn. Có lẽ vì vậy mà mọi người đều sợ sự thật và tìm cách tránh né nó. Nhưng tai hại thay, con người càng tìm cách chạy trốn sự thật, thì sự thật càng đuổi theo con người, dẫu người ta chết lâu rồi, sự thật vẫn tìm cách sống dậy. Con người ta có thể bị chôn vùi, nhưng sự thật quyết không bị chôn vùi. Nó cần tồn tại cùng với sự sống trên trái đất này. Sự thật nói cho cùng chính là ánh sáng mặt trời vậy.
    Thấy tôi toát cả mồ hôi, chắc Vương Thi thương hại bố, hay ít ra nó cũng thấy là không nên đẩy một kẻ khốn khổ vào đáy vực làm gì. Khi phải mủi lòng, chính kẻ ban bố lòng thương hại cũng chẳng thấy sung sướng, thậm chí còn bẽ bàng khó chịu là đằng khác.
    Vương Thi bao phủ lên tôi bằng một cái nhìn bớt gay gắt hơn. ánh mắt của nó có chút gì thương xót và cảm thông. Dù sao nó là giọt máu của tôi. Lúc này tôi càng thấy con gái mình đẹp quá. Nó giống hệt mẹ tôi tức bà nội nó: cũng mũi cao, môi trái tim, mặt trái xoan, mắt lá răm sáng và sắc, vầng trán rộng phủ dài lọn tóc đen. Với vẻ mặt thiên thần ấy, với dáng người thon thả, cao ráo ấy, chính nó được ra đời để sống trên thiên đường chứ không phải để chứng kiến những cảnh đời địa ngục vừa qua.
    Đứa con gái đã dịu dàng hỏi tôi như ngày thơ ấu nó hay hỏi vặn, quyết truy nguyên sự vật đến cùng, tới khi tôi hết trả lời nổi mới thôi:
    - Trên đời này còn lòng tốt và cái đẹp không hả bố? Chân lý có thật không hay chỉ là trò bịa đặt của con người, chỉ là cái lá chắn, là bình phong để người đời làm điều càn quấy?
    - Có chứ con. Cái tốt đẹp, ngay cả chân lý cũng đều có thật. Nó tồn tại trong chúng ta, ngủ quên trong chúng ta, phải khó khăn lắm mới thức tỉnh được nó dậy. Nó chính là lương tri của con người.
    Cô con gái rượu vẫn chưa chịu tha ông bố. Nó vẫn đẩy tôi vào thế bí, cái thế của sự thật đôi khi đến cạn tàu ráo máng, làm tiêu tan mọi thứ thể tất của con người:
    - Cụ thể như bố chẳng hạn, nó nằm ở đâu trong đời sống của bố, cái lương tri ấy?
    Tôi điếng người, nghiến chặt răng. Rõ ràng cuộc đời và sự thật vừa mượn lời con gái tôi để tát vào mặt tôi một cái tát thần sầu quỷ khốc đến tối mày tối mặt. Lẽ ra, theo thói thường, để tự vệ, để lấp đi cái thế yếu của mình, tôi đã dùng quyền làm cha để chưởi cho nó một trận, hoặc liều lĩnh hơn phải tát cho nó một cái theo kiểu có đi có lại. Rằng mày là con láo, dám vặn vẹo bố hả, đồ con nhà mất dạy, thà đẻ ra con mực để nướng nhậu chơi còn hơn đẻ ra cái thứ mày. Nhưng tôi đã ngồi im chịu hình phạt của hậu thế. Đáng đời cái thằng tôi, dù có gieo sự dối trá, tôi vẫn cứ phải gặt hái sự thật, có điều cái sự thật giết người này kinh khủng quá. Chính ra phải phản ứng một cách vô lối bằng sự đàn áp của kẻ bề trên, tôi lại bình thản đến không ngờ trả lời câu hỏi của con gái:
    - Lương tri của bố ư, nó nằm trong sự sám hối đấy con ạ.
    Thật tai hại, nói xong câu đó tôi bật khóc, tất nhiên là cái khóc kín đáo âm ỉ của người già. Tôi vội quay đi, lấy tay áo quệt nước mắt, theo kiểu trẻ con quệt nước mũi khi nó thò lò xuống môi. Vương Thi cũng làm ra vẻ giả lơ, coi như nó không thấy cái chuyện khóc lóc âm thầm của ông bố để ông ta đỡ quê. Dù vậy, nó vẫn tỉnh bơ không xúc động.
    - Trái tim của mày đâu vậy con Bố là con thú bị thương, đừng dồn bố vào đường cùng nữa.
    Con gái tôi vẫn ngồi trên ghế thẩm phán. Nó truyền:
    - Riêng sự sám hối cũng không tìm thấy lương tri đâu bố ạ. Sám hối thì tốt rồi, nhưng phải hành động.
    Tôi thành thật trả lời con:
    - ừ, con khuyên bố như vậy là đúng. Bố sẽ hành động chứ không chỉ sám hối suông.
    ừ suốt cuộc đời tôi chỉ quen làm cha nó, dạy dỗ lên lớp nó, sai phái nó hết chuyện này đến chuyện khác. Đến lượt con cái hậu thế nó dạy mình thì mình lại cho nó là láo, là trứng khôn hơn rận. Làm như mình hay hớm lắm, đúng lắm ấy. Đột nhiên con gái tôi tuyên bố một cách thật rùng rợn:
    - Bố ơi, con không thiết sống nữa. Con đã bị cuộc đời lừa dối cướp đi tất cả từ tình yêu đến sự trong trắng, niềm tin, lý tưởng, tâm hồn... hết thảy đã bị cuộc sống này gạt gẫm lấy đi hết cả rồi. Con sống để làm gì hả bố? Để nhìn thấy hết sự bịp bợm này đến sự bịp bợm khác của những người tự cho mình quyền đại diện cho nhân dân, cho công lý, những người của cái thế hệ bố mẹ lấy đạo đức giả làm nền tảng xã hội ư?
    Vương Thi im lặng. Đoạn nó thò ngón tay cái lên miệng, khẽ lấy răng nhần nhần theo kiểu thỏ ăn rau. Tôi khuyên con không được tuyệt vọng, còn trẻ, còn đẹp, đời còn dài...
    Chợt Vương Thi vừa khóc nấc lên vừa hỏi:
    - Vậy thì ai là người phải trả lại Trần Khuất Nguyên cho con hả bố? Mỗi lần mở mắt ra, con lại nhìn thấy anh ấy gục chết trong nhà thương điên vì bị người ta bóp cổ. Ôi, ngay cả đến bố mẹ, tất cả các người, những kẻ dối trá thờ ơ với cái xấu cái ác hiện nay, đều góp phan giết chết anh ấy. Mảnh đất này dường như không còn chỗ cho người trung thực, người lương thiện nữa bố ơi.
    Nhìn con gái khóc, tôi hốt hoảng quá. Con gái tôi đã ngất lịm đi tưởng không thể cứu sống khi nhìn thấy người yêu bị giết chết trong bệnh viện tâm thần. Suốt hai tháng mất hồn vía, con gái tôi mới dần dần lấy lại trí nhớ. Cách đây ba tuần, lần đầu sau cơn ngất xỉu kinh hãi kia, nó mới bật khóc và gào thét gọi người yêu.
    Tôi càng khuyên nhủ, con gái càng khóc dữ. Cuối cùng rồi nó cũng nín. Nó rút từ trong túi ra một tờ giấy đưa cho tôi:
    - Nhờ bố chuyển cho trường con cái đơn xin thôi việc.
    Tôi kinh ngạc hỏi:
    - Rồi con sẽ làm gì sống, Vương Thi?
    Nó hỏi lại tôi:
    - Bố tưởng lương dạy học sống được đấy à? Hừ, thế mà người ta cũng gọi là lương với chả bất lương. Với cái đồng lương khôi hài và phỉ báng con người ấy, con ăn xôi sáng còn chưa đủ. Vậy thì còn hai bữa chính, con phải cạp đất ăn để lên lớp, dạy một thứ chính trị trá hình gọi là môn văn, cốt nhét vào đầu học trò tất cả những mỹ từ sặc sụa son phấn về chế độ ta tốt đẹp, hơn hẳn mọi thứ chể độ xã hội trên đời. Thật là mỉa mai, trong khi người ta trả lương cho cán bộ công nhân viên như vậy, nhưng lại to mồm tuyên bố tư bản phương Tây bóc lột công nhân thậm tệ. Bố có biết con nhục nhã thế nào, khi mỗi sáng lên lớp phải xách theo cái bị quà vặt, để vừa dạy học, vừa bán cho học sinh không? Trường con ai cũng phải làm như thế, nếu không muốn ngồi chết đói. Trước ngày anh Nguyên bị giết, con đã bị nhà trường khiển trách nặng nề. Nguyên do là hôm ấy con dạy mẫu bài văn của bố trích trong tiểu thuyết Lúa reo. Bài văn mô tả cuộc sống ấm no hạnh phúc của một hợp tác xã nông nghiệp ngoài miền Bắc. Con đã dặn trước học trò là giờ văn mẫu, có khách lạ và quan trọng tới dự giờ, tuyệt đối không được em nào mua quà ăn trong giờ học. Nhưng khi dặn, có đứa học trò nghỉ không biết. Đang tới đoạn phân tích về sự sung sướng của người nông dân chính thằng bé ấy giơ tay xin phát biểu. Con tưởng nó góp ý bài giảng, nào ngờ nó nói tỉnh queo: Thưa cô bán cho em trái ổi ạ. Trời ơi, con run bắn cả người, tái mặt bảo thằng bé ngồi xuống nhưng nó vẫn cứ lặp lại là xin mua một trái ổi thôi. Từ ông to bà lớn và tất cả mọi người dự giờ con giảng văn bữa đó đều biết tình trạng này đối với những giáo viên khó khăn quá mức về đời sống, nhưng con vẫn bị phê bình cảnh cáo vì cái tội công khai hóa cái việc bán quà của giáo viên cho học sinh. Đấy bố coi cái lôgic của họ có tức cười không nào. Trường con có giáo viên nam đi đạp xích lô gặp học trò mình vẫy giữa đường đấy bố ạ. Thầy đạp xích lô, trò ngồi chễm chệ trên xưa nay ai có coi đặng không chứ... Vậy thì con xin thôi việc là có lý đó bố ơi.
    Trưa đó, cơn mưa đã tạnh, tôi giữ con gái ở nhà ăn cơm nhưng nó xăm xăm vô bệnh viện điều dưỡng. Sau đó một tuần lễ tôi đến bệnh viện thăm con. Người ta cho hay Vương Thi đã về năm sáu hôm rồi. Tôi chạy còn phòng riêng của nó tại trường tìm cũng không thắy. Tôi mất hết hồn vía nghĩ đến cái hồ ở ngoại ô thành phố An Hải này. Nơi con Vương Thi trong cơn tuyệt vọng đã một lần nửa đêm lao xuống tự vẫn nhưng may mắn được cứu thoát. ít ngày sau đó, tôi nhận được thư của con gái theo đường bưu điện:
  3. A6188

    A6188 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/09/2002
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    0
    Bố mẹ kính mến
    Con rất đau lòng báo cho bố mẹ biết là con đã ra đi. Mặc dù anh Nguyên đã bị giết chết, nhưng con vẫn đi tìm anh ấy dù biết anh không thể nào tìm được niềm tin yêu lớn nhất của đời con.
    Nhưng con hy vọng bằng tinh thần của Nguyên, con sẽ tìm được một nơi để được sống thật với chính mình và mọi người, được quyền nói lên điều mình nghĩ, viết ra điều mình nghĩ không bị ai ngăn cấm và đe dọa. Ngoài ra. con còn muốn làm một người trung thực, một người tốt đẹp trên đời. Dường như ở cái tỉnh Sơn Giang của chúng ta bây giờ, người lương thiện không có cơ hội để tồn tại. Cái chết của Nguyên đã khẳng định điều khiến cho người xưa phải trẫm mình tự vẫn: đời đục không cho phép mình trong, đời ngủ không cho phép mình thức. Con không muốn chìm nghỉm trong dối lừa và sợ hãi mãi mãi. Đối với con bây giờ, cái không có thể phải trở thành có thể, con phải tìm ra Nguyên mặc dù anh ấy đã bị người ta sát hại.
    Một lần nữa con xin bố mẹ tha lỗi cho con. Con nhờ bố mẹ chuyển dùm lời cám ơn đặc biệt đến bác Hai Giỡn cùng các chú bác anh chi ở câu lạc bộ về hưu và câu lạc bộ những người kháng chiến cũ đã hết lòng thương yêu đùm bọc anh ấy, lo cho anh ấy mồ yên mả ấm, đồng thời chăm sóc con suốt gần ba tháng trời một cách hết sức tận tình. Xin bố mẹ cứ coi con không còn nữa, hoặc đã đến một xứ sở khác tốt đẹp. Y như cái lý thuyết bố mẹ theo đã vẽ vời ra.
    Vĩnh biệt bố mẹ. Đứa con bất hiếu
    Vương Thi
    Tôi đã đau đớn nát ruột gan từ hôm Vương Thi đi mất.
    Chiều chiều, tôi lại ra cái hồ định mệnh ngồi mà ứa hai hàng nước mắt. Thế là tôi đã mắt hết, mắt cả tuổi già và tuổi về hưu.
    Từ nay, vĩnh viễn tôi là kẻ cô đơn trên cõi đời này. Tôi đã bỏ nhà và người vợ đang hoạt động ráo riết để vào tlnh ủy, đến chui vào cái hầm này ngồi viết theo sự hướng dẫn và gợi ý của người bạn vàng là ông Hai Giỡn. Ngày hôm qua, vợ tôi mò đến đây để đưa cho tôi một tối hậu thư: hoặc là tôi về nhà, vì một người sắp vào tỉnh ủy không thể bị chồng bỏ, hai là cuốn nhật ký cách đây hai mươi mấy năm của tôi do bà ẩy vẫn bí mật cất giữ, để làm cái răn đe giữ tình yêu của tôi sẽ nằm trong tay công an văn hóa. Tôi bảo vợ rằng hiện nay đối với tôi như vậy là đã mất hết, vào tù được là may lắm. Bởi vì mấy chục năm qua sống với nhau trong các loại nỗi sợ, thực ra tâm hần tôi đã phải ở tù. Bà ấy đứng dậy đi thẳng, nhưng khi ra còn cửa tôi nghe thắy tiếng bà ấy sụt sịt. Tôi bảo bà vợ rằng, một người sắp vào tỉnh ủy không nên và không được phép khóc trước bất cứ tình huống nào. Tôi hiểu rằng những hoạt động chính trị sôi nổi và cuồng nhiệt của vợ tôi thực ra chỉ là cái vỏ bên ngoài, để che đi nỗi đau khổ của một người đàn bà có chồng, có con mà vẫn không được yêu. Bi kịch của vợ chồng chúng tôi, nói cho cùng, chính là cái bi kịch của xã hội mà hai chúng tôi đều là nạn nhân. Thành ra, về một mặt nào đó, vợ tôi đáng thương hơn là đáng giận. Bây giờ thì nỗi đau khổ tới tận cùng, sợ hãi tới tận cùng đã khiến tôi thành người miễn dịch. Tôi không còn chỗ để lùi, để đau và để sợ nữa rồi. Tôi vốn không ưa triết lý của anh A.Q. và hành động của anh Chí Phèo, nhưng hiện nay tôi hoàn toàn là một kẻ liều mạng, một người uống *******. Xin bà ấy cứ nộp những ý nghĩ thật của tôi cho công an. Nếu nói lên, viết lên những ý nghĩ thật của cá nhân mình trước mọi sự một cách có chính kiến mà bị quy là *********, thì tôi xin chấp nhận tất cả.
    Vâng, tôi cần phải lý giải hơi dài dòng với các bạn vì sao cuộc đời đã đẩy tôi vào kết cục này ở tuổi năm mươi tám. Tôi có thể làm lại từ đầu được không?
    Chương 2


    Thực ra, tên cúng cơm của tôi là Trần Húng chứ không phải Trần Hưng. Sau này lớn lên đi học, thấy cái tên Húng kỳ cục, tôi van nài cha tôi mãi mới được đổi từ Húng sang Hưng. Chỉ cần bỏ cái dấu sắc đi để thêm vào chữ u một cái dấu ư là cuộc đời tôi mang một ý nghĩa khác. Số là bố tôi từ thuở cha sinh mẹ đẻ chỉ mê một món thịt chó. Nghe đâu, trong một cuộc thi ăn thịt chó với bạn bè hồi trẻ, chỉ một ngày ông đã ăn hết sạch hai con cầy tơ. Từ đó, bố tôi có biệt danh là ông Hai Cầy.
    Bố mẹ tôi sinh được cả thảy bốn người con. Ông lấy các món ăn trong bữa thịt cầy để đặt tên cho con cái mới kỳ khôi chứ. Chị cả tôi là Trần Thị Mơ, gọi trong nhà là chị lá mơ, cái thứ lá mà khi xơi thịt cầy, nếu không có nó, thịt cầy không còn là thịt cầy nữa. Tôi là Húng, một thứ rau thơm quan trọng không kém lá mơ của bữa thịt cầy. Đó là húng lìu hay húng chó, trong Nam kêu là rau quế. Con em gái tôi được vinh dự mang một cái tên trong món ăn bố khoái nhất là rựa mận, cô Trần Thị Mận. Còn thằng em út tên của nó mới khiếp chứ, thằng Trần Chìa, tức chả chìa. Cái tên của cậu em tôi mới nghe cứ tưởng nó gầy teo, ốm nhách, lòi cả xương sườn ra nhưng nào ngờ nó lại mập ú. Bố tôi bảo mẹ tôi sinh cho ông một đứa nữa, dù trai hay gái, ông nhất định sẽ đặt tên cho nó là Tửu, cứ nam văn nữ thị mà kêu Tửu ơi Tửu, bố sai cái này là thế nào cũng có cút rượu nhắm. Có lẽ vì vậy mẹ tôi sợ quá nên không dám sinh nữa. Thành ra cuộc đời bố tôi luôn luôn thèm rượu và thiếu rượu. Cứ mỗi lần đặt tên con, mẹ tôi lại gây gổ với bố. Nhưng bố tôi quyết đặt tên con cái theo ý của mình, dù trời can cũng không nổi. Cuối cùng mẹ tôi đành khóc lóc nhượng bộ. Khóc xong, bà ngồi một mình ca cẩm phàn nàn thật tội nghiệp. Rằng ông đùa giỡn suốt đời không chán hay sao mà còn lấy cả con cái ra để bỡn cợt. Tội nghiệp các con, tên với chả tuổi, kêu lên toàn là món nhắm, e rằng sau này không có cái bỏ vào lỗ miệng đâu. Bố an ủi mẹ rằng tên con cái hay như thế còn không chịu, đang đói kêu lên một loạt: này con lá Mơ, này thằng Húng chó, này con rựa Mận, hỡi đứa chả Chìa là thấy no cái bụng, sướng cái miệng liền. Tiếc bà không sinh cho tôi một thằng cu Tửu, khi buồn chỉ cần gọi tên con là đã say rồi, đỡ phải mắt tiền ra quán mua rượu bà ơi. Đôi lúc có tí ngà ngà, bố tôi lại nằm đu đưa trên võng ngâm Kiều, đọc thơ Tú Xương, Nguyễn Khuyến. Kết thúc cuộc ngâm vịnh, thế nào ông cũng hát ồ ề câu: sống trên đời ăn miếng giồi chó, chết xuống âm phủ biết có hay không?
    Tôi nhớ hồi bố tôi lên mạn ngược buôn bán, khi về mang theo hai con chó con, một bạch một vàng. Ông bảo thứ chó này quý lắm, mau lớn, to con, giữ nhà thì bố trộm cũng không dám bén mảng, lại thịt ngon, nếu có khách ngả ra lúc nào cũng tiện.
    Về chó, từ xưa ông bà ta đã có câu: nhất bạch nhì vàng, tam khoang, tứ đốm. Như thế, riêng trong nhà mình, ông đã có đến hai con chó nhất nhì thiên hạ rồi. Rất hay là đôi chó này lại một đực, một cái. Hôm đưa hai con chó quý này về, bố tôi nhờ ngay ông hàng xóm sang bắt nghiến con chó vện đực nuôi trong nhà ra thịt, để mừng hai công tử chó, khiến hai kẻ ấu thơ kia nhìn thấy mà xanh mặt. Bố tôi đặt con bạch là mẻ, con vàng là riềng, hai thứ gia vị thiết cốt nhất của thịt chó. Thiếu hai thứ này, thịt chó coi như bỏ. Hai con chó con dần dần cũng quen với tên gọi của mình, nào biết đâu riềng với mẻ đã ám mình từ ngày bé tí.
    Mấy tháng đầu, con riềng và con mẻ kể cũng có hơi lớn. Nhưng tụi nó lớn rất chậm, mặc dù cơm thừa canh cặn hai cu cậu lúc nào cũng chén căng rốn. Nhưng rồi cả năm sau, con riềng với con mẻ mỗi lúc một mỏi mòn đi, ốm nhom ốm nhách không cách gì nở nang ra được. Mấy ông hàng xóm bảo bố tôi đổi tên cho hai con chó này đi, chứ lấy riềng và mẻ mà đặt cho nó, thì còn bố nó cũng sợ toát mồ hôi hột, sợ còn chết khiếp được nữa là tụi nó.
    Họ còn bàn ra tán vào rằng dù là con vật, nhưng nó cũng biết chứ, lúc nào cũng bị cái ám ảnh vào nồi, bị cái hình ảnh riềng với mẻ, mùi thơm của riềng với mẻ hành hạ, thì thử hỏi làm sao mà yên tâm sống được cơ chứ. Bố tôi gật gù nghe lời bèn đổi tên cho hai con riềng con mẻ, nhưng nó vẫn cứ lì ra, không chịu lớn thêm một tẹo. Càng ngày hai con chó càng da bọc xương mặc dù chúng ăn thùng bất chi thình. Mấy ông hàng xóm lại góp ý với bố tôi là phải đổi tên của bốn đứa con đi, họa may hai con chó mới đỡ sợ, đỡ mất vía mà yên tâm lớn. Lúc nào trong nhà cũng nghe gọi nào lá mơ, nào húng, nào rựa mận với chả chìa thì còn khiếp đảm hơn là riềng với mẻ ấy chứ. Hừ, đời nào chỉ vì cái chuyện lớn hay không lớn của hai con chó con mà bố tôi lại đi đổi tên bốn đứa con. Ông bèn bán quách hai con chó ốm cho hàng xóm. Nghe đồn khi được nuôi ở nhà khác với tên khác, hai con chó ma mãnh và non gan kia lớn nhanh còn không ngờ. Cho hay là cái nỗi sợ ở đời gớm thật. Đến con chó còn bị nỗi sợ hành cho còn mòn mỏi, để thân tàn ma dại như vậy, nữa là con người suốt một đời phải đối diện với muôn nghìn nỗi sợ trước cái chết, trước bạo quyền, trước những tai bay vạ gió rủi ro... Tồn tại phải chăng là cuộc chiến đấu âm thầm quyết liệt của sinh vật nói chung, của con người nói riêng trước bao nhiêu nỗi sợ hãi?
    Thuở nhỏ, bố tôi học chữ nho, thi mãi không đậu, phẫn chí về đi cày rồi sắm thuyền đi buôn. Có lẽ vì ông là người có học nhất của cái làng Bình Hải bấy giờ, nên bọn cường hào chức sắc rất ghét. Mặc dù trong bụng không ưa gì kẻ sĩ, nhưng bọn cầm quyền phải làm ra vẻ ta đây quý người có chữ, trọng kẻ nhân tài.
    Bọn họ hay mời cha tôi tham gia những cuộc chè chén ngoài đình làng, hay trong nhà quan nhà hào phú, cốt để gài cho ông say mà lộ rõ cái chân tướng vẫn giấu trong vẻ ngoài dân dã. Mặc dù bố tôi chúa ghét cái thời thế đảo điên này, nhưng ông lấy sự im lặng làm thượng sách, biết cách dùng cái nhu thắng cái cương. Vả lại, thỉnh thoảng có tí men vào, ông thường nói với mẹ tôi rằng ông đếch thèm chấp với cái đời chó đẻ này, còn chưởi ông cũng không thèm nữa là, có chưởi nó cũng chỉ bẩn cái miệng mình thôi. Có khi nửa đêm ông tỉnh dậy ngồi đối diện với ánh trăng suông, nghe chó sủa ma, rồi hít một hơi dài thuốc lào bằng cái điếu cày gia truyền, đoạn nói thầm một mình rằng cuộc đời láo lếu này ạ, chưởi chúng mày thà ông về chưởi chó còn hơn. Có điều gì buồn bực với thế cuộc là tụi tôi biết ngay, thế nào đêm ấy ông cũng ngồi chong mắt nhìn đêm, rít thuốc lào, rì rầm mắng mỏ cái bàn cái ghế. Có lần tên lý trưởng bảo bố tôi miệng hến. Ông nhấp ly rượu cười: hừ miệng hến chính là miệng tôi.
    Có lẽ chính vì thái độ nén mình đó mà trong xã hội phong kiến nhố nhăng, bố tôi đã tránh được bao tai bay vạ gió. Bố tôi dân mèo mù vớ được cá rán. Ông lấy được mẹ tôi vừa đẹp người, đẹp nết. Suốt đời bà lấy sự hy sinh cho chồng con làm 1ẽ sống. Hồi tôi mới sinh, nhà nghèo lắm, gặp dịp đói kém bữa cháo bữa rau. Mùa đông rét cắt thịt, nửa đêm nước sông rạch cạn, mẹ một mình một bóng gọi mấy bà mấy cô lối xóm dậy đi mò cá. Làng tôi như một hòn cù lao nằm giữa vùng sông rạch, cá tôm tương đối nhiều. Có đêm, chỉ bằng hai bàn tay, mẹ tôi đã mò được cả chục ký lô cá. Bàn tay mẹ đầy vết nứt nẻ, rỉ máu vì vết gai cá trê, cá úc, cá hau đâm nát.
    Một lần nửa đêm, chị Mơ lay tôi gọi dậy:
    - Húng, dậy đi, mẹ chết rồi.
    Tôi tỉnh dậy, nghe nóI mẹ chết liền lăn đùng ra khóc, gọi mẹ khản cả tiếng. Chị tôi dìu tôi ra nhà ngoài, nơi có rất đông người vây quanh một đống lửa. Mẹ tôi đang nằm bên đống lửa như một xác chết. Mẹ tôi bị chết cóng khi đang mò cá dưới sông, rét quá cứng đờ cả tay chân. Mẹ bị cấm khẩu trợn tròn đôi mắt. Mấy bà mấy cô cùng mò cá vội khiêng mẹ về. Những người khiêng mẹ vừa đi vừa ngã dúi dụi vì rét run như cầy sấy. Trời rét đến bảy tám độ vẫn ngâm mình dưới nước mò cá, sao không chết cóng được. Nhưng thật may man, bằng cách sưởi mẹ bên ngọn lửa, bằng hô hấp nhân tạo, bằng cách cạy miệng mẹ đổ vào cả tô nước tiểu trộn gừng giã nhỏ, cuối cùng người ta đã cứu sống được mẹ tôi. Vậy mà chỉ ít đêm sau, mẹ lại nai nịt vào người mấy cái mền rách, theo mấy bà xuống sông mò cá.
    Ngày bé, tôi là đứa trẻ nghịch ngợm nổi tiếng trong làng. Mỗi lần nghịch phá, bị hàng xóm đến nhà la rầy, hoặc phàn nàn kêu ca với mẹ, mẹ tôi lại ngồi khóc. Hóa ra tôi sợ nước mắt mẹ hơn đòn roi của bố. Nhìn mẹ khóc, tôi thấy quá đau lòng, còn hơn những con lươn của bố hằn trên hai mông đít tôi. Trong nhà, tôi quý nhất con Mận, tức rựa mận, em kế tôi.
    Con bé dại lắm. Mà kẻ dại bao giờ cũng được người khôn mê. Lại vì ở với kẻ dại lời lắm, tha hồ cho ta gạt gẫm. Ai đời, lớn tới bốn tuổi mà Mận vẫn chưa biết đếm. Mẹ tôi đi chợ về chia cho chúng tôi mỗi đứa mười củ lạc. Tôi ăn cái vèo hết phần mình. Nhưng Mận để dành. Nó bóc củ lạc bỏ miệng toan nhai, nhưng sợ hết, lại nhả ra cầm trên tay. Nó lấy ước mơ của mình ra để đếm hay sao mà mười củ lạc rõ ràng, lại đếm thành ra hai mươi mốt củ. Tôi ngồi cạnh Mận làm thân. Đột nhiên, tôi chỉ tay lên mái nhà hô:
    - Mận ơi, nhìn kìa. Con chuột công mất con mèo nhà ta rồi.
    Con bé tưởng thật, vội ngẩng mặt nhìn lên trần nhà, ngơ ngác hỏi với cái giọng ngọng nghịu: âu... âu...? Xưa nay, nó mới chỉ biết một vế thật là mèo tha chuột. Hôm nay, ông anh quý hóa bỗng phát hiện ra điều kỳ lạ của vế thứ hai, dù thật ngược đời, nhưng đang xảy ra trên trần nhà: chuột công mèo, lẽ nào nó không ngó cổ lên nhìn cho được. Vậy là tôi tranh thủ lúc con em mất cảnh giác, thò tay sang phần quà cho nó, thó mất dăm sáu củ lạc rang chứ ít gì đâu. Tuy vậy, khi không nhìn thấy điều anh vừa chỉ, nó lại cúi xuống đám lạc, vẫn còn hai mươi mốt củ mới lạ chứ. Bằng những cách thức lừa mị như vậy, tôi đã dụ dỗ và bóc lột gần hết số lạc của em gái mới thôi. Trong ký ức tuổi thơ của Mận, vẫn mơ hồ có một con chuột tha con mèo, nhưng nó đã không nhìn thấy. Sau này lớn lên, tôi đã học được cái đức tin thơ ngây của đứa em gái, để suốt đời ngơ ngác đi tìm cho ra một con chuột vô hình vừa tha mất con mèo đời sống. Con người từ bao đời nay, hình như vẫn chưa chịu tuyệt vọng, vẫn dùng hết cách để cố tìm ra cái chưa có thực bằng cả nhiệt tình của mình.
    Mận là cô bé thật lạ. Mỗi lần ăn xôi đậu đen, nó vẫn băt tôi nhặt hết đậu ra mới chịu ăn. Nó bảo:
    - Xôi gì mà toàn ruồi là ruồi.
    Trời, đậu đen, những hạt vừa bùi vừa béo ngon vậy mà em gái tôi cho toàn là ruồi. Tôi thì vô cùng thích xơi cái giống ruồi béo ngậy đó. Tôi không giải thích dài dòng làm gì cho mệt, rằng đậu đen ngu ạ, ruồi biết bay cơ mà, thứ này cũng đen cũng bé như vậy, nhưng đâu có biết bay. Nhưng tôi biết tính con nhóc này, nó đã phán là ruồi, thì có chết, đậu đen vẫn cứ phải là ruồi.

  4. A6188

    A6188 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/09/2002
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    0
    Tôi nhanh nhẹn nhặt hết ruồi trong đĩa xôi em gái, rồi cho vào miệng, nhai hết sức ngon lành, thỏa mãn.
    Con Mận kinh ngạc reo lên:
    - Mẹ ơi, khiếp quá, anh Húng nhai ruồi.
    Tôi vừa ăn vừa buồn cười đến phát nghẹn, vừa thương hại đứa em gái ngốc ơi là ngốc. ở đời, nếu là ruồi đi chăng nữa, mà ngon thì cũng cứ nên chén. Từ đó, Mận phục tôi đến sát đất. Nó đi khoe với bọn trẻ con hàng xóm rằng anh Húng nhà tao tài hơn cả thánh, đã ăn bao nhiêu là ruồi. Thấy đám trẻ con lâu la bốn năm tuổi của tôi tròn xoe mắt thán phục, nên tôi càng khoái chí, tự vỗ ngực tao ăn ruồi đấy, khiếp chưa? Nhưng sau cái hãnh diện là đến cái tai hại. Con Oanh, bạn thân nhất của tôi, nhìn tôi tởm quá, tuyên bố không thèm chơi với cái thằng ăn ruồi nữa.
    Tôi đã phải đi cải chính, đi giải thích đến khản cả tiếng, đến suýt đánh nhau với bọn trẻ con hàng xóm, rằng tôi ăn hạt đậu đen trong xôi, chứ không phải ăn ruồi, nhưng chúng dứt khoát không nghe. Tôi đi tới đâu cũng bị trẻ con gọi: ê thằng Húng chó ăn ruồi. Đến nỗi sau này thành danh rồi, có người già vẫn kể về tôi cho con cháu rằng ở tại làng Bình Hải này, ngày xưa có một cậu bé toàn xơi ruồi là nhà văn Trần Hưng đấy. Bởi vì đậu đen đã biến thành ruồi từ thời thơ ấu của tôi. Một thằng oắt con như tôi, dám bắt ruồi ăn, thì thử hỏi trên đời này, còn thứ gì hắn trừ mà không cho vào miệng. Sau này khi đã lớn, đôi lúc tôi vẫn nhìn đời bằng con mắt của Mận nhìn vào đĩa xôi thuở nhỏ.
    Tôi nhớ đến mười lăm mười sáu tuổi, con Mận mới dám ăn bún. Ngày nhỏ, nó cho bún là giun sán. Tôi đã có kinh nghiệm về cái vẻ ruồi tai hại kia, nên không còn thích tham dự vào chuyện bún hay giun của con bé muốn đặt tên lại các sự vật theo sở thích của mình.
    Hồi con Mận đi khoe khắp bàn dân thiên hạ rằng anh nó có tài ăn ruồi, tôi đã lo sợ và buồn vì con bé Oanh không thèm chơi với mình nữa. Nhưng nghĩ lại, tôi không bỏ lỡ cơ hội, tội gì lúc thiên hạ đang phục mình như vậy, lại không xưng vương. Tôi bèn xưng mình là vua. Em gái tôi, tức con Mận làm hoàng hậu. Hoàng hậu năm tuổi mặc quần giải yếm. Đám quan lại lính lác đa số cởi truồng, thò lò mũi, áo xống vá chằng vá đụp. Thằng Tỏi, Lê Xuân Tỏi, con ông Lê Xuân Rồng, giàu nhất làng bên xóm cây đa, hơn tôi hai tuổi, một lần tìm đến. Tỏi là con thứ tư của ông Rồng, một ông để râu cá trê, đi đâu cũng gặp toàn ma là ma. Ông Rồng kể rằng một lần đi đêm, ma đưa ông vào ngồi giữa bụi tre gai, đến độ sáng sớm cả làng kéo ra dùng dao phát tre mới lôi ông ta ra được. Ông Rồng còn kể vô khối chuyện ma tà chỉ nghe đã muốn ù té chạy, nổi da gà, sởn tóc gáy. Thầy pháp khuyên ông nên dùng một thử vũ khí trừ ma rất hữu hiệu là tỏi. Do vậy, ông nhai tỏi như người ăn trầu, mùi tỏi xông lên hôi hơn cú, tanh tanh nhẩn nhẩn rất khó chịu. Bất kể lúc ngủ hay khi thức, trong túi ông lúc nào cũng có một củ tỏi làm bùa hộ mệnh.
    Nghe nói từ khi sử dụng món tỏi ấy, ma cũng đỡ hành ông. Cho nên đứa con thứ tư ông đặt tên là Tỏi, âu cũng là dễ hiểu. Tỏi mặc cái quần đùi xanh đã bạc nhưng chưa hề thủng đít.
    Làng tôi thời đó, trẻ con chỉ cần bận một cái quần không thủng, không vá đã là sự kiện rồi. Ngoài ra Tỏi còn mặc cái áo màu nâu non rất mới. Một điều khiến tụi tôi há hốc miệng là Tỏi còn đi đôi guốc gỗ sơn xanh có vẽ hoa, gõ loong coong lên đường đất rất vui. Đám trẻ con xóm cây thị của tôi từ khi sinh ra đến giờ, chưa một lần được xỏ chân vào guốc dép. Cả bố mẹ chúng cũng suốt đời đi chân đất đó thôi. Tỏi dắt theo năm sáu đứa con trai, đứa nào cũng suýt soát tuổi tôi.
    Tôi đang chơi trò vua chúa, thấy bọn Tỏi tới liền bãi trào. Tỏi tuy lên chín, lớn hơn tôi hai tuổi, nhưng tướng hắn nhỏ thó, vẻ ốm yếu, còi cọc, chỉ duy hai con mắt la sáng quac, khiến gương mặt hắn trở nên rất tinh khôn.
    Bọn con gái phe tôi đa số ở truồng, thấy Tỏi diện quá, bèn trơ mắt ếch ra ngó. Chắc chúng đang thèm khát một bộ đồ lành lặn như Tỏi, lại mơ có cả guốc đi nữa chứ.
    Thằng Tỏi trao guốc cho một đứa mà tôi đoán chắc là lính hầu. Thằng bé kia cũng dân mặc quần thủng đít như tôi, ôm guốc của chủ áp vào bụng rất lễ phép.
    Tỏi gọi tôi:
    - Húng ơi.
    Nó khôn thật, không dám gây sự với đám tôi nên không thèm kêu tôi là Húng chó như đứa khác.
    Con Mận nhanh nhẩu bảo Tỏi:
    - Vua chứ, anh Húng đang làm vua đấy nhá.
    - Gớm, vua mà phải để thiên hạ nhắc, người ta mới biết đấy là vua, thì cũng chỉ là thứ vua hạng bét.
    Tỏi bèn nhỏ nhẹ, gọi cho em gái tôi vừa lòng:
    - Vua ơi.
    Tội gì mà tôi không nhận danh hiệu ấy. Tôi trả lời:
    - Ơi!
    Tỏi nói tiếp:
    - Xin mời vua ra đây nói chuyện riêng với dân.
    Tôi sợ gì mà không ra. Vua mà.
    Khi Tỏi dắt tôi tới sát gốc cây bàng, xa đám thần dân đang ăn tiệc bằng đất và các thứ lá, Tỏi hỏi tôi không còn kiêng nể gì nữa:
    - Tao nghe mày ăn được ruồi hả Húng?
    Tôi giận quá, tính thoi cho Tỏi một quả vào mặt để biết thân. Rằng mày đừng có xách mé, lúc vua, lúc mày, không còn trên dưới gì nữa. Nhưng thấy quân lính của Tỏi quá mạnh nên tôi đành thôi. Tôi đáp cho bù lại cái uy vừa bị hắn xúc phạm:
    - ừ đấy vua thì cái gì mà không ăn được.
    Tỏi cười. Cái cười rất lâu. Hắn móc trong túi áo ra một cái sâu kèn to bằng ngón tay. Đoạn Tỏi đổ từ sâu kèn ra giữa lòng bàn tay mình có đến hàng chục con ruồi thật đã chết, bảo tôi:
    - Biếu mày đắy. ăn đi vua.
    Tôi hoảng quá, xanh cả mặt. Cái thằng cu Tỏi này ranh ma quá, đâu có dễ tin như đứa trẻ khác. Điều gì cũng cứ phải thử cái đã, xem thực hư ra sao.
    Tôi bèn đánh bài lờ:
    - Vua no rồi.
    Tỏi cười ngất, trừng mắt:
    - Mày nói dối đúng không?
    Nó vừa hỏi vừa liếc nhìn cái đám đệ tử hùng hậu của mình, có ý đe nếu mày không khai thật, hãy coi chừng nhừ xương đó con.
    Tôi đành phải gật đầu, ngầm thú nhận mình bịp. Tuy vậy, tôi vẫn chữa thẹn:
    - Tao ăn hạt đậu đen trong xôi cơ. Tại em gái tao bảo tao ăn ruồi đấy chứ.
    Thằng Tỏi nghĩ một lúc bảo:
    - Tao sẽ báo cho tất cả biết mày nói dối. Tao sẽ bắt mày ăn ruồi thật trước đám lính của mày. Căi đồ chỉ quen ăn ruồi giả.
    Tôi van nài nó:
    - Đừng, mày đừng làm vậy Tỏi ơi. Tao nhường cho mày làm vua đấy.
    Tỏi được nước, bèn sỉ nhục tôi:
    - Tao ỉa vào làm vua ấy.
    Tôi xuống nước:
    - Từ nay tao cũng không dám làm vua nữa đâu.
    Tỏi khuyên:
    - Thôi, bỏ cái chuyện ruồi với vua đi. Tao vẫn để cho mày được cái tiếng ăn ruồi nghe chưa!
    Tôi gật đầu. Có mỗi cái tài ăn ruồi, mà nó khui ra là bịp, thì tôi còn gì để làm oai với thiên hạ?
    Thằng Tỏi lại vỗ vai tôi:
    - Mày có thích đi guốc không?
    - Thích.
    - Thỉnh thoảng tao cho mày mượn đi vài bước nghe chưa.
    Ôi chao, được xỏ chân vào đôi guốc có sơn hoa của nó mà đi vài bước, với tôi lúc đó cỏn gì bằng, thật là một đặc ân. Tỏi ra lệnh tiếp:
    - Nhưng tao đi đâu mày phải theo sau đấy. Rồi mày còn phải xách guốc cho tao nữa chứ. Chịu không?
    - Chịu.
    Tỏi bảo tôi:
    - Mày cứ làm vua nước mày đi, tao không cấm đâu.
    Thì ra, Tỏi đã dùng đôi guốc dụ khị được bao nhiêu đứa đi theo. Chính nó cũng quý đôi guốc hơn vàng. Đi học, nó bỏ guốc vào cặp xách, tới trường mới xỏ guốc vô. Trẻ con làng tôi ngày đó, có lẽ duy nhất chỉ có Tỏi là có guốc đi. Bọn tôi chỉ vì mê đi guốc mà chấp nhận làm nô lệ cho nó. Riêng đối với tôi lúc đó, Tỏi còn có một thâm ý. Rằng mày cứ việc làm vua đi, nhưng là đồ vua xách dép.
    Cho tận lúc con Oanh xinh đẹp, bạn thân của tôi bỏ tôi vì ghê tởm cái tật ăn ruồi. Tôi gặp thằng Tỏi nhờ nó cải chính giùm cho, nhưng chính nó còn thề với Oanh là đã chứng kiến cảnh thằng Húng chó ăn hết ba mươi ba con ruồi đực, mười hai con ruồi cái trong một nháy mắt. Từ đó, Tỏi đã dụ được đứa con gái xinh nhất xóm cây Thị, đi theo phe xóm cây Đa của tụi nó.
    Tỏi hay sang nhà tôi chơi. Trưa mẹ tôi đi chợ về, có quà vẫn chia đều cho mọi đứa. Tỏi cũng có phần nên càng thân với tôi hơn. Có lần buổi trưa tôi đang chơi bên nhà hắn, bỗng nhiên Tỏi hét tướng:
    - Húng, ****** đi chợ đã về kìa, tới đầu ngõ rồi đó. Về nhanh không trẻ con nó chén hết bánh đó.
    Tôi chạy hớt hải về nhà, nhưng tìm mãi không thấy mẹ mình đâu. Tôi bèn chạy qua nhà nó, thì thấy mẹ nó đã đi chợ về, chia bánh cho nó và nó đã ăn sạch. Sau này tôi mới hiểu là khi nhìn thấy bóng mẹ nó sắp về, nên bịa ra chuyện mẹ tôi, để tôi cút cho rảnh. Vì nó sợ sự có mặt của tôi, khiến mẹ nó phải cho bớt quà đi. Trò chơi gì Tỏi cũng bày đầu, cũng tổ chức. Nó đã có cái máu cầm quyền, máu ưa thống trị kẻ khác từ khi còn để chỏm.
    Cho hay quyền lực đâu chỉ hấp dẫn thế giới người lớn. Bằng đôi guốc và sự mưu mẹo, thằng Tỏi đã chinh phục được gần hết trẻ con làng tôi ngày bé. Nó đã biết cách trở thành lãnh tụ khi còn trong tuổi đái dầm.
    Tôi nhớ một lần tên Tây đoan trên tỉnh về làng khám rượu. Bọn tôi đang chơi nặn đất thì thấy trẻ con, người lớn ùn ùn chạy ra phía bờ sông như ong vỡ tổ. Không biết chuyện gì, bọn tôi cũng chạy vù đi. Có người nào đó hô: xe đạp, xe đạp. Tiếng hô như ngòi pháo châm vào đám trẻ con đang chen nhau chí chết đổ ra bờ sông. Tôi và hai ba đứa con gái rơi xuống bờ mương ướt hơn chuột lột, mãi mới bò lên chạy tiếp được. Thế rồi tôi cũng chen được ra bờ sông nhìn sang bên kia. ôi chao, một sự lạ lùng.
    Ông Tây đoan mặc quần soọc, đội mũ cát, đi xăng đan đang đạp cái xe gì hai bánh lao vùn vụt. Bọn tôi phục quá, vỗ tay ầm lên.
    Tên Tây đoan dừng lại, dựa xe vào hông, giơ tay vẫy. Chúng tôi càng vỗ tay tợn. Mấy người lớn thi nhau giải thích cho đám trẻ con biết đấy là cái xe đạp, máy móc ghê lắm, phải có bùa phép mới cỡi lên được. Bữa đó có hai đứa trẻ con rơi xuống sông tí chết đuối vì chen nhau xem xe. Đấy là lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy cái xe đạp. Không biết bằng cách nào, một ngày sau, thằng Tỏi đã dụ được tên Tây đoan cho ngồi trên pocbaga để nó chở đi đến cả chục mét.
    Từ đó, uy tín thằng Tỏi càng lên cao một cách khủng khiếp, trong thế giới trẻ con trong làng. Nó đã trở thành thần tượng của đám trẻ con nghèo khổ chúng tôi.
    Đến bảy tuổi tôi mới được học vỡ lòng do một ông giáo già dạy dỗ. Hôm đầu tiên xếp hàng vào lớp, tôi được xếp đứng trước cô bé Oanh. Oanh là con gái bác phó Lãm chuyên hàn nồi niêu và làm lò rèn gần nhà tôi. Trước kia, tôi với Oanh chơi thân nhau lẫm. Nhưng từ khi nghe đồn tôi ăn ruồi, nó khiếp quá.
    Thấy tôi, nó toàn nhổ nước miếng ra vẻ kinh tởm. Oanh nghỉ chơi với tôi để sang chơi với cánh thằng Tỏi. Con bé xinh xắn cho nên đi đâu cũng sướng. Thằng Tỏi cho Oanh mượn guốc đi có khi cả tiếng đồng hồ. Một bên dễ thương, một bên có guốc, chơi với nhau thành ra hai bên đều có lợi. Tôi giận Oanh từ đó. Cái đồ tham phú phụ bần, mới thấy đôi guốc đã hoa mắt lên như vậy, huống hồ trước những bả vinh hoa thật thì còn mê đến mức nào. Thấy Oanh, tôi làm lơ, coi như không có. Nhưng thật khổ thân tôi, con bé vẫn có, vẫn tí tởn. Thấy tôi nó còn nhăn mũi lên, thiếu điều bảo thẳng vào mặt tôi là cái đồ ăn ruồi.
    Hôm lần đầu xếp hàng vào lớp học, Oanh đứng sát sau tôi mà không biết. Có lẽ có đứa quái quỉ nào nghịch, xô hàng lên, khiến Oanh dúi vào tôi, đạp cả chân lên chân tôi nữa trời ạ. Đạp xong, con bé vẫn rút bàn chân nhỏ nhắn, trang trẻo của mình về một cách tỉnh bơ, coi như không có chuyện gì xảy ra vậy. Thực tình, tôi chả thấy đau là gì cả, có khác gì bàn chân mèo êm như nhung đạp phải chân mình đâu. Nhưng khi đó, tôi đang ghét Oanh. Trò đời khi yêu củ ấu cũng tròn, ghét thì bồ hòn cũng méo. Sau này, mỗi lần hồi tưởng lại chuyện đó, tôi chắc chắn Oanh vô tình đạp phải chân tôi chứ nào phải cố ý. Nhưng tôi cho rằng đây là âm mưu của Oanh để làm nhục tôi. Tôi tính đá cho con bé một cú, nhưng thấy bọn con trai trong hàng đứa nào cũng muốn nịnh nọt, muốn lấy lòng để được về phe nó chỉ vì mặt mũi nó đẹp. Tôi vỡ lẽ ra rằng đứa con gái đẹp nào cũng lắm kẻ hầu hạ, nhiều lính tráng lâu la. Tôi dẹp ngay ý định dùng võ lực với Oanh bữa đó. Nhưng tôi để bụng. Tôi là thằng thù dai nhất trần đời à mày dám đạp vào chân ông hử? Nhớ lấy nhé, thế nào rồi ông cũng tìm được cách trả thù đích đáng cho nó có đi có lại. Suốt một tuần lễ sau đó, ngày nào xếp hàng vào lởp, tôi cũng tìm cách đứng sau Oanh, nhưng không lại với những đứa khác. Dù đám con trai mới bằng hạt mít đi nữa, nhưng đã rất thích, rất quý trọng, tìm cách đứng gần đứa bạn gái xinh đẹp. Cuối cùng, tôi đã tìm được cách đứng sát sau Oanh để tìm cách trả thù. Tôi lừa lừa giơ thẳng bàn chân đầy đất cát, đạp hết ga xuống mu bàn chân của đứa con gái sáu tuổi. Thắng lợi rồi, thù đã trả xong, tôi hí hửng đứng nhìn Oanh mếu máo khóc. Chắc là con bé đau lắm, khóc rên rỉ mãi. Nó quay lại vừa chùi nước mắt vừa bảo tôi: Đồ ác, què chân người ta rồi này. Trời ơi, nhìn gương mặt con bé lúc đó, sao tôi thấy nó đẹp làm vậy, dễ thương làm vậy. Những giọt nước mắt của nó làm tôi tan nát cõi lòng. Chính là tôi đau đớn quặn thắt chứ không phải nó. Quả là tôi ác với nó quá. Tôi muốn quỳ xuống đắt, nâng bàn chân bé bỏng của Oanh lên mà vuốt ve, xoa nan cho hết cơn đau. Nếu chỉ có hai đứa chắc tôi đã quỳ xuống thật. Nhưng trước đám đông, dù sao tôi cũng tự ái.
  5. A6188

    A6188 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/09/2002
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    0
    Oanh ngồi xuống lấy tay xoa bàn chân đau. Đoạn nó đứng lên, mắt còn ngấn nước, bảo tôi: Đền chân cho tao đi. Tôi buột miệng trả lời: ừ, tao đền. Tôi nhìn như muốn nuốt sống Oanh vào đôi mắt ốc nhồi của mình. Bao nhiêu thù hận của tôi với Oanh từ trước đến giờ, bỗng rơi mất hết, chỉ còn toàn thương cảm. Có nỗi gì lâng lâng từ gan ruột dâng lên nghẹn lấy họng tôi, khiến tôi trở thành câm điếc. Chắc con bé đã hết đau, lấy tay áo vá quệt nước mắt rồi đứng lên theo hàng vào lớp. Tôi cúi xuống trộm ngam bàn chân phải của Oanh, nơi tôi vừa đạp thẳng cánh với tất cả sức vũ phu trâu bò của đứa con trai bảy tuổi. Bàn chân ấy hơi ửng đỏ lên như đôi má lúc xấu hổ vậy. Oanh bảo tôi phải đền chân cho nó. Nếu Oanh cần bàn chân của tôi, giá có thể chặt được tặng nó tôi cũng vui lòng. Dường như giây phút ấy đã ảnh hưởng còn toàn bộ ý nghĩa cuộc đời tôi. Tôi đã mắc nợ Oanh bàn chân để suốt đời phải trả. Sau này lớn lên, khi có tình yêu, tôi mới hay rằng trong hành trình trần thế, con người ta luôn luôn được đi bằng đôi chân của một người nào đó như là mẹ ta, bạn bè ta hay người con gái ta yêu. Bữa đó vào lớp học, việc đầu tiên là tôi phải tự trừng phạt bản thân mình. Hừ, sao mày dám đạp lên bàn chân của Oanh một cách ác độc như vậy hả? Tôi dùng bàn chân trái tự đạp thật mạnh vào bàn chân phải của mình cả chục cái, đau ứa cả nước mắt. Làm như vậy, tôi thấy an lòng hơn. Tôi đã tự mình trả thù cho Oanh theo kiểu như vậy đó.
    Cũng lạ, từ ngày đó, Oanh không bao giờ gọi tôi là thằng Húng chó ăn ruồi nữa. Tôi nghĩ chắc con bé sợ cú đạp chân trời giăng kia. Rằng đừng chọc cái thằng quỷ sứ ăn ruồi ấy, có ngày nát chân, lấy gì để đi học, đi chơi. Oanh giận tôi đúng một năm, không thèm nhìn, không thèm nói chuyện, dù tôi đã xuống nước đến mức ê mặt. Bấy giờ chúng tôi đã lên lớp một. Nhà hai đứa gần nhau, cùng đi một đường, nhưng cô bé không bao giờ chịu đi chung với tôi.
    Một lần đi học về, tôi đi trước chờ Oanh ở ngã ba cây thị. Chả là cách đây mấy tiếng đồng hồ, không hiểu sao Oanh đánh nhau với hai con bé trong lớp giờ ra chơi, nếu không có tôi xông vào bênh, chắc là con bé đã bị cào mặt, bị giật hết tóc tới mức trọc đầu, vì hai con quạ con kia dữ dằn quá. Vì vậy, sau lần lập công chuộc tội, tôi đã có cớ làm lành với Oanh. Thấy tôi đứng chờ, Oanh có vẻ cảm động. Nó ngồi xuống vệ cỏ, quay mặt ra con mương, tay bứt cọng cỏ chỉ đưa lên miệng nhấm. Tôi liều mạng, gần như nín thở, dịu dàng tới sát con bé gọi:
    - Oanh ơi.
    Oanh vẫn tỉnh bơ, không thèm nhìn tôi, ngúng ngoẳng:
    - Không ai thèm thưa đâu mà gọi.
    Tôi biết sau hơn một năm, cô bé con này vẫn còn tức tôi.
    Tôi hỏi tiếp:
    - Chắc cậu giận tớ năm ngoái đạp vào chân chứ gì?
    Oanh cộc lốc:
    - Không thèm.
    Tôi hạ mình xuống tới mức, có thể biến thành con chó con ngay bây giờ:
    - Húng xin lỗi Oanh.
    Oanh nhìn tôi, hai mắt tròn xoe, cười:
    - Đừng có xin, tớ không cho đâu.
    Tôi chợt thấy cần phải làm một hành động gì ghê gớm, để chứng tỏ sự chân thành hối cải của mình. Tôi bèn nhặt ngay một cái vỏ ốc biêu vỡ bên cạnh, bảo Oanh:
    - Oanh hãy nhìn tớ trừng phạt cái bàn chân gây ra tội lỗi này.
    Không hiểu lúc đó ông trời vì sao lại phú cho thằng lỏi con là tôi một sức mạnh lạ lùng đến thế. Tôi liều mạng, nghiến răng, dùng cái cạnh sắc nhất của vỏ ốc vỡ, rạch một cái thật mạnh vào bàn chân phải của mình, cái bàn chân năm ngoái đã đạp vào chân Oanh để gây ra mối thù suốt hơn một năm nay. Mọi việc xảy ra trong nháy mắt trước cái nhìn kinh ngạc của Oanh. Sau này, nhìn lại hành động rất Chí Phèo ấy, tôi vẫn chưa thể lý giải nổi. Phải chi cái dũng khí này theo tôi cho đến giờ, chắc chắn cuộc đời tôi đã không kết thúc đau buồn và vô nghĩa như thế. Cho hay, cuộc đời ta thành hay bại, tốt hay xấu, nhiều khi lại do những tác động của người con gái nào đó...
    Thấy tôi rạch chân mình chảy máu, để trả thù cho Oanh thì ít, mà để cô bé mủi lòng thương hại thì nhiều, Oanh sợ quá, khóc ầm lên. Xong, cô xé một tờ giấy trắng trong quyển vở học của mình ra băng bó bàn chân cho tôi, nhưng máu vẫn chảy. Vậy là, cuối cùng hai đứa, tôi tám tuổi và Oanh bảy tuổi, đã ngây thơ cào đất bột trên đường để đắp vào vết thương. Do chiến thắng lừng lẫy của cú ăn vạ rạch chân ấy, hai đứa tôi chơi lại với nhau từ đó. Lớn lên, chúng tôi đều được gia đình gởi lên tỉnh học hết đệ nhị rồi đệ tam cấp. Nhớ hồi mẹ tôi cùng với mẹ Oanh dẫn chúng tôi lên tỉnh tìm nhà trọ học. Lần đầu tiên, hai đứa bé nhà quê mới thấy thành phố, thấy điện, thấy nước máy. Việc đầu tiên của hai bà mẹ là tìm mua cho chúng tôi mỗi đứa một đôi guốc, chứ lên thành phố ai lại đi chân đất như ở nhà quê, người ta sẽ chả khinh cho bằng rác ấy. Lần đầu tiên đi guốc đối với chúng tôi thật là cực hình. Lúc đau quai guốc làm bàn chân chúng tôi bị lột da rồi rớm máu.
    Đi được vài đường phố, hai chúng tôi đành phải xách guốc, vừa đi vừa nhìn chân y hệt hai quân ngố rừng. Thấy hàng bán kem que, hai bà mẹ mua cho chúng tôi mỗi đứa hai cây ăn cho biết. Mặc dù từ bé đến giờ đã biết kem kiếc là cái quái gì đâu, bèn ra vẻ ta đây trước mặt Oanh, cầm que kem cắn cái rụp. Trời ơi, hai hàm răng tôi tưởng rụng hết, buốt đến váng óc. Tôi phải nhăn mặt nhổ hết kem ngậm trong miệng ra đường, kêu nóng quá, nóng quá. Đoạn, tôi cầm que kem còn lại thổi phù phù cho nguội. Mẹ tôi cười quá. Oanh cũng cười theo. Cô bé vẫn chưa chịu ăn cái của lạ này, chờ xem cái đã. Mẹ Oanh bảo tôi: Kem lạnh chứ không phải nóng đâu cháu ạ. Lúc đầu bác ăn kem cũng vậy, cứ tưởng nó nóng đến bỏng mồm bỏng miệng, ai ngờ nó lại lạnh buốt đến mức ấy.
    Tôi quê quá, đỏ mặt. Mười ba tuổi rồi mới cầm que kem, đã không biết thì hỏi người ta, lại hay làm ra bộ ta đây sành sỏi, rõ cái thằng không biết ngượng. Tôi tự rủa mình: cái đồ chỉ được nước giỏi ăn ruồi thôi. Trong làng năm ấy chỉ có tôi và Oanh được lên tỉnh học. Số là ba năm trước, bố tôi phất lên được nhờ đi vô tận xứ Mèo, mua được hàng trăm cái ******* với giá rẻ, đưa về tỉnh bán lời quá. Từ đó, bố tôi có vốn khá, buôn bán phát đạt, số cho ông được giàu. Ông bèn mua cả chục mẫu ruộng, cho người ta phát canh thu tô. Thoắt một cái, gia đình bố mẹ tôi đang từ chó nhảy lên voi. Gia đình Oanh số trời cũng ủng hộ. Lò rèn của bác phó Lãm, bố của Oanh suốt ngày đêm phì phà phì phò như voi thở, bếp than rực hồng và tiếng búa đe chí cha chí chát. Bác phó Lãm thuê cả chục người thợ, cung cấp dao cuốc, búa liềm cho khắp cả vùng quê rộng lớn.
    Thằng Lê Xuân Tỏi cũng học trên tỉnh, hơn chúng tôi hai lớp Lúc tôi gặp Tỏi trên trường, cậu ta đã mười lăm tuổi gần như một chàng trai tỉnh thành đi xăng-đan, quần tây xanh, sơ mi trang bỏ trong quần, đầu chải rẽ đôi bóng mượt, nhìn chúng tôi cười cười vẻ chế giễu. Cuối năm 1944, tôi không gặp Tỏi trong trường nữa. Việc Tỏi và một số bạn khác bị đuổi học làm xôn xao anh chị em chúng tôi. Có người đồn vì Tỏi chủ mưu hại hai bà giáo người Pháp dữ như hai con cọp cái, tính cực đoan, hay chưởi dân An nam mít dốt đặc, tuổi đã lớn nhưng chưa có chồng. Nghe đâu Tỏi đã dắt theo hai trò khác lẻn vào chỗ phơi đồ của hai bà giáo bí mật xát ớt, loại ớt hiểm chỉ thiên cay nhất thế giới vào hai cái coọc-xê của hai bà giáo, khiến suốt một tuần hai bà giáo phải nghỉ vào bệnh viện điều trị. Một số đứa thề là đã nhìn thấy hai nạn nhân này, với hai cặp vú sưng to gần bằng bốn quả đồi. Nhưng có nguồn tin nói Tỏi vào hội kín bị đuổi học. Sau này tôi mới biết Tỏi bị cảnh binh Nhật truy lùng khắp nơi. Khi Cách mạng tháng Tám thành công, tôi mới biết Tỏi đã hoạt động ********* từ đó.
    Khi tới tuổi mười lăm, tôi bỗng nhiên trở thành một người khác; hiền lành, ít nói, thậm chí còn có vẻ e lệ nữa là đằng khác. Tôi đã cao lớn, ra dáng một trang nam nhi. Sau bao nhiêu lần nì nèo, xin xỏ, bố tôi đã cho phép tôi đổi tên từ Trần Húng sang thành Trần Hưng. Chỉ cần bỏ đi dấu sắc, thêm cái dấu ư là tôi đã từ thằng Húng chó ăn ruồi nghịch ngợm thành ra một thằng Hưng rồi nghe cuộc đời. Cứ vài ba tháng, tôi lại từ tỉnh về làng xin tiền bạc hoặc để thăm gia đình bà con. Ai gặp tôi cũng ngó, không sao nhận ra cái thằng ngày xưa ăn ruồi nữa. Chả bù cho ngày nào vì thằng Húng chó thù ông Giáp Lộng không cho câu cá, đã lẻn vào bè sạch cam non trên ba cây cam sành nhà ông, tuyệt nhiên không lấy một quả, mà xếp tất cả cam dưới gốc cho ông già biết tay. Húng chó từng rình cho đám trẻ chăn trâu mười ba mười bốn tuổi nhảy sông tắm truồng, mê trò chơi lấy bùa sơn cùng người làm quỷ, bỏ mặc đống quần áo hôi như cú trên bờ. Vậy là Húng chó lẻn tới theo kiểu lính đặc công, ôm cả mớ áo quần ấy giấu tít lên ngọn cây bàng, khiến các cu cậu phải ngâm mình dưới sông chờ tối mới dám mò về nhà. Húng chó tổ chức đám trẻ con vào chùa ăn cắp tượng Phật, lấy bẹ chuổi đóng quan tài đặt tượng, kéo nhau đi như kiến làm đám ma. Húng chó bắt rắn nước buộc vào đuôi chú bê nhà ông Thả, khiến đứa con gái út nhà ông khi gọi bê về chuồng, nhìn thấy sợ quá ngất xỉu. Húng chó giấu cây gậy vạn năng của ông Y, bõ nhà thờ, còn rình bên gốc cây gạo lúc chập tối, giả làm ma dọa ông già bảy mươi, khiến cụ vắt giò lên cổ chạy thục mạng, té đái ra quần. Húng chó bỏ hàng chục trái ké ngựa giấu trong túi áo, rồi thừa cơ xoa lên đầu bọn con gái, khiến chúng phải mệt công lắm mới gỡ nổi trái ké kia ra khỏi tóc. Trời ơi, chuyện nghịch phá của Húng chó tôi có kể thâu đêm suốt sáng cũng không hết. Đến nỗi bất kỳ vẻ nghịch ngợm của bất cứ đứa nào trong làng, người ta đều đổ tội cho nó. Thành ra, tôi bị tiếng oan nhiều lắm, bị đánh chửi nhiều mà nghịch chẳng bao nhiêu.
    Thậm chí nhớ hồi lên tỉnh học rồi, về quê chơi, gặp dịp thuận lợi, tôi vẫn còn nghịch. ấy là lần đi qua sân nhà ông Khoản, thấy đang phơi tượng ông thánh An-rê bằng gỗ mít với nước sơn tuyệt đẹp. Chắc là chủ nhân mang ngài xuống để lau chùi sạch bụi, lại để đầu ngài một nơi, thân ngài một nẻo. Thấy vậy không hiểu ma quỷ cám dỗ làm sao, trông trước trông sau không thấy ai, tôi bèn thó ngay cái đầu ông thánh bỏ vào túi, chuồn mất. Tôi công phu quành xuống chùa ông Lý Đào, bỏ đầu thánh An-rê vào chiếc bát nhang trước tượng Phật Thích Ca. Ông Khoản thấy đầu vị thánh thiêng liêng không cánh mà bay, bèn quỳ xuống làm dấu đọc kinh líu cả lưỡi, đấm ngực mình thùm thụp, tuyên bố là đầu ngài đã bay lên trời, khiến cả làng kéo tới khấn vái om sòm. Chủ nhân bê vị thánh cụt đầu đặt lên bàn thờ, sợ một phép, đi ra lạy, đi vào vái, rồi mời bà con có đạo trong làng đến đọc kinh tập thể hàng mấy chục đêm. Tín đồn nhà ông Khoản có phép lạ bay đi khắp vùng. Người ta ở khắp nơi kéo nhau đến nhà ông Khoản, khấn khứa vị thánh cụt đầu đến độ chen nhau bẹp ruột. Cha xứ bèn nghĩ ra cái kế làm thùng đựng tiền để bà con bổn đạo đóng góp cung phụng thánh An-rê. Nghe nói tiền ấy thu được khá nhiều, nhà thờ và chủ nhân chia nhau. Sau này, một lần thắp hương trước tượng Phật, ông sư ấm chùa Lý Đào thấy tượng đầu ông Tây bằng gỗ, râu ria tùm lum, mắt nhìn không chớp, hoảng hồn la làng. Khi định thần lại, sư ấm kéo cả vãi, cả tiểu vào chùa quỳ xuống lạy đầu ông Tây như lạy tà, làm cả tuần cúng bái. Người xóm đạo nghe tin, tới coi biết ngay là đầu thánh An-rê nhà ông Khoản, bèn nói ngài bay vào chùa giảng đạo cho Phật Thích Ca nghe. Ông Khoản, cha xứ kéo cả họ đạo tới chùa, mang kiệu, xin sư ấm cho rước đầu ngài về, nhập lại với thân đứng bơ vơ suốt mấy tháng không đầu. Đám rước đầu ông thánh đạo có cả sư ấm chap tay đi theo, với tiếng cha cố hát tiếng Latinh, tiếng con chiên đọc kinh vang cả góc trời.
    Ngay bố mẹ tôi còn kinh ngạc vì sự thay đổi tính nết của tôi, huống nữa người ngoài. Từ một đứa trẻ quá quất và oái oăm đó, bỗng nhiên tôi lành như con búp bê, dễ thương và đứng đắn đến độ người làng còn phải nghi ngờ, cảnh giác. Tất nhiên, có nhiều yếu tố làm thay đổi tâm tính tôi. Nhưng cái tác động mạnh nhất, điều cải hóa tôi hữu hiệu nhất chính là Oanh, người bạn gái cùng xóm, cùng học một trường từ thuở tấm bé. Khi Oanh sang tuổi mười bốn, mái tóc nàng bỗng dài kỳ lạ, đen óng ả có thể soi gương được. Môi Oanh chưa hề đánh son mà lúc nào cũng đỏ cháy như màu hoa lựu. Má nàng ửng hồng, cặp mắt lúc nào cũng ươn ướt, lấp lánh, sâu hút còn hơn cả một đời người. Oanh có một chiếc răng khểnh mà thiếu nó, cô có thể mất đi hơn một nửa cái duyên ngầm. Nhiều khi tôi trộm nghĩ một cách dông dài rằng, nhờ chiếc răng khểnh ấy của nàng, mà tôi còn có chỗ bám víu, để vịn vào, không phải trôi tuột đi trong cái cõi đời như trò chơi leo cột mỡ này. Đôi môi Oanh mỏng nhưng lạ là cô rất ít nói. Từ khi sang tuổi mười ba, tôi đã thấy Oanh toàn nói bằng mắt. Dường như mỗi tia nhìn của Oanh là một tín hiệu, tôi đã học được bằng một phương pháp đặc biệt của linh cảm, không cần qua cái miệng phiên dịch. Sống mũi Oanh cao nhưng hơi ngắn, có người đoán rời sau này sẽ khổ vì tình. Oanh càng lớn càng đẹp, một vẻ đẹp hiền hậu, thùy mị của một thôn nữ biết kết hợp với nét đẹp sắc sảo, nhạy cảm của cô gái thị thành. Đến đây, chả giấu gì các bạn, tôi xin khai thật là mình đã yêu Oanh không biết tự khi nào. Tình yêu biến cải con người hơn mọi phép lạ. Tmh yêu chính là động lực sống của tôi suốt tuổi thơ đến tuổi trưởng thành. Hồi còn thiếu nhi, chúng tôi kêu nhau lúc mày tao, lúc cậu tớ, lúc Oanh Oanh Húng Húng.
    Đến khi sang tuổi thanh niên, xưng hô với nhau là gì cũng thật ngượng ngùng. Chúng tôi bèn cứ gọi trống không cho tiện rằng có cuốn truyện mới của Nguyễn Công Hoan hay lắm gởi cho để đọc đây. Hoặc sáng mai nghỉ học về quê, có đi không? Hay mẹ gởi lên cho ít trái na, ăn đi...
    Tuổi mười bảy mười sáu ngày xưa sao đẹp vậy. Hai đứa ngồi bên nhau trên băng ghế chiếc ca-nô đang thả xuôi dòng, đã từng quen thân nhau từ hồi mới tập đi, vậy mà vẫn không dám ngồi sát vào nhau, vẫn để một kẽ hở đủ con mèo chui lọt. Chỉ còn khi hành khách chen nhau, đẩy hai đứa sát vào nhau khiến nàng dúm người lại như phải bỏng. Oanh mặc quần lụa đen, áo cánh trắng, tóc kẹp đuôi gà, hai tay ôm cặp sách để trong lòng, má đỏ ửng, mắt ngó lơ cửa sổ con tàu. Tôi ngồi cạnh nàng, nửa phần sung sướng hồi hộp, nửa phần ngây ngô, nghiêm trang, mắt lúc nào cũng nhìn thẳng, đến mỏi cả cổ cũng không dám quay ngang quay ngửa. Nếu lúc bấy giờ người quen gặp chúng tôi, chắc chắc đoán hai đứa giận nhau, vì cô ngoảnh đi đàng cô, cậu ngoảnh đi đàng cậu. Trên dòng sông quê hương, chúng tôi đã cùng lên xuống bao lần. Những làng xóm bên sông với mái rạ màu đất, tháp chuông nhà thờ cao, khóm tre gù lưng kẽo kẹt. Tháng sáu vào hè, chúng tôi ra bờ lúa ngắm trăng buổi tối. Hai đứa cứ tần ngần như khách lạ. Chỉ có trăng, có gió, có hương lúa biết chúng tôi nghĩ gì. Đối với tôi suốt thời ấy, mọi hình ảnh chính là Oanh hóa thân và ngược lại.
  6. A6188

    A6188 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/09/2002
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    0
    Cách mạng tháng Tám năm 1945, tất cả học sinh chúng tôi đều tham gia đoàn biểu tình lao vào tòa thị chính, cướp chính quyền từ tay Nhật Pháp. Rồi giặc Pháp chiếm lại thành phố quê hương. Tôi chưa kịp lấy bằng tú tài đã theo đoàn vệ quốc lên chiến khu chống Pháp. Tôi mặc quân phục lính vệ quốc quân, áo trấn thủ, mũ calô, đi giày đinh lộp cộp, vai khoác súng trường đến tìm Oanh chia tay trong tiếng đại bác ban ầm trời. Oanh trọ học trong một nhà bà con tại khu phố nhỏ. Lúc ấy tối rồi, trời rét như cắt, trăng non lờ nhờ trong sương, phố xá không ánh điện. Thấy tôi đến, Oanh hớt hải chạy ra liền. Nàng mặc một chiếc áo len mỏng, cổ quàng khăn vuông màu tím, quần lụa Hà Đông, kéo chiếc guốc lộc cộc hỏi trong hơi thở:
    - Anh đi hả?
    Tôi trả lời cộc lốc:
    - Đi! Oanh nhìn đó, súng ống đạn dược đủ cả.
    Chính ra, lúc ấy, tôi cần phải ôm lấy nàng, để suốt đời không bị cái buổi tối buốt giá tháng mười hai ấy theo ám ảnh giày vò mãi.
    Không hiểu vì rét hay xúc động, tôi thấy Oanh run lập cập.
    Tôi đứng sát vào Oanh bên cạnh cái cột điện gãy như kẻ chết đói, nói rất nhanh, hổn hển:
    - Tạm biệt em.
    Nói xong, tôi run bắn lên, như thể cục cao su bật ra khỏi chỗ đứng. ấy là lần đầu tiên tôi kêu nàng bằng em một cách nghiêm chỉnh và trang trọng như không khí của những ngày tháng ấy.
    Oanh nói như khóc trong tiếng gió bấc:
    - Nhớ viết thư cho em.
    Vừa nói Oanh vừa cầm tay tôi như nâng đỡ một đứa bé.
    Bàn tay nàng ấm áp như con chim trốn tuyết của Pôn Galucô tôi vừa đọc, đã đậu vào tay tôi.
    Trong đêm tối của chiến tranh và giá rét, tôi nắm chặt lấy tay nàng, cúi xuống hôn ngấu nghiến vào từng ngón tay búp măng tuyệt đẹp, rồi bỏ chạy như thể một kẻ chết đói cướp để ăn. Tôi nghe tiếng Oanh chạy đuổi theo sau lưng một đoạn mới chịu dừng lại, để nhòa vào bóng tối của đêm tháng chạp biệt ly rét đến nỗi, những thanh sắt bên đường han rỉ cũng phải quằn quại lên, cong queo lên.
    Chạy đến đầu phố, tôi ngoái lại, chìa tay ra vẫy, nhưng chỉ có những tiếng nổ ghê rợn của đạn đại bác, đạn moọc-chê của quân Pháp vạch tửng đường đỏ lừ như máu từ phía sông ban vào thành phố đáp lại.
    Chương 3


    Tôi sẽ là một kẻ vô ơn bạc nghĩa, là tên vô lại, nếu tôi đang tâm phủ nhận quãng đời đẹp nhất, ý nghĩa nhất đã hình thành nên nhân cách, nên vẻ đẹp tâm hồn tôi là giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Chín năm sống chết gian khổ đỏ, chính là tình yêu của tôi với Oanh. Giờ đây, hơn bao giờ hết, trong lúc đau buồn gần như tuyệt vọng, tôi cần ngoảnh lại giai đoạn này để tìm lại những điều thiêng liêng đã mất, tìm lại cái ánh sáng cao cả từ mắt bao đong đội tôi đã vuốt trước khi chôn cất họ, đặng vịn vào những ước mơ nửa vời ấy, hoài vọng gãy cánh để gượng dậy sau bao nhiêu vấp ngã và thất bại. Cuối năm 1953, tôi đang là đại đội trưởng một đại đội bộ binh mũi nhọn thọc sâu trong chiến dịch Tây Bac thì bị thương nặng, phải đưa về tuyến sau điều trị. Khi tôi ra viện cũng là lúc chiến dịch Điện Biên Phủ đang bước vào giai đoạn ác liệt nhất.
    Dù cố nằn nì xin về đơn vị chiến đấu, tôi vẫn bị phân công về làm phóng viên của tờ báo sư đoàn đang ém quân bên kia Phú Thọ. Chả là từ năm 1948 tôi đã viết lách, đã cộng tác với một vài tờ báo, tờ tạp chí của đơn vị và của trung ương. Tôi đã gởi đi in báo những mẩu tin, bài báo, thơ và truyện. Thành ra, tên Trần Hưng đã ít nhiều người biết đến, nhất là các vị chủ báo đơn vị đang săn lùng những bạn viết. Hôm ấy trời lác đác mưa. Cơn mưa đầu mùa đến quá sớm, khi sương mù chưa kịp rút đi sau những tàn cọ xoè Việt Bắc. Tuy nhiên, trời vẫn còn hoe hoe lạnh. Tôi về đến đơn vị lúc trời đã chập choạng tối. Người ta dẫn tôi vào cái lán nhỏ lợp lá cọ, núp dưới bóng rừng cổ thụ. Đấy chính là tòa soạn báo Chiến Thắng của sư đoàn, đơn vị công tác mới của tôi.
    Một người cao to mặc quân phục chỉnh tề, mũ lưỡi trai vải mềm, xanh-tuya to bản, đeo súng lục gọn gàng, đi giày vải theo kiểu chí nguyện quân Trung Quốc giúp Triều kháng Mỹ, tay xách chiếc đèn chai có chụp to, đến chào hỏi tôi với một giọng thân mật:
    - Xin chào đồng chí Trần Hưng.
    Tôi đứng nghiêm chào lại, xưng tên tuổi cấp bậc rồi ngồi xuống bên cạnh người ấy.
    Anh tự giới thiệu mình là Nguyễn với bút hiệu Tràng Giang, chủ nhiệm kiêm tổng biên tập tờ báo. Trời ơi, té ra ông Tràng Giang, người đã viết khá nhiều bài báo, nhiều ký sự lý thú mà tôi đã được đọc ngay từ những năm đầu kháng chiến. Thật may mắn cho đoạn đời đầu làm báo làm văn của tôi, lại có được một người thủ trưởng mình từng phục, từng biết. Tràng Giang với râu quai nón cạo xanh biếc, ăn nói mềm mỏng, có duyên, giọng Hà nội rặt, đi đứng khoan thai, tự chủ, đủ biết anh xuất thân từ một gia đình dòng dõi. Tràng Giang hơn tôi đúng mười tuổi. Trước kia anh là sinh viên luật, ngày toàn quốc kháng chiến từng ở đội cảm tử quân. Anh đã bị thương nhiều lần mới lên được quyền chính ủy trung đoàn, được cử đi Trung Quốc học về khoa lãnh đạo chính trị trong khâu báo chí văn nghệ.
    Nghe anh em nói, cấp trên đưa anh về phụ trách tờ báo sư đoàn này cốt để thực tập, đặng mai mốt sẽ giữ những chức vẻ trọng yếu hơn.
    Sau khi lo chỗ ăn chỗ nghỉ cho tôi, Tràng Giang bèn tập họp cả cơ quan gồm phóng viên, biên tập, in ấn, phát hành, hậu cần chừng hơn chục mạng quanh bàn trà để mừng người lính mới.
    Anh giới thiệu tôi với mọi người thật trân trọng. Rằng đồng chí Trần Hưng tuy mới viết nhưng đã chứng tỏ là một cây bút có tài năng, nhạy bén trong thể ký và sâu sắc trong truyện ngắn. Hóa ra, Tràng Giang đã đọc tất cả những gì tôi đã viết. Chính anh đã chủ động đặt vấn đề với sư đoàn xin tôi về làm báo. Tôi được giao lo phần văn nghệ của tờ báo, cụ thể mỗi tuần phải kiếm được vài bài thơ, ít bài ca dao, vài mẫu truyện ngắn. Tôi lao vào công tác với tất cả nhiệt tình của tuổi hai mươi sáu tràn đầy mơ ước.
    Trong cuộc sống, Tràng Giang bao giờ cũng rất mẫu mực, đi đầu, không như đa số các loại cấp trên hiện nay chẳng bao giờ chịu thực hiện những điều mình nói, mình hứa. Sáng anh dậy sớm hơn mọi người, tối ngủ muộn hơn mọi người. ăn uống có một tí anh cũng nhường nhịn, luôn giành phần việc nặng làm. Tràng Giang gần như không còn cái gì của riêng mình, kể từ ngày vợ và con anh bị bom Pháp giết chết. Tất cả cuộc đời anh từ vật chất đến tinh thần đều là của tổ chức, của tập thể. Anh sống quy tắc, đúng giờ giấc còn hơn cả đồng hồ. Ngày nào cũng như ngày nào, từ việc rửa mặt, vệ sinh còn các động tác của cơ thể, dáng đi, nếp đứng đều dập theo một nguyên tắc bất di bất dịch, lặp đi lặp lại theo một thói quen, một quy luật. Anh cũng yêu cầu mọi người phải giữ nguyên tắc trong từng nếp nghĩ, nếp cảm. Với anh, tất cả đều phải có tổ chức, dù là những điều sâu kín nhất của con người. Thậm chí, trong một buổi họp, anh tuyên bố ngay cả những giấc mơ trong lúc ngủ cũng không được miên man dông dài, nhất nhất phải có tính tổ chức, tính kỹ luật. Sau hai tháng sống, làm việc bên cạnh Tràng Giang, tôi thấy anh tốt như một vị thánh của cách mạng. Anh giải thích cho chúng tôi về mục đích của chủ nghĩa cộng sản là dần dần sẽ tiêu diệt cho bằng hết cái ác trên mặt đất. Thế giới đại đồng chính là một thiên đường thực sự. Sau này, trải qua nhiều cay đắng, ngoảnh nhìn lại luận điểm ấy của Tràng Giang, tôi thấy nó phi biện chứng một cách tức cười, ảo tưởng và ấu trĩ quá. Đúng, hành trình của con người luôn luôn là một hành trình chiến đấu với cái ác trong bản thân mình và đồng loại. Tồn tại, chính là một quá trình tự hoàn thiện. Chính thiên nhiên đã mách bảo con người điều đó. Nhưng tham vọng diệt trừ hoàn toàn cái ác trên đời này là điều không thể nào đạt được. Bởi vì, không có cái ác thì cũng chẳng có cái thiện, cũng như không có bóng đêm thì làm sao có nổi ban ngày. Chính quy luật đối lập để tồn tại này Hê-ghen đã dạy chúng ta. Đã bao nhiêu nghìn năm từ ngày xuất hiện Do Thái Giáo, Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo... nhân loại đã có nhiều tôn giáo. Hàng tỉ người đã giành cả cuộc đời mình, đã hy sinh cả hạnh phúc tình yêu, sống cuộc đời hành xác cốt để đạt được thiên đường sau khi chết, một thiên đường bịa đặt không có thật. Không, đã đến lúc đừng biến chủ nghĩa cộng sản thành ra tôn giáo với đầy những tín điều và các vị thần linh của nó, xui người ta chiến đấu hy sinh cho một ảo tưởng, một thiên đàng không bao giờ có khả năng xuất hiện trên mặt đất. Chủ nghĩa cộng sản nói cho cùng là chủ nghĩa nhân đạo mới, là lý thuyết giải phóng cá nhân và xã hội, giúp con người thoát khỏi những gánh nặng của số phận, tự giải thoát mình và đồng loại khỏi mọi áp bức, nô lệ, huyền hoặc, thói kiêu ngạo và đạo đức giả. Chủ nghĩa cộng sản không đi tìm chân lý tuyệt đối như người ta tưởng, mà nó luôn luôn tiếp cận, tiệm cận cái hoàn thiện. Chưa có một lý thuyết nào trên đời tự vỗ ngực nhận mình là chân lý tuyệt đối, cho dù là lý thuyết của Mác đi chăng nữa. Phải chăng cái đẹp nhất của một lý thuyết là hành động đi tìm chân lý. Chỉ có Chúa mới dám cho mình là tuyệt đối, Phật tự phong mình là duy ngã độc tôn mà thôi.
    Mọi giá trị trên đời này đều có thời của nó. Lịch sử tiến hóa của nhân loại phải chăng là lịch sử của những lầm lẫn được rút kinh nghiệm để không phải lặp lại? Có những điều cách đây ba mươi, bốn mươi năm người ta cho là đúng, nhưng giờ đã sai bét rồi. Cho hay, thời gian bao giờ cũng là bạn đường của lẽ phải. Kẻ biết cách tính tuổi thọ của các loại chân lý chính xác nhất cũng chính là thời gian.
    Tôi còn nhớ ánh mắt Tràng Giang đầy xúc động khi trao cho tôi một tài liệu in rônêo trong một buổi trưa chiến khu. Anh vỗ vai tôi nói nhỏ:
    - Cẩm nang của đồng chí đây. Hãy học thuộc những lý luận kinh điển này, đồng chí có thể sẽ trở thành nhà văn lớn đấy.
    Tôi chưa dám mở bửu bối ra, xúc động quá, cầm tay vị anh thậm chí người ta còn lạm dụng từ ngữ đến kỳ cục khi phê bình nhau rằng trong tư tưởng, đồng chí là kẻ theo chủ nghĩa ăn tạp, hoặc đồng chí là đầy tớ của bọn theo chủ nghĩa đa ngôn...
    Tôi hí hửng như ngô được vàng, vội ôm tập cẩm nang thủ trưởng vừa cho mượn, đọc nhanh mai đã phải trả, mở ra coi mới hay là cuốn Mao Chủ tịch bàn về văn nghệ trong đó phần chính là bài nói ở hội nghị Diên An. Tôi đọc ngấu nghiến như kẻ đói lâu ngày vớ được con gà mái dầu luộc. Tôi thức trắng đêm chép lại tập sách mỏng này chính xác đến từng dấu phảy. Hôm sau, Tràng Giang hỏi tôi tuyệt chứ? Tôi gật đầu. Anh mỉm cười bằng nụ cười mãn nguyện và ngây thơ. Anh nhấn mạnh ý nghĩa triết học của những lập luận về văn nghệ của Mao. Anh giải thích tường tận cho tôi một số khái niệm như mâu thuẫn luận, súng đẻ ra chính quyền, quan hệ giữa hồng và chuyên, chuyên chính và dân chủ, chính trị và văn nghệ. Anh tóm lại bài giảng chớp nhoáng, một thứ trường chính trị bỏ túi rằng, từ khi loài người có giai cấp, chính trị đã là thống soái, là linh hồn của các thời điểm, thời đại. Cho nên, văn nghệ, đạo đức, triết học, thần học, các loại học vân vân đều là công cụ, đều phục vẻ chính trị. Suốt ba mươi mấy năm, tôi đã vác ngòi bút đi theo những lời thần chú ấy, nhưng sao các tác phẩm của tôi vẫn chna đạt được giá trị và sức sống. Có thể là tôi bất tài, nhưng còn bao nhiêu bè bạn, bao nhiêu đồng nghiệp của tôi, lẽ nào họ đều là một lũ bất tài vô tướng?

  7. A6188

    A6188 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/09/2002
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    0
    Đơn vị là gia đình, hơn nữa là một cơ thể sống nên từ ý nghĩ, tình cảm, hành động của mỗi người phải thật thống nhất mọi người hóa thành một người. Tràng Giang dạy chúng tôi hãy biết quên mình đi, quên ưu điểm, quên thành tích đi, nhưng khuyểt điểm thì phải nhớ, phải trình bày công khai trước tập thể. Anh còn dạy chúng tôi: cá nhân tính bao giờ cũng đối lập với tập thể tính. Rằng mấy cái anh cá như cá nhân, cá thể, cá biệt, cá tính, mấy cái cá đối bằng đầu ấy là sản phẩm của chữ tôi đáng ghét, cản đường đến với chữ ta là chủ nghĩa tập thể.
    Thường ngày, cứ chín đến mười giờ tối, cơ quan tôi đều có mục phê bình tự phê bình để trước khi đi ngủ, người chiến sĩ cách mạng được rửa tội trước tập thể, trước cấp trên mà trở nên trong sạch. Người nào cũng phải trình bày tội lỗi của mình từ trong tư tưởng đến lời nói, việc làm. Đôi khi, tôi gần như phải bịa ra tội để qua truông. Nếu không, mọi người sẽ vây lấy anh, đấu anh cho đến khi phải thú tội mới thôi. Có người bạn đã phê bình đồng chí Phong Thi (người làm thơ nhanh như gió trong tờ báo), rằng trên đường đi, đồng chí Phong Thi gặp hai cô gái Nùng xinh đẹp, đã liếc đến rách mắt, toan tán tỉnh nếu không có tôi, chắc đồng chí đã thay vì theo cách mạng, đã đi theo gái mất rồi. Vậy là chàng Phong Thi, sau một hồi bị kiểm điểm, đã bị quy cho tội kêu là tiền hủ hóa. Kinh nghiệm của những cuộc phê bình và tự phê bình tràng giang đại hải ấy là, nếu khuyết điểm anh một, anh cứ nhận ngao lên thành một rưỡi hoặc hai, mọi người sẽ hài lòng cho mình là thành khẩn, không ai còn nỡ quy kết mình nữa. Ngược lại, tội anh đáng mười mà anh chỉ nhận có bảy tám, lập tức cái tội ấy sẽ bị quy lên thành hai ba mươi cũng không biết chừng.
    Trong cuộc sống, tôi luôn cảm thấy có bao nhiêu con mắt vô hình vây quanh, kiểm tra mình kể cả trong tư tưởng, như thể tổ chức lúc nào cũng đặt ở sau gáy anh cái máy vạn năng biết hết mọi sự. Rằng tôi nhìn thấy tất tần tật đấy nhá, liệu mà khai báo xem đồng chí thành thật tới đâu. Không, chẳng cần tổ chức, chẳng cần anh em, tôi đã tự biến thành công an của chính mình. Tự mình rình rập mình, ghi chép để báo cáo lên cấp trên cả những giấc mơ vô tổ chức, vô kỷ luật. Trong những năm tháng dài dằng dặc ấy, tôi luôn luôn mang mặc cảm phạm tội. Tự mình khinh ghét mình, dù sống tốt đẹp tới đâu cũng vẫn thấy mình chưa xứng đáng với tổ chức. Sau chiến thang Điện Biên Phủ, tôi được Tràng Giang phân công về trung đoàn ba một tháng viết chuyện anh hùng. Tôi mừng đến nỗi xuýt vỡ ngực, nhưng vẫn cố kìm lại được. Nơi tôi đến công tác chỉ cách trường Y khoa Việt Bắc, nơi Oanh đang học một ngày đường đi bộ. Lúc lấy giấy tờ đi đường, tôi gặp riêng Tràng Giang:
    - Báo cáo Thủ trưởng, cho phép tôi kết hợp công tác với chết việc riêng tư được không ạ?
    - Nhưng đồng chí có việc gì nào?
    Tôi trình bày người yêu của tôi ở chỗ ấy chỗ nọ, rằng gần hai năm nay chúng tôi chưa được gặp nhau. Rằng tôi xin phép gặp người yêu một lần thôi, nói chuyện một tiếng đồng hồ rồi lại lao vào công tác liền.
    Thần tượng của tôi ngồi im lặng hút thuốc. Anh vẫn đội chiếc kết vải mềm, áo trấn thủ sờn vai, dây lưng to bản đeo súng ngắn, giày vải cũ nhưng sạch sẽ ngăn nắp đến độ, nguyên tắc đến độ chưa hề thấy cách buộc giây giày, cách cài cúc áo của anh có lần nào sai quy củ. Một trăm lần là một trăm lần giống nhau như đúc. Tôi có cảm tưởng từng cái chớp mắt, cách hút thuốc, cách thở khói, cách nghiêng đầu, gạt tàn thuốc của anh không một động tác nào thừa, tất cả đều được đưa lên chương trình từ trước, đều được lãnh đạo và tổ chức từ trước.
    Một lúc lâu, Tràng Giang khẽ nhìn tôi gật đầu:
    - Được thôi. Này, đồng chí đã hôn người yêu của mình bao giờ chưa?
    Tôi thành thật báo cáo:
    - Dạ chưa ạ.
    - Vậy là tốt. Kháng chiến còn gian khổ, ta còn cần phải hy sinh. Khi nào chiến thắng, hòa bình thì tha hồ cho các tướng. Còn bây giờ ta phải biết chế ngự, biết dừng lại. Chứ hôn hít nhau vào rồi nhớ nhung sầu muộn lắm, có khi còn thất tình thất tung, vừa khổ thân, vừa liên lụy đến kháng chiến. Xã hội ta tự do luyến ái, không ai cấm các đồng chí chuyện tình cảm cả. Nhưng trong hoàn cảnh gian khổ này, ngay đến chuyện yêu đương nhau, thậm chí chuyện hôn hít nhau cũng cần phải có tổ chức, có lãnh đạo.
    Tôi ngồi im lặng nghe giáo huấn. Tràng Giang vừa cười ruồi vừa rút thuốc lá mời tôi. Người thủ trưởng tiếp:
    - Này, nhớ nhá đồng chí Trần Hưng, chuyến này công tác là chính, yêu đương là phụ thôi đấy. Đừng có hôn hít nhau sớm quá. Hứa đi, yêu trong sáng thôi nhé.
    - Dạ tôi xin hứa yêu trong sáng thôi. Những chuyện nào không trông sáng chờ hòa bình, chờ về Hà nội ạ.
    - Tốt, đồng chí thấm nhuần lập trường luyến ái vô sản rồi đó. Chúc đồng chí viết tốt, quên việc riêng tư đi để phục vụ tổ chức.
    Vậy là tôi trên đường đi đến trung đoàn ba.
    Nhớ cuối năm 1947, tôi bị thương tương đối nặng phải vào quân y viện điều trị. Suốt cả tháng nằm liệt giường vì chân bị bó bột. Nằm điều trị, tôi buồn khổ, lòng tan nát lắm. Số là trước khi bị thương trên đường chiến dịch tôi bỗng gặp một anh người làng đi dân công. Anh ta cho tôi biết một ít tin nhà. Chị Lá Mơ đã lấy chồng sau khi tôi thoát ly. Em gái Rựa Mận mới mười bảy tuổi cũng đã làm đám hỏi với người làng bên. Thằng Chả Chìa mười lăm tuổi đang đi học. Làng tôi giờ là vùng tề. Bác phó Lãm bố của Oanh trào ********* làm chủ tịch xã, nay lại có chân trong hội đồng tề. Tôi hỏi về Oanh nhưng anh người làng im lặng. Một lúc sau, rít xong hơi thuốc lào, anh mới cho biết Oanh đã đi lấy chồng đâu ngoài Hà nội. Nghe nói chồng của Oanh là chàng công tử bột đẹp trai, con nhà giàu nhưng học hành phải nói là dốt. Nghe chuyện ấy xong, tai tôi ù đặc. Tôi như đánh mất mọi cảm giác, đầu óc rỗng như ruột bí ruột bầu, tim như cũng chang thèm đập nữa trời ạ. Tôi như kẻ bị phục kích, bất ngờ bị nện một búa khai sơn vào gáy. Oanh đi lấy chồng có nghĩa là cuộc đời tôi đã chấm dứt. Oanh vừa là sự sống, vừa là môi trường sống của tôi. Tôi bị chứng mất ngủ hành cho cả tháng. Người tôi thành da bọc xương, hai mắt như hai cái hố đạn moọc-chê. Tôi biến thành một thằng ngố rừng, vô hồn, vô nghĩa. Chính trị viên đại đội biết tôi thất tình, có nỉ non vào tai tôi mấy bài chính trị, thứ chính trị mưa dầm, thoang thoảng hương lài dai dang. Tôi đâm ra muốn chết, cho thoát khỏi nỗi đau khổ, càng nhanh càng tốt. Tôi trở thành kẻ liều mạng trong các trận đánh. Tôi xông vào nơi bom đạn như vào chỗ không người. Đại đội trưởng chưa kịp hô xung phong, tôi đã có mặt trên mũi nhọn. Trong khi tôi muốn chết, thích chết thì trớ trêu thay, đạn tây nó tránh tôi trời ạ. Ngược lại, có nhiều anh nhát gan, xông trận cứ ru rú ở đằng sau, thì lại bị đạn tây xơi ngọt. Chính vì vậy, tôi được biểu dương, được khen thưởng, được ca ngợi hết lời vì lòng dũng cảm vô song, một thứ liều mạng có tên là anh hùng. Trong một đêm công đồn thắng lợi, trước lửa cháy, khói tỏa, xác địch lẫn xác bộ đội còn chưa thu dọn, mùi máu hòa mùi thuốc đạn còn nồng nặc, tôi chợt thấy chính trị viên đại đội mời tôi đến một góc đồn. Người ta xếp tôi đứng vào hàng, trước đảng kỳ, rồi hô nghiêm và kết nạp tôi vào đảng Lao động Việt Nam một cách hết sức bất ngờ. Cho hay là cái anh thất tình đâm ra chán đời tuyệt vọng, muốn chết không phải bao giờ cũng dở, ít ra là trong trường hợp của tôi.
    Sau mấy tháng trời, nỗi đau nguội dần, tôi có vẻ tỉnh ra. Có lúc tôi vô cớ làm một chiến dịch nguyền rủa Oanh. Rằng nàng là quân giết người, đồ phản bội, đứa không tim, con quạ mổ. Thậm chí tôi quy tội cho Oanh là đồ ********* vì dám bỏ một anh vệ quốc quân, để lấy một tên buôn bán ở vùng tề. Nhưng nghĩ lại, tôi thấy mình thật vô lý. Oanh đã hứa hẹn gì với tôi đâu nào, thậm chí tôi cũng chưa một lần tỏ tình với nàng nữa. Tôi đâm ra nguyền rủa mình là đồ hèn. Bao năm đi học với nhau, yêu nhau muốn chết, mà cấm dám mở miệng ra tỏ tình, rằng anh yêu em đến đời đời kiếp kiếp, chết rồi dẫu có hóa thành rắn rết cũng cứ tìm em để quấn quít...
    Tôi tự mạt sát mình cả tháng trời. Rằng hỡi thằng ăn ruồi kia, sao mày cứ nhe răng ra mà sống vô tích sự đến vậy. Rồi tôi bị thương, phải đi điều trị. Nhớ sáng hôm ra viện về đơn vị, tôi hẹn được anh bạn cho đi nhờ một đoạn ô tô. Người bạn lái xe vận tải hẹn tôi ở cổng rừng của quân y viện. Năm giờ sáng tôi đã dậy. Tiếng gà rừng gáy le te uể oải. Rừng vắng đến độ tôi phải hắng giọng lên để đỡ trống trải. Chợt tiếng vượn hú như thể tiếng kèn thời nguyên thủy hiện về thức dậy trong lòng người lính cô độc tất cả những gì là quá khứ. Kỳ lạ quá, chỉ trong vòng một nháy mắt, toàn bộ cuộc đời mười chín tuổi của tôi hiện lên rõ ràng đến mức không sao tin nổi. Đọng lại mọi hình ảnh ấy rốt cuộc vẫn là gương mặt Oanh xâm chiếm cả lòng tôi. Chợt từ phía lối mòn bệnh viện có tiếng chân người đi, tiếng nói chuyện rì rầm. Trời đã sáng rõ. Nang đã hoe vàng trên các tàn cổ thụ. Qua một khúc cua, tôi nhìn thấy bốn năm y tá bệnh viện đang tiến ra phía ngã ba, nơi ở một góc tôi đang ngồi chờ xe. Các cô gái thấy một chàng trai, có ý trêu chọc, nói xa nói gần, cốt sao để tôi phải ngứa mồm lên tiếng. Tôi cúi xuống ra vẻ không thèm nhìn, ra vẻ quân tử không để ý đến bọn nhãi ranh. Nhưng kỳ thực tôi đang đóng vai thằng lác mắt mặt quay đi một nơi, mắt liếc về một nẻo. Tôi thấy hết từng cô một. Ví như cái cô đi đầu mập tròn, mắt nhìn tôi ranh mãnh và thách thức. Cô thứ hai gầy nhom, cao kều, mặt nhỏ choắt lại mà có duyên đáo để... Đến cô thứ tư, tôi hoảng quá, hoa cả mắt. Trời ơi cái răng khểnh của đời tôi. Có lẽ nào đây lại là cô bé có đôi mắt với những tia nhìn xuyên suốt mười chín năm tôi đã sống? Tôi toát mồ hôi hột. Đời luôn luôn tặng tôi những ngẫu nhiên vĩ đại. Cô gái cũng sững lại, mặt tái mét, đóng tia mắt vào người tôi như một cái đinh của định mệnh, khiến tôi mãi mãi được gắn chặt với mặt đất này, đến nỗi, cho dù sức mạnh của cái chết, của hư vô cũng không sao có thể hất tôi vào vực thẳm được. Tôi gọi khẽ:
    - Oanh.
    Cô ấy bước đến cầm tay tôi như kẻ bị thôi miên, rồi đứng sững lại, đôi môi run rẩy như đang lên cơn sốt:
    - Anh.
    Tôi quên khuấy mất chuyện đứng lên, cứ ngồi trên gốc cây, há hốc miệng nhìn người yêu đờ đẫn, ngây dại như thể vừa bị sét đánh chết.
    Oanh khóc. Còn tôi thì thở dốc, làm như bị cọp đuổi đến đường cùng không bằng. Ba cô gái kia cũng đứng như trời trồng nhìn cảnh gặp gỡ kỳ lạ. Hóa ra các cô đi tải thuốc về cho bệnh viện. Đó là lần đầu tiên tôi gặp Oanh tại chiến khu Việt Bắc. Oanh bị gia đình ép lấy chồng, trốn nhà lên chiến khu vừa tham gia kháng chiến, vừa để có cơ hội tìm ra tôi. Oanh vừa lên đây được bốn tháng, là y tá ở khu A, nhưng trời lại bắt tôi nằm tại khu B nên hai đứa không tìm thấy nhau.
    Mãi đến đầu năm 1949, nghĩa là sau gần một năm rưỡi tôi mới gặp lại Oanh. Lúc đó nàng đã vào học trường Y khoa kháng chiến. Lần ấy chúng tôi hành quân qua trường Y khoa, đóng cách trường chừng một tiếng đồng hồ cuốc bộ. Tôi viết mấy chữ, nhờ người quen ở nhà trường gặp trên đường, hẹn Oanh gặp nhau gần chỗ đóng quân. Oanh ra nơi hẹn thật. Nhưng oái oăm thay, khi Oanh tới thì đơn vị tôi vừa nhổ trại chừng mươi phút.
    Nhìn dấu vết, nàng đoán hướng chúng tôi đi. Oanh nhắm mắt nhắm mũi theo lối mòn chạy đuổi theo đoàn quân. Sau này Oanh kể lại, cô đã chạy cả tiếng đồng hồ, khi mệt đứt hơi lại ngồi xuống thở. Cuối cùng nàng cũng đuổi kịp tiểu đoàn chúng tôi.
    Khi nhìn thấy tôi, Oanh đã ngã dúi xuống đất vì mệt quá. Tôi cúi xuống, đỡ Oanh lên, trước cái nhìn thán phục của đồng đội. Người Oanh ướt đẫm mồ hôi, như thể vừa vớt lên từ dưới nước, mặt dù trời rét cắt ruột. Chúng tôi đang hành quân, không thể dừng lại được. Tôi dìu người yêu đi theo đoàn quân đến chừng mười lăm phút, trước những đôi mắt tò mò kèm những lời trêu chọc bóng gió. Chúng tôi chỉ còn cách nói với nhau bằng ánh mắt. Tôi bảo Oanh về, trời sắp tối rồi. Cuối cùng nàng cũng phải đứng lại, ánh mắt rưng rưng, đưa bàn tay bé tí như cái quạt vẫy tôi và đoàn quân. Tôi quay lại phía sau, đi giật lùi một đoạn dài cho tới khi không còn nhìn thấy Oanh nữa. Nhưng rồi Oanh bỗng lại chạy vụt đến chỗ tôi. Nàng rút từ túi áo ngực, trao cho tôi một tấm ảnh nhỏ chụp nàng đang mỉm cười. Phía sau bức ảnh là nét chữ run run như đời nàng: mãi mãi của anh. Oanh còn chạy theo tôi mấy chặp như vậy mới chịu chia tay. Tám giờ tối hôm đó, thân gái dặm trường, Oanh mới về tới đơn vị. Còn tôi đi giữa hàng quân với ý nghĩ: nếu có phải đi ngược cả cuộc đời để được ngắm nàng, tôi cũng sẵn sàng đi giật lùi mãi. Chiều hôm ấy, trong gió rét, lá rụng đầy. Hoàng hôn màu hạt dẻ với chết nắng phai tàn cứ níu lấy tôi không chịu rút vào rừng. Những bông hoa rừng tôi nhìn thấy hầu như đều giấu một chiếc răng khểnh.
  8. A6188

    A6188 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/09/2002
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    0
    Năm 1951 và năm 1952, chúng tôi còn được gặp nhau hai lần nữa, nhưng lần nào cũng vội, cũng trước đám đông, chưa có dịp riêng tư hò hẹn. Bây giờ đã sang giữa tháng năm năm 1954, Tràng Giang cử tôi đi viết chuyện anh hùng trong một tháng. Khi về đến trung đoàn ba, tôi lao ngay vào công việc. Tôi viết thư báo cho Oanh biết, rồi hai đứa tôi hẹn địa điểm gặp gỡ.
    Tôi dừng lại trên vạt đồi thoai thoải mọc đầy cây giẻ, hồi, trẩu xen lẫn những loài gỗ tạp ít người biết tên. Con suối cuối xuân cạn nước, giấu kín trong rừng, chạy rồng rần dưới chân đồi, vẫn không sao bí mật nổi vì tiếng róc rách của mình. Từ ngã tư có tên là ngã tư con khỉ, lội bộ theo chiều nước chảy chậm lắm cũng chỉ mất ba mươi phút là tới đây, chỗ chúng tôi hẹn nhau sáng chủ nhật. Nơi đây có lần Oanh từng đến nhặt hạt dẻ. Dưới tàn cây kín đáo, tôi ngồi trên vạt cỏ mềm bên suối, có mấy bụi mẫu đơn nở hoa lúc trắng lúc đỏ, chờ người yêu. Có tiếng bì bõm từ phía đầu con suối. Tim tôi đập cuống lên. Oanh tới?
    Nàng dặn tôi không cần phải đón, cứ đợi ở chân đồi hạt dẻ này. Dù vậy, tôi vẫn men suối đi lên. Nhìn mãi không thấy người đâu? Hay là nàng nấp đâu đó để hú hòa cho tôi sợ. Lại tiếng bì bõm. Tôi căng mắt quan sát. Hóa ra, không phải người yêu mà là một con rái cá. Tôi lấy hòn sỏi ném và con vật chìm trong nước.
    Hơn tiếng đồng hồ sau Oanh mới tới. Nàng bảo họp đột xuất và hai giờ chiều lại họp nữa, mặc dù là ngày chủ nhật. Người ta đã tìm ra cách giết thời gian một cách tàn nhẫn là tổ chức các cuộc họp liên miên. ừ, các nhà tổ chức cũng có lý của họ chứ. Để cho các người nghỉ ngơi rồi rãi một chết là y như sinh chuyện, lại có vấn đề tư tưởng cho mà xem, nhàn cư vi bất thiện, chi bằng cứ họp là thượng sách. Oanh mặc chiếc áo gụ đã sờn, chiếc quần đen vải thô dày còn khá mới, đi đôi dép cao su mỏng như cái lưỡi mèo, vai đeo cái túi thổ cẩm đựng ít kẹo, mấy viên đường phèn và vài gói thuốc bổ nàng dành dụm cho tôi. Oanh xắn quần cao quá đầu gối, bước bì bõm theo tiếng suối róc rách. Đôi cặp giò nàng thon dài, trắng hong đung đưa bàn chân khỏa nước, mỗi bước chân òa vỡ. trong veo từng chùm bong bóng trắng. Thấy tôi lao ra đón, nàng cười ngượng nghịu, mặt đỏ nhừ. Tôi vừa kêu tên nàng vừa bế thốc người yêu trên tay. Oanh chống cự cho phải phép, miệng không ngớt kêu đừng, đừng, nhưng đôi tay mảnh khảnh, mềm như hai dây kẹo kéo của nàng cứ quấn chặt lấy cổ tôi có trời gỡ ra. Tôi đặt Oanh ngồi trên võng, lấy chiếc khăn bông khô lau từ đầu gối tới bàn chân nàng. Oanh giả vờ như không biết, khẽ xoa bàn tay lên cái mụn vá trên vai áo lính bạc màu của tôi. Trưa ấy, chúng tôi hì hục đào bếp hoàng cầm bên suối, nấu cơm dã chiến ăn với cá hộp chiến lợi phẩm tôi mang theo. Con suối dùng cặp mắt mèo của mình nhìn chúng tôi không chớp. Có tiếng lá rụng mơ hồ. Vài tia nắng lọt qua tán lá rừng rơi xuống, có ý định làm bạc đầu hai đứa chúng tôi. Ngồi bên Oanh, tôi cảm động, hồi hộp đến mức tí khóc. Đôi mắt Oanh, mở to sáng và mọng nước, vừa như chứa đựng toàn bộ niềm vui và nỗi buồn, chứa đựng cả hạnh phúc và bất hạnh của cuộc đời tôi. Ăn cơm uống nước xong, sắp đến giờ chia tay, tôi đặt Oanh ngồi trên võng nghỉ. Tôi ngồi dưới võng, ôm lấy đôi chân người yêu. Từng ngón chân Oanh non nớt đến tội nghiệp, với những móng chân vảy ốc lúc hồng nhạt, lúc lại óng ánh lên cái ánh sáng bí ẩn mà chỉ những người đàn bà đang yêu mới có. Đôi gót chân son của nàng có khi lại chuyển sang màu mận chín, có khi trắng như hoa cau, chứng tỏ nàng đang cảm động. Tôi thương bàn chân Oanh đến nghẹn ngào. Đôi bàn chân nhung lụa này đã phải đi qua chiến tranh và chết chóc, vượt qua bao nhiêu tai ương, bất hạnh. Tôi bỗng nhận ra mình đã đi bằng đôi chân của nàng, từ độ ngày đầu vào lớp học vỡ lòng, tôi đã trả thù nàng bằng cách đạp vào bàn chân nàng, khiến nàng đau phát khóc. Ngồi dưới võng, tôi vuốt ve bàn chân người con gái, khiến nàng co chân lên như tính bỏ chạy. Tuy vậy, tôi đã chộp lại được bàn chân nàng như chộp được con ếch tuổi thơ. Và nhanh như chớp, tôi cúi xuống hôn lên bàn chân đầy tín ngưỡng, đầy phép lạ này. Oanh cười bẽn lẽn, co chân lên võng, lảng sang chuyện khác:
    - Này anh, ngày ấy sao em ngốc quá vậy. Em nhất định tin anh thích ăn ruồi và ngày nào cũng ăn cả vốc.
    Đột nhiên, Oanh nhảy từ võng xuống, ngồi xuống cạnh tôi.
    Nàng tỏa vào tôi độ ấm của cả một đời tôi cộng lại. Có một dòng điện bí ẩn đang truyền từ thân thể nàng sang con người tôi, khiến tôi lơ lửng, như sắp đóng thành băng tuyết và như sắp bốc cháy. Tôi ôm chặt lấy Oanh. Hai đứa cứ ngồi như vậy thật lâu nhìn suối chảy. Tôi bỗng quên hết mọi thứ trên đời: chiến tranh, các nghị quyết, những tín điều, kể cả lời dạy dỗ của Tràng Giang... Trên thế gian này dường như chỉ còn hai đứa chúng tôi ngồi lại. Chúng tôi là đôi tình nhân đầu tiên và cuối cùng của tráỉ đất Dường như nhân loại đã biến đi đâu hết, bỏ lại chúng tôi trong vườn địa đàng của chiến tranh này. Họ đi tìm chiến thắng, tìm quyền lực, bạc vàng và danh vọng. Hai đứa tôi vẫn ôm lấy nhau, cùng ngắm nhau trên dòng suối. Bóng của chúng tôi cứ đung đưa không ngừng, chuyển động không ngừng. Gió rừng, một kẻ mai mối hay tuyệt, bỗng thổi bay từng lọn tóc Oanh sang cổ tôi, xòa lên mặt tôi nhột nhạt. Hay thật, ông trời đang dùng tóc nàng cột lấy đời tôi, như cột trâu vào cọc. Chính những lọn tóc lòi tói kia đã kéo sát hai gương mặt chúng tôi sát vào nhau. Sát, sát nữa, sát tới mãi mãi không cùng tận, không có bờ bến.
    Và tự nhiên, như trời đất ấy, đôi môi chúng tôi tìm tới nhau, vùi vào nhau trong một cơn sốt con người. Cái hôn đầu này chính là dấu son, đóng vào trái tim tôi sự xác nhận của giấy giới thiệu vào đời. Đấy, mày cứ cầm cái giấy có con mộc của nàng mà đi Hưng ạ. Mày sẽ vượt qua tất cả. Đến ngay vị đắng cũng sẽ giúp mày tìm ra chất ngọt. Nỗi đau cũng có thể làm mày sung sướng, sự nghèo khó khiến mày học được cách trở nên giàu có. Nếu không có tiếng máy bay phóng pháo của quân Pháp xẹt ngang bầu trời rừng trưa yên tĩnh, có lẽ đôi môi chúng tôi đã dính chặt lấy nhau đến độ không thể nào gỡ nổi. Tôi hôn hít chưa từng có kinh nghiệm, vụng về quá làm môi Oanh chảy máu. Nhưng rồi chúng tôi lại hôn nhau. Tôi nghe trong đầu lưỡi có vị mặn của máu.
    Hạnh phúc nào không bắt đầu từ một vết thương, một vết rớm máu? Cái ý nghĩ sắp phải chia tay giúp tôi thêm dũng khí. Tôi vùi đầu vào ngực người yêu để tìm lại hình ảnh người mẹ thời bú mớm. Bàn tay tôi chạm phải hai đầu vú nóng bỏng của nàng, như cố tìm nơi để bấu víu vào cái thế giới trơn tuột đầy vực thẳm này. Oanh hất tay tôi ra, mặt đỏ bừng, vặn người như con rắn, quay đầu thở hổn hển thì thầm:
    - Chết em mắt, ôi, anh, chết em mất:...
    Tôi tỉnh táo lại, trở về giới hạn của mình. Tôi vuốt bàn tay lên mái tóc nàng như có ý xin lỗi, Oanh vẫn xấu hổ vùi mặt vào cánh tay tôi kêu chết mất. Tôi im lặng nói thầm: chết làm sao được em ơi. Lẽ nào những người yêu nhau lại có thể chết? Chỉ có những kẻ không biết yêu, không được yêu mới chết, mới hốt hoảng, sợ hãi nhìn ra thế giới thăm thẳm cô đơn này như nhìn vào nghĩa địa. Gió đã thả những lọn tóc của Oanh ra khỏi mặt và cổ tôi. Rừng thở ngây ngất một điệu lá xào xào xa vắng. Nàng đã lách qua suối làm bạc tóc chúng tôi. Oanh không còn kêu chết mất nữa. Nàng im lặng nhìn tôi. Mắt Oanh hoang vằng và mê dại, như người đã khóc thầm một mình trong đêm vắng. Tôi nhìn thấy vệt môi dưới của Oanh mọng chín, sưng lên, đỏ rực như màu hoa lựu. Hậu quả của cái hôn đầu của tôi, một kẻ vụng về nhất trần đời, thô bạo nhất trần đời đã hôn vào đôi môi mềm mại của người yêu theo kiểu cu trâu ngoặm bắp ngô non.
  9. A6188

    A6188 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/09/2002
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    0
    Chương 4
    Kính thưa các đồng chí, kính thưa tập thể và tổ chức. Trải qua tám năm kháng chiến trường kỳ, xét bản thân, tôi thấy mình còn quá nhiều khuyết nhược điểm, nhiều tội lỗi. Theo sự hướng dẫn của cấp trên về đợt tổng kiểm thảo chỉnh cán rèn quân này, chúng ta không nhac đến thành tích và thắng lợi, vì cái đó thuộc về kháng chiến, về tập thể. Do vậy, tôi chỉ xin trình bày những sai lầm, những tội lỗi của bản thân mình để nhờ các đồng chí đấu tranh xây dựng cho tôi. Như chúng ta đã biết, chính trị là thống soái, là linh hồn của mỗi cá nhân và mỗi thời đại. Nếu không có ánh sáng của chính trị do tổ chức soi rọi, tâm hồn chúng ta mãi mãi chìm trong u tối. Vậy mà, có lúc tôi chưa biến được chính trị ra ánh sáng của mình. Có khi, trước trang nghị quyết, tôi chưa có cái rung động mãnh liệt, chưa say mê đến mức hoa mắt, đến nổi gai gốc, đến mức hồi hộp như kẻ si tình đứng trước ý trung nhân. Thật là nhục nhã và xấu hổ cho tôi, thì ra trước những trang nghị quyết, trước những chỉ thị sáng ngời của cấp trên, tôi đã không bị chinh phục, như thời thanh niên từng bị đứa con gái phàm tục chinh phục. Tóm lại, chừng nào tôi chưa biến chính trị thành tình yêu, thành tim óc, máu thịt, thì chừng đó, tôi còn là một người lính tồi của cách mạng, là con chiên lạc đàn của đảng. Trời ơi, có những lúc tôi thật đáng nguyền rủa, vì chong đèn đọc các tác phẩm kinh điển của Mác, Lênin, Xtalin, Mao Trạch Đông... Tôi đã không lãnh đạo nổi mình, để đến mức ngồi ngủ gật. Tôi đã thành một phần tử hữu khuynh tồi tệ, vì đã không thắng được con ma ngủ vốn là đồng minh của để quốc và phong kiến. Như vậy, khác nào tôi đã mắc tội xúc phạm đến các vị lãnh tụ mà mình hằng tôn thờ. Đầu năm 1947, khi quân Pháp phản công quyết liệt, khi phải dự nhiều trận ác chiến đầy hy sinh tổn thất, có lúc tôi đã nghi ngờ ngày chiến thắng của chúng ta. Dè đâu, chỉ trong vòng tám năm, bằng một cái chớp mắt, chúng ta đã làm nên Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, khiến quân Pháp phải bại trận. Một lần nữa, tôi đã tự biến mình thành phần tử hữu khuynh nguy hiểm. Mới đây thôi, khi hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, tôi thấy lòng không vui, còn thắc mắc sao đang đà thắng lợi, lại dừng đánh để đàm, đến nỗi phải chia đôi đất nước ra làm vậy? Điều đó, chứng tỏ tôi là phần tử tả khuynh ngu ngốc và điên rồ nhất. Con người tôi còn chưa vô sản hóa, ý nghĩ và tình cảm còn bị yếu tố tiểu tư sản chinh phục. Rất nhiều khi ngồi trước buổi chiều tà tôi lại thầy buồn buồn, nhớ lại những mổi tình lãng mạn đầy chất tiểu thuyết trước cách mạng. Có đêm nằm ngủ, tôi đã mơ thấy mình yêu đương nhăng nhít với cô sinh viên ngày nào. Thậm chí tôi còn nằm mơ thấy mình ôm ấp người vợ của một đồng chí nữa mới tồi tệ các đồng chí ạ, y hệt như giấc mơ của tên đế quốc vậy. Đã là người cách mạng thì ngay đến cả giấc chiêm bao cũng phải có tổ chức, có kỷ luật. Tôi thành thật lên án và phỉ nhổ bản thân mình trước các đồng chí. Nhớ hồi gian khổ, đói khát quá, có một lần mâm cơm tập thể dọn lên, tôi đã nhìn trước xem miếng gì ngon đến khi vào bàn là nhanh như chớp gắp liền. Chỉ cần một hành động này thôi, tôi cũng đã mắc hai tội lớn với cách mạng. Thứ nhất, tôi không có lòng hữu ái giai cấp. Thứ hai, tôi đã thành tên địa chủ tham ăn, cướp giật từng miếng ngon của người khác, một sự bóc lột trang trợn, dã man. Một miếng ăn bé nhỏ như vậy mà tôi không biết nhường cho đồng chí, thì làm sao khi cần thiết, làm sao tôi dám hy sinh tính mạng vì lý tưởng...
    Tràng Giang ngừng lại giữa chừng bài kiểm thảo viết sẵn, vì xúc động quá mức truớc những tội lỗi tày trời của mình với cách mạng. Anh đang sám hối ăn năn đến rơi nước mắt. Người thủ trưởng của tôi chân thành tới mức, tôi nghi là có những tội anh đã bịa ra để chứng tỏ mình là con chiên số một của tổ chức. Bởi vì thời ấy, anh càng xưng ra nhiều tội thì càng có công với cách mạng. Mỗi người trong đơn vị tờ báo Chiến Thắng chúng tôi phải kiểm điểm ít nhất là một ngày, công khai hết tội lỗi đã giấu tập thể từ ngày tham gia cách mạng. Đây là đợt chỉnh cán, rèn quân, bài phong, đả thực, đấu gian quy mô nhất từ trước tới nay. (Bài phong: bài phong kiến, đả thực: đả thực dân, diệt cá: diệt chủ nghĩa cá nhân, đấu gian: đấu gian dối...)
    Tràng Giang là thủ trưởng kiêm bí thư chi bộ cơ quan nên phải kiểm điểm trước làm gương. Mới nghe anh đọc một phần tư bản kiểm thảo mà tôi đã xúc động nổi da gà. Anh tốt quá, trung thực quá, dám phanh phui đến tận cùng bí mật đời sống mình để tìm cho ra những cái tội vốn chưa có tên gọi. Tôi nhìn anh ngồi lặng, người cứ rung lên trong cơn giận dữ bản thân mình. Anh khổ sở và hối hận đến tội nghiệp, đến tái mét mặt lại, đôi môi, khoé mắt cứ giần giật như kẻ lên đồng. Nhìn anh tôi vừa phục vừa thương hại. Một con người tốt như anh, gương mẫu như anh mà vẫn còn phải run rẩy trước vành móng ngựa của tổ chức, huống hồ là lũ chúng tôi. Tràng Giang tiếp tục đọc nốt ba phần tư bản tự kiểm đầy ắp lời thú tội đến thảm hại của một con rệp, chứ không phải con người, đang tự tố giác mình trước tập thể. Trời, anh lôi ở đâu ra nhiều tội lỗi thế người anh em? Rặt những thứ tội ở trong óc, trong tim, trong giấc ngủ chưa kịp biến thành lời nói hay hành động. Anh có thể chia số tội này cho cả một tiểu đoàn cũng còn dư bị kỷ luật cảnh cáo. Sau đó, mọi người, kể cả tôi đều đóng góp phê bình cho anh. Ngay đến một kẻ ác ý với anh nhất, cũng không tìm đâu ra bằng cứ để kết tội anh, dẫu chỉ bằng một phần trăm lời mạt sát của anh với bản thân mình. Chúng tôi đã quần anh suốt một ngày và một đêm. Cuối cùng, anh tự phong kỷ luật: cảnh cáo ghi lý lịch. Một người tốt đẹp như Tràng Giang mà phải cảnh cáo ghi lý lịch, chắc tụi tôi phải lôi ra ban tuốt mới xứng đáng à trời? Chúng tôi phải dùng biểu quyết đa số để ép Tràng Giang chịu một thử kỷ luật nhẹ như bấc, thứ kỷ luật tượng trưng, là phê bình trước đơn vị. Hành động dũng cảm của Tràng Giang khi kiểm thảo cứ thôi miên tôi, quay tôi như chong chóng, khiến tôi phải xét lại bản thân mình. Mới cách đây mấy tháng, tôi đã được vinh dự là em kết nghĩa của đồng chí Tràng Giang. Hôm đó, sau buổi kiểm thảo thường nhật chín giờ tối, Tràng Giang gọi tôi ra bờ suối, rút từ xách cốt ra tờ báo, soi đèn pin lên trang giữa nói:
    - Này, chúc mừng đồng chí đấy Trần Hưng ạ. Truyện ngắn Từ quả tim đến quả lựu đạn của đồng chí được đăng trên tờ Văn nghệ Việt Bắc. Đây là tờ của sư đoàn cho tôi, xin tặng đồng chí đấy.
    Tôi cảm ơn anh, xúc động vô vàn, có cảm giác mình đã trở thành nhà văn thực sự. Đây là truyện ngắn đầu tiên của tôi được đăng trên tờ báo văn nghệ uy tín nhất thời đó. Truyện kể lại mối tình của đôi nam nữ du kích vùng địch hậu đêm đánh Tây, tặng nhau một quả lựu đạn để làm quen. Từ quả lựu đạn ấy, ai ngờ họ đã gián tiếp tặng nhau trái tim mình. Họ yêu nhau, gặp nhau qua những đêm chống càn, những ngày nhổ bót. Một lần người con gái bị quân Pháp phát hiện ra hầm bí mật. Chúng vừa khui chị lên thì bằng quả lựu đạn cuối cùng, quả lựu đạn kỷ vật của người yêu vẫn đeo bên hông, chị đã chia nửa với quân thù, khiến ba tên giặc phải đền tội. Tất nhiên chị đã hy sinh để không rơi vào tay giặc. Người con trai được tin rất đau khổ và tăng thêm lòng căm thù giặc. Anh quyết định lấy trái tim mình ra không chỉ để làm một quả lựu đạn, mà để biến thành quả bom tiêu diệt đồn Tây ngoài chợ quê anh.
    Tràng Giang rất khen truyện ngắn này của tôi. Anh động viên tôi viết khỏe hơn nữa, cả truyện dài, nếu cần, anh sẽ xin sư đoàn cho tôi điều kiện và thời gian để sáng tác. Trong ánh trăng lờ mờ ngoài bờ suối, tôi lặng ngắm gương mặt người thủ trưởng của mình đang tỏa sáng. Tôi run run đề nghị một điều hằng ấp ủ trong lòng:
    - Đồng chí Tràng Giang ạ, tôi xin phép được nói với đồng chí điều này, riêng tư thôi, có được không?
    - Riêng tư à? Nếu điều ấy không ảnh hưởng đến lợi ích của tập thể thì xin đồng chí cứ nói.
    Tôi trịnh trọng:
    - Ngoài tình đồng chí, quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới ra, từ lâu, tận trong tim gan, tôi vẫn luôn luôn coi đồng chí là một người anh lớn, một người ruột thịt.
    - Ôi, chỉ cần hai từ đồng chí làm tên gọi cho mọi mối quan hệ trên đời này là đủ lắm rồi đồng chí Trần Hưng ạ. Nếu có dịp lấy vợ lại, tôi cũng thích gọi người mình yêu là đồng chí mà thôi.
    Sau này, chủ nghĩa cộng sản, các thế hệ sau sẽ xưng hô bằng đồng chí hết cho tiện và đẹp: đồng chí con, đồng chí mẹ, đồng chí vợ, đồng chí chồng, đồng chí người yêu, đồng chí nội, đồng chí ngoại...
    - Nhưng tôi muốn được nhận đồng chí là anh trai của đời mình. Tôi là con trai cả, chưa từng biết đến tình anh trai lớn là gì.
    Tràng Giang ngồi im lặng. Đột nhiên, anh khẽ hít thật sâu khí trời vào ngực. Đoạn anh nói nhỏ:
    - Được thôi. Tôi cũng rất yêu mến đồng chí. Làm anh một người có tài viết văn như đồng chí khó lắm Trần Hưng ơi.
    - Như vậy là đồng chí đã chắp nhận tôi là em trai của mình.
    - Tất nhiên.
    Tôi vui mừng đến độ muốn nhảy phắt xuống suối. Tràng Giang nắm bàn tay tôi:
    - Không cần phải làm lễ kết nghĩa gì sất. Ta cứ thầm giúp đỡ nhau, thương mến nhau như hai anh em ruột, có trách nhiệm với cuộc đời nhau là đủ lắm rồi.
    Tôi ôm choàng lấy cổ người anh trai:
    - Em cám ơn anh.
    Khi chia tay nhau về lán, Tràng Giang bảo:
    - Trần Hưng phải giữ nguyên tắc này mới được. Thứ nhất, chúng ta chỉ xưng hô anh em với nhau ngoài giờ làm việc, trong giờ hành chính vẫn cứ xưng hô với nhau là đồng chí. Thứ hai, khi có người thứ ba bên cạnh, dù là lúc được phép gọi nhau là anh em đi nữa, vẫn cứ xưng hô là đồng chí.
    Tôi ghi tạc quy ước này để giữ gìn tình anh em kết nghĩa với Tràng Giang. Tôi hiểu anh là một người đặt nguyên tắc lên trên hết. Đêm ấy, duyệt lại bản kiểm thảo của mình, trước tình cảm anh em với Tràng Giang, nhất là trước tấm gương sáng tự kiểm đến lạ lùng của anh, tôi thấy mình phải viết lại bản kiểm điểm, để ngày mai trình bày trước tập thể. Dưới ánh đèn dầu trẩu, tôi đã viết một mạch bản tự thú dài dằng dặc trong ba tiếng đồng hồ. Theo tinh thần của Tràng Giang, tôi hoàn hoàn bị thôi miên trong không khí chỉnh cản rèn quân rất đồng bóng ấy. Tôi kể ra hàng loạt những khuyết điểm, tội lỗi của mình một cách đầy vẻ khoe khoang và tự mãn. Tôi đã học được cách mạt sát mình một cách thậm tệ, biến mình thành con vật thảm hại trước tổ chức kiểu Tràng Giang. Có những điều là khuyết điểm, thời ấy kể ra thì gọi là chân thành, là thiêng liêng, thì ngày nay lại là hài hước. Chẳng hạn như vì không kìm được cái tính tham ăn, vốn là bản chất của bọn bóc lột, mà mấy lần đi qua thôn xóm, thấy chó của đồng bào chạy rông, đã có ý nghĩ bắt trộm được, thêm tí riềng mẻ vào chỉ có nhất. Hoặc có khi tôi đã mắc tội nhớ nhà, đâm ra yếu đuối, khiến tâm hồn bay nhảy lung tung theo kiểu tiểu tư sản. Hoặc đôi khi nhớ những trang sách của Nhất Linh, Khái Hưng, Vũ Trọng Phụng, hay thơ Xuân Diệu, Thế Lữ... chưa xóa được cái buồn rớt, vốn là kẻ thù của giai cắp. Vâng tôi đã kể ra bao nhiêu những tội kiểu đó. Cuối cùng, tôi đã viết những trang kiểm thảo vừa chân thành, vừa sâu sắc, về cái vụ đi viết truyện anh hùng kết hợp thăm người yêu. Rằng tổ chức dặn tôi yêu trong sáng, tôi đã yêu không trong sáng. Thay vì hứa với thủ trưởng Tràng Giang chỉ gặp người yêu một tiếng đồng hồ, tôi đã ngồi với người yêu tới gần bốn tiếng.
    Tôi đọc bản kiểm thảo đúng một tiếng rưỡi đồng hồ. Các đồng chí phê bình góp ý đã gần hết một ngày. Nhưng đến buổi tối, tình hình bỗng xoay chuyển, khi phó thủ trưởng cơ quan là nhà báo Sao Chổi, người điều khiển buổi kiểm thảo tôi, hỏi cho rõ:
    - Yêu cầu đồng chí Trần Hưng giải thích rõ hơn về hành động vô tổ chức vô kỷ luật trong khi đi công tác ghé thăm người yêu? Tôi chưa kịp trả lời thì Phong Thi, người làm thơ nhanh như gió, để theo:
    - Tôi tán thành ý kiến của đồng chí Sao Chổi. Đề nghị Trần Hưng giải thích câu tổ chức dặn yêu trong sáng, tôi đã yêu không trong sáng. Như vậy, có phải là thứ tình yêu phi vô sản, tội lỗi, mang đầy mầm mống ********* hay không?
    Mọi ánh mắt nhìn thẳng vào tôi, sẫn sàng trừng phạt tôi. Như người nhảy lên lưng cọp, tôi không còn đường xuống nữa. Tôi đã chân thành, nhưng tôi không thể chân thành nửa vời được. Tôi phải khai ra hết, khai một cách cụ thể nôm na:
    - Tôi xin thành thật kiểm thảo sâu sắc bản thân trước tập thể. Tôi đã hứa với lãnh đạo chỉ gặp người yêu có một tiếng đồng hồ, nhưng tôi đã ăn gian của kháng chiến thêm ba tiếng đồng hồ nữa. Tôi đã yêu theo kiểu lãng mạn tiểu tư sản, chứ không theo kiểu trong sáng của giai cấp vô sản. Tôi ngừng lời, đầu cúi xuống thắp, với thái độ thành khẩn nhận tội. Trong thâm tâm, tôi muốn người ta đừng chất vấn nữa. Hãy cứ kết tội đi, tôi sẽ nhận tuốt tuồn tuột, nhưng xin đừng bát bẻ tôi mãi vì những chuyện ngồi với người yêu. Tôi bắt đầu cảm thấy là mình dại dột khi khui cái vụ này ra. Thì ra chân thành quá mức đôi khi cũng thật nguy.
    Hồng Nhân giơ tay xin phát biểu. Anh ta là phóng viên nhưng ham sáng tác, đã mấy lần đưa truyện và thơ để đăng, nhưng tôi trả lại vì kém quả. Có lẽ vì vậy, anh ta thù tôi. Nay thời cơ phục thù đã tới, anh ta nhảy ra vồ lấy cơ hội, với một gương mặt bất nhẫn, vừa tò mò vừa thỏa mãn. Anh ta chậm rãi nói:
    - Tôi xin được hỏi đồng chí Trần Hưng nhé. Đồng chí ngồi với người yêu trong hoàn cảnh nào, ở đâu, có ai chứng kiến không?
    - Không có ai cả. Chỉ có hai chúng tôi bên dòng suối vắng, dưới chân đồi hạt dẻ.
    Hồng Nhân tiếp tục hỏi:
    - Vậy thì đồng chí đã làm những gì trong bốn tiếng đồng hồ thơ mộng và ngây ngất ấy. Lẽ nào đồng chí quên rằng toàn dân tộc đang còn hy sinh gian khổ cho kháng chiến? Trong thời gian ấy, chúng tôi tâm sự rồi nấu cơm ăn chung.
    - Nhưng đồng chí vừa nói rằng mình đã yêu đương không trong sáng. Đồng chí đã làm gì người yêu mình đến độ phi vô sản như vậy?
    - Tôi đã hôn cô ấy đến nỗi giập cả môi ra.
    - Vậy là rõ rồi phải không các đồng chí. Một người vệ quốc quân lại hôn hít đến chảy cả máu môi của một người phụ nữ cũng đang tham gia kháng chiến như chúng ta. Các đồng chí có tin rằng sự việc chỉ dừng lại ở chỗ đó không ạ?

  10. i_love_ha_noi

    i_love_ha_noi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/04/2003
    Bài viết:
    209
    Đã được thích:
    0
    ặ hay, truyỏằ?n hay thỏ sao bỏằ< cỏt giỏằa chỏằông thỏ bĂc, mà có gơ nhỏĂy cỏÊm 'Âu mà cĂc bĂc MOD cỏt thỏ? CĂm ặĂn bĂc A6188 nhĂ.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này