1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Ly Thân - Trần Mạnh Hảo

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi A6188, 29/09/2003.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. A6188

    A6188 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/09/2002
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    0
    Tôi được đờng chí Quát, thư ký riêng của bí thư tỉnh ủy dẫn đi dạo quanh vườn trước khi gặp nhà lãnh đạo mà tôi chưa từng được biết mặt. Tôi mê mệt ngắm hết cây quý này đến chậu kiểng hiếm kia. Tôi ngắm con gấu chén mật ong mà chảy cả nước miếng. Kể ra, được làm con gấu cho bí thư tỉnh ủy cũng sướng.
    Quát dẫn tôi vào phòng khách chờ. Anh bấm nút thang máy rồi chui vào cái hộp do chiếc ròng rọc cao quý kéo lên. Năm phút sau, Quát xuống tìm tôi:
    - Đồng chí bí thư mời nhà văn lên phòng khách lầu ba.
    Tôi đi theo Quát như một con lật đật. Tôi đứng trong hộp thang máy và cảm thắy hãnh diện vô cùng, như thể mình vừa hóa thành món hàng đắt giá được đóng hộp gởi đi xuất khẩu lấy ngoại tệ về cho nhân dân tỉnh nhà.
    Thang máy vừa dừng, tôi theo Quát bước ra. Anh ra lệnh:
    - Cởi dép.
    Tôi cởi dép.
    Quát lại bảo:
    - Soi gương.
    Tôi soi vào chiếc gương quá lớn bên tường. Lần đầu tiên trong đời, tôi được thấy mình trong gương từ gót chân lên tới đỉnh đầu. Tôi vừa tranh thủ thời gian vàng ngọc ngắm nghía dung nhan, vừa sửa lại cổ áo, vuốt lại tóc, liếm lại môi cho đỏ, y hệt như người cung nữ trước giờ tiếp quân vương.
    Quát lại dặn:
    - Đồng chí bí thư mời nhà văn dùng cơm chiều. Sau đó xem phim ở phòng bên cạnh.
    Tôi gật đầu cám ơn. Quát lại dặn:.
    - Đừng uống rượu nhiều, sợ nói năng vô ý.
    Quát dẫn tôi vào một phòng khách sang hết ý, với bộ sa-lông bọc da chỉ nhìn cũng đã thắy muổn dính chặt mắt vào rồi. Tất cả đều là những đồ đạc cực kỳ đat tiền và hiếm có, đến nỗi có nhiều thứ tôi chưa từng trông thấy, chưa từng biết nó được gọi là gì.
    Tôi chợt thấy một ông già ngoài sáu mươi nhưng tóc đã điểm bạc, bụng phệ, trán nhăn, thịt trên hai má tròn vo cứ muốn chảy xuống cằm. Ông mặc sơ mi trang muốt, thắt cravat, đi giày phăng-túp thứ dùng trong nhà. Tướng ông cao to, có phần đẹp lão, trông thật có uy, đúng với tư thế của người cầm quyền. Thấy tôi ông đứng lên cười:
    - Ôi Trần Hưng!
    Tôi cảm động đến nỗi chỉ một tí là ngã kềnh ra. Bí thư tỉnh ủy Hoài Bão tưởng là ai té ra là đồng chí Tràng Giang của tôi trời ạ. Từ năm 1958 đến nay, nghĩa là đã hai mươi hai năm, lần đầu tiên tôi mới được gặp lại người anh kết nghĩa, người lãnh tụ của đời tôi, người đã lấy tôi từ đơn vị về tờ báo sư đoàn Chiến Thắng ngày xưa, người đã từng chỉ thị cho tôi viết về cải cách ruộng đắt, viết về kháng chiến chống Pháp.
    Tràng Giang liền ôm lấy tôi, đỡ người học trò mình ngồi vào ghế vì tôi sung sướng quá đã bủn rủn cả chân tay. Tôi vẫn chưa hoàn hồn vì hạnh phúc lớn này, miệng chỉ biết lí nhí:
    - Anh là đồng chí bí thư tỉnh ủy Hoài Bão ạ?
    Tràng Giang cười lớn:
    - ồ chú em khờ quá. Tràng Giang hay Hoài Bão cũng chỉ là một người chiến sĩ cách mạng năm xưa thôi. Hoài Bão là bí danh của tôi khi vào Nam từ hơn hai mươi năm trước. Hôm nay, mời nhà văn đến chơi, chỗ anh em ngày xưa chia củ sắn lùi Việt Bắc
    Tôi cám ơn lòng tốt của người thủ trưởng một thời của đời tôi Chính anh đã chỉ thị cho tôi sống, chỉ thị cho tôi viết văn và lấy vợ.
    Một cán bộ phục vụ gái chừng hai mươi tuổi, xinh đẹp, mặc áo dài xanh, quần lụa trang, thướt tha đến bên bàn, bóc bao thuốc ba số năm, loại anh-tẹc mời tôi hút. Đoạn cô gái pha trà, thứ trà Tàu thực sự, theo bí thư tỉnh ủy nói là một người đàn em vừa đi Hồng Kông mua về biếu. Tràng Giang hỏi tôi về Ruộng và hai cháu Văn và Vương Thi hồi này ra sao. Ông bảo sẽ thư thả đề bạt vợ tôi lên chức phó giám đốc trường đảng của tỉnh.
    Im lặng một chút, uống xong hớp trà, hút một hơi thuốc nhẹ, Tràng Giang bảo tôi bằng cái giọng khi làm việc:
    - Tôi vẫn hằng theo dõi đồng chí từ khi đi B. năm 1959 đến giờ. Hầu như tất cả các tác phẩm đồng chí viết ra để phục vụ các giai đoạn cách mạng, tôi đều có đọc. Sáng tác của đồng chí cơ bản là tốt. Tôi cũng vừa tranh thủ xem cuốn Làng vui. Nghiêm túc mà nói, cuốn này chưa lớn nhưng khá, đáng biểu dương. Thông qua cuốn sách, đồng chí đã làm cho người ta yêu mến hơn những thành tựu vô cùng to lớn của cuộc cải tạo xã hội ở lãnh vực kinh tế mới. Hôm nay, tổ chức trao cho đồng chí một trọng trách khác, đồng chí có nhận không?
    - Báo cáo đồng chí bí thư tỉnh ủy, tôi rất sẵn sàng.
    - Tốt. Hôm qua, tôi có gợi ý cho ban tổ chức, cho ban tuyên huấn cử đồng chí về phụ trách tờ bảo văn nghệ tỉnh Sơn Giang chúng ta, thay đồng chí Đoàn Hứa đi chữa bệnh. Nói chung, không ai phản đối ý kiến của tôi.
    Tôi sướng quá, run ban lên, đến nỗi phát ra một tiếng ho nhỏ. Số phận ơi, thật là có công há miệng, có ngày rụng sung. Tôi cám ơn Tràng Giang bằng những lời cảm động suýt khóc.
    Trong xã hội mà chính trị là thống soái của chúng ta, thử hỏi có người cầm bút nào không mơ ước được lên làm lãnh đạo chứ?
    Vẫn biết rằng quyền lực của các anh quan văn nghệ là thứ quyền lực cò con, nhưng có được thì quả là số zách. Nhà văn mà có quyền, viết tới đâu in liền tới đó, dù dở ẹc thiên hạ vẫn cứ xúm vào mà khen lấy khen để. Rồi thì các thứ bổng lộc sẽ ùn ùn kéo tới Nào giải thưởng, nào đi nước ngoài tì tì. Đi Tây, chỉ cần khôn ngoan bỏ vào vali cải da báo, ít đồng hồ điện tử, vài chục cái quần xlíp đàn bà, dăm cái quần gin... sang nước bạn có đàn em thảy ra chợ trời thu lại vốn, số lời khằm kia sẽ biến thành hàng hóa hai chiều, tha hồ khuân về nào tủ lạnh, nào nồi áp suất, bàn ủi, tivi màu, thuốc lá hay bét cũng một ôm dây mai-so... Lại còn tiêu chuẩn bạn cho từng ngày ăn không hết, phong bì bạn thí cho tiêu vặt, một cuộc phỏng vấn, một bài viết nhỏ, lại phong bì. Trời ơi, rồi còn tiệc tùng khách sạn khách sung, các cuộc gặp gỡ, tiếp tân quốc tế, có khi còn được đọc diễn văn, được ba hoa múa mép trước các nhà văn thế giới. Giờ đây, cơ hội đã tới, cờ đã tới tay, mày trúng số dài dài rồi Trần Hưng ơi.
    Xong cái chuyện làm việc, Tràng Giang đưa tôi xuống lầu hai ăn tối. Tôi thắy một thiếu phụ trên dưới bốn mươi, son phấn trang điểm vừa phải, mặc rốp đỏ chói, đi tất mỏng màu kem sữa, dáng cao to, phốp pháp, mông và ngực loại ômêga tiền hô hậu ủng. Tràng Giang giới thiệu:
    - Đây là nhà văn nổi tiếng Trần Hưng mà anh vẫn kể. Tràng Giang chỉ vào người đàn bà có đôi mắt rất sắc như lưỡi lam đang cứa vào tôi, như muốn giải phẫu cả cuộc đời tôi trong giây phút:
    - Còn đây, xin giới thiệu với Trần Hưng, đây là Thùy Linh, vừa là đồng chí, vừa là tiểu đội trưởng của tôi, là mẹ của đứa con tôi.
    Mọi người đều cười xã giao, cái cười rất nhạt. Tôi khẽ cúi chào bà chị của người anh kết nghĩa năm xưa. Thùy Linh nói giọng Bắc di cư, tiếng bà ta cứ véo von cao thấp như thể lúc nào cũng cần phải sắm một vai diễn gì đó trên sân khấu:
    - A, xin hân hạnh chào anh Trần Hưng. Anh Tràng Giang quý anh lắm, nhắc hoài. Nay anh về làm bí thư tỉnh ta chắc là anh Hưng thích chứ? Thôi, xin mời các anh vào bàn cho, không nguội hết đo ăn bây giờ.
    Bữa ăn dọn thật sang theo kiểu Tây. Người nữ phục vụ mặc áo dài bưng lên hết dĩa này đến đĩa khác. Cô khui chai săm-pa của Tây chính hiệu khai vị. Đoạn, cô mở tiếp một chai mạc-ten. Chúng tôi vừa ăn vừa cười nói ríu rít. Tràng Giang và Thùy Linh tế nhị giới thiệu mối tình của hai người. Năm 1975, Tràng Giang từ rừng về gặp Thùy Linh là cơ sở nội thành hoạt động hợp pháp. Họ yêu nhau ba tháng rồi làm đám cưới. Sáu tháng sau, một cậu quý tử ra đời. Theo một vài người nói nửa kín nửa hở, rằng thời nay trẻ sơ sinh trong bụng mẹ không thích nằm tới chín tháng mười ngày lâu lắc như xưa. Chúng đòi chui ra làm người khí sớm. Bằng chứng là hầu hết các cặp vợ chồng cưới nhau có khi mới được ba bốn tháng, hoặc khá hơn là sáu tháng như vợ chồng ông bí thư này, đã có thể sinh con. Mà quái lạ, mặc dù đứa trẻ ra đời sớm đến ba bốn tháng như vậy, vẫn đầy đủ tóc tai và lớn lên như thổi. Thùy Linh vừa ăn vừa liếc tôi như chớp. Mắt bà ta, môi bà ta toát ra một cái gì có vẻ như chưa biết thỏa mãn, như thể chưa có sức mạnh dương tính nào đủ sức giúp bà ta vượt qua cái hữu hạn của bản thân mình, để đạt tới cái đam mê, cái vô cùng của vô thức. Thùy Linh, theo con mắt trần tục của tôi, xin lỗi các bạn, bà ta là loại đàn bà sinh ra để làm cái việc trên giường hơn là làm cách mạng. Hiện nay, bà ta cùng với Quát là hai thư ký riêng của bí thư tỉnh ủy. Ông anh kết nghĩa của tôi tướng tá lệt bệt hom hem, vừa già vừa phệ thế kia, làm sao đáp ứng cho được một thân thể rực cháy, lênh láng nguồn sống của bà vợ nhỏ hơn ông cả hai chục tuổi này. Tôi trộm nghĩ, một người làm chính trị, nhất là một cán bộ cao cấp như Tràng Giang, lấy vợ quá trẻ và quá khỏe mạnh sung mãn như vậy, thật là một tai họa. Sau bữa ăn, chúng tôi chuyển sang phòng bên vừa dùng trà thuốc vừa xem phim. Tràng Giang bảo đó là phim Mỹ, loại phim dùng cho lãnh đạo nghiên cứu. Khi vào phim, tôi mới hay rằng, phim loại có nhiều màn ******** gay cấn này mà nghiên cứu cái mẹ gì, các bố thưởng thức thì có. Khi tiễn tôi lên xe ra về, bí thư tỉnh ủy đưa cho tôi một tập bản thảo:
    - Cây nhà lá vườn, thơ của tôi với bút danh Hoài Bão đấy. Chú về xem giùm góp ý cho tôi với nhé.
    Tôi cầm tập bản thảo của lãnh đạo như cầm cả sự tiến thân của đời mình. Ba ngày sau, vận may đến gõ cửa phòng tôi. Tôi nhận được quyết định bổ nhiệm làm tổng biên tập tờ báo văn nghệ tỉnh Sơn Giang, kèm theo một chiếc xe du lịch hiệu Pơ-giô và một người lái xe trẻ tuổi. Chỉ trong vòng hơn hai tháng kể từ khi tôi về làm tổng biên tập tờ tuần báo văn nghệ tỉnh, tòa soạn đã nhận được hàng chục bài viết ca ngợi tiểu thuyết Làng vui của tôi. Tôi cho đăng in ít năm bài thôi, vì tôi là người khiêm tốn và tương đối còn biết điều. Đấy thấy chưa, có quyền một tí là văn mình bèn hay lên liền. Vinh quang đến với tôi ào ào đến độ phải chặn bớt lại, sợ thiên hạ ghen tuông.
  2. A6188

    A6188 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/09/2002
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    0
    Chương 16


    Vương Thi hỏi tôi:
    - Bố ơi, thành phố An Hải này sao nhiều người sống ngoài vỉa hè vậy?
    - Ôi do nếp sống Mỹ hóa gây ra cả con ạ. Họ quen hưởng thụ rồi, bây giờ không quen lao động nên đành bán cả nhà cửa đi để đổ vào lỗ miệng.
    - Nhưng con nghe mọi người bảo đó là đám dân kinh tế mới về đấy bố?
    Tôi trả lời cho qua chuyện:
    - ừ cũng có thể.
    - Vậy sao trong tiểu thuyết Làng vui của bố, chính sách giãn dân thành phố, chính sách kinh tế mới thành công rực rỡ cơ mà. Cuộc sống ở vùng kinh tế mới tổt đẹp như bố tả trong sách, sao người ta cứ bỏ về thành phố kìn kìn, nằm vỉa hè đi bới rác sống là sao?
    - Ôi thế mới là những quân dại con ạ. Họ thèm một tí điện thôi... Thiếu không khí xô bồ bát nháo phố thị, họ không sống được, thà làm ăn mày ở vỉa hè còn hơn là anh phú nông dưới quê. Làng mới sướng bắt chết đi mà họ không chịu ở. Bố cũng chịu, chả còn hiểu tâm lý cái đám thị dân này nữa.
    - Con chả tin. Không ai bỏ chỗ sướng đi vào chỗ khổ cả. Bạn con nói đùa: họ, những người dân kinh tế mới từ Làng vui của ****** về đó. Con đau nhói trong lòng.
    Nó chưởi bố mình thâm hiểm như vậy mà vì đuối lý, mình đành ngậm bồ hòn làm ngọt.
    - Thôi, nó nói gì kệ nó con ạ. Làng vui của bố viết ra từ 1978, lúc đó kinh tế mới sướng lắm. Còn bây giờ là năm 1982, phong trào kinh tế mới đổ bể rồi thì liên quan gì đến cuốn tiểu thuyết của bố nào? Bố viết văn chỉ để phục vụ một giai đoạn cách mạng, giai đoạn sau lại có cuốn khác, lo gì.
    - Thế bây giờ bố có dám viết một cuốn truyện về dân kinh tế mới ngủ vỉa hè đầy ra không?
    - Bố chịu. Vả lại, phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa chỉ có quyền viết về cái tốt đẹp. Ngoài ra bố còn làm tổng biên tập báo văn nghệ, bận lắm, chẳng còn thời gian viết dài hơi đâu.
    - Con chả hiểu ra sao bố ạ. Bố cho phép con nói thật nhá. Thời nay những cái giả tạo thì được khen, được trọng dụng. Ví như cuốn sách Làng vui của bố vậy, con thấy chả thật một tị, toàn bịa khiếp lên được ấy.
    - ấy, văn học là hư cấu mà con. Hư cấu là hư cấu cái hình tượng, nhưng phải trên cơ sở cuộc sống, phải trung thành với hiện thực.
    - Bố làm như con không hiểu gì về lý luận văn học ấy. Chả gì con cũng là giáo viên dạy văn cấp hai nhá. Có đứa bạn độc mồm dạy chung với con rêu rao rằng bố cái Vương Thi chỉ là bồi bút.
    Tôi giận tái mét mặt lại, tức sôi máu quát:
    - Đứa nào, con nào dám bảo một nhà văn cách mạng như tao là bồi bút hả? Quân *********, xích cổ nó lại chứ ăn nói vô tổ chức thành quen đi.
    - Này, bố đừng nóng nhá, tên đứa đó là mọi người đấy. Ai đọc sách của các bố mà không phì cười vì sự tô hồng quá đáng. Văn chương của các cụ với lý luận là viết về cái hiện thực sắp có, sẽ có hơn là viết về cái hiện thực đang có. Mà cái xã hội thiên đường tốt đẹp sẽ đến kia thì cóc có ai biết, cũng chẳng có cơ sở nào để nó đến một cách cụ thể. Thành ra văn chương của các cụ đa phần thường ngược lại cuộc sống hôm nay.
    Tôi nạt con gái:
    - Thôi im mồm đi. Mày lại hùa theo chúng nó nói bậy rồi. Giữ mồm giữ miệng không vạ vào thân đấy con ạ. Chuyên chính vô sản đừng có mà đùa.
    - Con cóc sợ. Bố có nhớ hồi xưa ngoài Bắc ở tỉnh X. khi con theo bố về chơi không, lại có cả bài ca hố xí hai ngăn phát trên làn sóng trên đài phát thanh tỉnh đấy. Quan niệm văn nghệ phục vụ dung tục như vậy là một cách để xóa bỏ văn nghệ bố ạ. Đến khi cấp trên phát động phong trào hạn chế sinh đẻ, thì trên tờ báo tỉnh, lại có bài thơ của một nhà thơ chuyên làm thơ thời sự là bài Người đặt vòng hạnh phúc. Rồi lại thấy xuất hiện trên loa công cộng bài hát Bài ca thuốc ngừa thai. Bố còn nhớ chứ. Con chịu thôi, văn nghệ văn gừng cứ vậy, chẳng qua chỉ là trò hề.
    Tôi thu quân:
    - Thôi chuyện của bố, không việc gì đến con.
    - Vì những việc của bố, ảnh hưởng đến danh dự của con.
    Đấy, các bạn có thấy bây giờ lớp trẻ nó chả còn coi ai ra gì nữa không, chúng phủ nhận tất tần tật. Chúng chẳng hiểu gì cả. Vì cuộc sống là cuộc sống, còn văn học lại là văn học, hai cái là hai phạm trù khác nhau như đàn bà không thể là đàn ông và ngược lại. Chúng cóc có hiểu được phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa là gì, là vẽ ra xu hướng của hiện thực chứ không phải dựng dậy hiện thực, giúp con người nhìn thấy tương lai trước khi nó được biến thành hiện thực. Đấy là đôi cánh của quy luật được gọi là phương pháp hiện thực lãng mạn cách mạng. Gần đây, con Vương Thi đã xin trường được một phòng nhỏ ở riêng. Còn anh ruột nó là thằng Trần Văn Văn hiện đã tốt nghiệp đại học, đã tót sang nhà bố vợ tương lai là ông giám đốc một sở lớn để ở cho sướng. Thỉnh thoảng hai đứa con mới ghé về thăm bố mẹ. Thằng Văn ít nói chuyện với tôi, chỉ hay rù rì với mẹ. Nó cho tôi đã suốt đời làm khổ mẹ nó. Bốn thành viên trong gia đình tôi đều ông chẳng bà chuộc. Con cái không còn tin tưởng và kính trọng bố mẹ nữa. Bố mẹ với con cái cũng chỉ là mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, kẻ thống trị và người bị trị. Thành thử gia đình không ra gia đình, cơ quan chẳng phải cơ quan. Từ khi được làm phó giám đốc trường đảng tỉnh Sơn Giang, Ruộng lấy quyền lực làm lẽ sống, ******** yêu. Cô đang hết sức tích cực để khóa tới trở thành tỉnh ủy viên và biết đâu lại còn có khả năng vào thường vụ tỉnh ủy. Người ta đang cần những nhân vật nữ vào các chức vụ quan trọng mà. Ruộng sống như một ni sư đã diệt dục, tập trung hết những năng lượng thừa vào nỗi đam mê quyền hành. Vì đường công danh của mình và hai đứa con đã lớn, Ruộng phải cắn răng, mím môi, thót bụng lại để cố tạo ra hình ảnh của một gia đình nề nếp, có tổ chức quy củ, có văn hóa và hơn nữa là có hạnh phúc. Một hạnh phúc giả tạo trong một gia đình giả tạo. Ruộng hoàn toàn yên tâm về cái khoản gái trai của ông chồng nhà văn bất lực, coi như đã chấm dứt từ lâu. Cô không còn cần phải cảnh giác cách mạng làm gì nữa trên cái mặt trận tình tang nem chả này. Có nhiều lúc Ruộng bảo tôi: anh bị vậy mà hóa hay, mà mẹ con em được nhờ. Nhưng lý trí vẫn thuần là lý trí. Tôi biết rằng nhiều đêm Ruộng đã trăn trở đến quằn quại rồi ngồi dậy khóc thầm. Tội nghiệp Ruộng, cô đang ở giai đoạn cuối cùng của tuổi hồi xuân. Người đàn bà trong Ruộng đêm đêm thức dậy đòi hỏi quyền lợi, đòi được xác lập, được khẳng định, được đốt cháy và thăng hoa cái nhiệt lượng dư thừa của thân xác. Cứ tưởng người cán bộ, người lãnh đạo trong cô đã chiến thắng, đã làm chủ được thân xác mình. Cứ tưởng rằng khi có quyền lực, cô được sung sướng và mãn nguyện. Té ra, đêm đêm về nằm trong một mái nhà với một ông chồng hình nhân, một ông chồng hờ, cô lại thấy thảm thương cho cái số mình sao gặp nhiều oan trái buồn tủi đến thế. Mặc dù cô biết người chồng mình hồn vía chưa từng thuộc quyền sở hữu của cô. Cô cũng biết người tình địch của mình đã chết. Nhưng bằng tiên cảm của người đàn bà, Ruộng biết lòng dạ tôi vẫn cứ rối bời vì cái hình hài đã thành cát bụi. Tôi biết, đôi khi Ruộng thấy con người chính trị trong mình chẳng qua chỉ là một con người giả, chỉ là một âm bản của đời sống mình thôi. Còn con người thật của cô lại nằm ở những khao khát, những đòi hỏi bình thường, được yêu, được hạnh phúc. Khi tự mình phải đối diện với mình, tôi biết cô thấy mình cô đơn một cách kinh hãi. Tất cả không có gì bù đắp được sự hụt hẫng của một người đàn bà không được yêu. Tôi thương vâ an ủi cố nhiều nhưng làm sao giải tỏa được cho bản thân cô. Tôi không còn đốm lửa dù nhỏ nào để sưởi ấm chưa nói đến sự đất cháy giùm cô. Tôi người chồng của cô, người làm cô bất hạnh, chung quy cũng chỉ là một kẻ bất hạnh. Tôi phải vác bao nhiêu niềm vui giả tạo, hạnh phúc giả tạo như vác thập giá đến nơi hành hình. Trong toán học, hai cái dấu âm cộng lại thành dương. Nhưng trong đời sống, hai kẻ bất hạnh cộng lại chẳng thể biến thành hạnh phúc được.
    Giờ đây, tôi chỉ là một tảng băng biết làm tổng biên tập tờ báo văn nghệ tỉnh. Sau cuộc họp giao ban hàng tuần, ông Hai Kỷ, phó ban tuyên huấn mời tôi lại:
    - Tôi có cà phê thứ thiệt, cà phê chồn Buôn Mê Thuột ông nội ơi. Vừa uống, ta vừa bàn một số công việc được chứ?
    - Tất nhiên. Tôi trả lời.
    Chúng tôi lên lầu, vào phòng làm việc của Hai Kỷ. Hai Kỷ pha cà phê, đem ra cả đĩa bánh ngọt, một bao thuốc ngon. Chúng tôi vừa uống vừa bàn công việc. Ông rút từ trong cặp ra một tờ báo, đưa cho tôi. Thì ra là tờ Văn học ngày nay. Hai Kỷ bảo tôi:
    - Ông thử đọc bài thơ bốn câu ở trang mười coi. Thật là một phát súng bắn vào những nguyên tắc bất di bất dịch của chúng ta.
    Tôi mở trang mười. Trời ơi, số tôi sao suốt đời chạy trời không khỏi nắng, đi đâu cũng gặp cái núi lửa này. Thơ của Trần Khuất Nguyên trời ạ.
    Bài thơ thứ nhất có tựa đề là Thương con vạc:
    Đừng trách con vạc
    Sao mày ăn đêm
    Chao ôi đồng đất
    Ban ngày như nêm.
    Bài thơ thứ hai của Trần Khuất Nguyên có tựa đề là Lời cái thớt:
    Số phận cho ta làm mặt thớt
    Kể gì thịt cá nát đời nhau
    Sinh ra là để người ta chặt
    Ta chỉ ăn toàn những vết dao.
    Tôi đọc đi đọc lại đến thuộc lòng, thầm bảo bụng: bố khỉ, thơ hay thật. Trong thâm tâm không phải tôi không phục tay Trần Khuất Nguyên, cái kẻ mới mười lăm tuổi năm 1964, tại công viên thị xã X., đã từng phủ nhận cuốn Lúa reo của tôi viết về hợp tác xã. Cái tay mà trước giải phóng, đầu năm 1975, tôi còn gặp ở chiến khu lúc anh ta là chính trị viên đại đội trinh sát.
    Một số anh em nhà văn chúng tôi, luôn luôn đoán ý lãnh đạo để viết, không có cái nghênh ngang của lớp nhà văn như tay trinh sát này. Nói chung, những người cầm bút thế hệ chúng tôi và thế hệ trước đó, luôn luôn sợ hãi, mặc cảm trước kẻ cầm quyền. Rằng chỉ có những người lânh đạo chính trị mới là cộng sản thứ thiệt. Còn chúng tôi, tuy mang danh đảng viên đấy, nhưng chỉ là những con sứa, những thân phù du biết mang thẻ đảng, không dám đấu tranh, dám sống chết vì sự thật. Tôi là kẻ dù ít nhiều cũng có biết võ vẽ học thuyết của Hê-ghen. Tôi hiểu rằng, một ngòi bút, hơn nữa một nền văn học sinh ra chỉ cốt để khẳng định, để khen ngợi, tô hồng hiện thực dù hiện thực kia có hoàn thiện hoàn mỹ trăm phần trăm đi nữa, thì sự khằng định, sự khen ngợi, sự tô hồng ấy không còn là khẳng định, khen ngợi và tô hồng nữa. Bởi vì, sự khẳng định chỉ có thể là khẳng định, chỉ có thể được tin tưởng, được xác nhận khi nào ngòi bút kia, nền văn học kia học được cách phủ định. Chúng ta, buồn thay, luôn luôn đọc ra rả như ve sầu ngày hạ rằng: sự vật bao giờ cũng được cấu thành bởi các mặt đối lập thống nhất. Nhưng nhãn quan chính trị, nhãn quan kinh tế, nhãn quan văn hóa văn nghệ của chúng ta hỡi ôi, bao nhiêu năm, chỉ nhìn sự vật có một chiều thuận với ý chủ quan của mình, còn chiều nghịch kia của sự vật, chúng ta cố tình làm lơ, coi như nó không có, không còn. Chúng ta hô hoán lên rằng: chủ nghĩa xã hội không còn mâu thuẫn, không còn bi kịch, không có cái ác, chỉ rặt toàn thiện mỹ mà thôi. Sự vật, chính là thế giới khách quan tồn tại ngoài ý muốn con người, vẫn cứ tiếp tục phát triển trong quá trình vận động giữa các mặt đối lập thống nhất của nó, mặc xác các thứ lý thuyết một chiều ấu trĩ đầy duy tâm chủ quan của chúng ta. Trong sự hình thành nhân cách của con người, từng giây phút là các cuộc ác đấu âm thầm giữa thiện và ác, đúng và sai, tốt và xấu, hèn nhát và quả cảm để tự khẳng định tồn tại. Mỗi con người còn thế, huống hồ là cả một đất nước, một dân tộc, sao lại bảo không còn cái ác, cái xấu, không còn đối kháng nữa? Quan niệm về thế giới như vậy, nhìn nhận về sự vật như vậy mà dám vỗ ngực tự xưng là mác xít được ư? Chưa hết, người ta còn tuyên bố đã nam được chân lý tuyệt đối khách quan. Đến ngay Mác và Lênin, những thiên tài sáng tạo ra học thuyết cộng sản cũng chưa từng dám tuyên bố huênh hoang đến thế. Chân lý, khi đã nắm bắt được rồi thì nó không còn là nó nữa. Chân lý hay là khát vọng hướng thiện không cùng của con người, vươn lên nắm bắt cái vô cùng của thế giới. Không một con người nào, một tập thể người nào độc quyền về chân lý cả. Chân lý cũng như khí trời, như ốc-xy, là tài sản của mọi người trên hành tinh bé nhỏ và quá lắm chuyện của chúng ta. Con người muốn thống nhất với chính bản thân mình và thống nhất với nhau, cần phải được mâu thuẫn, được đối lập, được tranh luận, cần biết nghe bằng nhiều lỗ tai và cái quan trọng là phải trừ khử ngay cái thói kiêu ngạo coi mình là ông trời. Có như vậy, chân lý mới có cơ tồn tại và mỉm cười với chúng ta. Vừa đọc đi đọc lại hai bài thơ bốn câu của Trần Khuất Nguyên, tôi vừa ngẫm nghĩ những điều trên. Chúng ta kể cả tôi, xưa nay chỉ quen nhìn nhận và phân tích sự vật có một chiều thuận với ý muốn chúng ta. Đến khi cần phải lật ngược vần đề lên một chết là đã sợ phạm húy, phạm vào những giáo điều cứng nhắc mà người đại diện của nó là ông Hai Kỷ đang người pha trà trước mặt tôi. Nhưng tôi lại chưa có gan nói thẳng những ý nghĩ mình với người khác bởi vì tôi hèn, tôi sợ bị quy là *********. Hỡi ôi, tôi được sinh ra đâu phải để làm cái loa của kẻ khác, bản nháp của kẻ khác. Tại sao tôi không thể có nhận xét riêng, ý kiến riêng của mình về các vấn đề? Tôi đang ở trong trận đồ bát quái của chủ nghĩa giáo điều, liệu có còn cơ hội thoát ra được nữa không? ôi chao, chả lẽ tôi cứ phải nói, phải viết ngược lại với lòng mình cho phù hợp với đôi tai và đôi mắt của cấp trên. Ông Hai Kỷ, người ba mươi năm làm công tác tuyên huấn hỏi tôi:
    - Sao nhà văn, ông thấy hai bài thơ này thế nào?
    Tôi trả lời chung chung cho đỡ thẹn với lòng mình:
    - Tôi thấy nó không ổn.
    - Ông hữu khuynh rồi đó Ba Hưng. Sao lại không ổn. Thương con vạc và Lời cái thớt là khẩu khí của đứa ngông cuồng, không cần biết dọc ngang nào biết trên đầu có ai nữa. Khi kẻ bị lãnh đạo quên mất chỗ đứng của nó thì nó bắt đầu quậy. Thằng cha Trần Khuất Nguyên, một thằng con nít mà gan cùng mình, dám thách thức với những nguyên tắc bất di bất dịch của chúng ta.

  3. A6188

    A6188 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/09/2002
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    0
    Tôi bênh:
    - Tôi nghĩ hắn không dám thách thức chúng ta đâu. Chúng ta quên rằng trong phạm trù của hai từ chúng ta, bao hàm cả tay Trần Khuất Nguyên này nữa. Theo như tôi biết thì cậu ta cũng là đảng viên, từng đi chống Mỹ, từng bị thương khá nặng, sao lại nỡ đẩy nó vào hàng đối lập với chúng ta?
    - Ôi, anh ngây thơ quá đấy Ba Hưng. Tôi nghĩ một người duyệt bài vở mà thiếu chỗ đứng, thiếu lập trường giai cấp như anh thì rồi số phận tờ báo văn nghệ tỉnh sẽ ra sao đây? Như thế này mà anh còn tính bênh vực nó nữa hay sao? Anh có biết tờ tuần báo Văn học ngày nay giờ ra sao chưa? Số báo in hai bài thơ này đã bị thu hồi. Tay tổng biên tập bị kiểm điểm toé khói, có thể mất chức. Cơ quan quản lý văn hóa văn nghệ vừa gởi công văn đi khắp nơi, kể cả tỉnh ta đòi khai trừ Trần Khuất Nguyên ra khỏi đảng, khai trừ ra khỏi hội viên hội nhà văn Việt Nam. Thường vụ tỉnh ủy vừa họp bốn cuộc họp về hai bài thơ của thằng trời gầm đất lở này. Thường vụ đã chỉ thị cho sở văn hóa thông tin, nơi Trần Khuất Nguyên công tác phải kiểm thảo nghiêm túc hắn. Sáng hôm nay thằng Nguyên đang bị quần nhừ tử đấy ông Ba Hưng ơi. Tôi lạnh toát xương sống. Đừng có đùa với kỷ cương thép của tổ chức. Hai Kỷ dùng chuyện Trần Khuất Nguyên để đánh tôi trúng huyệt: ấy là nỗi sợ hãi bị kỷ luật, bị khai trừ, bị thanh trừng, bị tù đày của cả đời tôi từ vụ viết cuốn Vượt bão phụ họa cho cải cách ruộng đất ngày xưa. Bởi vì nỗi sợ tận cùng gan ruột của tôi vẫn là cuốn nhật ký viết hồi sau cải cách ruộng đất, hiện nay vợ tôi đang giữ để làm áp lực cột tôi lại với cô ấy. Tôi không còn con đường nào khác ngoài việc từ bỏ ý định bảo vệ Trần Khuất Nguyên. Nghĩa là tôi phải phụ họa, phải đứng về phía Hai Kỷ để giữ vững cái ghế tổng biên tập tờ báo văn nghệ tỉnh của mình. Tôi bảo Hai Kỷ:
    - Nếu quả con ngựa non háu đá này có ý xỏ xiên chúng ta thì nên dạy cho hắn biết thế nào là lễ độ, cho nó chừa cái thói ngông nghênh đi.
    Hai Kỷ thông báo: Tôi nói nhỏ cho anh biết, bên bảo vệ văn hóa đã có đầy đủ hồ sơ về Trần Khuất Nguyên. Họ định bắt nó đấy nhưng còn hơi do dự. Dù sao, tên Nguyên này cũng từng đi chống Mỹ, là thương binh, đảng viên, là nhà thơ trẻ có tiếng hiện nay. Muốn bắt hắn còn phải để ý đến dư luận, tới sự thu phục nhân tâm của đám văn nghệ sĩ chế độ cũ nữa ông ạ.
    Tôi hùa theo: - ừ phải rồi. Chúng ta không nên lấy quyền hành để đẩy một số anh em văn nghệ nào có thiếu sót, có viết chút gì đó lệch lạc sang thành đối lập với đảng. Cách mạng cũng cần phải biết nghe bằng nhiều lỗ tai.
    - Thôi đi ông Ba Hưng. Các bố văn nghệ hay bênh nhau lắm. Bắt Nguyên thì chưa tới lúc nhưng phải làm ra lẽ cho hắn sợ. Khi chúng ta đang cải tạo xã hội chủ nghĩa thì hắn lại tung ra bài thơ ỡm ờ Thương con vạc. Anh thừa biết con vạc là biểu tượng cho cái gì rồi chứ. Vạc chính là những âm mưu đen tối, những bọn đi đêm làm các nghề bất chính như trộm cắp, gái điếm, bọn gián điệp phá hoại rình mò trong bóng tối. Vậy mà thằng Nguyên này dám tuyên bố thương con vạc, rồi dạy chúng ta đứng nên trách con vạc nữa. Chúng ta không chỉ trách, không chỉ căm giận lũ mặt người da vạc mà sẽ còn bắt sạch những loài ăn đêm. Còn bài Lời cái thớt của hắn nặng hơn nữa ông ạ. Xã hội ta là một xã hội trên dưới một lòng, lãnh đạo hòa với nhân dân như cá hòa với nước. Vậy mà hắn dám đặt một cái thớt trong mối quan hệ thiêng liêng giữa dân và đảng. Vậy thớt là gì? Về mặt tu từ, tôi đã tra ba bốn cuốn từ điển. Thớt là cái dụng cụ bằng gỗ để làm đòn kê cho công cuộc chặt thịt, chặt cá. Đơn giản như vậy thì cần gì thằng nào phải làm thơ. Hần bảo ai là mặt thớt hả ông Ba Hưng? Ai, hắn bảo ai chỉ ăn toàn những vết dao nào? Đủ rồi, chúng ta cần sự ngọt ngào, cần sự khẳng định, ngợi ca cơ. Chúng ta không cho phép bất cứ ai nhân danh bất cứ thứ gì để châm chọc, chỉ trích hoặc vặt lá tìm sâu xã hội tốt đẹp của chúng ta.
    Nghe Hai Kỷ phân tích thơ, tôi buồn quá. Người ta đã học được cách suy diễn hết sức chủ quan trước hình tượng văn học, chụp cho bài thơ những cái mũ kinh khủng mà nó không hề có. Người ta cố ý tước bỏ tính biểu tượng của văn học theo kiểu vặt trụi hết lá cây, không muốn văn học được nói nhiều nghĩa, được mang yếu tố thâm thúy của tư tưởng, được phép khái quát hóa và điển hình hóa. Nếu tất cả các thời đại, các xứ sở đều phân tích thơ kiểu ông Hai Kỷ này, chắc chắn văn học đã biến mất khỏi mặt đất. Thế giới sẽ không còn những thiên tài ván học nữa nếu như tư tưởng và tâm hon con người cũng bị kiểm duyệt, bị lục soát theo kiểu các trạm thuế của ta khám xét hành trang khách đi đường. Chúng ta sẽ còn là những kẻ mắc bệnh sợ ma, nếu vẫn quan trọng hóa quá đáng tác dụng của một bài thơ, một cuốn tiểu thuyết nào đó có vấn đề khi nó tung ra ngoài xã hội. Văn học mà không có vấn đề, không dám đặt trước các vấn đề cho con người và xã hội thì còn coi là văn học được ư? Chẳng ai chú ý đến hai bài thơ bé nhỏ như hai con kiến của Trần Khuất Nguyên, nếu như tờ báo không bị thu hồi, nếu như không có những bài đánh, những chỉ thị trị tác giả của nó. Và lập tửc, hai con kiến kia sẽ biến thành hai con voi dư luận. Nhưng đau buồn thay, tôi lại không nói được những suy nghĩ của mình về hai bài thơ này, tôi phải cần biết cách phụ họa cho Hai Kỷ:
    - Nghe anh phân tích tôi mới thấy dễ sợ thật.
    - Vậy thì tôi yêu cầu anh lên tiếng trên báo văn nghệ tỉnh về hai bài thơ ********* này.
    Tôi hiểu yêu cầu này của ông ta chính là lệnh.
    Tôi ôm cái lệnh ấy cùng tờ ''Văn học ngày nay về tòa soạn. Kiếm một người để đánh đồng nghiệp trên báo theo lệnh tổ chức thời nay thật không khó khăn gì. Tôi đưa hai bài thơ này và ý đồ của Hai Kỷ cho một nhà phê bình nhờ ông viết đánh. Nhà phê bình này đã có lúc từng khen thơ Nguyên hay trên báo. Ông nhận lời viết bài trong thời hạn rất ngắn. Sau hai tuần, bài đánh Trần Khuất Nguyên được in ra kèm theo việc in lại hai bài thơ bốn câu. Số báo được bán chạy, bán hết trong hai ngày. Từ trước tới nay, tờ báo của tôi ế quá, người ta mua về để gói đồ hơn là đọc. Tòa báo lỗ quá, đành phải bán tiêu chuần giấy trắng đi để kiếm lời mà sống. Nhờ hai bài thơ bị nhà phê bình K. đánh, tờ báo bán chạy không ngờ. Tôi đề nghị nhân cơ hội này làm kế hoạch B, cho in thêm năm nghìn số báo nữa để phát hành rộng rãi ra cả các tỉnh bạn. Lại bán chạy như tôm tươi. Chúng tôi lời một số tiền lớn. Anh em cán bộ biên tập và phóng viên trị sự báo hí hửng như Ngô được vàng. Tôi họp tòa soạn ăn mừng thắng lợi, tiếp tục mời các cây viết phê bình trong ngoài tỉnh tham gia đánh tiếp hai bài thơ của Trần Khuất Nguyên. Đích thân tôi mời bốn nhà phê bình khác. Họ nhận lời viết trong một ngày đêm. Số báo tiếp được in ra tới sáu nghìn bản. Nhưng than ôi, khi báo phát hành chẳng có ma nào mua cả. Người ta chỉ tò mò muốn biết hai bài thơ bị đánh, còn ai đánh, đánh sao thì người ta chẳng cần. Tòa soạn chúng tôi bị một cú thua lỗ trời kêu. Tôi nhận được thông báo của đảng ủy sở thông tin văn hóa: Trần Khuất Nguyên đã bị khai trừ đảng, bị cách chức phó phòng văn nghệ xuống thành nhân viên thường. Trần Khuất Nguyên, nhà thơ thương binh chuyển ngành, từng có ba bốn tập thơ được xuất bản, từng đạt được nhiều giải thưởng về thơ đã bị cấm in thơ trên phạm vi toàn tỉnh Sơn Giang và toàn quốc. Ngay đến các tuyển tập, Nguyên cũng bị gạt tên. Tay phó tổng biên tập của tôi vốn là nhà thơ và tay tổ trưởng tổ thơ của báo mừng lắm. Hạ được một địch thủ như Trần Khuất Nguyên, may ra họ mới có dịp nổi tiếng. Mỗi ngày, họ ngồi lại với nhau quanh quán cà phê của báo văn nghệ tỉnh, hí hửng thông báo cho nhau về nỗi bất hạnh mà nhà thơ liều mạng kia đang phải chịu. Những đàn em của hai anh làm thơ này thì thụp thông báo cho họ những hoạt động của Nguyên. Một buổi tối, đám thơ trẻ tập hợp quanh Hoàng Thi và Vũ Điệu, người tổ trưởng thơ của báo tại tòa soạn. Họ mời tôi tham gia một buổi đọc thơ có nhậu. Tôi hiểu đây là bữa tiệc mừng của họ khi đối thủ thơ số một bị hạ. Một thi hữu có tên là Dạ Lạc, cao to, trang trẻo, để ria con kiến, mắt ti hí, nói giọng eo ẻo như tuồng lại cái, lè nhè:
    - Báo cáo các anh, đây là một tin em mới nhận được. Các anh hẳn biết cô ca sĩ Lâm Tuyền chứ?
    - Biết, diễn viên múa chuyển qua hát, vợ thằng Nguyên chứ gì.
    Hoàng Thi lên tiếng. Tay Dạ Lạc tiếp:
    - Hết là vợ rồi. Lâm Tuyền vừa bế đứa con trai đến ở với thằng Tư Mộng bán chợ trời. Thà làm vợ bé cho kẻ mánh mung còn hơn làm vợ một thằng nhà thơ điên.
    Hoàng Thi chêm vào:
    - Chuyện này tao biết lâu rồi. Con Lâm Tuyền tướng tá bốc lửa như vậy, thằng Nguyên ốm nhách, sức mấy đáp ứng nổi. Con kia thì ưa ăn diện, nay nhà hàng, mai du hí bám vào thằng Trần Khuất... Khuất gì tụi bây... Khuất Điên ạ... Đúng, bám vào thằng Khuất Điên mà chết đói à? Sẽ còn phải đi thăm nuôi dài dài nữa chứ? Thằng cha này, tao dám cá với tụi bây không trước thì sau cũng tù.
    Một gã làm thơ bé choắt, lấc ca lấc cấc, tên là Hữu Thân kể:
    - Đám đàn em phục tài tay Khuất Nguyên giờ bỏ rơi hắn hết trơn. Hắn cô đơn lắm. Vợ nó bỏ đi, đếch thèm ly với chả dị. Em giả bộ đến chơi để an ủi hắn. Hắn tưởng thật, cảm động lắm, mời em ở lại ăn cơm. Cơm của hắn thì trời cũng ngán, chỉ có nửa bó rau muống luộc chấm tương ớt, nuốt không vô. Em yêu cầu hắn đọc thơ, hắn lắc đầu, Khuất Nguyên mà không đọc thơ thì còn gọi là Khuất Nguyên được chăng? Em khích hắn rằng anh là thiên tài nhưng hắn vẫn câm như hến. Thằng cha sợ hết mẹ nó hồn vía rồi. Sáng qua chủ nhật, em tà tà thả xe đạp ra bờ hồ ngoại vi thành phố hóng mát, chợt thấy Trần Khuất Nguyên đội cái mũ rách, mặc bộ đồ bộ đội xơ mướp người như tượng gỗ trên một hòn đá. Lưng hắn dựa vào gốc cây, mắt hắn mở trừng trừng không chớp. Em bèn rón rén núp vào một gốc si cổ thụ bên cạnh, ngầm theo dõi nhà thơ coi hắn giở trò gì. Trời ơi, các anh biết hông, hắn lầm rầm đọc thơ như kẻ cầu kinh vậy. Em hết sức dỏng tai ra nghe coi hắn có đọc thơ ********* không để ghi chép về còn báo cáo mấy chú mấy anh. Nhưng hắn đọc toàn những bài thơ thương nhớ đồng đội đã hy sinh trong rừng. Em nghe câu được câu không. Một mình đọc thơ cho mình nghe mà tới có cả tiếng đồng hồ. Hình như hắn đang cầu cứu vong hồn đong đội xưa. Hắn đọc xong một tua thơ bèn gọi bao nhiêu tên người. Rằng Hùng, Tuyến, Chính, Hoan, Danh, Lùng, Mậu... ơi. Hắn gọi tới mấy chục tên em không nhớ hết. Hắn cứ độc thoại rì rầm như nói chuyện với ma vậy. Hắn còn quơ tay lên làm các động tác hệt như đang tranh luận với ai một điều gì. Em ớn cả da gà. Hay là thằng cha này nhìn thấy ma, đối đáp với ma? Rồi hắn cúi đầu xuống như mặc niệm. Hắn cảm động điều gì không biết mà gần như là ứa nước mắt ra vậy. Rồi bất thần hắn hát lên khe khẽ các chú các anh ơi. Hắn hát bằng cái giọng ồ ề nhừa nhựa như linh hồn cơm nguội cất thành âm thanh ấy. Hắn hát tùy hứng theo những giai điệu cực kỳ linh tinh tự đặt, lúc nghiêm trang, lúc hết sức dông dà cà chớn. Sau đó, em thấy hắn gục xuống rồi im lặng. Thì ra hắn ngủ ngồi các anh ơi. Em rón rén đến sau lưng hắn quan sát. Trên đầu tóc hắn, lòi ra ở cái phần nón bê rê rách là một vệt sẹp trang ởn, nghe đâu hồi đánh vào Sàigòn, hắn bị thương nặng ở ngã ba Xuân Lộc. Nước da hần tái mét như bị thiếu ăn. Em tính đánh thức hắn dậy để chọc chơi nhưng nghĩ thế nào, cứ để yên cho hắn ngủ. Thằng cha Nguyên này cần phải gặp những người trong giấc mơ để được an ủi, để cầu cứu và để tìm lối thoát cho đời mình.
    Cả đám nhậu lặng im sau khi Hữu Nhân kể xong câu chuyện về nỗi bi ai của đối thủ họ đang bị. Tôi cũng thấy mủi lòng quả. Nhưng tôi, một tổng biên tập báo, không thể bênh vực một người làm thơ ********* được. Tôi bèn bít miệng bằng một miếng tim xắt khá to, đoạn tráng miệng bằng một ly rượu thuốc.
    Đoàn Như, một gã chừng ba mươi tuổi, dạy học và sống bằng nghề làm thơ thời sự. Đoàn Như có lúc đã là vệ tinh của Trần Khuất Nguyên, nay Nguyên thất thế, hắn theo về Hoàng Thi và Vũ Điệu, hắn cần phải có câu chuyện làm quà nên góp thêm một chuyện về Trần Khuất Nguyên:
    - Báo cáo các anh. Em là kẻ từng chơi với Nguyên, em biết. Thứ nhất, hắn là thằng rất dễ tin người. Phải công nhận hắn yêu thơ vào loại siêu hạng, hắn là cây đuốc lúc nào cũng cháy đùng đùng. Thầy điều quấy là hắn phản đối ầm ầm như sóng bể. Cái hôm đồng chí trưởng ban tuyên huấn giảng chính trị nói về khuyết điểm của nền kinh tế. Ông hay dùng chữ chúng ta sai lầm thế này, chúng ta sai lầm thể nọ... Trần Khuất Nguyên xin phát biểu liền, hắn đốp chát: tại sao các đồng chí lãnh đạo cao cấp làm sai không chịu nhận, rằng chúng tôi sai lầm thế này, chúng tôi sai lầm thế nọ lại đổ cho chúng ta, cho tất cả mọi ngưởi. Như vậy, có nghĩa là các đồng chí ấy không dám chịu trách nhiệm, trốn tránh trách nhiệm. Chức vụ, quyền hạn, bổng lộc thì của tôi, của chúng tôi, cái hay cái đúng thì thuộc về chúng tôi, còn cái dở cái sai thì tất cả quần chúng phải chịu trách nhiệm. Đồng chí trưởng ban tuyên huấn không đủ lý cãi lại, đứng ì ra một hồi rồi lờ đi, coi như cái thằng láo lếu Trần Khuất Nguyên chưa hề có trên đời. Các anh thấy hắn ngổ ngáo bợm trợn chưa nào? Thời buổi này, đã làm thơ làm thẩn lại còn dám cả gan vuốt râu hùm, mó dái ngựa, chết là phải. Hôm qua, em gặp hắn đi bộ từ sở về nhà. Em hỏi xe đạp đâu không đi, hắn trả lời, con vợ bán hết đồ theo trai rồi. Bây giờ hắn đói rách lắm. Bây giờ, hắn thường ra bờ hồ giả bộ câu cá để trốn tránh cuộc đời.
    Hoàng Thi phải ngắt lời Đoàn Như:
    - Thôi, mặc xác hắn. Dại thì chết. Ai lại đi làm thơ về con vạc, về cái thớt như vậy. Đấy thớt đấy, tha hồ cho hắn ăn toàn những vết dao.
    Đêm ấy tôi không sao ngủ được, cứ mở mắt là lại thấy Trần Khuất Nguyên. Cho đến lúc thiếp được đi rồi, ngủ được chết đỉnh rồi, tôi lại mơ thấy anh lính trinh sát kia ngồi đọc thơ cho những đồng đội đã chết. Té ra, trong tôi dường như vẫn còn tồn tại một Trần Khuất Nguyên.
  4. A6188

    A6188 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/09/2002
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    0
    Chương 17


    Trong số các cô làm việc tại văn phòng trị sự của tờ báo văn nghệ tỉnh Sơn Giang do tôi lãnh đạo, có một cô tên là Ngọc Hương, trạc ba mươi sáu, ba mươi bảy tuổi. Cô được coi là xinh nhất trong các cô công tác tại báo. Nhớ ngày đầu tiên, khi chúng tôi đang hình thành tòa soạn, có một người đàn bà đến tìm tôi. Người ấy mặc quần lụa đen, đi dép Nhật, áo mút-sơ-lin màu tím nhạt, mặt sáng rỡ, mắt lá răm to sắc kẻ chì viền hơi đậm, lông mày tỉa tót, môi son rực, mũi cao như đã sửa, móng tay, móng chân đánh màu vảy bạc óng ánh đưa cho tôi một cái thư. Đó là thư giới thiệu của ông phó giám đốc sở thông tin văn hóa. Ông xin giới thiệu với tôi người cầm thư này là cô Ngọc Hương, cơ sở cũ của ông đến xin việc ở tòa báo. Trong thư ông phó giám đốc dặn, Ngọc Hương bình sinh rất mê văn học, nay không phải túng bấn mà kiếm việc làm đâu. Rằng cô từng ước làm được ở một tờ báo văn nghệ để đỡ buồn. Rằng cô Ngọc Hương cũng có làm thơ, trước giải phóng từng tham gia thi đàn Dệt Mộng. Nhìn dáng dấp người đàn bà một lúc, tôi suy nghĩ và cân nhắc để tìm ra cái lẽ phải dùng người. Phàm một ông thủ trưởng nhìn xa trông rộng, không bao giờ nên nhận một người đàn bà đẹp vào sở mình phụ trách, nhất là người đàn bà đó đã tới tuổi sồn sồn và từng tham gia thi đàn thi điếc. Ngữ ấy mà nhận vào cơ quan, khác gì nhận một trái bom nguyên tử. Đôi mắt lá răm sắc lẻm kia khác nào lưỡi dao, có thể cứa đứt đầu đám nhà văn nhà thơ trong tòa soạn báo. Nhưng ông phó giám đốc sở thông tin văn hóa giới thiệu tới xin việc, dù cơ quan tôi đã đầy nhóc, vẫn cứ phải nhận. Đằng này, cơ quan đang phải tuyển người. Tất nhiên tôi phải nhận cô Ngọc Hương vào làm việc. Đây sẽ là cái thử thách đối với phóng viên, biên tập viên. Cậu nào lớ xớ là chết với tôi liền. Cũng hay, cần phải đặt một cái bẫy trong nhà mình, để mình còn có cái cảnh giác, nhắc mình đừng chủ quan.
    Sáng hôm sau, tôi tới cơ quan đã thấy Ngọc Hương ngồi trên sa-lông chờ đợi. Thấy tôi, cô cung kính thưa chú Ba Hưng. Hoàng Thi, phó tổng biên tập đang từ trên lầu xuống, nghe tiếng chào của Ngọc Hương, bèn vừa đi vừa tưng tửng đọc hai câu thơ.
    Nếu không gọi chú bằng anh
    Coi như chú đã hy sanh cuộc đời.
    Tôi ngượng chín người. Đồ cà chớn. Vậy mà mấy người ngồi đó đều cười tủm tỉm, kể cả Ngọc Hương. Hoàng Thi bước xuống, cùng ngồi vào sa-lông bên cạnh Ngọc Hương, đối diện với tôi nói:
    - Sao Ngọc Hương lại kêu anh Ba Hưng bằng chú? Giới thiệu với anh Ba, tôi đã quen biết Ngọc Hương từ hồi mới giải phóng. Ngọc Hương xoa xoa hai bàn tay đeo nhẫn, nhún vai:
    - Thưa, Ngọc Hương xin lỗi. Từ nay xin được kêu thủ trưởng bằng anh Ba ạ.
    Tôi im lặng cười ruồi. Tôi là người mê quyền lực hơn đàn bà thì cô kêu tôi bằng ông nội đi nữa cũng không sao. Từ đó, Ngọc Hương nhận chức văn thư kiêm phát nhuận bút, nếu có khách tới thì mời mọc, tiếp rước, cần thiết thì mời thủ trưởng ngồi trên lầu xuống. Tòa soạn báo văn nghệ tỉnh Sơn Giang của chúng tôi tọa lạc trên một địa hình rất thuận lợi và yên tĩnh. Đó là tòa biệt thự hai tầng, có ga-ra xe hơi, vườn cây, bể cá, kho tàng, một dãy nhà phụ, là ngôi nhà của một tay bác sĩ giàu có đã đi Tây. Hàng ngày, tôi làm việc và nếu thích thì ở luôn trên phòng lầu hai. Ngọc Hương là con của một gia đình làm nghề buôn bán. Cha cô lấy vợ bé, nên ở với mẹ từ nhỏ. Mẹ cô làm ăn phát tài nên tương đối khá giả. Cô học trường nữ Gia Long rồi vào đại học Văn khoa. Đang học nửa chừng thì Ngọc Hương lấy chồng. Hai người có với nhau một đứa con gái, ở với nhau năm năm rồi ly dị. Ba năm sau, Ngọc Hương lấy một bác sĩ góa vợ. Nhưng sau khi có đứa con trai, Ngọc Hương lại bỏ về ở với mẹ. Người chồng bác sĩ đã di tản sang Mỹ trước ngày ba mươi tháng tư. Ngọc Hương khai trong lý lịch rằng cô tôn thờ chủ nghĩa độc thân. Ngày đầu tiên đến tòa soạn làm việc, Ngọc Hương mặc áo dài lụa trắng, quần lụa trang hệt như một con thiên nga khiến cả tòa soạn sững sờ. Tóc cô hớt tém kiểu con trai, chân đi dép da ngoại, cổ đeo vòng vàng, son phấn trang điểm vừa phải nên nhìn cô còn rất trẻ. Trời ơi, trong khi chúng tôi ăn mặc xuềnh xoàng kiểu lính tráng thì cô văn thư lại diện như đi dạ hội. Hoàng Thi bảo tôi cứ yên trí, mặc như vậy càng đẹp cho tòa soạn chứ sao. Nhưng tôi không thể yên trí được. Ngọc Hương có thể sẽ làm cho các chàng trai trẻ biên tập hoặc phóng viên mê mẩn hết thôi. Thấy Ngọc Hương làm việc nghiêm túc, tận tụy, tôi đã phần nào an tâm. Suốt một tuần đầu làm việc, dù không phải là người ghim gút hay bới lông tìm vết, nhưng tôi đã chú ý xem được cô thay đúng sáu cái áo dài, toàn loại vải đẹp và sang. Tôi để ý trong giờ rảnh, Ngọc Hương toàn cúi xuống đọc sách. Tôi thấy trong các đầu sách cô văn thư này đọc, có nhiều cuốn của anh em trong tòa soạn. Tôi cho là cô đang bắt mạch văn từng người, xem các chú cách mạng nhà ta múa bút ra sao đây. Sang tuần thứ hai, Ngọc Hương toàn diện đồ tây, áo bỏ trong quần, hết quần zin Mỹ đến zin nhung Mỹ, mỗi ngày một bộ khác nhau. Mọi người nhìn cô lác cả mắt. Mỗi lần cô lên phòng tổng biên tập đưa thư hay trình bày điều gì, tôi lại thấy cách ăn mặc quần zin bó sát, áo bỏ trong quần của cô mà ngứa cả mắt. Tuần thứ ba, Hương thay đổi chiến thuật bằng cách mặc toàn quần áo bà ba đen có, rực rỡ đỏ chát chúa có, mỡ gà mỡ vịt có... Đến nỗi ban biên ủy của báo phải họp hai cuộc họp, chi ủy họp hai cuộc họp để phân tích cái chiến thuật ăn mặc, thay đổi kiểu cách của cô văn thư này nhằm mục đích gì, xem có xen vào ít nhiều chính trị nào không? Tôi nghĩ bụng: đây là trò chơi để gây ấn tượng chứ chính trị chính em cái quái gì, xem thử tâm lý các nhà văn cách mạng có ngon không, có đoán được con người nội tâm của Hương không. Rằng những dự đoán của các người sẽ lăn lông lốc, sẽ trượt ngã trước sự biến hóa khôn cùng của một người đàn bà đẹp. Mặc xác sự lộng lẫy làm duyên làm dáng của Hương, tôi có chiến thuật chiến lược của tôi: lạnh như băng, cứ là nguyên tắc, nguyên tắc và nguyên tắc, không để xen vào giữa mối quan hệ của thủ trưởng với nhân viên một tí tình cảm nào. Thái độ của tôi với Hương đã được chương trình hóa. Có khi, trong cuộc họp, tia mắt tôi chạm vào tia mắt Hương, như là cô ấy ngầm tuyên bố: đạo đức giả hoài, để rồi xem đồng chí có tu hành được mãi không? Con mắt cô nhìn tôi với những chùm tia le-de thách thức, sản sàng gây ra một cuộc chiến tranh không tuyên bố. Trước Ngọc Hương, tại sao tôi không được tự nhíên, phải kên lên lên, đạo mạo lên, như anh gà trống vươn cổ lên lấy uy tín gáy mà không sao gáy nổi. Tại sao tôi không thể bình thường, không thể thoải mái như khi tiếp xúc với nhân viên nữ phái khác? Tôi nghe tiếng vị luật sư bào chữa trong mình cất lên: ồ, thủ trưởng thì phải quan tâm tới nhân viên, từ công tác đến đời tư chứ. Thậm chí đến việc cô ấy thay đổi màu sơn trên móng tay móng chân cũng đừng hòng qua mắt được lãnh đạo. Có một dạo, tôi biết tay phó tổng biên tập cáo già Hoàng Thi tán Ngọc Hương. Lý trí tôi biết rằng Ngọc Hương không sao thoát được con dê già biết làm thơ này, nhưng tình cảm tôi lại không thừa nhận điều đó. Tôi biết hết, các người đừng hòng qua mặt thằng Trần Hưng này. Đến con ruồi đực hay cái, đã chửa đễ hay thậm chí còn trinh hay mất trinh tôi còn biết, huống hồ ánh mắt si mê của tay Đông-joăng này khi nhìn Ngọc Hương. Tôi bắt đầu thấy tức anh phó của mình. Này anh kia, bông hoa của tập thể, của công viên, sao dám tự động ngắt về phòng chơi riêng là sao? Nguyên tắc là nguyên tắc: tôi, chúng tôi không đụng tới thì anh đừng có hòng mà xớ rớ được. Nhưng tay Hoàng Thi này không phải loại vừa. Vả lại, ngoài tám tiếng vàng ngọc, Ngọc Hương còn những mười sáu tiếng tự do vô tổ chức, tha hồ tưng tẩy, muốn làm gì thì làm. Ngọc Hương lại có nhà riêng, phòng riêng, nó muốn mời ai về là quyền của nó. Nhưng nếu con người của anh chỉ là của anh, vậy thì tổ chức, vậy thì chế độ không có tí quyền sở hữu nào trên người anh à? Cứ lấy cái lý ra mà nói, rằng chúng ta đang sống trong một xã hộí tập thể, một xã hội quốc doanh, sao mỗi con người lại cứ thích sống xé lẻ, tủn mủn trong vỏ ốc cá nhân vậy. Nhưng cô Ngọc Hương này đâu phải kém cô Ngát trong chi bộ của tôi thời xưa, khi bị tổ chức kiểm thảo về chuyện yêu đương. Tôi nhớ hồi đó, Ngát có chồng đi bộ đội xa, bị bắt quả tang đang hôn hít một anh cùng cơ quan. Người ta bèn lập ngay biên bản, đưa Ngát ra kiểm điểm. Trong lúc họp, Ngát đứng lên, trợn mắt, chỉ vào miệng mình hỏi: thưa các đồng chí, đôi môi này là của tôi hay của tổ chức ạ? Có tiếng trả lời: tất nhiên là của đồng chí nhưng do tổ chức quản lý. Ngát bèn vừa khóc vừa quát lên: đôi môi này là của tôi, tôi muốn hôn ai, cho ai là quyền của tôi. Chừng nào tôi dùng đôi môi của tổ chức, dùng cái miệng của tổ chức để đi hôn hít người khác thì tổ chức mới có quyền kiểm điểm chứ? Cuối cùng, tập thể, tổ chức đành chào thua cô Ngát, bởi vì cái lý của nó quá đúng, chả ai bẻ nổi. Rút kinh nghiệm chuyện này, để tôi sáng suốt hơn khi nhìn vào mối quan hệ của Hoàng Thi và Ngọc Hương. Cuối cùng, tôi nhủ thầm: kệ cha nó, khi nào bắt gặp cảnh nam trên nữ dưới mới nói, mới kỷ luật được. Tuy vậy, đôi lúc, tôi vẫn tức trào hông. Hay là mình ghen với thằng phó của mình rồi? Nếu vậy nguy lắm, coi chừng mất ghế. Từ ngày đó, tôi đâm ra ghét hai cái đứa lăng nhăng này. Tôi coi Ngọc Hương là con phản bội lại tập thể. Trong cách nhìn của tôi luôn luôn phát tín hiệu nhac nhở: tôi là thủ trưởng cơ quan đấy nhé, các người đừng có mà qua mặt được tôi. Buổi tối, tòa soạn báo văn nghệ Sơn Giang thường vắng hoe, chỉ có bác gác cổng già trông nom cửa chính, vợ chồng cậu lái xe và cô thủ quỹ ở căn nhà phụ phía sau. Cho nên đôi lúc tôi thường ở lại cơ quan, nấu ăn và ngủ lại luôn trên căn phòng tầng hai. Một lần tôi đưa tập bản thảo truyện ký của mình cho chánh văn phòng nhờ đánh máy. Cơ quan chỉ có một cô đánh máy chữ bận túi bụi cả ngày. Chánh văn phòng báo cáo với tôi là tập bản thảo của tôi nhờ Ngọc Hương đánh máy giùm. Tôi chấp nhận mặc dù rất ghét Ngọc Hương. Lẽ nào tôi lại nỡ phủ nhận nhiệt tình của nhân viên mình, theo kiểu dội gáo nước lạnh vào gáy người ta. Chiều đó tan sở, Ngọc Hương không về. Cô ra ngoài ăn phở rồi vô đánh máy bản thảo cho tôi. Buổi tối hôm đó tôi ở lại cơ quan, sau khi tự nấu cơm ăn xong đang tính mở đài nghe thì có chuông điện thoại. Tôi cầm ống nghe lên thì ra là giọng Ngọc Hương
    - Dạ thưa anh Ba. Em đã đánh đến trang thứ mười hai của bản thảo, chỗ này anh viết em đọc không được rõ. Cho phép em gặp anh hỏi lại được không?
    Tôi vui vẻ: - Tốt thôi, mời đồng chí lên.
    Bỏ máy xuống, tôi đứng phắt dậy soi người trong gương, chải lại đầu tóc, xếp lại cổ áo pi-gia-ma, coi mặt mũi có vết nhọ nào không vì ít ra cũng cần phải biết lịch sự với phụ nữ. Tự nhiên, tôi cảm thấy hồi hộp. Tôi tự mắng mình: đồ khỉ, làm như bồ bịch không bằng, nên nhớ rằng anh là tổng biên tập báo đấy nhé. Đừng có mà nghĩ đông nghĩ tây, kẻo lại mềm nhũn người ra như con chi chi, có cái xương sống lập trường lại oằn xuống thì có nước ăn cám. Tôi đã nghe tiếng guốc lên cầu thang. Rồi một tiếng gõ cửa thật êm. Tôi mở cửa. Ngọc Hương hiện ra. Tôi choáng váng tí nữa ngã quỵ. Toàn thân cô cháy rực trong một chiểc rốp mới thơm nức mùi nước hoa đất tiền. Tôi mời cô nhân viên không mấy dễ lãnh đạo bằng lý trí vào phòng. Cô nhìn tôi, khẽ mỉm cười:
    - Xin lỗi, em đã làm mất sự yên tĩnh của anh Ba.
    Tôi mời ngồi nhưng Ngọc Hương vẫn còn đứng giữa phòng một lúc. Hình như cô muốn tôi đủ thời gian ngắm cái giò dài thon rất đẹp của cô. Cặp giò này làm tôi lạnh toát cả người. Đời tôi có đảng và có chúa làm chứng, chưa bao giờ được nhìn thấy của lạ thế gian như vậy. Cô như một thiếu phụ của giới trưởng giả bước vào căn phòng của anh nhà văn nửa nhà quê nửa phố huyện, cả đời chỉ biết một người đàn bà là vợ mình, cũng quê kệch, cũng ấm ớ và ưa lý sự như mình. Chừng như đã đủ cho tôi chết ngợp, Ngọc Hương bèn ngồi xuống ghế sa-lông, gác chân chữ ngũ khiến tôi càng bị động. Ngọc Hương, người đàn bà biết làm chủ mọi tình huống bằng chính thân xác mình, giở bản thảo của tôi ra hỏi:
    - Thưa, đoạn này em đọc không rõ chữ, nhờ anh chỉ giùm em.
    Tôi gạt chuyện bản thảo bản thiếc đi:
    - Thôi Hương, để uống nước đã. Cô giúp đỡ tôi tận tình như vậy mà tôi lại quá mất lịch sự đi.
    Ngọc Hương gấp tập bản thảo lại:
    - Có gì đâu ạ. Được phục vụ anh Ba là niềm vui của em.

  5. A6188

    A6188 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/09/2002
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    0
    Tôi lóng ngóng pha cacao sữa mời khách. Tôi quên béng mất chuyện cô ta là lính, còn mình là thủ trưởng. Ngọc Hương cầm ly cacao sữa uống. Cô ăn nói như hát. Mắt cô nhìn tôi không chớp khiến tôi đánh rơi cái muỗng xuống sàn. Tôi chưa kịp cúi xuống lấy thì Hương đã lấy giùm tôi. Tôi nhìn thấy rất rõ cái cổ của cô, cái vai của cô. Trời ơi, vai ra vai và cổ ra cổ nhé như không còn là vai với cổ nữa mà là một miền toàn ngọc với ngà. Tôi như kẻ đang đánh đu trên các sự vật. Lẽ nào Ngọc Hương đã thôi miên tôi? Thấy tôi nhìn, Ngọc Hương bèn cúi xuống, chân cô di di trên tấm thảm len trải nhà như một con mèo nghịch nang. Tôi nhìn bàn chân cô như nhìn thấy cái khoảng trống của đời mình. Qua khoảng trống ấy, tôi chợt phát hiện ra thế giới này với tôi vẫn chỉ là một khoảng tối không đáy, cần phải có người đàn bà nào đấy tỏa ra một thứ ánh sáng huyền nhiệm để tôi phát hiện ra mọi điều. Nhưng khi Ngọc Hương vừa phát hiện ra chất men của mình đã đủ ngắm vào lòng tôi, thì cô dừng lại. Cô cương quyết hỏi đoạn tôi viết trong bản thảo cho rõ rồi xin phép xuống nhà đánh máy tiếp. Tôi tiễn cô xuống cầu thang cuối cùng, nơi mách bảo với tôi rằng quan hệ của tôi và Hương bao giờ cũng chỉ là thủ trưởng với nhân viên, chứ nhất quyết không phải là mối quan hệ giữa đàn ông và đàn bà.
    Về phòng, tôi mở cuốn sách ra đọc nhưng chẳng thấy chữ đâu, chỉ còn toàn màu đỏ của cái rốp, màu ngà voi của cặp đùi, màu hồng nến của ngón chân ngón tay. Tôi quyết định nằm xuống và ngủ. Nhưng tôi càng nhắm mắt, ma quỷ càng cám dỗ, càng nhìn thấy rõ bờ môi khoé mắt của Hương.
    Tối hôm sau, Hương vẫn ở lại đánh máy tới khuya. Tôi xuống tầng dưới, ghé tai vào cửa sổ để nghe rõ tiếng lách cách của máy chữ. Tôi lên phòng, ngồi gần máy điện thoại xem Hương còn hỏi gì về bản thảo nữa không. Đến chín giờ tối, tôi leo lên sân thượng nhìn thấy bóng Hương ra khỏi cổng cơ quan, ngồi lên chiếc P.C. rồ máy. Tiếng cánh cổng sập lại và tiếng khóa bác gác cổng đang khóa làm tôi buồn quá. Đến tối thứ tư thì tôi không thể làm cao mãi được. Tôi phải hạ mình xuống mời Ngọc Hương nghỉ tay đánh máy lên lầu uống nước. Hương từ chối mãi mới chịu nhận lời. Cô bảo tôi lên trước, cô sẽ lên sau đó chừng mười phút. Tôi chờ cô sao thấy lâu vậy. Một lần nữa, Ngọc Hương lại làm cho tôi bổ ngửa. Cô mặc một bộ váy ngủ trắng tinh, mỏng tang, khêu gợi, ỏn ẻn cầm cuốn sổ nhỏ bước vô phòng. Tôi mở mấy lon bia ngoại chuần bị sẵn mời khách. Qua ánh đèn nê-ông, tôi thấy Ngọc Hương hôm hay son phấn kỹ hơn, còn đeo cả lông mi giả. Ôi, cả đời, tôi chỉ toàn sống với kiểm điểm, viết văn, kháng chiến, học nghị quyết... đã bao giờ ở gần một người đàn bà thành thị sành điệu và rực rỡ như thế này? Son phấn kia, lông mi giả kia, áo quần kia, thân thể kia như thể từ trời vừa rớt xuống, tôi có cảm tưởng chỉ cần đụng nhẹ tay vào là tan biến mất. Tôi mời Ngọc Hương uống bia. Cô không từ chối. Nhìn cô uống, tôi hưng phấn tới mức quên giữ gìn khoảng cách:
    - Hôm nay, sao Ngọc Hương đẹp quá.
    Cô bĩu môi:
    - Em đâu có đẹp. Chẳng ai nhìn em cả đâu.
    Trời ơi, tôi không còn là ông tổng biên tập đạo mạo nữa hả trời? Tôi đã thành một gã đàn ông tán gái. Sao tôi lại huyên thuyên với Hương đủ chuyện, giữ cô ở lại phòng này hết đêm nay ư? Mặc xác tòa soạn, mặc xác công việc em ạ, mai ta hãy lo. Bây giờ ta nói chuyện văn học đi, tôi bảo Hương như vậy. Ngọc Hương đưa cho tôi cuốn sổ bảo:
    - Em làm thơ đấy. Nhờ anh coi giùm. Đừng cười nha.
    Tôi cầm cuốn bản thảo đã chép sạch mở ra đọc. Tôi chẳng còn nhìn thấy chữ nghĩa gì ráo. Đầu tôi đang quay cuồng cùng với cái váy ngủ trang kia.
    Hương bảo tôi:
    - Đèn nê-ông chói mắt quá. Anh tắt giùm em, mở đèn tròn cho ấm.
    Tôi làm theo như một nhân viên của cô, còn cô thì hóa ra một thứ tổng biên tập mới. Căn phòng vàng vọt lại. Tôi bảo cô để cuốn sổ thơ lại, tối mai tôi sẽ góp ý. Tự nhiên, Hương nhìn tôi như rút hết ruột gan rời đứng phat lên đòi về.
    Nhưng cô vừa bước ra khỏi ghế thì tôi cầm tay cô giữ lại.
    Cô dùng bàn tay kia vuốt nhẹ cánh tay tôi. Phải nói thật nghiêm túc là lúc đó, tôi mê đại như người say sóng. Ngọc Hương đột ngột dùng hai cánh tay níu lấy cổ tôi kêu say bia quá. Tôi đã bị quỷ ám, cứ theo thứ tự của bản năng mà làm. Tôi dìu Hương vào giường. Tôi xiết lấy đau cô hôn như mưa đá. Người đàn ông trong tôi kỳ lạ thay, đã thức dậy một cách hết sức mãnh liệt. Với Ruộng, sao tôi thành kẻ bất lực, còn với Ngọc Hương, tôi là một con người rất bình thường, rất khác, rất sung mãn...
    Tôi tắt đèn. Chúng tôi nằm bên nhau tới sáng. Sau đó, suốt ba tối liền, tôi và cô văn thư vẫn tiếp tục với nhau cái trò yêu đương vụng trộm ấy. Hai chúng tôi cứ im lặng hành sự. Nhưng Hương không chịu ngủ lại phòng tôi như tối đầu nữa. Ban ngày, nhìn Hương, tôi cảm động đến độ đỏ mặt.
    Nhưng cô ta vẫn lạnh tanh, làm như giữa chúng tôi chưa hề có chuyện chăn gối ấy. Đến ngày thứ năm, khi cuộc tình của tôi với Hương đang lên cao vút như lời một bài hát thì cô xin phép nghỉ ở nhà vì đau bệnh. Tôi nhớ Hương vô cùng. Tối hôm ấy, Hoàng Thi mời tôi sang phòng làm việc của anh ta uống cà phê. Sau khi uống cạn phin cà phê, hút gần hết điếu thuốc ba sổ, người phó tổng biên tập của tôi bảo tôi:
    - Anh Ba Hưng ơi, tôi có cái này hay lắm, bên công an văn hóa vừa gởi cho tôi. Họ nói với tôi và anh nên giải quyết trên tinh thần nội bộ, đảm bảo danh dự cho nhau. Tôi tái mét mặt. Hoàng Thi lôi từ trong cặp ra một cái máy ghi âm bằng bàn tay đứa trẻ mười tuổi, chạy pin tiểu. Anh ta ấn nút băng ghi âm làm tôỉ hết hồn dựng tóc gáy, toát mồ hôi. Cuốn băng ghi lại toàn bộ cuộc nói chuyện, cuộc tán tỉnh yêu đương ân ái của tôi với Ngọc Hương hai tối cuối cùng. Tôi gục xuống bàn, xỉu đi đến mười lăm phút mới tỉnh dậy. Tôi hiểu liền. Trò gài bẫy quái ác này chắc chắn là do thằng Hoàng Thi đạo diễn, cốt để lật tôi chứ công an nào. Tôi đã bị hai đứa Hoàng Thi và Ngọc Hương đẩy vào hố tuyệt vọng, như đẩy tôi vào cỗ quan tài cuối đời. Hoàng Thi hỏi tôi:
    - Anh bình tĩnh chưa?
    - Rồi. Vậy anh nghe tôi nói đây. Hoặc cuốn băng ghi âm này sẽ vào tay vợ anh, vào tay tỉnh ủy và các cơ quan hữu trách. Hoặc là anh phải ký vào đơn xin từ chức tổng biên tập tở báo văn nghệ Sơn Giang. Giữa hai cái xin anh hãy chọn một. Đây, bản đánh máy đơn xin từ chức của anh đã có sản, nếu anh chịu, xin ký vào ba tờ. Tôi chẳng còn hờn vía gì nữa. Đởi tôi coi như đã chấm dứt. Tốt nhất là không nên gây gổ hay chửi bới gì Hoàng Thi và Ngọc Hương. Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng. Tôi đọc bản đánh máy sẵn đơn xin từ chức tổng biên tập do Hoàng Thi đưa cho. Trong đơn ấy được viết rằng vì tôi sức khỏe kém, thứ hai không quen làm công tác quản lý, thứ ba là lớn tuổi rồi, cần có chết ít thời gian viết, xin để đồng chí Hoàng Thi lên thay làm tổng biên tập báo. Tôi lặng lẽ ký vào ba tờ đơn do Hoàng Thi thảo ra và chắc là Ngọc Hương đánh máy, như một con rối được điều khiển bằng chất siêu dẫn. Hoàng Thi cám ơn tôi rồi cười cười bảo:
    - Xin anh giữ- một bản, tôi giữ một bản, một bản ta nộp tên tỉnh ủy và ban tổ chức. Đây, cuốn băng ghi âm đây, xin trả anh để giư làm kỷ niệm.
    - Thôi, xin anh cầm giùm cho. Tôi lầy cái thứ chó má này làm gì.
    Hoàng Thi vui vẻ: Thôi, để tôi giữ hộ cho vậy. Ngày mai anh phải đệ cái đơn từ chức này lên tỉnh ủy ngay. Hắn ra lệnh cho tôi. Từ nay, mãi mãi tôi sẽ bị nỗi sợ hãi điều khiển như cái roi điều khiển con ngựa.
  6. A6188

    A6188 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/09/2002
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    0
    Chương 18


    Thấy tôi dọn hết đồ đạc lặt vặt từ căn phòng trên lầu hai của tòa soạn báo văn nghệ Sơn Giang về nhà, Ruộng ngạc nhiên, nói kháy:
    - Sao anh không ở đấy luôn cho hết đời. Anh còn về cái nhà ngục này làm gì cho khổ. Thì ra là cóc chết ba năm...
    Tôi đang bực tức điên đầu, chỉ cần một ngòi nổ là sẵn sàng có thể gây ra cuộc chiến tranh thế giới lần thứ ba. Tuy vậy, tôi biết mình sức vóc mồm miệng có hạn làm sao địch nổi cái mồm có gang có thép của vợ tôi, với lại, tôi đang phải đối diện với một bóng ma kinh khủng là cuốn băng ghi âm bẩn thỉu kia. Đầu tôi đang phải đội một ông trời sắp sập, có thể nghiền tôi thành cám. Chính vì vậy, tôi đành ghìm cơn thịnh nộ xuống để tỏ ra hết sức dịu dàng thân thiện:
    - Tôi không có quyền về ở hẳn nhà mình à bà?
    - Anh ở đâu cũng chẳng có ăn nhằm gì tới tôi. Vấn đề hiện nay là anh đừng có gây rac rối gì cho công tác của mẹ con tôi. Tôi báo cho anh biết, sắp tới tôi sẽ vào tỉnh ủy. Tôi cần sự giúp đỡ của anh.
    - Sẵn sàng.
    - Vậy thì nhiệm vụ của anh đây. Từ nay, anh đừng làm bất cứ chuyện gì gây tai tiếng xấu như viết lách sai lập trường, hoặc ăn nói vô tổ chức. Và nhất là đừng bao giờ gây ra một vụ xì-lan-can như vừa qua trên báo văn nghệ nữa. (Vợ tôi nói pha tiếng tây không quen nên xì-căng-đan mới nói thành xì-lan-can. Chỉ vì bà ấy làm việc trong một căn phòng tại trường đảng có cái lan-can rất đẹp nên thường ra hóng mát).
    Tôi giả vờ sửng sốt:
    - Về xì-lan-can nào?
    - Tôi nghe bên công an họ xầm xì. Tôi hỏi, nhưng họ không nói. Tôi biết là anh cứ thoát khỏi bàn tay lãnh đạo của tôi một cái là y như sinh chuyện. Văn nghệ sĩ các anh rặt một thứ lang bang. Các anh không tìm thấy tự do trong kỷ luật của tổ chức à? Dù là tâm hồn tâm hiếc cũng phải theo nguyên tắc, theo chỉ thị chứ.
    Tôi ngứa mồm quá, nên cũng múa mép chơi:
    - Bà và một số cán bộ chính trị ít hiểu biết về văn nghệ lắm. Đối với văn nghệ sĩ cũng như đối với người đàn ông vậy. Đừng giam hãm nó, nó sẽ bỏ trốn. Đứng bắt ép nó yêu thương, nó sẽ căm ghét. Đừng ra lệnh cho nó ********, nó sẽ làm tội. Đừng cưỡng bức nó chung thủy, nó sẽ phản bội. Chỉ có thể dùng tự do làm xiềng xích mới hòng giữ được nó. Hãy thả con chim kia ra bầu trời là quê hương của nó, mới có thể quản lý được cái không thể quản lý là tâm hồn và tình yêu của nó.
    Không hiểu do ăn nhằm phải cái giống gì mà tôi nói hăng say văn vẻ như một nhà truyền giáo rao giảng đức tin của cái đẹp. Có thể vợ tôi, một cán bộ chính trị có cỡ, sẽ chụp cho tôi cái mũ là một tên tà đạo uống ******* lập ngôn, hòng tung ra một cái thuyết, một cái gì đại loại như tư tưởng, đạo loại như sự sáng tạo lại thế giới này thông qua cảm xúc tình yêu. Vì đối với vợ tôi, nguyên tắc đảng chính là chân lý. Cho nên, một cách nói khác đi, một nghi vấn hay một suy tư sống động có nhã ý bổ sung và sáng tạo lại những giá trị cũ đều sẽ bị phản bác, đều sẽ bị gản cho một từ rất kinh khủng là *********. Học thuyết về zen di truyền học của Măng-đen và Moóc-găng khẳng định sự tồn tại, sự sống của sinh vật trong mối quan hệ biện chứng giữa di truyền và biến dị. Nếu sinh vật chỉ biết di truyền lại các thế hệ sau tất cả thuộc tính của mình mà triệt tiêu mọi khả năng biến dị của đời sau thì chắc chắn sinh vật ấy sẽ không còn nòi giống. Di truyền chỉ có thể gọi là di truyền nếu nó biết biến dị. Khả năng biến dị chính là khả năng sáng tạo, khả năng hằng sống của sinh vật nói chung, của con người nói riêng. Do đó, phàm một học thuyết, một tư tưởng dủ vĩ đại tới đâu chăng nữa, nếu muốn tồn tại, muốn thoát ly khỏi lý thuyết màu xám để hóa thành cây đời mãi mãi xanh tươi như câu cách ngôn nổi tiếng của Gớt, nhất thiết phải tuân thủ quy luật di truyền và biến dị của sinh vật học. Học thuyết ấy, tư tưởng ấy sẽ không bị cứng nhắc, bị vôi hóa, bị thời gian phủ nhận nếu nó biết hóa thân vào đời sống luôn luôn chuyển động, nếu nó biết cách khám phá ra khả năng di truyền biến dị và sáng tạo của mình. Vợ tôi ngồi im lặng nghe tôi huyên thuyên. Đoạn bà ấy thuyết:
    - Văn nghệ sĩ các anh hay triết lý tầm phào lắm. Từ trước tới giờ, anh cứ chê tôi là con bò, là mụ nhà quê xắn quần lội ruộng đi theo cải cách ruộng đất. Anh có bao giờ thèm nói chuyện về chính trị hay văn nghệ với tôi đâu. Đầu anh vẫn còn đầy thuốc đỏ và dao kéo mổ của cái con mẹ bác sĩ nặc nô. Anh có biết rằng vợ anh đã vươn lên từ một cô thôn nữ mù chữ trở thành một giáo sư, một phó giám đốc trường đảng phụ trách môn lý luận Mác-xít, như vậy, dù có mù lòa hay điếc lác, cũng phải công nhận là nhờ cách mạng, nhờ đảng, tôi mới vươn lên được những đỉnh cao này từ một con bé nghèo khổ phải đi làm con ở cho địa chủ. Bây giờ, tôi đã hai thứ tóc trên đầu, đã sang tuổi ngũ tuần nên mọi lời nói hoa hòe hoa sói ngụy biện không bịp được tôi đâu. Anh nói gì viết gì thì viết, đừng bao giờ phản bác lại con đường mình đã đi.
    Vợ tôi ngừng nói. Bà ấy cúi đầu xuống làm ra vẻ tủi thân. Có lẽ do thói quen hay lên lớp chính trị, quen lãnh đạo tư tưởng người khác, Ruộng cũng như nhiều người đàn bà khác đã quên cái vũ khí lợi hại nhất của mình, cái vũ khí mà Tây Thi và Dương Quý Phi đã dùng để làm đổ thành khuynh nước. ấy là sự kiều diễm, nét dịu dàng nhân hậu, cái tha thướt ngây thơ trong vẻ đẹp của thân xác và tâm hồn vậy. Nếu người đàn bà biết dùng sự yếu đuối của mình làm sức mạnh, nàng không chỉ làm chủ được người đàn ông, mà đôi khi còn có khả năng chinh phục được thế giới. Nhưng vợ tôi được sinh ra không để làm một người đàn bà mà để làm một nhà cách mạng. Phải chăng đó chính là căn bệnh thời đại? Bà ấy tiếp tục lên giọng chỉ huy:
    - Anh hãy từ bỏ những thứ triết lý tư sản kia đi để trở về với tư tưởng của giai cấp vô sản. Tư tưởng đó được cụ thể hóa trong trường hợp của anh là: đừng bao giờ làm thơ làm phú, viết văn viết vẻ, mơ mộng đến người tình nhân bác sĩ đã chết của anh nữa. Chỉ vì nó mà đời tôi bất hạnh. Thứ hai, không được viết, được nói bất cứ điều gì sai nguyên tắc đảng, làm hại đến con đường vào tỉnh ủy của vợ con. Thứ ba, hãy quan tâm đến con gái anh một chết. Con Vương Thi đã có bồ hai năm rồi đấy. Thứ tư, luôn luôn phải ngồi ở nhà mà viết, cơm nước có con hầu này với Vương Thi lo. Thứ năm, viết xong rồi đưa cho em duyệt nghe chưa?

  7. A6188

    A6188 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/09/2002
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    0
    Chao ôi, cuối hịch truyền của lệnh bà, không hiểu sao mụ ấy lại xuống sề bằng một tiếng em rất cải lương vậy không biết. Từ đó, tôi nằm dài ở nhà, làm một con cáy thập thò ra vô trông trời trông đất. Tôi được chuyển biên chế về tổ sáng tác của hội văn nghệ tỉnh Sơn Giang, nơi toàn các bố già sáu mươi lăm bảy mươi chưa chịu về hưu. Tôi nằm trong nhà như nằm dưới đáy một cái hố. Không còn một cái thang, một sợi dây nào trên mặt đất thòng xuống cứu tôi lên nữa. Tôi đã bị ném ra ngoài cuộc sống. Đang làm tổng biên tập tờ báo văn nghệ tỉnh, quyền sinh quyền sát, lên xe xuống ngựa, ai ai cũng nhìn tôi kính trọng, đặt bút xuống ngoáy một chữ ký là anh này được in, anh kia xếp xó. Vừa nắm được tí quyền lực trong tay, đang hí hửng như Ngô được vàng, chưa kịp lội qua sông, vàng đã rơi mất. Thà bị chặt cụt hết hai tay, hai chân còn hơn mất cái chức tổng biên tập. Ngay đến khả năng để tiếc, tôi cũng không còn nữa. Ôi cũng tại tôi, khi chín mươi chín cái cổng thành đã khóa chặt, tôi lại kiêu căng bỏ ngỏ một cửa để thử thách khả năng canh phòng của mình. Trời ơi, con Ngọc Hương, tôi đã tự bảo mình rằng: mỗi người đàn bà là một cái bẫy, lỡ dại chui vào hoặc là chết tươi ngay, hoặc là mục xương suốt đời không thoát. Tôi còn mặt mũi nào nhìn thấy trái tim của Oanh trong ngực mình nữa? Suốt mấy tháng trời, tôi phải khổ sở vật lộn với lương tri mình khi nó tỉnh thức. Tôi bị các ý nghĩ, các loại tình cảm đối lập nhau trong bản thân mình nện cho nhừ tử. Phải chi tôi không còn lương tri nữa có lẽ đã bớt khổ hơn, sẽ vẫn ngủ ngon sau những hành động vô nhân cách. Có phải lương tri đó chính là đôi mắt Oanh nhìn từ tâm hồn tôi ra? Tôi đau vì mất chức tổng biên tập một nhưng đau vì sự phản bội Oanh tới mười lần. Tôi đã gieo hạt giống sợ hãi, hèn nhát thì làm sao lại được gặt sự dũng cảm cơ chứ? Tôi bắt đầu sợ mọi thứ xung quanh mình. Nhìn vào đâu tôi cũng thấy một cái máy ghi âm vô hình, có hàng nghìn lỗ tai nghe trộm đang ghé sát vào đầu tôi để sao chụp lại từng ý nghĩ. Cái băng ghi âm Hoàng Thi đang giữ chính là cái nhà tù của đời tôi. Lại còn cuốn nhật ký ngày xưa vợ tôi tịch thu chưa trả lại nữa, cứ y như một con cọp dữ luôn luôn rình rập ở mọi lối đi của cuộc đời tôi Có nhiều ngày, tôi đã chui vào góc nhà, ngồi co ro trong bóng tối như một con gián và suy nghĩ về mọi điều. Nghĩ một hồi, tôi nhớn nhác, lơ láo nhìn quanh và sợ toát mồ hôi. Không biết có kẻ nào theo sau ghi chép đứợc những ý nghĩ lộn xộn vô tổ chức, vô kỷ luật của tôi để báo cáo không biết? Có buổi tôi ra bờ sông, nơi không có một bóng người để ngồi nghĩ ngợi về bao nhiêu điều từng day dứt cuộc đời tôi, về tự do và nô lệ, về cá nhân và tập thể, về quyền lực và nỗi sợ hãi, về sự kiêu ngạo đến tàn nhẫn của con người. Tôi có cảm giác như mình là một kẻ nghĩ chui, suy tư lậu. Những ý nghĩ của tôi chưa được cấp trên duyệt chưa được tập thể thông qua. Và vì vậy, tôi lại sợ hãi đến co dúm cả người, lại run rẩy đến vã cả mồ hôi. Tôi lại ngơ ngác nhìn xung quanh xem có cái đuôi nào bám theo mình, để rồi bắt quả tang những ý nghĩ của mình và lập biên bản về tất cả những gì tôi vừa suy tư một cách bắt hợp pháp. Trời ơi, tôi sợ hãi ý nghĩ của mình quá. Những ý nghĩ, mi thật là bất trị. Tôi càng sợ hãi nó thì nó càng đuổi theo tôi, cứ ám lấy đầu tôi như ma quỷ. Chung quy lại cũng chỉ vì tôi sợ mình nghĩ sai mà thôi. Khi cô đơn, con người bao giờ cũng là kẻ cả nghĩ. Tôi chạy vào toa-lét vừa có ý định tắm, vừa có ý định chạy trốn dòng suy tư của mình. Nhưng quái quỷ thay là sự hoạt động của đại não, những ý nghĩ cứ đuổi theo tôi. Có ngày tôi điên đến độ chui vào trong chăn suy nghĩ, hy vọng sẽ không ai vớ được mình. Nhưng rất cuộc tôi vẫn sợ hãi, tôi vẫn cứ toát mồ hôi. Bởi vì, tôi vẫn là một kẻ nghĩ chui, một kẻ suy tư lậu. Tôi không được quyền tư tưởng một cách độc lập. Trong đầu tôi luôn luôn cần có một con bò biết nhai lại ý nghĩ người khác, nhai lại những tư tưởng của người khác. Hay là tôi bị thần kinh? Đụng vào đâu, nghĩ tới đâu tôi cũng đều sợ hãi. Thế giới này với tôi từ một hạt bụi cho đến một giọt sương cũng đều không tin cậy được, cũng đều giấu ẩn một lỗ tai, một cái miệng, một đôi mắt của một tên chỉ điểm. Trời ơi, tôi sống làm sao được nữa trong cái thế giới đặt toàn cạm bẫy này. Cuối cùng, sau một cuộc toát mồ hôi vì những ý nghĩ lung tung lang tang khap nơi khap chốn ấy, tôi chợt phát hiện ra mình chính là kẻ theo dõi, là tên chỉ điểm của chính mình. Ngay ở trong đầu tôi đã có một lực lượng chuyên môn hù dọa, chuyên môn làm cho nỗi sợ hãi được gia tăng, luôn luôn theo dõi và bám đuôi những ý nghĩ bất trị của chính mình. Tự do, nói gì thì nói, trước hết phải biết cách xuất hiện trong đầu ta. Hay là tôi không có khả năng tự do, tôi không có khả năng được sống là chính mình? Tôi, một nhà văn, sinh ra cốt để làm cái loa cho kẻ khác, làm bản nháp cho kẻ khảc hay sao? Tôi phải tìm cách thoát khỏi mọi nỗi sợ hãi vô cùng tận này. Và cái cọc giữa biển khơi khi tôi sắp chết đuối là tập bản thảo thơ của tác giả Hoài Bão tức đồng chí Tràng Giang hiện là bí thư tỉnh ủy, người đã chỉ thị cho tôi sống, chỉ thị cho tôi viết văn, chỉ thị cho tôi lấy vợ từ gần bốn mươi năm xưa. Xin nhắc lại hồi Tràng Giang về làm bí thư tỉnh ủy, có gọi tôi lên, phong chức cho đàn em, đưa cho tôi một tập bản thảo thơ của ông mang tựa đề Đêm mặt trời. Phải nói công bằng thơ Tràng Giang rất dở, như vè, như tấu, như nói có vần, rất nôm na, ý tứ nghèo nàn, vần điệu gượng gạo, ngôn từ luộm thuộm chẳng ra làm sao. Nhưng vì là tập thơ của bí thư tỉnh ủy, nên anh dù thằng thắn cách mấy, bố bảo dám nói sổ toẹt ý nghĩ của mình, dám chê bai đúng như giá trị vốn có của tập thơ. Vì vậy anh phải nói khác đi, nói sao cho khéo để ông bí thư đừng cho là mình bốc thơm, mình nịnh. Nghệ thuật của kẻ nịnh bợ là nghệ thuật của kẻ dối lừa, bịp bợm đã ở trình độ siêu hạng. Anh nịnh cách sao để người được nịnh, thấy mình không bị nịnh, nhất mực cho rằng anh nói chân thành. Các nhà nịnh học xưa nay đã làm cho khoa học nịnh trở thành một nghệ thuật, có thể viết một cuốn sách dạy nịnh để tung ra thị trường chữ nghĩa hôm nay chắc là hốt bạc. Thưa thủ trưởng, thực ra thủ trưởng chỉ đáng là cái giẻ rách, nhưng em vì quyền lợi của mình, em phải nâng thủ trưởng thành ra gắm ra vóc, thành lụa thành là. Em tung bùa chú của ngôn từ làm cái thừng dat mũi thủ trưởng như dat con trâu con bò. Khi kẻ có quyền ưa nịnh nọt, hắn tự biến mình ra thành con rối, thành công cụ trục lợi trong tay bọn nịnh thần mà hắn vẫn hí hửng không biết. Bằng nghệ thuật bốc thơm cao cấp, từ xưa, đám quan lại nịnh thần đã xỏ mũi được vua chúa. Vua ưa nịnh là ông vua đã bị vô hiệu hóa, đã mất hết quyền lực. Và từ đó, quyền sinh quyền sát nằm trong tay bọn nịnh thần đê tiện. Bằng cách viết bài khen, biến thơ dở thành thơ hay cực kỳ, tôi đã biến Tràng Giang thành chỗ dựa vững chắc, thành vật bảo hiểm cho mình. Tôi viết bài bình thơ bí thư tỉnh ủy gởi cho báo tỉnh ủy và dĩ nhiên là được ưu tiên đăng nhanh nhất. Tôi viết bài khen thơ bí thư tỉnh ủy vừa độ để ông sung sướng. Vì vượt qua giới hạn của sự phổng mũi, ông ta có thể nghĩ là tôi nịnh bợ vì động cơ cá nhân. Tuy nhiên, có rất nhiều kẻ biết người khác nịnh mình nhưng vẫn không từ chối lời khen, vẫn cứ sướng, thậm chí còn cảm thấy nịnh chưa tới số. Tôi tiếp tục ngồi ở nhà viết bài bình giảng hết bài thơ này đến bài thơ khác của tập bản thảo Đêm mặt trời của Tràng Giang. Thậm chí, Hoàng Thi giờ là tổng biên tập báo văn nghệ tỉnh vì hắn biết đánh cắp chức vụ của tôi một cách hợp pháp, đã sai người sang đặt bài tôi viết về những bài thơ của đồng chí bí thư. Vả lại, Hoàng Thi biết tôi là em kết nghĩa từ xưa của đồng chí bí thư. Sau khi bình được tám bài thơ của bí thư tỉnh ủy trên báo thì tôi nhận được thư của Quát là thư ký thứ hai của bí thư tỉnh ủy. Tôi biết tỏng đi là cá đã cắn câu rồi. Kẻ nịnh đã biến người được nịnh thành bất cứ thứ gì, vật gì nó cần. Như lần trước, tôi được xe Von-ga đen đến chở qua một trạm gác, một barie để vô nhà riêng của bí thư tỉnh ủy. Tràng Giang và Thùy Linh vợ ông ta cùng đi ra vườn đón tôi. Họ rất niềm nở. tất nhiên là sự niềm nở của kẻ bề trên, mời tôi dùng cà phê trước. Tôi vừa nghe Tràng Giang nói về tình hình thời sự vừa ngầm quan sát Thùy Linh. Hôm nay, người đàn bà mô-đen này mặc một bộ đồ bằng da đen rất đắt tiền, áo bỏ trong quần thẳng thớm căng cứng, y hệt một con quạ biết cách thu hút cái nhìn của đàn ông. Bà vợ bí thư hôm nay son phấn nhiều hơn lần đầu tôi gặp. Thùy Linh cũng hút thuốc, thở khói lên trời, mắt lơ mơ, thỉnh thoảng nhìn tôi bằng cái nhìn của lưỡi tầm sét. Đôi khi, người đàn bà này nói chen vào cho có chuyện, đoạn lại hút thuốc, đổi cái nhìn, phóng ra những tia thách thức như ngầm ý bảo nhà báo nhà văn có biết ong **** là cái giống gì hay không? Tôi rùng mình quay đi trước cái nhìn thăm dò của bà vợ ông bí thư. Hèn chi, con trai và con cái tôi hay bàn tán về chuyện đời tư của bà đệ nhất phu nhân tỉnh Sơn Giang này. Rằng bà ta có cả mấy trăm cái áo cái quần loại cực mốt. Rằng bà ta xỏ mũi ông chồng già bí thư, lôi đi như con mèo kéo theo cái đuôi của nó vậy. Rằng mọi quyền hành nơi ông chồng thực chất nằm trong tay bà vợ cả. Bà ta nắm được cái thóp của các tỉnh ủy viên cho đến các ngài giám đốc sở. Anh nào lại không có mánh mung, không có tật, không có điều mờ ám. Bà ta có một hệ thống em út chuyên môn theo dõi hoạt động của các cán bộ lớn trong tỉnh. Ai muốn lên chức, muốn có cái ghế ngon nhất nhất phải qua cửa bà ta. Rằng bà Thùy Linh này đã ngủ với bất cứ ai bà ta muốn. Gần như cả tỉnh đều biết chuyện đó trừ ông chồng gà mờ bí thư. Nghe hai đứa con bàn tán những điều cấm kỵ như vậy, tôi quát: ăn nói tầm bậy tầm bạ, tù đấy các con ạ. Thằng Văn cười bảo tôi: rời bố xem. Đến bữa ăn, Thùy Linh thay đồ tây bằng đồ đầm. Bà ta mặc một cái váy ngắn màu da người, như thể nó là sự tiếp tục của cặp giò cao và rắn chắc. Tràng Giang giải thích sự ăn diện của bà vợ:
    - Tôi vừa đưa bà ấy đi nghỉ mát bên Tây. Dù mình có ăn diện thế nào đi nữa, cũng vẫn chỉ là cái anh nhà quê, so với mấy bà vợ những ông bí thư tỉnh ủy bên đó cùng đi nghỉ mát với chúng tôi.
    Tôi cười cười phụ họa:
    - Dạ đúng đấy anh ạ. Bên Tây họ ăn mặc như trời ấy chứ. Chi cần phải trang điểm, trang phục nhiều vào nữa mới phải, để cho mấy ông Tây bà đầm nhìn vào mà lảc mắt.
    - Chú nói quá đúng. Nào, ta uống đi. Khi đã ngà ngà, ông bí thư bảo tôi:
    - Thơ tôi đâu có hay mấy. Chắc là nhờ chú bình giải người ta mới biết. Mấy bài chú viết có ích lắm. Chú ạ, thời nào cũng vậy, muốn làm lãnh tụ thì chí ít cũng phải biết làm một tị thơ. Quy luật nó vốn vậy. Phàm các vị lãnh tụ cách mạng lớn trên thế giới này đều có làm thơ cả. Lê-nin á, Xta-lin á, có làm thơ đấy, làm ít thôi song vẫn được gọi là nhà thơ. Còn Mác thì khỏi nói, lại làm thơ tình nữa mới ghê chứ.
    Tôi đế vào cho câu chuyện thêm hào hứng:
    - Anh còn thấy một vị lãnh đạo cao cấp nào của nước ta không làm thơ?
    - Ai nào? Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
    - A sao chú dám cả quyết điều đó. Vả lại, cả cuộc đời của cụ là bài thơ rồi..
    Tôi cười xòa. Thùy Linh phóng ra một câu lấp lửng đầy vẻ nem chả:
    - Tôi làm được nhiều cái lắm nhưng thơ thì xin chịu.
    Nhân thời cơ đến, tôi bàn:
    - Này thưa anh Tràng Giang, chỗ anh em trong nhà em xin nói thật nhá. Em xin phép anh cho xuất bản tập thơ Đêm mặt trời của anh đi.
    - Chú bảo thơ tôi in thành tập á. Sợ người ta cười cho thì sao?
    - Ai dám cười anh. Cả tỉnh này đố đứa nào dám cười anh chị.
    Thùy Linh vênh mặt:
    - Phải. Tôi thách. Anh cứ để cho chú ấy in. Muốn làm lớn hơn cái chức bí thư tỉnh ủy cò con này mà không chịu phát hành tập thơ thì dại quá.
    Tràng Giang vẫn chối như quan viên chối tiết canh lòng lợn. Tôi và vợ ông ta phải khuyên giải, phải ép lấy ép để, cuối cùng ông ta mới chịu:
    - Tôi chỉ sợ mấy cụ ngoài trung ương bảo thằng Tràng Giang chơi trèo. Thôi, tùy chú với nhà xuất bản tỉnh. Nhưng in ít thôi nhé. Phát hành nội bộ thôi. Đừng có làm rầm rộ lên. Đừng có mượn người này người kia đề tựa. Cũng đừng nhờ báo chí trung ương phê bình phê bủng mà mấy cụ lớn cụ ấy mắng cho đấy
    Tôi còn lạ gì Tràng Giang, con người khiêm tốn chủ nghĩa này nữa. Những điều ông ta vừa nói trên đây, tinh ý thì phải cần hiểu ngược lại hết. Rằng ông ấy bảo in ít thôi nghĩa là cần phải in số lượng cho lớn vào. Rằng ông ta bảo chỉ phát hành nội bộ có nghĩa là phải rải hết cho phát hành trung ương và các tỉnh. Ông ta bảo đừng làm rầm rộ thì phải hiểu là nên tổ chức họp báo để phát hành tập thơ chẳng hạn. Chúng tôi vừa ăn dê tay cầm, vừa uống rượu ngoại vừa bàn về tập thơ Đêm mặt trời.
    Từ ngoài phòng khách, Quát, người thư ký thứ hai của Tràng Giang hớt hải chạy ra:
    - Báo cáo đồng chí bí thư, sở lương thực vừa gọi điện báo không hiểu vì sao kho thóc Phú Hòa lớn nhất tỉnh bị cháy rồi ạ. Có kêu bên cứu hỏa nhưng vì hết giờ hành chính nên không có ai trực điện thoại. Xin ý kiến đồng chí bí thư.
    Tràng Giang đang bị vinh quang của nghề thơ hấp dẫn, đang mơ tới những chức vụ cao hơn ngoài thủ đô. Tràng Giang làm như không hề để ý đến sự có mặt của Quát và điều anh ta vừa báo cáo. Ông vẫn tỉnh bơ uống hết ly rượu vàng óng màu mật ong. Đoạn ông mới thủng thỉnh:
    - Đồng chí bảo hỏi bên chính quyền ấy nhá. Gọi cho đồng chí chủ tịch giải quyết. Nhớ bảo sở lương thực rút kinh nghiệm. Lần sau chỉ được phép báo cáo thành tích cho bí thư nghe thôi. Đồng chí nói cho họ rõ là bí thư tỉnh ủy sinh ra không phải để nghe những vụ việc tiêu cực ấy đâu nghe.
    Quát vội trở về với cái máy điện thoại và vụ cháy kho thóc của mình. Anh ta đang tức đám cháy vì sao nó lại không cháy vào giờ hành chính. Hai vợ chồng ông bí thư và tôi vẫn tiếp tục vừa ăn vừa bàn về cách nấu ăn siêu hạng của Tàu mà chúng tôi ít nhiều đã được nếm ở tại Bắc Kinh. Khi tiệc trà đem ra, tôi lại thấy bóng Quát chạy vào, vừa nói vừa xoa xoa hai bàn tay vào nhau:
    - Thưa đồng chí bí thư, đồng chí Năm Chiêu, bí thư huyện ủy huyện Nhân Hưng báo cáo là lúa của huyện đang bị rầy nâu phá hoại có thể thất thu hai phần ba diện tích. Anh Năm Chiêu nói là đồng chí bí thư tỉnh ủy đã hứa sẽ thúc công ty thuốc trừ sâu giải quyết thuốc chống rầy cho huyện, nhưng chưa rót xuống một ký nào ạ. Đề nghị đồng chí cho ý kiến vì Năm Chiêu đang chờ điện ạ.
    Tràng Giang gắt:
    - Rầy nâu phá hoại lúa thì dính dáng gì tới bí thư tỉnh ủy nào. Hỏi bên ủy ban nghe chưa. Bí thư tỉnh ủy sinh ra không phải để lo mùa màng thóc lúa mà để lãnh đạo tư tưởng, là chịu hoàn toàn về chính trị trong tỉnh.
  8. A6188

    A6188 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/09/2002
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    0
    Tội nghiệp tay Quát. Anh ta lại trở về với cái máy điện thoại cố hữu của mình. Tôi cũng xin phép hai ông bà bí thư ra về. Tôi hứa tập thơ sẽ được in ra trong vài tháng tới với lời tựa của một nhà thơ tên tuổi, sẽ phát hành với số lượng tối đa, sẽ có họp báo linh đình, sẽ có nhiều cây bút phê bình danh tiếng giới thiệu. Tràng Giang im lặng không nói gì. Trước khi tôi bước lên xe, ông hỏi:
    - ồ làm sao chú lại từ chức tổng biên tập tờ báo?
    Tôi chột dạ, suýt nữa té ngửa. Nhưng trí khôn tôi của đáng tội cũng có giá, chớp liền thời cơ:
    - Thưa anh, sức khỏe em không được tốt. Vả lại, cũng muốn dành thời gian còn lại của cuộc đời để đọc và nghiên cứu, nghiền ngẫm tập thơ Đêm mặt trời của anh cho kỹ lưỡng, đặng viết bài bình phẩm hướng dẫn người dân đọc ạ.
    Tràng Giang bắt tay tôi nói nhỏ:
    - Cần gì chú cứ kêu tôi. Anh em tình nghĩa cũ, tôi không tiếc chú điều gì cả. Năm nay, tôi đang bận rộn thời gian để hoàn thành tập thơ mới nhất gồm sáu mươi bài mang tựa Mây tư tưởng.
    Tôi phụ họa:
    - Trời, chỉ nghe cái tên tập thơ thôi là người ta đã chen nhau bẹp ruột để mua bằng được Mây tư tưởng rồi. Chúc anh viết nhiều hơn nữa. Dưới vòm trời che đỡ của bí thư tỉnh ủy, tôi cóc phải sợ hãi bất cứ một con muỗi nào nữa. Tôi dám thách cả cuốn nhật ký cũ mèm vợ tôi vẫn giấu để nắm tim tôi đấy. Tôi dám thách cả thằng Hoàng Thi, có giỏi thì tung cái băng ghi âm quái quỷ ấy ra đi, xem đứa nào chết? Tôi đã nhờ được một nhà thơ cự phách đề tựa cho tập thơ Đêm mặt trời của Tràng Giang. Tôi đang viết thư thông báo cho mấy nhà phê bình chuyên môn viết bài khen ngợi thơ phú của các vị lãnh đạo thì có tiếng gõ cửa. Chết cha, ai vậy kìa? Nếu là vợ con thì đã có chìa khóa, cứ thể mở vào. Khách, lâu nay tôi đâu có ma nào đến thăm. Những tay văn nghệ văn gừng ngày trước nịnh tôi bỏ cha bây giờ coi tôi còn thua rơm rác. ấy, đấy, lại gõ cửa. Tiếng gõ nhẹ nhàng ý tứ như vậy không của con gái đàn bà thì là của công an chắc? Tôi lạnh toát xương sống. Bỏ mẹ, nếu công an tới nhà, chắc chắn không phải để rủ tôi đi xi-nê hay đi nhậu. Hay là thằng ôn con ấy đã gởi cuốn băng kia cho công an văn hóa? Hay là cuốn nhật ký đầy những suy nghĩ cá nhân? Thấy chưa, lại gõ cửa nữa rồi. Biết đâu, hay là con Ngọc Hương nó kiếm mình để xin lỗi và giăng hoa? Tôi bước ra mở cửa. Này, cái gì thì cái, ông nào bà nào thì cứ thò mặt ra là biết. Chao ôi, một ông lạ hoắc chắc hơn tôi vài tuổi, lại cao to đứng lù lù trước ngưỡng cửa. Ông ta ăn mặc khá tươm tất, nhìn tôi huýt sáo một cái thật kêu, giang tay ra đến phát khiếp. Tôi ú ớ:
    - Thưa, anh làm gì đấy ạ? Người kia bèn sấn sổ vào tôi, dùng hai bàn tay nặng ký bất thần bíu chặt vào hai vai tôi như tính bắt, khiến tôi phải lùi lại thật nhanh, đứng thủ thế, sắn sàng phóng ra một miếng võ nếu bị tấn công. Ông lạ mặt bèn cười ré lên một tiếng như Trư Bát Giới gặp nữ yêu:
    - Quên nhau rồi à cha nội?
    Tôi ngớ người.
    - Chết cha, Hai Giỡn. Tí xíu nữa là xảy ra vẻ nện nhau như chơi.
    Chúng tôi ôm chầm lấy nhau đến độ ngã sóng soài ra cửa, rồi lại xáp vô nhau như hai đô vật. Tôi reo:
    - Đồ quỷ sứ. Anh làm tôi hết cả hồn. Đang làm cục trưởng với hòn trưởng mà về đây làm gì ông?
    - Tớ xin hưu. Gút-bai Hà thành vào đất An Hải sống với ông đây.
    Dễ hai mươi năm có lẻ chúng tôi lại mới được gặp nhau. Hai Giỡn mang theo một lít rượu Làng Vân, mở gói Sa-mít bảo tôi uống và hút cho khói um cái thành phố này lên chơi. Tôi mừng lắm, lật đật kiếm cái gì nhậu nhưng Hai Giỡn can, tí nữa ghé thăm nhà ông ta rồi tính. Chúng tôi được một bữa huyên thuyên sướng nhé. Sau đó, chúng tôi lại quay về câu chuyện thời sự, về cái sự chán chường khiến Hai Giỡn phải xin về hưu. Rằng ông thấy mình bất lực trước muôn nghìn cái xấu, cái ác, cái bất công mà người ta gọi tránh đi là tiêu cực đang ăn rỗng cả rường cột quốc gia. Ông cảm thấy người cầm quyền như đang xa rời dần cái xuất phát điểm và cái mục tiêu của cách mạng. Bố mẹ vợ ông không có con trai thừa kế, nài nỉ ông về An Hải này để các cụ trao lại dinh cơ. Đó là một ngôi nhà hai tầng xinh xắn nằm trong một khu vườn đẹp ở ngoại vi thành phố. Số Hai Giỡn là cái anh nhờ lộc vợ. Hai Giỡn uống vại ly rượu vào là hăng hái lắm. Gặp bạn thân, ông moi gan ruột ra để kể chuyện tình của mình cho tôi nghe một cách say mê như thời trai trẻ:
    - Hồi đi học nước ngoài về, tớ vẫn chưa chấm được cô nào cả, nói chung là chưa muốn lấy vợ. Tớ được phân một căn phòng nhỏ xíu trong hẻm phố Hàng Chuối. Một lần mở cửa sổ ra, tớ thấy qua cửa sổ nhà đối diện một cô gái trắng đến nỗi tớ chưa từng thấy có cái gì trên đời trắng hơn, ngồi đan áo len. Dáng vóc cô ta thật lý tưởng. Thấy tớ đứng bên này cửa sổ nhìn không chớp, nhưng cô ta không ngẩng mặt lên bao giờ, vẫn cúi xuống đan áo. Bấy giờ, tớ dạy ở đại học Bách khoa, mỗi lần về nhà mở cửa sổ ra, lại thấy cô gái đó ngồi đan áo, vẫn nước da trắng đến độ trứng gà bóc còn đen nếu dám so với cô ấy. Tớ huýt sáo hoài nhưng cô ta vẫn không thèm ngẩng đầu lên ông ơi. Tớ tức lắm. Lạ, con cái nhà ai mà kiêu kỳ vậy không biết? Suốt cả tháng trời tớ không sao thấy được mặt mũi cô gái bí hiểm này, để coi cô ấy xinh thật hay xinh dỏm. Ngay lối cổng đi lại, tuyệt nhiên cũng chẳng thấy cô ta ra. Hỏi hàng xóm thì tớ không muốn. Ba Hưng biết vì sao, làm cách nào để tớ nhìn thấy mặt cô đan len kia không? Vỏ quít dày, tất nhiên phải sinh móng tay nhọn, tớ mới kiếm một cuộn len bằng cái hột vịt, nhét vào giữa viên sỏi cho nặng rồi viết mấy chữ vào một mảnh giấy nhỗ gởi trong ruột cuộn len rằng: Anh muốn được nhìn thấy gương mặt em. Đoạn, tớ nhằm cô ta từ bên này cửa sổ, ném cuộn lên vụt một cái qua cửa sổ nhà cô ta. Trời ơi, phải nói là tuyệt vời, cuộn len trúng cái bịch vào ngay ngực cô nàng. Cô gái bèn ngẩng đầu lên nhìn tớ cậu ạ. Thật đúng là tiên nữ giáng trần, mình choáng váng như kẻ sắp sửa chết đói ấy. Tớ cứ đứng ngẩn tò te ra như thằng bé nhà quê lần đầu tiên được nhìn voi ỉa. Tớ thấy cô ta cúi xuống nhặt cuộn len, tháo tung ra, tìm thấy mẩu giấy cam cúi đọc rồi tủm tỉm cười. Thấy vậy, tớ cũng nhe răng cười y hệt chú nghé con vừa hít trúng đám cỏ non ngon lành. Từ hôm đó, cô gái biến mất, suốt cả tuần lễ không ngồi bên song cửa đan len nữa ông ơi. Tớ buồn đến chết được. Đi dạy học về chỉ làm mỗi công việc là mở cửa sổ chiếu tướng cửa sổ nhà đối diện. Tớ nhớ quặn thắt ruột gan cái gương mặt trái xoan, cái mũi bé bằng mỏ chim sáo, cái miệng chúm cha chúm chím thương đến rụng tóc được ông ơi. Bỗng một hôm tớ ngồi viết rất say sưa thì nghe một tiếng bịch hết hồn. Chả là từ có nàng, tớ kê ngay bàn viết giữa cửa sổ. Sau cú bịch rơi từ đâu đến ấy, cái bút tớ đang cầm trên tay bị văng ngay xuống đất. Tớ nhìn xuống gầm bàn thì hóa ra cuộn len của mình bữa trước. Trời ơi, ông ném đi, bà ném lại, cô gái bí mật đã ném trả mình vị sứ giả tuyệt vời là cuộn len nhỏ. Mình mừng muốn điên lên được, tới mức có thể nhảy từ trên lầu xuống đường cũng cóc có sợ chết. Trúng rồi trời ạ. Sự im lặng đã lên tiếng, bí mật đã bước đầu được khui mở. Tớ hồi hộp nhạt cuộn len lên, moi trong ruột ra một miếng giấy nhỏ. Tớ thề với cậu là lúc ấy tim tớ ngừng đập mấy giây. Chữ của nàng đây, nét chữ bé tí tẹo như những con rận xanh dễ thương bò nhấp nhổm. Đây, lời nhắn của nàng đây: Anh đừng nhìn em, em xấu hổ chết mất. Từ đó, suốt ba tháng trời, giữa hai cái cửa sổ qua hẻm phố chừng hơn ba thước đã xảy ra cuộc chiến tranh, mà viên đạn bắn qua bắn lại là cuộn len có gài thêm bức thông điệp trái tim. Chúng tớ đã tỏ tình với nhau bằng cái kiểu lạ đời ấy ông ạ. Tớ yêu cô ta chết mê chết mệt. Cô ta dịu dàng và yếu đuối đến mức, tớ sợ mỗi ngày viên đạn si tình ban qua ban lại chiu chiu hai ba lần như vậy liệu có nhừ xương không? Đúng một năm trời, chúng mình cưới nhau cậu ạ. Tớ nói dóc thì xin ông cọp cứ việc vồ tớ ngay cả khi dạo phố. Khi cô ấy mặc áo cưới về phòng mình thì có đến hơn một nửa dân Hà nội ghen tị. Cô ấy đẹp đến độ tớ có tả mấy đi chăng nữa cũng chỉ là sự bôi bác mà thôi. Nhưng khi lấy về, tớ mới biết cô ấy điếc nặng cậu ạ. Được cái may lớn là vợ tớ điếc nhưng không câm. Nghe đâu đến hơn mười mấy tuổi cô ấy mới bị điếc. Đêm tân hôn, tớ ghé vào tai cô ấy hét: Anh yêu em. Cô ấy nghe tiếng đực ra tiếng cái bèn hỏi lại: Sao, anh yếu hả? Yếu thì ngủ đi để đêm mai. Cô ấy hiền lành đến bụt cũng không bằng. Vợ tớ suốt ngày ngồi đan len làm nội trợ. Nhiều lúc tớ thấy thương cô ấy đến giàn giụa nước mắt. Một lần cô ấy giận tớ đến hai ngày không thèm ăn cơm. Tớ ghé vào tai cô ấy nựng, tất nhiên không thể nựng thầm mà là quát lên: Em cưng. Cô ấy buồn lắm. Hai ngày sau cô ấy bảo tớ: Em dịu dàng mềm mại như thế mà sao anh lại chê em cứng. Tội quá, cưng với cứng chỉ hơn nhau dấu sắc mà không hiểu được nhau. Năm sau, vợ tớ sinh ra một thằng cu đẹp hết ý. Khi thằng bé lên sáu tuổi thì tớ có việc đi nước ngoài. ở nhà, xui xẻo sao, hai mẹ con ra phố gíữa lúc máy bay Mỹ đến ném bom. Đau đớn thay, bom nổ, một mảnh bom Mỹ cắm ngay vào gáy người vợ hiền lành xinh đẹp của tôi. Cô ấy gục ngã và tắt thở liền tại chỗ. Còn thằng bé cứ ôm lấy mẹ mà gào, đến độ máu của mẹ đỏ bầm hết cả người con. Khi tớ về thì cô ấy đã xanh cỏ. Tớ đau buồn như điên dại. Tớ thành gà trống nuôi con. Cuộn len tình sử là trái tim cô ấy gửi lại, hiện tớ vẫn còn giữ. Hai Giỡn kể xong, ngồi lặng đi một phút. Hai mắt ông ngấn lệ ông hẹn tôi chiều maí sẽ cho Honđa đến rước tớí thăm nhà mới của ông, nhậu lai rai chơi. Chiều hôm sau, một cậu thanh niên tự xưng là con của Hai Giỡn đến rước tôi bằng xe máy. Phải nói, căn cứ của Hai Giỡn thật lý tưởng. Nhà lầu, vườn rộng, cây cảnh đẹp, có hòn non bộ, có hồ sen nhân tạo, lại chiếc nhà thủy tạ con con, thật đời tôi nằm mơ đến ba kiếp cũng chẳng thấy. Người vợ mới của Hai Giỡn trạc bốn mươi lăm nhưng dáng còn trẻ, trang điểm rất thoáng và nhạt. Chị có cặp lông mi dài cong vút lên như lông mi giả, đôi mắt to, sáng xanh, mũi ngắn nhưng thon, môi trái tim, cằm hơi lẹm, má đầy đặn, răng trang hơi thưa, cổ thon dài nên nhìn quý tướng. Vợ Hai Giỡn là cán bộ giảng dạy đại học vừa từ Hà nội chuyển vào An Hải này. Chị ra tập kết theo một người anh trai đã hy sinh năm Mậu Thân. Tôi nhìn đàn con sáu đứa đều đã lớn, đứa bé nhất hơn mười tuổi mà thấy khỏe cả người. Nhậu xong, Hai Giỡn kéo tôi ra vườn, mắc hai cái võng nằm ngắm trăng non để xổ bầu tâm sự. Anh kể về mối tình với người vợ thứ hai này:
    - Tự nhiên, tạo hóa hình như đã lên chương trình hết hay sao ấy ông Ba Hưng ơi. Cái số phải sống với nhau thì dù có trốn vào tàu vũ trụ để lên mặt trăng ngồi rồi cũng phải nhảy xuống đất thôi. Từ sau khi góa vợ, tớ tin là mình ở vậy nuôi con cho đến lúc vô hòm. Năm 1973, mình thôi dạy học, về làm cục phó một cục khá to của một bộ khá bự. Hồi ấy thằng con tớ lên mười tuổi. Hôm chuyển nhà mới, cháu vội đi chơi đến nỗi không nhớ lối về nữa, rồi lạc đâu mất tiêu. Tớ điên lên đi tìm con, nhờ hết bạn bè đến công an, chứ hồi đó báo chí đài đóm toàn đưa tin đại sự họp hành lễ lạc, nào ai thèm in lời rao trẻ bị lạc như báo ở phía nam bây giờ. Hơn một tuần rồi mà tớ vẫn chưa tìm ra con. Tớ mất hồn vía, hôm nào cũng lang thang ở những nơi công cộng. Một buổi chiều tớ đang ngơ ngẩn ngồi trên băng đá ngoài công viên Thống Nhất thì chúa ơi, tớ nhìn thấy con mình đang nắm tay một người đàn bà khá xinh đẹp, đang đi phất phơ nhìn nhìn ngó ngó như tìm kiếm. Tớ kìm xúc động, lặng đi theo con mình và người đàn bà xa lạ kia một đoạn mới bật kêu: Hiếu. Thằng bé quay tít lại sau y hệt cái com-pa, nhào tới ôm bố khóc òa. Người đàn bà cũng xúc động rưng rưng nhìn hai bố con tớ xoần lấy nhau như thừng như chão. Một lúc sau, cô ta mới nói nhỏ nhẹ:
    - Thưa anh, suốt cả tuần nay tôi phải dẫn cháu đi tìm nhà. Tôi cảm động vô cùng cám ơn chị ta. Thằng Hiếu, con tôi khoe:
    - Cô Hường thương con lắm. Cô Hường nuôi con. Cô Hường bảo nếu không tìm thấy nhà, cứ ở với cô, cô sẽ là mẹ con. Con thèm có mẹ lắm. Người đàn bà nhìn thằng bé đỏ cả mặt nói chống chế:
    - Thôi đi Hiếu, cô đâu có nói thế.
    Thằng bé càng già mồm:
    - Cô thề nào. Cô nói cô là mẹ con mà. Cô thề đi.
    Tôi phải can con trai để người đàn bà thoát khỏi điều khó xử:
    - Sao con lại án nói với cô như vậy? Tôi cũng ngượng thấy bà. Người đàn bà tên Hường cũng mắc cỡ tới số. Cô ta đứng nhìn xuống bàn chân mình đang di di trên đất. Thằng Hiếu đi giữa, tôi và Hường đi hai bên để nghe nó khoe đủ thứ về cô Hường. Tôi thấy Hường e lệ quá mức, hơi một tí là đỏ mặt, là bẽn lẽn, lấy mấy sợi tóc mai thật dài che miệng. Chúng tôi cứ đi lòng vòng trong công viên mãi. Tôi mời Hường vô nhà Thủy Tạ uống nước hoặc ăn kem, nhưng cô từ chối đến mức tưởng như đi chung với tôi vào chốn đông người, cô sẽ thẹn thùng tới mức tat thở mất. Tôi cảm ơn Hường rất nhiều. Tôi nói xin địa chỉ cô để ngày mai đến cảm tạ, đồng thời xin phép thanh toán tiền tổn phí trong suốt một tuần cô đã nuôi giùm con tôi. Hường nghe vậy làm mặt buồn suýt khóc:
    - Sao anh nghĩ về tôi như vậy. Nào có đáng gì đâu mà thanh với toán. Tôi thấy cháu lạc đứng khóc hu hu mới dẫn về nhà nuôi để giúp cháu nhớ ra lối về nhà cũ. Thôi, tôi xin chào anh. Hường ôm thằng Hiểu hôn. Nó không muốn rời cô Hường. Nó khoe hôm nào sẽ tới mời cô đến nhà bố con nó chơi, ăn cơm với rau muống nước tương và đậu rán. Nó nói toạt ra cái điều cấm kỵ nhất trước những người đàn ông đàn bà vừa quen nhau, đang cố hết sức tỏ ra lịch thiệp:
  9. A6188

    A6188 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/09/2002
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    0
    - Mời cô đến ở với bố con cháu cho vui. Bố con cháu có nhà rộng lắm.
    Tôi bịt mồm con lại. Hường đỏ tía mặt lên, bỏ chạy như con sáo sổ ***g. Tôi thấy Hường xinh xắn quá, lại thương con mình đến độ khó nghĩ. Hôm sau, tôi mua ít quà, dắt thằng Hiếu đến thăm Hường. Hường ở một mình trong căn phòng nhỏ. Đồ đạc của cô rất sơ sài. Cô bảo cô dạy đại học. Chúng tôi quen nhau, khi nào đi chơi cũng có thằng Hiếu. Nó khoái hết biết. Nó trở thành cái cầu nối chúng tôi lại với nhau một cách chân tình và giản dị hơn tất cả mọi thứ xã giao làm bộ. Chuyện tôi và Hường yêu nhau cũng tự nhiên như thể cái điều phải đến tất sẽ đến. Suốt cả hai ba tháng khi hai bên đã thổ lộ yêu nhau rồi, Hường không cho tôi cầm tay chứ chưa nói gì đến hôn với hít. Cô ấy bảo em bị bệnh xấu hổ, đừng suồng sã, đừng đụng vào em, em đứng tim chết mất. Suốt năm tháng trời yêu nhau, tôi tuyệt nhiên không dám đụng vào người mình yêu chỉ vì cái bệnh xấu hổ của cô thật trầm kha. Đến khi chúng tôi thấy cần phải sống với nhau, nghĩa là phải làm đám cưới. Hường nói phải về thưa với mẹ. Nhưng Hường là con em tập kết, mẹ nào ngoài này? Một ngày đẹp trời, cô đưa tôi về Hà Đông chơi thăm mẹ, đặng chúng tôi cùng xin phép mẹ cho được sống vớỉ nhau đến bạc đầu răng long. Khi chúng tôi tới nhà, một bà già người Bắc bước ra đón. Hường kêu bằng mẹ rất tình cảm. Chúng tôi vô tới sân, có bốn đứa trẻ từ nhà chạy ùa ra kêu mẹ mẹ. Tôi xanh mặt:
    - Trẻ con nhà ai vậy Hường?
    Cô bình thản nói:
    - Con em đó anh ạ.
    Tôi cười nói:
    - Thôi đi, em đừng có giỡn anh Hai Giỡn này làm gì.
    Hường trả lời:
    - Anh thử nhìn bốn con mèo con này xem có giống em y đúc không?
    Tôi ngã ngửa:
    - ối Hường có con hồi nào kìa? Tôi tính trốn luôn, nhưng sao trái tim giữ rịt tôi lại với Hường. Thì ra, Hường đã có chồng. Người chồng của cô đi chiến đấu trong Nam hy sinh, để lại cho cô bốn mống này đây. Bà già đây là mẹ chồng của Hường, bà nội của mấy đứa. Tôi nghĩ một lúc, chép miệng:
    - Thôi, mình đỡ phải mất công đẻ thêm con em nhỉ? Hường đứng lặng giữa bầy con ứa nước mắt:
    - Em van anh, anh đừng thương em nữa. Em nặng gánh lắm. Tôi vừa buồn vừa thương cảm: - Lỡ yêu rồi làm sao được em. Tôi chấp nhận Hường. Chúng tôi cưới nhau năm 1974 và sinh với nhau một cháu gái nữa, cộng với bốn đứa con riêng của Hường, một đứa con riêng của tôi là thằng cu Hiếu, thành ra chúng tôi có những sáu đứa con. Vậy là có lúc Hường phải hô lên, rằng con em với con anh hè nhau đánh con chúng ta anh Hai Giỡn ơi. Đêm ấy, tôi với Hai Giỡn nằm ngoài vườn tới khuya. Hai Giỡn chợt hỏi tôi:
    - Này, anh có biết nhà thơ Trần Khuất Nguyên không?
    - Biết.
    - Thơ anh ta hay thật. Tôi mê anh này lắm. Anh ta vẫn còn ở thành phố An Hải này chứ? Hôm nào Ba Hưng dẫn mình tới thăm cậu ấy với. Ta mời hắn tới đây nhậu.
    Tôi nói dối bạn:
    - Mình không quen lắm. Cánh làm thơ tôi ít hẩu lắm ông Hai ơi.
    - Này, ngoài Bắc, thanh niên mê thơ Trần Khuất Nguyên lắm. Nghe nói hắn vừa bị đánh khiếp lắm hả?
    - Ôi, tí nữa là bị bắt rồi. Hắn bị mất đảng, mất chức. Ai cũng bảo hắn hâm, mát giây. Ông chủ tịch hội văn nghệ thề rằng hắn bị điên thơ. Đi đâu cũng đọc, sốt cả ruột. Nghe nói hồi đánh Mỹ hắn bị thương vào sọ nên cũng có thể điên lắm. Vợ tôi bảo bên khối tư tưởng người ta coi tên này là cặn bã của xã hội đấy. Tôi không tin nhà thơ này điên hay mát. Nếu điên sao làm thơ khá vậy?
    Hơn một tuần sau, Hai Giỡn đến rủ tôi tới nhà nhậu. Ông vừa được bầu làm phó chủ nhiệm câu lạc bộ hưu trí của tỉnh. Ông khoe tôi:
    - Trần Khuất Nguyên đúng là con người không bình thường trong cái thế giới bình thường này. Anh ta rừng rực như một ngọn núi lửa, lúc nào cũng có thể phun ra thứ nham thạch thơ ca rực cháy. Nhìn cung cách của Nguyên, tôi chợt nhớ đến Maiacốpxki. Họ là những khẩu đại bác biết tỏ tình đấy ông Ba Hưng ơi.
    - Tôi sợ anh bốc tay này lắm đấy.
    - Xin thưa với anh là chúng tôi vừa mời Nguyên đến câu lạc bộ hưu trí nói chuyện và đọc thơ đấy. Thành công rực rỡ ông ơi. Trong dự kiến, anh ta chỉ nói và đọc thơ trong hai tiếng đồng hồ nhưng vì các cụ hưu trí vỗ tay quá, yêu cầu quá, đành kéo dài ra thành bốn tiếng ông ơi. Nhiều ông hưu trí còn mê Trần Khuất Nguyên hơn cả mê gái nữa. Trong cung cách sống và viết, tôi hiểu cậu ta căm thù cái xấu cái ác biết nhường nào, nhất là cái ác cái xấu kia lại luôn luôn lên giọng nhân danh cái tốt cái thiện. Một con người sống như vậy lúc này thật nguy hiểm.
    - Tôi cho rằng Trần Khuất Nguyên cực đoan quá đấy.
    - Không, Ba Hưng ạ, xã hội chúng ta đang bị căn bệnh hiểm nghèo có nguy cơ làm sụp đổ tất cả là thái độ sống thờ ơ trước cái ác, cái xấu. Theo Trần Khuất Nguyên, đây là căn bệnh si-đa tinh thần của đất nước. Người ta đã học được nghệ thuật lờ đi, chối bỏ trách nhiệm và lời hứa của cả một thời, làm như không biết cái gì đang xảy ra, giả mù giả điếc trước những nỗi khổ ải của cả một dân tộc.
    - Nghĩa là Trần Khuất Nguyên dám bảo xã hội chúng ta đang mất dần khả năng miễn nhiễm trong đời sống tinh thần hả Hai Giỡn.
    - Đúng. Tớ cũng đồng ý như vậy. Vậy thì một người sống khác mọi người, luôn luôn đau lòng và phản ứng quyết liệt trước mọi cái ác và cái xấu đang trở thành yếu tố bình thường của xã hội. Rồi cảnh tỉnh mọi người bằng thơ ca, bằng cách sống không chịu thấp hèn của mình, con người ấy chắc chắc bị cho là điên khùng.
    Tôi cắt ngang lời Hai Giỡn:
    - Anh Hai ạ, bên khối tư tưởng người ta bảo Trần Khuất Nguyên là thằng hề Đông Kisốt. Bên báo văn nghệ tỉnh, người ta bảo cậu Nguyên là thằng cha A.Q. bằng đất thó. Bên Sở y tế họ bảo nhà thơ Nguyên là gã Chí Phèo không biết thân biết phận mình là gì. Còn bên công an bảo nó là tên *********.
    Hai Giỡn không nói gì. Ông ngồi trầm tư có vẻ buồn buồn. Ông sai con lôi cái điếu cày ra hít một hơi dài, thở khói ra như ống khói tàu hỏa:
    - Tớ nhớ không chính xác lắm, có ông tổng thống Băng-la-đét sau này bị ám sát đã nói lên một câu thật hay. Câu ấy như vầy: Trong cuộc ác đấu giữa thiện và ác, hiệp đầu bao giờ cái ác cũng thắng. ở hiệp giữa, hai bên ở vào thể cầm cự nhưng cái ác vẫn còn mạnh hơn cái thiện. Nhưng rất ráo, đến hiệp cuối cùng, cái ác nhất định sẽ bị cái thiện đo ván.
    Chúng tôi nhìn nhau rồi nhìn ra cửa. Vòm trời đang xanh veo. Một đàn chim nhỏ xíu như đang bay cạnh thời gian, rồi bay sang câu chuyện của chúng tôi về một nhà thơ trẻ, mà trong thâm tâm tôi rất kính phục, thậm chí đến nỗi còn có lúc phải ghen tị với anh ta. Nhưng khi phải phát biểu chính kiến về anh, vì nhiều lẽ tôi không chỉ không nói thật lòng mình mà còn phải nói ngược lại nữa. Tôi kể cho Hai Giỡn câu chuyện về Nguyên:
    - Thằng con trai tôi kể rằng, có một lần, chính mắt nó đã thấy Trần Khuất Nguyên đọc thơ trong đám nhậu. Anh ta hơi say và đã làm thôi miên toàn bộ đám ăn mày, đám bụi đời ngoài chợ. ăn mày và bụi đời kéo nhau vô quán nghe anh ta đọc thơ đến nỗi chủ quán phải can thiệp.
    Hai Giỡn bảo tôi:
    - Có khi những điều ăn mày và bụi đời thích thì lại trái tai gai mắt lãnh đạo. Tôi xin đọc cho anh nghe bài thơ Con ốc của Trần Khuất Nguyên nhá:
    Lấy cái lưỡi làm bàn chân.
    Đi bằng đầu ốc chẳng cần ngược xuôi,
    Đầu cắm xuống, đít ngó trời.
    Một đời con ốc bao đời người ta.
    - ớ, bài thơ nghe thì hay đấy, nhưng cứ sờ sợ thế nào đấy ông Hai Giỡn ạ.
    Hai Giỡn như bị chạm nọc. Ông thuyết tôi một tua: Bọn cơ hội đầy tràn như lụt lội trong xã hội ta hiện nay đều đi bằng lưỡi chứ nào có bước bằng chân. Chúng ta còn duy tâm hơn cả con ốc. Con ốc đi bằng đầu còn chúng ta suốt một thời toàn đi bằng tư tưởng, đi bằng ý chí. Chính trị là thống soái mà. Tôi nghĩ rằng con ốc nó có vẻ kiêu ngạo đấy, nó dùng đít để ngó trời, nhưng sự kiêu ngạo kia còn thua xa những người cầm quyền trong xã hội ta. Hèn chi từ đời xưa, ông Lê-nin đã từng lên án gay gat cái thói kiêu ngạo cộng sản. Vì kiêu ngạo, cho ý mình là ý trời nên xem thường kẻ khác, coi thường nhân dân, lúc nào cũng sợ phải theo đuôi quần chúng nhưng cái miệng thì toàn hô lấy dân làm gốc cả thôi. Tôi nói thật ông đừng giận nhá, quan niệm của ông về văn học nói riêng, về nghệ thuật và cuộc đời nói chung đã xa rời các nguyên lý mỹ học mác-xít quá lâu rồi. Các ông hãy đọc lại kinh điển đi, xem lại lịch sử phát triển và tiến hóa của tư tưởng và văn hóa nhân loại đi. Các ông, từ thời Sta-lin qua Mao Trạch Đông đến nay đã tung ra một thứ lý luận hết sức dung tục là văn nghệ phải phục vụ chính trị. Chính trị và văn nghệ đều là hai hình thái ý thức xã hội độc lập với nhau của thượng tầng kiến trúc. Tất nhiên, sự cộng hưởng qua lại, sự tương tác tương hỗ giữa hai hình thái ý thức này phải được hiểu một cách biện chứng. Vì căn bệnh ấu trĩ đồng nhất văn nghệ với chính trị, cho nên khi đọc một bài thơ, một cái truyện ngắn hay một cuốn tiểu thuyết, các ông cứ cố tình kéo hình tượng, kéo các biểu tượng của nó về phía chính trị, thành ra luôn luôn sợ ám chỉ, sợ ngụ ngôn, sợ phạm vào húy kỵ của ông vua này của bà hoàng nọ. Thành ra văn nghệ bị triệt tiêu mắt tính mục đích để trở thành một thứ phương tiện hạ đẳng và rẻ tiền. Do đó văn nghệ hay văn học sẽ không còn mang tỉnh tư tưởng nữa, sẽ mắt đi thiên chức của mình là tiên tri thời đại, hướng thiện cho con người, giúp con ngươi tự phát hiện ra chính bản thân mình. Các ông viết lách bao năm cốt để ru hát mà thôi. Ru đến nỗi khiến cho con người lịm ngủ, đến mức không còn khả năng tỉnh dậy nữa. Văn học vừa hát ru, vừa phải biết thức tỉnh, thậm chí biết cảnh tỉnh, cảnh cáo cái xấu cái ác. Văn học các ông muốn có ích, muốn vừa đạt được cái tức thời, vừa chạm được vào cái muôn thuở, nhất thiết phải vươn lên để trở thành van hóa. Bởi vì, cái gì đã trở thành văn hóa thì nó cũng sẽ còn lại mãi với con người. Lý thuyết mác-xít dạy rằng tính tất yếu của loài người là phải tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Khi con người tới thế giới đại đồng, vẫn theo lý luận, xã hội lúc đó sẽ không còn giai cấp, tức là không còn đảng của bất cứ giai cấp nào, sẽ không còn chính quyền, quân đội hay tòa án công an. Nghĩa là chúng ta sẽ có một thế giới mà yếu tố quyền lực bị triệt tiêu, chính trị bị triệt tiêu, nhưng văn hóa thì còn mãi, văn học thì còn mãi. Như vậy, ai lại đi bắt cái muôn đời, cái vĩnh hằng phải phục vụ cho cái tức khắc, cho cái cần phải triệt tiêu đi. Ông có đồng ý với lập luận này không Ba Hưng?
    Tôi gật đầu, thầm phục khả năng ghê gớm của Hai Giỡn về những quan niệm thẩm mỹ mác-xít sắc sảo và thông minh. Tôi chêm vào:
    - Rõ là đúng như vậy đấy, nhưng nói ra thì sợ bị quy là xét lại là *********. Ông về hưu rồi nên cái sợ nhỏ hơn bọn tôi.
    Hai Giỡn im lặng hút thuốc lào sòng sọc. Tôi ngẫm nghĩ cái đời mình mà kinh. Tôi cũng hiểu rằng khi nào con người còn phải sợ hãi, nó vẫn còn chưa được giải phóng, vẫn còn là một kẻ nô lệ. Con người khi sinh ra đã phải đối diện với nỗi sợ hãi vĩ đại nhất của đời mình là sợ chết, là nỗi sợ khôn cùng trước cái hư vô thăm thẳm, trước những bí mật đến kinh hoàng của thế giới tự nhiên. Tôn giáo, triết học, khoa học, nghệ thuật được ra đời để giúp con người chống trả lại nỗi sợ sinh diệt này. Nhưng đến khi xã hội loài người phân hóa giai cấp, con người lại phải chất lên lưng mình cái ách vô cùng khốc liệt của nỗi sợ nhau, tức là nỗi sợ đồng loại, nỗi sợ trước bạo quyền độc ác. Chủ nghĩa cộng sản muốn trở thành yếu tố giải phóng đẹp nhất của con người, nhất thiết phải tìm ra phương cách hữu hiệu nhất giúp con người thoát khỏi mọi ám ảnh sợ hãi. Nhưng tôi biết người ta đâu đã làm được như vậy, người ta vẫn còn đe dọa đồng loại mình bằng đủ cách, bắt con người phải sợ hãi mình và do đó phải biết nghe lời mình. Trời ơi, có lẽ nào thu phục được nhân tâm, nếu một kẻ có quyền kia cầm thanh gươm rồi túm áo đồng loại bảo: Nếu mày không yêu tao, tao sẽ giết. Sta-lin, Mao Trạch Đông, Pôn Pốt đã làm như vậy, đã biết cách khai thác nỗi sợ hãi và sự hèn nhát bạc nhược của con người để làm vũ khí thống trị con người. Hai Giỡn thở xong làn khói thuốc làm tôi suýt phát sặc và dừng lại mạch suy tư. Ông ta vẫn còn hăng lý luận lắm:
  10. A6188

    A6188 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/09/2002
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    0
    - Cái sai lầm lớn nhất của các vị lãnh đạo vừa qua là do học thuyết chính trị là thống soái chi phối. Vì vậy, các nhà lập thuyết của đám Mao ít bèn đồng nhất chính trị với mọi hình thái ý thức xã hội trên thượng tầng kiến trúc. Thành ra từ tôn giáo, triết học, đạo đức, văn hóa văn nghệ đều là chính trị tuốt xít. Người ta giảng văn hay giảng đạo đức trong nhà trường cho tuổi trẻ học, thực chất là cuộc giảng dạy chính trị mà thôi. Thậm chí người ta còn chính trị hóa cả khoa học tự nhiên nữa. Ngay cả yếu tố tư tưởng là cõi tự do đích thực của con người cũng bị người ta chính trị hóa bằng một cụm từ rất quen thuộc: chính trị tư tưởng. Do vậy, thế giới quan nào thì sẽ có một nhân sinh quan đó.
    Tôi im lặng công nhận Hai Giỡn có lý. Tôi biết ông nói và viết được rành rẽ ba thứ tiếng Anh, Nga, Pháp. Ông đã du học sang Liên Xô, đã đi năm bảy nước tư bản. Ông đọc sách nhiều và ngay cả trong khu vực văn nghệ của chúng tôi, ông đã tỏ ra rất uyên bác, như một chuyên gia. Tôi nói với Hai Giỡn trước khi ra về:
    - Ông khuyên Trần Khuất Nguyên rằng đừng có làm cái thớt, phải biết cách làm con dao. Hai Giỡn bắt đầu giỡn: Nhưng có khi thớt cũng chẳng phải anh, dao cũng cóc phải anh. Anh chỉ là cái món ở khoảng giữa dao và thớt.
    Hai chúng tôi cùng cười thoải mái. Tôi nghĩ bụng: nghệ thuật không cần phải học phương pháp bắn phá của hạt nhân. Nghệ thuật có bùa phép của nó để đến với trái tim con người. Nghệ thuật không cần đập vô các bức tường, nó thẩm thấu qua các bức tường. Nghệ thuật chính là hình ảnh của tư tưởng. Mà tư tưởng của con người bao giờ cũng có khả năng thẩm thấu vào cốt lõi của sự vật, vào bề rộng vàbề sâu của thế giới. Bởi vì tư tưởng chính là tinh thần của tồn tại vậy Nếu tôi có tài năng lớn, tôi sẽ mở ra một phương pháp sáng tác riêng cho mình: phương pháp hiện thực thẩm thấu. Nhưng tiếc thay, bao nhiêu sự dũng cảm của mình, tôi đã tiêu xài hết trong thời trai trẻ đi đánh Pháp. Còn bây giờ, trong cuộc chiến đấu chống lại thói đạo đức giả, thói nhân danh cái thiện, cái cao cả để làm cái ác, cái đê tiện, tôi lại là một kẻ hèn nhát đầu hàng. Vậy mà tôi vẫn mang danh đảng viên, mang danh nhà văn thì quá khôi hài. Tôi bỏ mặc những chàng Đông Kisốt Trần Khuất Nguyên phải một mình chiến đấu với cối xay gió? Tuy nhiên, tôi vẫn phải đối diện với đốm đom đóm lương tri của mình. ở nơi sâu thẳm đó, vẫn còn đôi mắt của Oanh nhìn xuyên qua sự mờ ám của tôi với những tia nhìn sắc nhọn và nhức buốt như nọc ong bầu...
    Tôi cùng Tám Lợi, giám đốc nhà xuất bản tỉnh Sơn Giang xuống nhà in xem lại số giấy có đủ in ra mười nghìn cuốn Đêm mặt trời của bí thư tỉnh ủy Tràng Giang không? Chúng tôi làm cuộc lễ nhỏ khánh thành việc in tập thơ, có cắt băng, có quà của bí thư tỉnh ủy. Tám Lợi nói thầm vào tai tôi:
    - Theo dự trù, ít nhất nhà xuất bản phải lỗ vốn tới năm triệu đồng vì tập thơ này.
    Tôi giải thích:
    - Thì lỗ hay lời cũng là ngân quỹ của nhà nước cả. Còn ông với tôi thì không lỗ tí nào đâu, đừng lo. Ông Tám là tỉnh ủy viên lần nào chưa nhỉ?
    - Chưa. Mình chưa tới số.
    - Ông cứ thử in thật đẹp tập thơ này vào xem nào. Muốn vào tỉnh ủy, anh nào cũng cần phải có một cái thang. Leo lên không bằng thang thì bằng cột mỡ à.
    - Thì ai chả biết như vậy ông Ba Hưng ơi. Nhưng thang nó cũng có ba bảy loại. Có loại thang chân, có loại thang tay, lại có loại thang mồm, thang lưỡi ông ạ. Nhưng theo tôi, loại ********* đầu gối leo là hay hơn cả. Với ông, quen quá còn gì, tôi cứ nói trắng ra như vậy cho dễ.
    - Ôi cái anh Tám này nhiêu khê quá. Thang nào thì thang, miễn leo lên là được. Khi tôi tiễn tay giám đốc xuất bản về, một nhà thực dụng chủ nghĩa có lý luận, chợt chuông điện thoại và người trực máy mời tôi đến nghe, có ai đó kêu tôi. Tôi giật mình, liệu có phải là một tin chẳng lành bao giờ cũng rình rập tôi.
    - Ai đó? Ruộng hả? Sao? Con Vương Thi làm sao? Năm ngày rồi nó biến mất, không lên lớp, không về nhà thì đi đâu? Bà bảo tôi tìm nó ở đâu bây giờ? Xuống nhà thằng bác sĩ Mão hả? Nó làm ở bệnh viện hay ở nhà? Tôi sẽ xuống bệnh viện ngay bây giờ.
    Tôi bỏ ống điện thoại xuống mà toát cả mồ hôi. Con Vương Thi, niềm tin yêu duy nhất của tôi vào cuộc đời vừa đi đâu mất năm ngày nay không xuất hiện. Tôi hình dung ra bao nhiêu trạng huống con gái tôi gặp phải mà run sợ tái mặt. Cuộc đời tôi cha mẹ sinh ra cũng như ai, giờ sao giống con cheo con thỏ, hơi tí là run, hơi tí là tái mét mặt. Tôi leo lên xe đạp đến bệnh viện tỉnh tìm cậu Mão, bác sĩ mới ra trường hai năm nay. Cậu này con nhà khá giả, làm nghề buôn bán, học giỏi nhưng không được đẹp trai. Mão người thấp lùn, đứng có khi còn chưa cao bằng con gái tôi nữa. Mắt cậu ta lại một mí, loại mắt lươn, nhìn hơi gian gian. Hai đứa đã quen nhau sau lần đi nghỉ mát ngoài Nha Trang. Mão tán Vương Thi một cách bão táp. Con bé đổ. Hai đứa yêu nhau. Vương Thi yêu một cách cuồng nhiệt. Nó đã kể cho tôi nghe về mối tình đầu của mình như đang kể cho cô bạn thân vậy. Nó khoe với tôi về bao nhiêu cái hay ho tốt đẹp của người yêu. Tôi khuyên con gái, yêu thì yêu nhưng phải biết giữ mình giữa mẩy, đừng bao giờ vượt quá giới hạn cho phép. Tôi phải dặn con gái cả những điều chính ra mẹ nó phải dặn. Tôi thông cảm với con, tính nó sống quyết liệt không chấp nhận sự nửa vời. Điều gì nó cũng muốn truy nguyên, hành động nào cũng phải rất ráo mới chịu. Thỉnh thoảng tôi bảo con rằng tình yêu mà cháy quá, bốc quá e mau tàn đấy Vương Thi cười chép miệng: bố quan niệm xưa rồi, đã là tình yêu thì có cháy đến hết đời vẫn cứ còn đầy nhiên liệu. Tình yêu là sự tăng trưởng, sự vươn lên mãi mãi thì lửa ấy, sức cháy ấy làm sao gọi là tàn được hả bố? Tôi bảo con rằng mọi vận động trên đời đều cần được bảo hiểm, đều có bảo hiểm cả, nghĩa là phải có cái thang đề phòng vật cản xuất hiện đột ngột khi vận tốc của sự vật đang ở cao điểm. Con gái tôi lại cười: gớm, bố cứ ******** yêu như cái xe đạp lăn xuống dốc không bằng. Tôi tiên cảm thế nào con gái tôi cũng sẽ gặp tai nạn trên hành trình tình cảm, khi nó mặc kệ mọi tốc độ mà không sắm cho mình một cái thang.
    Tôi tới bệnh viện thì anh chàng Mão đang dắt xe cúp ra cửa bệnh viện. Mão chào hỏi tôi tử tế lễ phép. Tôi hỏi:
    - Vương Thi có ở bên nhà cháu không?
    Dạ thưa bác không có ạ. Lâu rồi cháu không gặp lại cô ấy Tôi sửng sốt: - Sao vậy anh Mão? Dạ chúng cháu bất đồng nhiều thứ lắm ạ. Cứ gặp là cãi nhau. Vương Thi rất cực đoan. Cô ấy không bao giờ chịu thỏa hiệp.
    - Nghĩa là nó với cháu giận nhau?
    - Dạ chúng cháu cắt đứt quan hệ với nhau rồi ạ. Sau hai năm tìm hiểu, chúng cháu thấy không thể tiến tới hôn nhân được thưa bác.
    - Cô cậu thôi nhau lâu chưa?
    - Dạ được nửa tháng rồi ạ.
    Tôi chia tay với cậu rể hụt, vừa đạp xe về nhà vừa lo âu, vừa buồn đến chóng mặt.
    Thấy tôi Về, Ruộng hỏi:
    - Con đâu? - Tôi đâu có giữ nó trong túi. Nó đã ngoài hai mươi tuổi, lại sống độc lập, ít về nhà, bà không giữ nó nổi sao còn hỏi tôi?
    Ruộng cau mày than thở. Tôi trình bày chuyện vừa gặp thằng Mão, chuyện hai đứa nó thôi nhau. Ruộng đay nghiến tôi:
    - Tôi đã can nó đừng yêu cái thằng con nhà buôn bán, con nhà rặt ngụy nhưng ông chiều con. Bây giờ ông thấy cái giá của tự do chưa?
    Sợ con tôi thất tình thất tung lại dại dột liều mình thì khổ thôi. Tôi bàn hay là nhờ bên công an họ tìm cho. Nhưng Ruộng gạt đi ngay: để rồi ầm lên khắp nơi con Vương Thi bỏ nhà đi bụi à? Đẹp mặt bố mẹ lắm đấy. Mai mốt lỡ nó lù lù về thì có ma nào dám lấy. Với lại ảnh hưởng con đường vào tỉnh ủy của bà ấy. Một tỉnh ủy viên không thể có con gái bỏ nhà đi hoang. Ruộng ngồi khóc tức tưởi một chập, quay lại cằn nhằn:
    - Tại ông hết. Cái nhà tan hoang, con chả ra con chồng chẳng ra chồng. Có được đứa con trai thì bây giờ cử ôm rịt lấy bố mẹ vợ như mèo ôm mỡ ấy. Đứa con gái thì đi đâu mất tông mất tích. Nếu ngày ấy ông chịu đặt tên chúng nó theo ý tôi thì đã khác. Ông lại đặt tên thằng bé là Trần Văn Văn, con bé là Trần Thị Vương Thi. Bắt con cái tôi dính vào văn với thi là mệt lắm. Mình ông làm văn làm phú chưa đủ sao mà còn tính lôi con cái vào cái nghiệp này? Tôi đã bảo ông đặt tên thằng bé giản dị thôi, là Trần Văn Đồng, tên mẹ là Ruộng, tên con là Đồng có phải vừa hay, vừa ý nghĩa. Còn đứa con gái, bây giờ tôi đã đặt cho nó là Trần Thị Nương, mẹ là Ruộng, con gái là Nương, Ruộng với Nương, nghe vừa hay vừa mát ruột.
    Ruộng lại ngồi khóc. Tôi không còn lời nào an ủi bà ấy được nữa. Mà đúng là tôi đã đánh hỏng cuộc đời của người đàn bà này. Cứ để cho Ruộng ta thán kêu rêu, cho nguôi bao ấm ức đã phải nén lại một đời. Từ hôm đó, tôi đạp xe đi suốt ngày rạc cả người, mong tìm thấy con trên đường phố hay ngoài công viên. Ruộng mất ăn mất ngủ, tóc đã bạc ra trông thấy. May mà bà ấy còn có cái đam mê vào tỉnh ủy, đêm nằm mơ còn thấy mình đi giảng chính trị cho khắp thế giới. Tôi sút đi đến mấy ký. Hai Giỡn sợ tôi bị ho lao. Tôi điên dại vì con mà nào có dám kể cho bạn nghe để được an ủi. Con gái bỏ nhà, bỏ sở đi là nỗi nhục của cha mẹ, đâu còn dám đi khoe.
    Năm ngày sau, một buổi tối, Vương Thi về gõ cửa. Con gái tôi xanh mướt, gầy như cái xác ve. Tôi ôm con gái vào lòng, òa khóc như đứa trẻ khiến con bé dỗ tôi nín đi, nín đi bố như thế nó phải dỗ một đứa bé vậy. Hai ngày sau, Vương Thi ngồi kể cho tôi nghe nguyên nhân bỏ đi của nó. Tôi xin dựng lại câu chuyện kể của con gái bằng cách dựng lại hiện trường, hay theo kiểu quay phim lại các sự kiện.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này