1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nguyễn Khắc Trường

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi keodau, 19/01/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. keodau

    keodau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/01/2008
    Bài viết:
    22
    Đã được thích:
    0
    Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nguyễn Khắc Trường

    [​IMG]
    Chương 1


    Không dè cái đói giáp hạt này lại có đủ móng vuốt nhảy xổ vào cả xóm Giếng Chùa, xóm vẫn quen đứng đầu về cái sang cái giàu toàn xã. Nơi đây nếu tính từ phía bắc xuống, là địa danh cuối cùng của đất trung du. Có đủ sông ngòi đồi sim: ruộng lúa. Làng vẫn còn khung cổng tiên cổng hậu như hai ụ súng ở đầu bắc và đầu nam. Những phiến đất nung màu gan gà vừa to vừa dày ốp khít vào nhau, chắc đến đập không vỡ. Con đường chính giữa làng dài một cây số được lát bằng gạch vồ mua từ dưới Hương Canh - Vĩnh Phúc, mà lát nghiêng, nên bây giờ vẫn chắc khừ. Có số gạch lát đường này là bởi ngay xưa làng có lệ mỗi đám cưới phái nộp 200 viên. Trai làng lấy gái làng nộp 200 thế tức là môi bên có một trăm viên thôi. Nhưng nếu trai gái làng đi lấy vợ chồng ở đồng đất khác, thì gia đinh cứ cũng phải chồng đủ 200 viên. Thế mới biết ngay một làng nhỏ như cái mắt muỗi, người ta cũng không khuyến khích xuất dương, không thích mở cửa ra ngoài! Làng còn quy định những người đỗ đạt từ tú tài trở lên được nhận chức từ lý trưởng trở lên, và cả thành phân này nữa, ấy là những cô theo cách gọi nôm na là hoang thai cũng phải nộp 200 viên gạch vồ. Thành thử đường làng được lát bằng những niềm vui hạnh phúc, sự kiêu hãnh, chức danh và được lát bằng cả nỗi khổ đau ê chề của những mảnh đời.
    Nếu ví cả xã là cái bánh, là bông hoa, thì Giếng Chùa là cái nhân đường cái nhị mật: nghĩa là nơi có lề thói nhất, cái sang và cả cái gàn của Giếng Chùa cũng là nhất xã, ở đây liên tục có những người đỗ đạt và nhưng người có địa vị chức sắc, dù chỉ là chức sắc ở xã, nhưng cũng lại thường xuyên có một hai anh chàng chày cối, đến mức dù thời nào thì những gã xắng cá này cũng như sống ngoài vòng pháp luật! Từ lâu số nhà ngói ở đây vẫn đứng đầu toàn vùng, mà lại chơi cầu kỳ lợp toàn ngói ta, nhỏ và đều tăm tắp như vảy rồng... Trông rêu phong và cổ kính.
    ấy thế mà vố này cũng đói vàng mắt! Nhiều nhà nấu cháo phải độn thêm rau tập tàng. Nhiều nhà luộc chuối xanh chấm nuối. Đến cả bà Đồ Ngất, người vẫn quen ăn trắng mặc trơn, phiên chợ nào cũng xách làn mây đi mua hôm thì chân giò lợn ỉ, hôm thì, cá chép cả con còn giãy đành đạch.
    Giờ cạn vốn, liền sáng chế ra bánh mạt ngô, thứ ngô trước đây chỉ dùng chưn gà, để ăn trừ bữa. Còn ông Quản Ngư, người được cả làng khen là chí lớn gan to, nước lã mà vã nên hồ. Bởi trong lúc khối anh có của nhưng chỉ ru rú bám váy vợ ở xó nhà, thì ông Quản với hai bàn tay trắng đã từng chu du đến nửa vòng trái đất. Hết Tân đảo, Tân-gia-ba, rồi mò mẫm sang đến cả đất tây từ thời còn bóng tối.
    Khi về ông đã diện oách một bộ đồ dạ màu đất sét từ chân tới đầu.Quần dạ, áo dạ đính cúc đồng, mũ dạ tròn như cái nồi đồng úp ngược, lại thêm đôi giày săng đá, giữa mùa đông mà cũng trông bức đến phát sốt? Rồi lại thêm bộ răng vàng sáng choé cả mồm! Nói cái gì ông cũng độn thêm tiếng Tây, lưỡi cứng đá ngược lên tận mái ngói, đến quăng cả mồm miệng! Và mặc dù ông vẫn ở với bà vợ yếm trắng, răng đen mỏ quạ và vẫn chẳng có chức sắc, chẳng đỗ đạt gì; nhưng ông Quản cũng có quà mừng của kẻ hồi hương là biếu làng 200 viên gạch vồ Hưng Ký, viên nào viên ấy cứ vuông bằn bặn như những cái gối đầu, chín đỏ lìm lìm. Khối người còn rỉ tai là ông có của chìm nữa. Hỏi ông chỉ cười tủm tỉm loe loé ánh vàng! Bộ dạng rõ là coi tiền bạc chẳng ra gì, hãi thế!
    Nhưng giờ thì toé loe ra. Đám thanh niên hay thóc mách vừa cười sùng sục, vừa kể là có đến gần tháng nay bố con Quản Ngư đóng eửa ăn cháo cám, rồi làm bánh đồ cách thuỷ cho lạ miệng, nhưng nguyên liệu cũng vẫn là cám. Vì là người lịch sự ghét kêu rên, nên ông Quản không muốn người khác nhìn thấy sự khốn cùng của mình. Tưởng kín, nhưng ông quàn lại hớ không biết cám có chất kết dính rất cao, ăn mà không độn thêm rau là sẽ táo bón kịch liệt. Vì thế thằng con út gần mười tuổi của ông đã kêu la oai oái vì răn đến vã mồ hôi hột mà vẫn không sao đi được? Bà Quán đã qui tiên vài năm nay, nên cuối cùng đích thân ông Quản bảo thằng cu ôm vào gốc khế, chổng mông lên để ông lấy que... đào
    - Có thật không? Hay lại chỉ mách quá chúng mày thì cái gì cũng nhăn nhở cười được.
    Mấy người già không tin, mắng l thì anh chàng ở cạnh nhà ông Quản liền vừa tả tỷ mỉ cái pha bi hài kịch kia, vừa làm cả động tác của bố con ông Quản, khiến mấy ông già cũng cười đến trơ cả lợi? Cái cười lúc đói cũng không ra tiềng, lại bóp bóp cho héo quắt cả mặt, trông mà nẫu ruột! Keo vật giáp hạt này sẽ vần cho dân làng đến mê tơi dây!
    Những nhà thường xuyên túng bấn thì lây giờ đứt bữa hẳn. Nôi niêu lúc nào cũng há miệng rỗng, nhãn như đâu bụt!
    Nhưng mặt người hao gầy, nhớn nhác hớt hải cứ tường như vội vã đi đâu nhưng kỳ thực chẳng có gì hết, cứ ra vào quanh quân với cái bụng đói èo èo! Đường làng đầy rác rưởi và phân trâu phân hò. Toàn nhặng xanh bay đứng yên tại chỗ như những cái dấu chấm đen giữa thinh không dọc lối đi.
    Nắng đầu hạ đã lên một lúc lâu mà làng xóm còn trễ nải như con gà gật. Gió thổi vu vơ trên những lùm tre vàng xác, càng khiến nhưng ngõ làng trống vắng đến ngẩn ngơ.
    Trong chiếc lều thủng vách nứa ở ngã ba đầu làng, nắng chiếu qua lớp cỏ tranh đã ải, thủng lỗ rỗ. nắng tưới khắp lên chỗ lão Quềnh nằm. Tren chiếc võng tre ọp ẹp không mùng màn, lão Quềnh nằm duỗi dài thành một đống. Lão thì không sợ muỗi ruồi, vì da lão dày lắm. Người lão to sù sì, tính nết ngơ ngơ ngác ngác như ngỗng lạc đàn, đi đứng cứ dềnh dàng thồn thộn. Bộ nhớ và trí khôn của lão thì dại như thế này: Vắt chiếc áo, vắt khăn mặt lên vai, nhưng lại loay hoay cả giờ đi tìm khăn tìm áo. Ngày hợp tác còn ăn nên làm ra, nên tình thương và sự ưu đãi đã với tới tất cả nhưng hoàn cảnh khốn khó; từ bà già cô quả không chồng không con, bỗng chốc có một lô cháu chắt, ấy là bà được ra làm ở nhà giữ trẻ, nơi đã có mấy cô bảo mẫu óng á trông mềm như bún, nhưng đám con trại lại gọi họ là các cô nuôi dạy hổ!. Còn lão Quềnh hữu dũng vô mưu, chỉ quen làm thuê làm tớ, thì ban chủ nhiệm hợp tác xã cho Quềnh được làm chủ, mà làm chủ tập thể hẳn hoi. ấy là lão được đưa ra trại trâu, chăn dắt một tập thể 50 con trâu. Chiều tối lão cưỡi con trâu mộng to nhất lùa cả đàn về. Đếm bày trâu đi trước có 49 con, thế là lão hoảng hốt lên. Lùa trâu vào chuồng cả con mộng lão cưỡi cũng vào nốt, cài toang xong, lão chạy bổ đi tìm con thứ 50! Đến đêm người ở trại đốt đuốc đi tìm lão nói rằng đủ 50 con trong chuồng rồi. Lão về đếm thấy đủ thật, nhưng trong đầu vẫn không hiểu được con thứ năm mươi chui ở đâu ra!
    Lão Quềnh ra đời như để hứng chịu tất cả những sự ngờ nghệch khờ khạo cho dân Giếng Chùa. Đất làng này nghe nói từ khi khai thiên lập địa, thầy địa lý đă bảo là ở vào cái thế có vượng nhưng nghịch, cho nên từ xửa xưa đã có Câu ca: Ai may được ngọc Giếng Chùa. rủi ai núi Bụt thả bùa ma trêu
    Vậy thì từ thời còn chùa và còn chiếc giếng làng to bằng gian nhà kê đá ong trước cửa tam quan đã ai bắt được ngọc ở đấy chưa? Chịu! Với lại dù có được thì người ta cũng ỉm đi thôi, chứ ai dại gì mà khoe mình vớ được của! Bằng mời trộm đến nhà! Còn ma núi ông Bụt, vì quả đồi ở đầu làng có dáng một ông bụt ngồi, thì nghe đồn thật nhiều chuyện. Những người già ở đây kể rằng núi ông Bụt ngày xưa rậm um tùm: những cây cột đình chật một vòng tay ôm là chặt từ đấy. Trong núi có hố, báo, vượn trắng, trăn gió, rắn đầu vuông có mào đỏ chon chót như mào gà, và đặc biệt là nhiều ma? Nhiều người quả quyết mình đã gặp ma núi ông Bụt. Mấy bà hàng xáo hay đi chợ sớm, bảo có lần đến gần núi ông Bụt thấy một người đàn ông đi trước mình chỉ chừng mươi bước chân dáng đi lại ve vẩy như đàn bà trông chậm mà không tài nào theo kịp. Gọi mãi người ấy mới quay lại, thì thấy mặt trắng như nặn bằng phấn, miệng bỗng nhe ra cười khanh khách, cười liền một hơi không dứt, hơi phả ra lạnh toát. Chớp mắt một cái, người đàn ông biến mất. Phiên chợ ấy mấy bà hàng xáo vốn đành hanh mà thành ra lú lẫn cả. Người thì bán một lại cân hai, người thì giao gạo mà quên nhận tiền, thật là đổ của xuống sông. Ma trêu đấy! Một ông đi đánh trúm lươn thì bảo lúc sẩm tối, ông đang thả trúm ở đầm dưới chân núi, bỗng nghe tiếng ru con lơ lửng phía trên đầu rừng; ngửng lên thì thấy chót vót trên cành si một người đàn bà tóc xoã phủ kín mắt, tay ôm cái bọc trắng toát vừa nhún cành si rung tít như đưa vong, vừa ru nỉ non như than như oán. Hôm sau ông đi đổ trúm, thấy trong ống toàn rắn nước!
    Ngày ấy có một chàng trai tuổi mới mười bảy, nhưng lớn phổng phao như đã thanh niên. Mặt mũi thô vụng thật thà. Bỗng một dạo cứ ăn cơm tối xong là chú chàng biến đi đâu chừng giã xong một cối gạo mới về. Hỏi, cu cậu chỉ ậm ừ con đi đàng này rồi lảng ngay. Cha mẹ sinh nghi. Hay thằng này đã tự kiếm được món nào? Trò đời trai tơ mới lớn thì không say gì bằng say gái. Chỉ có gái thì chú mày mới chăm lỉnh như thế. Một tối, khi cậu vừa đi, ông bố liền lẳng lặng bám theo, thì thấy chú xăm xăm đi tắt qua cánh đồng. Tới gốc gai đầu núi ông Bụt, bỗng một tiếng hỏi rất thanh, như reo từ trong nhưng chùm rễ rùm roà như một cái ô dưới gốc si già. Rồi tiếng một người con gái thì thầm, không rõ cô ả nói gì, cứ dấp da dấp dính ra điều vui lắm. Phía sau ông bố nén cười, đã bảo mà! Cứ tưởng cậu cả khù khờ, thế mà khá? Con hơn cha là nhà có phúc! Nhưng con bé nào mà tiếng chua chua nghe lạ thế nhỉ? Ông bố còn đang dùng dằng nửa muốn tò mò nghe chuyện, nửa muốn bỏ về, thì đôi tình nhân dìu nhau từ trong gốc si đi ra. Và, tức thì một đàn đom đóm bỗng từ đâu túa dậy con nào con ấy to khác thường. Chúng cùng chớp cánh một lúc, khiến cả khoảng không sáng rực lên như thắp đèn. Trong quầng sáng quái đản đó, ông bố đã nhìn thấy một người con gái trắng lôm lốp từ chân tới đầu. Tóc rất dài, buông xoã, khiến khuôn mặt lấp vào trong mờ ảo không sao nhìn rõ được. Chân đi nhẹ như lướt. Ông bố chớp mắt, định thần để nhìn cho rõ, thì thấy người con gái kia chỉ là một cái bóng trắng, một hình người chứ không phải người. Cái hình người ấy đi tựa vào vai con trai ông. Đang chập chờn ở bên trái, chớp mắt một cái, lại thấy cái bóng đi bên phải cậu cả, và rất nhanh đã hiện rõ ìô lộ một người đàn bà đẹp như tiên sa. Cậu cả bước thập thỏm như một người mê, mặt mũi cũng hoàn toàn như người trong mộng. Bầy đom đóm cứ chao lượn theo hai bóng người. Ông bố đứng vùng dậy, thét lên: Ma!, thì một tiếng kêu cũng vỡ ra, nghe sắc lạnh như đập một cái bình sứ. Trời đất tối sầm lại. Ông bố lảo đảo, rồi người cứ mê thiếp đi.
    Rồi bố con ông về được tới nhà bằng cách nào? Ông không sao hiểu nôi. Vì khi tỉnh dậy ông đã thấy mình nằm ở giữa nhà, xung quanh đèn nến hương khói nghi ngút. Ông thầy cúng mặc áo đỏ, đội mũ giấy, vừa gõ chập cheng, miệng vừa đọc lầm rầm. tay cầm roi dâu, đó là roi trị tà của thầy cúng, quất vun vút vào không khí. Hôm sau ông dứt cơn, khỏi. Còn cậu cả thì vẫn li bì. Đang nằm thiêm thiếp, cậu bỗng vùng dậy, tay đưa lên bới tóc, kiểu bới tóc của đàn bà, rồi khóc như mưa như gió. Vừa khóc vừa kể lể ai oán, rằng người ta cướp chồng của tôi, đầy đoạ tôi ở gốc si sương gió một thân một mình. Đang lâm li sướt mướt, lại bỗng rú lên cười sằng sặc, tiếng cứ lảnh vót lên, sắc như lưới dao cạo vào tinh nứa! Cười đến đâu hai bàn tay cứ chéo vào nhau đen đét đến đấy. Rầm rĩ một hồi, rồi cậu bỗng ngã kềnh ra, mặt quay vào tường, lịm phắc như tắt thở!
    Thầy phải cúng liên tiếp ba đêm bảy ngày để xin lại hồn vía cho cậu cả. Ngày cuối cùng phải thửa một hình nhân cao lớn bằng đúng cậu cả, sắp một cỗ xôi và một con gà trống chưa đạp mái. Buổi tối mang ra gốc si tạ. Hình nhân thì hoá vàng còn mâm có thì để lại. Khi ra về thầy cúng còn đóng một cái bùa đựng trong ống nứa xuống đất, tức là yểm đề ma mất đường theo. Đêm ấy người ta nghe thấy tiếng khóc tỉ tê trong những chùm rễ si. Sáng ra nhìn cỗ xôi con gà vẫn còn nguyên, nhưng nhớt nhát có mùi tanh. Xôi gà mà lại tinh ma vày đấy! Còn đom đóm thì chết dày quanh gốc si như một sự tuẫn tiết, vun được một đống con nào con nấy to bằng đầu đũa.
    Cậu cả ốm một trận thập tử nhất sinh rồi khỏi. Nhưng từ đấy cậu cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn, lúc nhớ lúc quên. Hỏi đâu cũng không được vợ. Cả những cô sứt môi lồi rốn cũng không dám lấy, vì sợ ma vẫn ám trong người cậu. Ông bố nghe có người xui: suốt mùa hè năm ấy cứ đi rình để bắt con chim cuốc thất tình. Họ bảo có những con chim cuốc bị người ta đánh bẫy mất ********, buồn, nó không ăn không uống, tìm một chỗ khuất lói đứng kêu xà xã cho đến chết. Câu nói ra rả như cuốc kêu chính là chỉ những con cuốc đơn côi này. Mà thật kỳ lạ, bao giờ nó cũng đứng một cành nhó để những ngón chân quắp chặt vào cây. Khi hết hơi chết, nó lộn đầu trở xuống, treo lủng lẳng. Mới hay giống sinh vật nào đã dám chết vì tình cũng đều chọn một tư thế hiên ngang đến rùng rợn! Cũng như ở sông nước có những con cá sấu bị lẻ đôi, nó đã tìm nơi có cành cây mọc là ra mặt nước, rồi nhảy ngược từ dưới nước lên, táp đuôi ngoắc cứng vào cành cây. Cứ thế nó treo mình thẳng đứng như một dấu chấm than giữa trời và nước cho đến chết! Nhưng trường hợp này hiếm lắm, vì cá sấu là giống tham ăn - Đã xấu lại còn tham! Mà phàm giống gì cũng vậy, đã tham ăn thì hay sợ chết!
    Lại nói những con cuốc chết vì tình. Người ta bảo xương của nó làm bùa yêu rất nghiệm. Đốt lên thành than, nhúng một tí vào nước cho đối tượng uống, thế là cứ theo không? Ông bố quyết cứu vớt cái cung thê cho cậu cả bằng con đường bùa mê thuốc lú này. Tối nào ông cũng lần mò đi nghe cuốc kêu. mặt mũi nhớn nhác như người đã hoá dở! Thế rồi chưa tìm thấy con cuốc tử vì tình thì chính ông đã tử! Ông chết nhẹ như đùa! Đêm nằm ngủ thế rồi ông không dậy nữa! Từ đấy gia cảnh sa sút nhanh. Cậu cả dùng cái sức cơ bắp của mình đi làm thuê làm mướn kiếm ăn. Làm như trâu nhưng chẳng biết mà cả vòi vĩnh, vì thế ai có việc gì cũng mướn cậu, và ai cũng có quyền đùa bỡn cậu. Ngay cả cái tên Quỳnh đẹp đẽ của cậu người ta cũng biến báo đi thành Quềnh - Cậu Quềnh, anh Quềnh và bây giờ xế bóng là lão Quềnh
  2. keodau

    keodau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/01/2008
    Bài viết:
    22
    Đã được thích:
    0
    Có thật tiểu sử lão Quềnh như thế không? Hay chỉ là giai thoại người ta dựng lên để tăng phần linh thiêng cho núi ông Bụt? Nhưng đấy là núi ông Bụt ngày xưa. chứ bây giờ núi ông Bụt đã bị phạt trụi lấy gỗ làm củi, bị đào bới để tìm đá ong, lấy đất sét nung gạch, thì không ai còn gặp ma quỷ đâu nữa. Thời buổi táo tợn đến ma quỷ giọi tàng hình cũng hết chỗ trú. Thế thì ma quỷ đi đâu? Hay ma quỷ đã bị người trần cắt hộ khẩu? Mấy anh trợn trạo đã cười cười một cách láu cá hỏi ông thầy cúng mà ở đây vẫn gọi là cô thống Biệu như vậy. Biếu là tên cúng cơm, còn cô thống là một từ chung để chỉ những người làm nghề cúng bái. Mới hay nghề nghiệp nào cũng có tướng mạo riêng của nó. Đã là thầy cúng, thầy mo, thì cái cần đầu tiên là phải có dáng đồng cô bóng cậu. Đi đứng ẽo ợt, nói giọng kim râu ria chả có và cái ăn cái uống cũng như đàn bà con gái hơn là giống đám mày râu. Nghĩa là cô thống Biệu mỗi bữa chỉ uống một chén rượu, sợ ớt sợ tỏi, ưa của chua hơn là ưa cay ưa chát. Năm nay đã gần chín mươi tuổi, non một thế kỷ đã đi qua cái dáng mảnh mai của cô. Với bộ mặt nhọn như mặt chim, nước da mai mái, cả mép cả cầm nhẵn thín không một sợi râu, nên nhìn cô không thể nào đoán được tuổi. Răng cô cũng nhỏ như răng phụ nữ, và vẫn chắc. ăn trầu thuốc cứ đen nhức, môi cắn chỉ. Cô đi thõng thà thõng thượt, nhưng cô cũng có con đàn cháu đống hẳn hoi. Thì ra cô vừa giỏi việc âm vừa tài việc dương! Nghe mấy anh chàng mặt sùi trứng cá, vừa cười nham nhở, vừa hỏi về ma núi ông Bụt bị người trần cắt hộ khẩu. Cô thống Biệu đã giương cặp mắt bạc phếch, trông chỉ rặt lòng trắng, tưởng như mắt cô đang toả ra một làn sương khói, và cô đã nói với cái giọng thanh thảnh thế này:
    - Đừng tưởng đất này đã hết ma. Ma còn đang đẻ sinh đôi sinh ba nữa cơ đấy! Các vị có nhớ hôm trước hợp tác họp để đòi chia ruộng khoán không? Cứ như cuộc chọi gà, chọi trâu ngày xưa! Chả ai chịu nhả miếng nào. Cả làng có mỗi xứ Đồng Chùa là thượng đẳng điền, thì từ ông cán bộ đến bà xã viên, ai cũng muốn vơ giật về mình. Có đời thuở nào anh em ruột cũng cãi nhau, tranh nhau đất hương hoả ngay ở đấy. Vợ chồng ông Tý Hỏi mới kinh, bỏ nhau mỗi người một niêu, hợp tác giao ruộng, ai cũng tranh thửa tốt. Vợ chồng thách nhau giữa làng: mày mà làm ông phá. Mấy là đòi ruộng cũ không được thì bù lu bù loa lên, cứ nhao nhao như chào mào ăn dom! Xưa nay người ta chỉ sợ người chết chứ ai sợ người sống? Có đúng không hở? Chỉ sợ ma chứ ai sợ người. có phải không hở? Thế mà hôm ấy tôi đi nhận ruộng hộ con cháu, thấy hốt quá Nhìn chả thấy người đâu, toàn ma. Những thân người sống ngồi đấy mà mà cấm còn nhận ra ai nữa.
    Càng nhìn càng thấy đúng là những ụ mối, những bao bì dựng ngược, cái cao cái thấp lố nhìn đây nhà! Những con ma tham, ma ác từ đấy chui ra, con nào cùng lành chanh lành chói mồm năm miệng mười, chả còn bùa đâu mà yểm cho xuể! Đấy, các người đừng có vội tí toé, ma nó vẫn ngủ gà ngủ gật ngay trong lòng các người!
    Lão Quềnh bỗng thức giấc. Cái đói thúc lão dậy, lão dụi cặp mắt đờ đẫn, dỏng bộ tai to nhưng mong dính: mỏng đến độ nhìn thấu qua được. Những người sính xem tướng bảo cái tai thỏ ấy dù có cắm vào cái đầu con cáo thì cũng vẫn là đồ bỏ, vẫn tứ thời kiết xác. Lão lắng nghe. Đúng là có tiếng trống phát dẫn từ trong làng. Anh nào lại chết đây! giữa lúc này không biết chết no hay chết đói. Suốt hai ngày nay lão chỉ độc nắm ngô, rang lên nhai, rồi uống thật nhiều nước vào mà vẫn không lấp được cái khoảng trống quá lớn trong bụng lão, vì sức ăn của lão nói như người ác khẩu là như hùm đổ đó!
    Lão quay sang khe hở của phên liếp, nhìn về phía khu nhà uỷ ban xã. Cả một dãy nhà ngói bên ấy cửa đóng im ỉm như mồm thằng câm! Có đến hơn tuần nay các ông bên ấy không đánh chén, khiến lão mất chỗ dựa! Đã hơn năm nay lão sống dựa vào những bữa rượu kia. Đều đặn tuần nào cũng vài ba cuộc. Không uỷ ban thi Đảng uỷ, rồi ban quản lý hợp tác xã, rồi các đoàn thể. Hội họp lu bù Các ông ấy càng hội họp nhiều thì lão Quềnh càng thích! Vì động họp là động thớt. Cái mẹo ấy là của tay Tám lé thợ cạo, chủ cái quán này. Người ta gọi là Tám lé vì mắt hắn hiếng lệch đi như xe sang vành, nhìn cứ xiên xiên. Có lần đánh kéo Tám đã xiên cả một mảng da đầu của khách. Suốt ngày được sửa gáy vít đầu thiên hạ: mà Tám vẫn không đủ vắt mũi đút miệng.
    Người đã như con hạc thờ, lại một vợ bốn con, quanh năm hết giật tạm lại vay nóng. Vì nợ hợp tác xã nhiều quá, vợ chồng Tám lại phải xung phong đi kinh tế mới trên huyện miền núi để dược xí xoá ( ở đây có lệ thế ). Trước hôm đi, đến uỷ ban lấy giấy. Vừa ra đến đây thì Tám lé gặp lão Quềnh đi đào ao thuê. Tám liền kéo Quềnh vào cái lều này, rút trong túi ra mót cút cổ rụt, chuyền tay nhau tu. Đang lúc đói, rượu dẫn nhanh như điện. Đến khi dốc ngược cái cút, thì cả hội cùng lâng lâng từ đầu đến tận gan bàn chân. Tám liền bá vai Quềnh, đôi chân cò hương với cái đầu gối củ lạc nhún nhảy, cái giọng kim eo éo được tắm rượu đã thành nghề ngà: Anh Quềnh rằng này anh Quềnh ơi, ngồi nghe ta nói cách ăn chơi.
    Tưởng say nhưng hắn xui khôn đáo để. ở người nghiện, rượu là một thứ động cơ, phát động được cả sức lực và trí tuệ. Tám bảo Quềnh bỏ phứt cái túp lều ở trong xóm. Nằm cạnh nhà người em là lão Quàng không những chiếm hết cái khôn cái ngoan, mà còn chiếm hết cả ao cả vườn, chỉ xí lại cho Quềnh một góc ớm nắng ven vẻn chừng dăm cái nong. Vợ chồng Quàng trước cũng túng, bóc ngắn cắn dài, nhưng dăm bảy năm nay, kể từ ngày Quàng được giữ chân quỹ tín dụng của hợp tác xã thì đã nhấm khá dần lên. Nhưng có khá mấy thì vợ chồng Quàng vẫn tham và kiệt, chỉ khi nào có những việc thổ mộc nặng nhọc thì vợ chồng Quàng mới nhớ đến ông anh Quềnh. Vậy thì ra đây, cạnh mặt đường này ai có công có việc đến nhờ cũng tiện. Tám lé tặng lại cả chiếc chõng tre và chiếc ghế bố, dụng cụ giúp Tám cạo râu ngoáy tai cho thiên hạ để kiếm gạo. Nhưng điều quan trọng là từ đây nhìn xéo sang nhà uỷ ban rõ mồn một. Hễ bên ấy động đũa động bát là đây biết ngay. Muốn ăn thì lăn vào bếp. Mà có lăn vào thì cũng là ăn của dân của xã chứ chẳng phải của mấy ông. Nhưng dẫu vậy - Tám dặn Quềnh cũng phải biết phận. Thấy động thớt là đi cổng sau, vào nhà dưới. Thì đi đường nào mà tới được mâm chả tốt! Cái cổng sau ấy, cái bếp ấy nhiều phen đã cứu Tám những bàn thua trông thấy! Giờ lão Quềnh tiếp thu cái vị trí lợi hại này, đúng là lão bóng được nhiều bữa nhờn môi. Có hôm lại thủ được cả lưng chai rượu về uống ngâm nga suốt đêm. Thế mà đã hơn tuần nay không thấy bên ấy họp hành gì! Hay họ lại kéo nhau ra quán bà Lợi béo có cái mông ***g bàn ở trên chợ kia. Quán ấy trước chỉ bán thuốc, bán nước nhi nhằng. Mới đây đổi sang quán ăn. Trước cửa treo lủng lẳng chân giò và những con gà luộc tứa mớ vàng nhóng nhánh. Gian bếp đằng sau lúc nào cũng khói um tùm, thơm inh. Thôi đúng rồi, họ đã dời mâm lên ấy rồi. Để khỏi phái khua dao thớt, vừa tiện vừa kín, tránh được mồm được mắt thiên hạ. Thế thì nguy cho lão Quềnh này quá! Mấy ông đúng là uống nước cả cặn?
    Lão Quềnh vừa quảy người ngồi dậy, lại thêm mấy chiếc nan tre gãy roàn roạt, thì bên ngoài bỗng có tiếng gọi láo pháo:
    - Đi uống rượu đám ma đi ông Quềnh!
    - Bây giờ còn ngủ hả ông Quềnh? Hay đêm qua có bà nào trú nhờ trong ấy!
    Vừa dứt lời một đám thanh niên tuổi những những đã ùa vào đầy căn lều. Đám trai làng đang tuổi ăn tuổi lớn như những chú nghé tơ, chân tay khềnh khoảng chưa định hình, nhưng da thịt trông óp quá, mặt mũi thô gầy góc cạnh. Cái thiếu, cái đói hiện lên từ ánh mắt mệt mỏi đến nước da mai mái và cặp môi khô tông tốc! Được cái vẫn tếu. Chúng tìm điếu, rồi thản nhiên bẻ phệnh vách làm đóm, kéo thuốc lào. Cái điếu cạn nước kêu nghìn nghịt như người hen tắc cổ. Anh chàng mặt sần sùi trứng cá, vô bồm bộp vào miệng điếu, giọng khảo khảo trong khói thuốc:
    - Điếu điếc gì mà khô rông rốc như hang chuột ruộng cạn. Mấy hôm nay bố ngót diều lắm hử? Thì đi đào huyệt với cánh này thì sẽ có cơm rượu tử tế. Cụ cố nhà họ Vũ đã tịch thì không phải chuyện đùa. Ông Phúc đã trữ lợn to hàng năm nay rồi.
    Lão Quềnh vớ cái áo bộ đội tàu tàu cứng như mo nang vẫn cuộn làm gối, đưa lên lau mặt, rồi vừa ngáp vừa nói ề à:
    - Thảo nào có tiếng trống phát dẫn từ bảnh mắt. Hoá ra ông cố Đại chết à? Sướng thế sao lại chết? Mà ông cố vẫn ở bên nhà Quý chứ.
    Đám thanh niên cười hô hố:
    Đúng là trí nhớ ông Quềnh! Thế hôm trước ông ăn xôi ăn chuối mừng thượng thọ cụ cố ở nhà ai? Nhà ông Phúc hay nhà Quý?
    Lão Quềnh ờ ờ như sực nhớ. Đám thâm niên rít thuốc xong lôi kéo lão đi, nhưng lão trằn lại. Đám trai tráng này được chủ nhiệm hợp tác xã gọi đến để đi đào huyệt cho ông cụ cố họ Vũ mới chết đêm qua. Không phải lão Quềnh ngại không ai mời mà đến, không mời thì lão cũng đến! Lão vẫn khoe là đã từng ở với ông Phúc con cả cụ Cố, trưởng chi họ Vũ Đình bây giờ cùng một đội du kích từ thời Tây kia (kỳ thực ngày ấy du kích tuyển anh thanh niên Quềnh vào để thêm một tay đào hầm. vì Quềnh đào khoẻ như một con tê tê dũi đất). Cho nên bố ông Phúc chết thì lão phải đến chứ. Nhưng thư thư đã. Chứ bây giờ đanh đói run cả gối mà ra đòi đào huyệt thì có khi đến ngã ngay xuống đấy! Lão Quềnh vục dậy đi ra sau vườn, nơi còn mấy dây khoai lang bò nguều ngoài, lão hái tuốt tuột từ gốc đến ngọn. ít quá, lão nhổ cả rễ, vặt những củ bằng ngón tay, rửa qua quít, rồi cho vào chiếc xoong cụt tai đun lên. Một nồi canh nhộn nhạo vừa củ vừa lá, rắc thêm tý muối trắng. Lão húp sịt soạt, nuốt chửng, như voi uống thuốc gió ăn giở miệng, con tì con vị được đánh thức, cái đói càng tăng thêm, bụng càng thèm cơm đến cồn cào. ấy thế mà có người ăn không hết của lại lăn ra chết. Được sướng mà phải chết thì cũng là khổ! Vừa mới hồi trong năm, lúc gặt hái xong, cả chi họ Vũ Đình làm lễ thượng thọ mừng cụ Cố tròn 90 tuổi thật là thịnh soạn. Ông Phúc đứng chân chủ họ cho mời hết lượt các chủ hộ xóm Giếng Chùa. Ai đến cũng được ăn xôi đậu xanh và chuối trứng cuốc. Lão Quềnh cũng đến. Người thì đến vì được ăn. Người thì đến vì tò mò. Bởi cụ Cố đã nhất quyết từ mặt ông Phúc có đến hơn 30 năm nay rồi. Lâu nay cụ Cố ở với Quý là em ông Phúc, mặc dù vợ chồng Quý làm ăn chỉ giật gấu vá vai chứ không được dư dật như ông Phúc. Nhưng thiếu vay đâu thì vay, chứ cụ Cố nhất quyết không cho vợ chồng Quý vác rá đến ông anh giàu có. Tết nhất giỗ chạp cũng mặc. Ông Phúc làm nhà ngói năm gian, đốt pháo đùng đùng hôm đặt cây nóc, cụ Cố cũng bỏ ngoài tai! Mấy đứa con ông Quý về khoe là bác Phúc mới mua xe eúp và máy nghe nhạc, vặn mở suốt ngày ầm ầm như có đám cưới, thế là cụ Cố la toang lên, rằng là chúng mày có để cho ông yên không! Hơn ba mươi năm mối hận của Cụ như vẫn chưa nguôi. Đại - Sang - Phú - Quý - Lộc - Tài, tên bố con cụ Cố như vậy, nhưng cụ bảo lại hóa ra là đại vô phúc! Bố con cụ đã làm trò cười cho thiên hạ! ấy là hồi cải cách ruộng đất, cụ bị quy là địa chủ. Lúc ấy thanh niên Phúc đang làm bí thư đoàn thanh niên toàn xã, vì Phúc đã được kết nạp Đảng từ mấy năm trước, khi còn ở du kích. Để tỏ rõ mình không bị giai cấp địa chủ nhuộm đen, mình đã ly khai nguồn gốc xuất thân, không dính dáng gì tới kẻ bóc lột, vợ chồng Phúc ra ở riêng. Suốt ngày Phúc bám đội trưởng cải cách. Đội trưởng tên là Cường. Nhưng không được gọi là Đội Cường. Hôm đầu có người gọi thế đã bị triệu lên xã để giáo dục quan điểm lập trường, rằng là chỉ có thời phong kiến đế quốc mới có Cai có Đội, chứ ở đây gọi như vậy là bôi nhọ thanh danh người chiến sĩ cách mạng! Phải gọi là đồng chí Hùng Cường. Đồng chí Đội trưởng Hùng Cường. Rồi người ta rỉ tai nhau rằng đồng chí Hùng Cường không thích xung quanh gọi mình là Đội Cường, bởi vì rằng chính ông cụ bà cụ có diễm phúc sinh ra đồng chí Hùng Cường là người ở xã bên kia sông chứ đâu xa. Hai ông bà từ dưới xuôi tản cư lên dạo có nạn đói năm Dậu. Nghe nói quê của ông bà ở vùng toàn đội đầu. Từ thúng thóc, gánh lúa, đến việc thổ mộc là đào đất từ dưới ao lên, không gánh không vác mà cứ đưa cả lên đầu trông khiếp lắm, tưởng như gãy cổ đến nơi. Hai ông bà đi đội thuê đội mướn kiếm ăn. Vì thế bên xã ấy người ta quen gọi là ông Đội, bà Đội. Nghe nói đồng chí Hùng Cường ngày ấy gầy yếu lắm, nên bố mẹ cứ gọi nôm na là thằng Còm. Thế mới biết sông có khúc, người có lúc: từ thằng Còm đã lớn bồng lên thành đồng chí Hùng Cường. Vẫn cao, vẫn gầy, da vẫn dính sát vào xương, nhưng giọng nói thì thật là người có quyền. Nhất thanh nhì sắc, cứ choang choang. Nói một câu là quan trọng một câu. Đã có người lân la hỏi chuyên gia cảnh, thì đồng chí Hùng Cường vắn tắt mình là thành phần cơ bản, bố mẹ đều giai cấp cốt cán; rồi đồng chí chấn chỉnh ngay là không nên quá nặng nề tư tưởng gia đình, mà phải nghỉ đến sự nghiệp cách mạng trên hết. Thế là cạch, không ai dám hỏi chuyện gia đình đồng chí Hùng Cường nữa.
    Phúc cứ bám riết lấy đội trưởng Hùng Cường. Đến nỗi có mấy thanh niên hay thóc mách kháo nhau rằng đã bắt gặp đồng chí Hùng Cường đi sâu đi sát quần chúng, đến bắt rễ với cô Tý con bà Tẹo ở cuối xóm. Nhà chỉ có hai mẹ con, bà Tẹo lại vữa hỏng mắt lẫn hỏng tai, chỉ có cô Tẹo tuy xấu người, nhưng phốp pháp dễ dãi. Họ bảo thấy đồng chí Hùng Cường đến bắt rễ cốt cán để tìm hiểu tình hình của làng, đã ăn cơm thịt gà rồi ngủ luôn ở đấy đến sáng sớm hôm sau đi cổng ngách về trụ sở. Trong lúc đồng chí Hùng Cường đang đỏ mặt lên lúng túng, thì Phúc đã gọi ngay mấy thanh niên ấy lên làm kiểm điểm vì đã ăn phải đũa của bọn bóc lột, tung tin nói xấu cán bộ đội. Họp chi bộ đồng chí Hùng Cường tuyên dương Phúc là đã có tinh thần kiên quyết dứt bỏ được giai cấp phi vô sản, tự nguyện phục vụ sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nông. Đêm nào Phúc cũng tổ chức thanh thiếu niên đi cổ động, đèn đuốc cứ rừng rực như đình liệu, hô Đả đảo bọn địa chủ cường hào ác bá đến khản đặc cả tiếng. Trống đánh đến bỏng dùi. Rồi đoàn cổ động hô vang Đả đảo tên địa chủ bóc lột Vũ Đình Đại! Kiên quyết đánh đố tên địa chủ Vũ Đình Đại ầm ầm nộ khí.
    Sáng hôm sau Đội tổ chức cho dân làng đấu tố Vũ Đình Đại, tên địa chủ có 5 màu ruộng, 3 trâu cày, ngày mùa, ngày vụ dám thuê gần chục nhân công làm cho nhanh. Mặc dù tên Đại cũng hai bữa cơm đèn, làm quần quật như trâu nhưng đấy chính là âm mưu của nó ta không được mơ hồ lẫn lộn, vì nó làm đế ốp những người vô sản không có tư liệu sản xuất phải đi làm thuê làm mướn kiếm ăn, nhưng đã bị những tên cường hào như những cái vòi cua con bạch tuộc bóc lột đến tận xương tủy. Ta phải vạch trần tư tưởng đen tối của chúng ra. Đồng chí Hùng Cường đã phân tích sâu sắc cho mọi người hiểu như vậy.
  3. keodau

    keodau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/01/2008
    Bài viết:
    22
    Đã được thích:
    0
    Đến lượt mình, Phúc bước ra, mở đầu bằng câu hỏi:
    - Địa chủ Đại, mày có biết tao là ai không?
    Ông bố đã trả lời thế này:
    - Dạ thưa tôi có biết ông, vì tôi đã trót đẻ ra ông!
    Đồng chí Hùng Cường đang ngồi bàn chủ tọa phủ chiếc chăn hoa, liền đập bàn đánh rình, đứng dậy:
    - Địa chủ Đại không được ăn nói xỏ xiên! Đây chính là bản chất ngoan cố của giai cấp bóc lột.
    - Đả đảo tên địa chủ Vũ Đình Đại xỏ xiên! - Một thanh niên cốt cán liền hét lên, thế là tất cả ầm ầm như vỡ chợ: - Đả đảo! Đả đảo!
    Lời nói gió bay, nhưng lại có những lời như đóng dấu chính vào in não mọi người. Đến bây giờ những người đứng tuổi ở làng Giếng Chùa này vẫn nhớ như in những câu đối đáp của bố con ông Đại - Phúc trong buổi đấu tố ấy. Vì thế hôm giáp tết mới đây, khi vợ chồng con cái ông Phúc đón được cụ Cố về, rồi làm lễ thượng thợ mời cả làng đến dự thì ai mà không tò mò ai mà không muốn đến xem bố eon ông cháu nhà ấy đối đãi với nhau như thế nào. Một sự tái hợp hiếm có. Nhưng duyên do để có được bữa tốc hỉ ấy, thì không ai biết được, là một tối kia, khi thấy ông cụ đã yếu lắm, một ngày khỏe thì năm bảy ngày đau. Ông Phúc đến nhà em trai, và vẫn tư thế của người quyền biến, với cặp mắt ba góc nhìn cứ ngắm ngắm, ông bắt Quý xua hết vợ con xuống bếp, để trên nhà ba bố con, ba người đàn ông rường cột của chi họ Vũ Đình có cuộc đàm phán mang tầm cỡ chấm dứt chiến tranh!
    - Năm nay ông đuối sức lắm rồi - ông Phúc bắt đầu vào chuyện - ông về bên con tĩnh dường cho tiện, chứ bên này chú thím nó vừa túng vừa neo người trông nom.
    - Tao không đi đâu hết. Tao quen sống nghèo khổ rồi? Nghèo khổ còn yên ấm bằng vạn có tiền có của mà bị nhục!
    Cụ Cố với nước da mồi xam đen, tóc lưa thưa, bạc và khô xác, đang nằm thở khò khử trên chiếc giường tre, loại giường cổ lỗ cách đây mấy chục năm; lại thêm chiếc màn xô màu cháo lòng, vá víu túm tó như vó tôm. Đã nhiều lần ông Phúc sai con mang bánh giò bánh dầy, mang sữa sang, cụ Cố cứ nằm trong chiếc màn ấy, như nằm trong chốn trú ngụ cuối cùng của cuộc đời, đầu kê lên chiếc gối mây đã ngả màu đen kít, miệng phóng ra những lời cay độc, đuổi như đuổi tà: Mang về! Mang về! Để cha mẹ con cái chúng mày ăn nhau cho béo rồi lấy sức mà đào mồ đào mả ông bà ông vải lên!
    Lần này cụ Cố vẫn nằm đấy, mắt không nhìn người con trai đã đấu tố mình. Vừa nói, cụ vừa thở khó nhọc, nhưng cơn nộ khí trong lòng xem ra vẫn chưa một chút hạ hỏa! Ông Phúc cứ để mặc cho cụ via già nói thỏa thuê. Ông điềm nhiên kéo thuốc lào xoe xoè. Ông Quý thì càng ngồi im như thóc. Quý vốn là người chỉ biết bới đất lật cỏ làm ăn, còn nguyên vẹn là một nông dân thuần phác, dễ phục tùng. Việc gì Quý cũng lấy êm ấm làm đầu. Trong nhà Quý nhường nhịn ít lời hơn cả vợ con. Nên trong việc giữa bố và anh, Quý mặc? Thế nào cũng được.
    - Bố chỉ bực bõ những chuyện vặt! Không nhìn xa được khỏi bờ rào! - ông Phúc bắt đầu công bố quan diềm của mình - Thời bấy giờ nó nhiễu nhương, trắng đen lẫn lộn, cóc ngóe nhảy lên làm người! Muốn còn chỗ đứng thì phải biết lựa. Chân dù có nhún nhưng lòng vẫn khinh. Nhún với mấy thằng hách xằng để giữ cái lớn hơn, cái lâu dài. Bấy giờ không thế thì làm gì. còn Đảng! Mà không có chân Đảng viên thì cái họ nhà này chúng nó cho ăn buồn! Chân trắng thì làm gì chen được cái chức chủ nhiệm hợp tác sáu bảy năm trời? Mấy đứa trong họ nhà này vào được Đảng là nhờ ai? Tôi không ngồi đấy thì có mục thất! Rồi gạch ngói nhà chú Quý này, nhà bá Sang kia, không ở đấy mà ra thì ở đâu? Cũng mang tiếng mua, nhưng người khác phải trả mười, thì mình chỉ bỏ ra một. Không có lời của chủ nhiệm, thì mấy thằng lò gạch lò ngói có khối nó chịu nhả cho đấy!Tôi vừa mất chân Đảng ủy, nghỉ chủ nhiệm, thế là đủ chuyện rắc rối rồi. Phe cánh nhà Trịnh Bá đang lăm le chiếm hết quyền hành cái xã này. Nó dám nói chi họ Vũ Đình quanh năm lục đục thì còn lãnh đạo ai!
    Thế là cụ Cố bật ngay dậy như một cái lò xo:
    - Nó nói thối mồm thế mà mày chịu nhịn à?
    Vậy là xong! Ông Phúc đã đánh trúng huyệt! Câu chuyện lập tức xoay ngược sang hướng khác. Chân tay cụ Cố vẫn rung lên vì xúc động. Như một con chiến mã về già, dù không còn đủ sức để lao vào trận mạc, nhưng mùi thuốc súng vẫn đủ kích thích nó gầm thét! Mối hiềm khích giữa cụ Cố với cánh nhà họ Trịnh Bá kia có từ xa xưa. Không nhắc, quên đi thì thôi, chứ nếu chỉ khi khơi dậy thì ngọn lửa bùng ngay lên?
    Hôn nhân, điền thổ vạn cố chi thừ. Tức hôn nhân và đất đai là hai thứ dễ gây cho người ta thù oán nhau lâu nhất. Thì giữa hai họ Vũ Đình và Trịnh Bá không thể ngồi chung chiếu với nhau là bởi tất cả những thứ đó! Ngày xưa có dân hai bên đã túm ngực áo nhau giữa sân chùa trong ngày việc làng! Đời cụ Cố là chuyện-đất, chuyện chức, cái chức lý trưởng dù nhỏ nhưng đấy là danh dự là chuyện được thua giữa hai dòng họ, là phần đầu gà má lợn, là chỗ ngồi chiếu nhất giữa đình làng. Đôi bên đã giành nhau kịch liệt. Đến đời ông Phúc lại là chuyện tình. Thật oái oăm, hai dòng họ này cớ vờn, cứ lửa miếng nhau không biết mệt!
    - Ông về bên này không chỉ là chuyện nghĩ ngơi tĩnh dưỡng - Ông Phúc lại lên tiếng, cắt dứt dòng nghĩ ngợi lan man của cụ Cố - Mà về bên này còn để bịt mồm những đứa nói hỗn lại! Thằng Tùng, con Bá Sang, được chúng nó thí cho cái chân xã đội, thế là nhảy cỡn lên theo voi ăn bã mía. Nó còn nói láo hơn cả anh em chú cháu nhà Trịnh Bá. Dù thế nào cũng không thể để họ Vũ này bị nhục trước dân làng! Giọng ông Phúc đã như muốn gầm lên. Cụ Cố ngồi hẳn dậy chứ không còn nằm nữa. Ông Quý càng thuỗn người ra ngơ ngác. Thế là sau hơn ba mươi năm quay lưng, cụ Cố đã chịu quy phục hoàn toàn trước lý lẽ của người con trai mà cụ đã từng rủa không còn thiếu một lời nào! Và đây là lần thứ hai cụ lại chịu thua Phúc!
    Ngay hôm sau dân Giếng Chùa trố mắt thấy bà con dâu đáo để, tức là vợ ông Phúc cùng con trai, con gái, có cả dâu lẫn rể, rùng rùng dắt nhau sang nhà ông Quý dể đón cụ em về bên này nghỉ ngơi tĩnh dưỡng!. Tất cả vui vẻ cứ như đi rước một ông quan đại thần! Và ngay tuần ấy, ông Phúc làm lễ thượng thọ cho cụ Cố tròn 90. Một sự kiện của làng!
    Vậy mà cụ Cố không gắng sống rốn thêm nữa để hưởng cho đã cái cảnh điền viên xum họp. Từ hôm cụ Cố về bên nhà ông Phúc đến nay đã được mấy nả. Thế mà mới ra tết cụ đã chết đi sống lại mấy dân. Tay đã bắt chuồn chuồn, miệng đã cấm khẩu, ông Phúc phải cạy miệng đổ đến mấy chén sâm cao-ly mới hồi. Trong làng người ta bỗng thêu chuyện lên rằng, vì làm lễ thượng thọ to quá, nên động tới Thiên đình, khiến ông Nam Tào sực nhớ ra xóm Giếng Chùa còn để sót người sống quá dai mà chưa gạch tên Lại có kẻ ác khẩu bảo ngay việc tổ chức rùm beng cũng là một cách giỗ sống rồi! Muốn cha mẹ thọ lâu không ai làm thế!
    Những chuyện đàm tiếu áy đến tai ông Phúc hết. Ông văng tục miệng lẩm bầm: Lại chỉ miệng lưỡi nhà Trịnh Bá!
    --------------------
  4. keodau

    keodau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/01/2008
    Bài viết:
    22
    Đã được thích:
    0
    Chương 2
    Đúng như nhiều người nghĩ, cả đến lão Quềnh cũng dám chắc là đám tang cụ Cố chi họ Vũ Đình sẽ được tổ chức rất long trọng, quả là không ngoa. Sáng ra, ông Phúc triệu tập tất cả nội ngoại đến nhà ông. Trên bộ phản gỗ lim đen mun mà những người già vẫn quen gọi là ghế ngựa, chiếc màn tuyn màu nước biển phủ kín, thi hài cụ Cố đang ngự trên đó. Ngang người phủ một chiếc chăn đơn. Xung quanh con cháu nục nở sùi sụt. Người kêu bố người gọi ông, kẻ réo bác, réo chú cứ ời ời! Ông Phúc, với dáng cao lớn vuông vức, vẫn đi đứng đàng hoàng. Cặp mắt ba góc trầm lắng. Đầu ông thít khăn trắng, để hai dải thõng xuống gáy, đó là dấu hiệu của đại tang.
    - Tất cả lý lặng! - ông Phúc huơ tay. Tiếng khóc, tiếng hờ đang ỉ eo bỗng ngừng bặt như những chiếc loa bị ngắt điện. Ông Phúc nói, họ nhà ta là họ lớn trong làng, nên phải làm tang cho cụ Cố thật đàng hoàng, không nề hà tốn kém. áo quan, ông sẽ xuất gỗ dồi vẫn trữ sẵn chứ không thể dùng gỗ tạp. Rồi nhà ông sẽ ngả một con lợn hơn một tạ, còn anh em con cháu có thế nào đóng góp tùy ý. Ông sẽ mời đội kèn, mà phải là phường bát âm lớn theo đúng nghi thức cổ truyền. Đột kèn sẽ chia làm hai nhóm. Một nhóm ngồi trong nhà, gần linh cữu. Còn một nhóm ở bên ngoài với nhiệm vụ khi các đoàn thể của làng, của xã đến viếng, thì nhóm này ra tận cổng nổi kèn, nổi trống đưa đoàn vào để tăng thêm phần trọng thể. Phải có người nhà trực bên ngoài để hướng dẫn từng đoàn vào thứ tự. Phải có người ngồi ghi chép những ai mang đồ phúng viếng đến, để sau này nhà người ta có đám, mình còn nhớ phúc đáp lại Rồi thì phải dựng rạp, kê bàn ghế, mượn thêm mâm bát...
    Ông Phúc nói một loạt công việc, rồi phân công luôn. Dứt khoác như mệnh lệnh. Đúng là một ông trưởng họ quyền biến và thành thạo công việc.
    Khi tất cả đã túa đi, ai vào việc nấy, ông Phúc mới quay lại hỏi bà Sang, người chị cả, vẫn ngồi sụt sịt ở góc giường:
    - Thằng Tùng nhà bá đi đâu mà từ hôm qua đến giờ không thấy mặt?
    Bà Sang ngước nhìn người em trai như có lỗi:
    - Đêm qua tận khuya nó mới đi họp về. Sáng sớm thấy nó bảo là xã phân công đi mua sắn cứu đói cho hợp tác xã, rồi nó đi luôn.
    Ông Phúc dằn giọng:
    - Khoai sắn gì, nó không đi thì người ta chịu nhịn đấy. Nó là nó trốn đám tang này? Đi từ lúc trời chưa mở mắt, nhưng sáng bảnh nó với thằng Điểu còn ăn phở ở quán bà Lợi. Ngồi ở nhà nhưng tôi biết hết?
    Bà Sang lại tức tưởi vừa khóc bố vừa kể lể về thân phận đàn bà con gái của mình. Chồng bà mất sớm, bây giờ con trai là trụ cột gia đình. Hàng ngày bà chỉ quanh quẩn việc nhà, cơm nước, cám bã, chu còn biết đâu bàn soạn. Bà có nghe người ta bảo giữa hai cậu cháu - ông Phúc và thằng Tùng nhà bà có chuyện mâu thuẫn mâu thọt gì đấy. Một lần bà vừa hỏi, thì Tùng gạt đi U hỏi làm gì những việc ấy mặc con! Thôi thì đành con dại cái mang. Một bên em ruột, cùng một gốc một cành; một bên con đẻ, hạt máu của mình, bà còn biết trọng ai khinh ai! Sao mà càng ngày càng lắm chuyện quay quắt vậy! Gần hết đời người vẫn chả biết ăn ở thế nào cho phải!
    Bà Sang cứ tỉ tê ngồi than khóc một mình, mặc xung quanh - Hay là xung quanh người ta mặc bà? Mọi người tất bật nhốn nháo sai khiến, gọi hỏi nhau ầm ầm. Tiếng đóng ván kênh kếch. Rồi một hồi trống báo tang, cứ bảy tiếng lại dứt một nhịp - Tùng tùng tùng... tùng tùng tùng... tùng! Tiếng nhạc của tứ thần như có đôi cánh màu đen bay vờn trên những ngọn tre úa lá, lan tỏa khắp đầu làng cuối xóm. Chính tiếng trống ấy đã thúc lão Quềnh thức giấc. Khi đám thanh niên được chủ nhiệm gọi kéo nhau đi rồi, và lão Quềnh đã húp hết cả nồi rau khoai mà vẫn đói veo lão ngồi ngẩn ra không biết làm gì. Đã hàng tuần không thấy ai cần đến sức trâu lăn của lão. Làm mướn lúc này cũng không đắt! Lão Quềnh cứ ra ra vào và đi lại ù ì như voi nan. Chốc khốc lại liếc sang khu nhà ủy ban, nhưng tất cả các cửa bên ấy vẫn đóng chặt. Thế rồi suốt cả ngày lão Quềnh cứ thơ thần lờ vờ như vậy. Đến tối mịt nghe nhiều người nói đêm nay nhà ông Phúc làm lễ cầu hồn vui lắm, có trống có kèn như đêm hát đêm nhạc, chứ không giống những đám chết theo đời sống mới, cu hấp ha hấp hoảng, vất vả dụi do quá? Đám thanh niên kéo nhau đi xem như xem văn nghệ!
    Khi lão Quềnh vật vờ tới nơi, thì đã thấy đến đóm nhà ông Phúc sáng trưng. Ngoài sân dựng rạp, căng phông, bàn ghế kê dàn dạt. Trong căn nhà ngói năm gian đông chật người, hương khói nghi ngút. Chiếc quan tài để mộc không sơn, chỉ bào nhẵn, màu gỗ dối vàng ươm trông còn nối hơn cả sơn, kê nằm dọc theo chiều nhà. Trên ván thiên, một bình hương tơ khói um tùm. Tàn hương rơi lả tả xuống quả trưng luộc và bát cơm đóng theo hình oản để cạnh. Tiếng ông Phúc cất lên, nói một câu gì đó lập tức cả một nhà khăn trắng rùng rùng đứng dậy như một đàn cò. Tất cả đến xếp hàng vòng tròn quanh linh cữu. Ông trưởng phường bát âm mặt đỏ tím rịm. Ông vận bộ quần áo màu vàng, rộng thùng thình như quần áo phường tuồng. Đầu ông đội mũ giấy xanh đó không chóp, như chít khăn xếp. Trên trán và hai bên tai dắt mấy chiếc lông chim sặc sỡ ông đến bên linh cữu hắng giọng dặn dò:
    - Để cụ đi được thanh thản, trong lúc chào cụ lần cuối không ai được khóc.
    Rồi ông phẩy tay ra hiệu. Tức thì con trai và con rể ông Phúc thận trọng nâng ván thiên lên, rồi kéo dịch xuống phía chân để con cháu họ hàng nhìn thấy mặt cụ Cố lần cuối cùng. Mọi người đứng lặng phắc như nín thở. Ông trưởng phường bát âm đi lại phía đậu cụ ông cúi xuống nơi âm bầm như dặn riêng cụ Cố điều gì, rồi ông rút trong túi áo ra chiếc bùa xoắn bằng giấy bổi, lùa vào miệng cụ Cố. Đó là giấy thông hành để cụ Cố đi sang thế giới bên kia. Đoạn, ông gật đầu ra hiệu. Ván thiên kéo lên, đóng chốt lại. Cụ Cố chính thức đi về nơi vĩnh viễn. Lập tức những tiếng khóc lại òa ra như vỡ đập. Ông Phúc ra hiệu tất cả đàn ông xúm tay lại, xoay quan tài ngang theo chiều nhà, đau cụ Cố quay ra ở chính cửa giữa. Một hồi chập choạng vang lên.
    Đêm cầu hồn bắt đầu.
  5. keodau

    keodau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/01/2008
    Bài viết:
    22
    Đã được thích:
    0
    Trưởng phường bát âm mang ra một chiếc thuyền bằng chiếc diều sáo của trẻ con. Đó là thuyền đưa linh hồn người mới khuất về nơi chín suối. Tất cả chiến thuyền được dán bằng giấy đỏ, đó là màu biểu hiện điềm lành, điềm phúc của đạo Phật. Một sợi dây buộc vào mũi thuyền, và thằng cu Cần, con trai út ông Phúc, cháu đích tôn cụ Cố được cầm dây kéo thuyền đi trước. Trưởng phường bát âm cầm một cây gậy cuốn giấy đỏ ngang người ông thắt thêm một sợi dây cũng màu đỏ. Chiếc gậy ấy là sào chèo thuyền. Một đầu sào chống phía sau cạnh thuyền. Trưởng phường bát âm hơi cúi người về phía trước, dé chân chèo hai tay cầm sào rướn lên giật xuống rất dẻo như chèo thuyền thật. Phía trước cu Cán đã được hướng dẫn dắt theo thuyền đi thật chậm, rù rì như sên bò. Đội kèn trống và nhị không cần ra hiện trường, cứ ngồi trên chiếu phía tay trái, nghe trưởng phường bát âm xướng lời mà phụ họa nhạc theo.
    Trưởng phường bát âm đu đưa nửa người trên, hai tay làm động tác khoát nước bát thuyền, miệng đọc ngân nga kéo dài, bắt dầu là bài dặn dò của những người đang sống đối với linh hồn người mới khuất:
    ới ơi! Hôm nay ông đã đi rồi
    Ông đã khuất núi về nơi suối vàng
    Đất dày cách biệt dương gian
    Mấy lời nhắc nhủ ông về ngàn thu
    ới ơi! Nơi ấy mịt mù
    Gặp người chớ hỏi trước
    Gặp sông hãy lội sau
    Thấy thuyền xanh không xuống
    Chờ thuyền đỏ qua mau...
    Ông Phúc đang ngồi đứng dậy, đốt một nén hương cắm thêm vào bình hương trên ván thiên và bỏ tờ bạc một trăm vào chiếc thuyền thúng cu Cần đang kéo, rồi ông đứng phía sau trưởng phường bát âm. Thế là lần lượt những người ngồi vòng quanh phía ngoài đứng lên thi nhau bỏ tiền vào thuyền và xếp hàng tiếp phía sau ông Phúc. Hàng nối càng dài, thì tiền bỏ ra càng nhiều.Tiền ngân hàng Quốc gia hẳn hoi, tiền của người sống đang tiêu chứ không phải tiền âm phủ chỉ là thứ tiền giả vờ! Đây chính là cách thưởng của tang chủ đối với dội kèn. Trưởng phường bát âm càng nhiều bài cầu lâm ly, giọng càng hay, sức càng dai để đi được nhiều vòng, thì tiền của con cháu tang chủ bỏ vào thuyền càng nhiều. Một đêm cầu hồn có đội kèn đã vớ hàng bị tiền, tươm bằng mấy cha con ông lại đò chèo thuyền thật ở ngoài bến sông kia!
    Đêm nay khổ chủ này xem ra cũng có máu mặt. Đầu xuôi đuôi lọt Tiền đang bay như bươm **** vào lòng thuyền, và hình như toàn những tờ bạc kha khá cả? Trưởng phường bát âm liếc nhìn lòng càng phấn chấn. Hai chân ông nhún nhảy càng dẻo để nửa người phía trên đung đưa như thuyền đang dập dềnh trôi trên sóng. Giọng ông rất vang, trường hơi lắm. Bây giờ là bài con đưa tiễn cha:
    í ơi!... Bố đã đi rồi
    Lòng con đau thắt nhỏ đôi lệ sầu
    Bây giờ cách trở hai nơi
    Âm dương xa ngát muôn đời biệt ly
    Bố đi con biết dặn gì
    Thế là tiếng khóc của mấy bà con gái, con dâu đang lắng xuống vì khàn tiếng, nghe lời ca thống thiết lại khóc dào lên. Tiếng kèn, tiếng nhị cũng nỉ non như cứa vào gan ruột! Khi chiếc thuyền kéo được một vòng quanh quan tài, thì tiền đã lùm lùm trong lòng thuyền.
    Trưởng phường hát ám dừng lại, hai tay chắp vào nhau nâng ngang ngực, mắt mơ màng, miệng nói véo von có vần có điệu như nói với người ở chốn tuyền đài:
    - Ba hồn bảy vía, đường đi bảy chặng, con cháu gần xa, phúc lộc đầy nhà, tiễn cụ đi xa, đã qua chặng nhất. Giờ xin hồn cụ hãy tạm nghỉ chân, lấy sức đi tiếp.
    Mọi người vừa tản ra ngồi theo hình vòng tròn như cũ thì bỗng dưới nhà bếp, tiếng vợ ông Phúc kêu thất thanh, rồi cứ ớ ớ như bị chịt cổ, tiếng bát đĩa loảng xoảng. Mọi người lao bổ ra, nháo nhác, tán loạn. Trưởng phường bát âm thu vội chiếc thuyền mang về chỗ phường kèn. Ông Phúc lật bật gờ cây đèn măng-sông mang xuống bếp. Mọi người vây quanh bà Phúc. Bà đã hoàn hồn. Bà hào hển kể. Bà xuống bếp để mang xôi lên cho đội kèn dùng bữa đêm. Bà vừa mở cửa thì cha mẹ ơi! Một người đứng sửng sững giữa nhà, mặt to bằng đúng cái mâm và trắng bạch như sáp. Ma! Ma! Bà định kêu lên như như vậy, nhưng lưỡi đã cứng đờ ra, miệng chỉ còn ú ớ mắt tối sầm lại, hồn xiêu phách lạc. Nhằng một cái, khi bà định thần được thì con ma đã biến mất. Mọi người soi đèn đóm xem có mất mát gì không, tất cả vẫn nguyên vẹn. Thế thì đúng ma hiện thật rồi!
    Trong khi cả nhà ông Phúc đang nhớn nhác lo lắng không biết điềm báo này lành dữ thế nào thì con ma mặt bằng cái mâm kia đang chân nam đá chân chiêu vừa bá vai lão Quềnh bước thập thòm, vừa cười hí há!
    Chả là khi mọi người nháo nhác chen vai, huých cả vào bụng nhau để chạy xuống bếp, thì lão Quềnh thủng thẳng ra về. Vừa ra khỏi ngõ thì bỗng một bóng người nhỏ loắt choắt từ trong vườn chuối nhà ông Phúc chui ra. Thấy người, cái bóng ấy vội thụt vào và cái bọc hắn đang ôm lù lù trên tay, đáng lẽ phải rơi văng ra vì gặp người đột ngột, nhưng hai bàn tay hắn lại ôm chặt lấy ép vào bụng, đồng thời rất nhanh một chuỗi cười hí hí rung lên và tiếng nói thì lè bè đẫm hơi men:
    - Ôi dào tưởng ai, hóa ra lão Quềnh đấy hừ? Người ta bảo lão có cái thân bằng con voi, nhưng óc lại bằng con kiến, thật không oan! Đến đây mà lại chịu về không à?
    Lão Quềnh dụi mắt, dù đêm cuối tháng tối mờ mờ nhưng lão cũng đã nhận ra cái người đang dở say dở tỉnh này là anh chàng Thó ở ngay cạnh nhà chú Quàng, em trai lão. Tên hắn chính là Thọ kia, nhưng vì cái tính tắt mắt, thấy ai để hở cái gì mà hắn không thuổng, không thó thì ngứa ngáy không chịu được! Một lần lão Quềnh đang đào ao cho Quàng, thì bỗng thấy một sợi cước bay vuốt từ bờ rào bên nhà Thó quăng sang. ở đầu sợi cước là một cái lưới câu móc vào con nhái. Sợi cước giật giật kéo con nhài như đang nhạy Thế thì chú gà trống nhanh chân hơn cả đàn đang tha thẩn tìm giun, liền lao theo nuốt mồi. Chỉ chờ có thế, sợi cước giật tung lên và chú gà trống bốc khỏi mặt đất, bay vút qua hàng rào sang nhà Thọ. Lão Quềnh bỏ cuốc, chạy sang, thì Thó đã bóp ngoéo con gà vứt vào góc bếp.
    - Sao lại làm thế? - Lão Quềnh sừng sộ.
    Thó vân tỉnh như tiền, nhe răng ra cười hít vào điệu cười lúc Thó thèm ăn:
    - Sao với giăng cái con khẹc! Im đi! Ngồi đây rồi cùng tớ nhắm rượu! Ông làm cả ngày cho tay Quàng nhưng nó đãi ông cái gì nào? Mấy lưng cơm với tý tương chua như dấm đĩ hả?
    Thế rồi Thó và Quàng đã đánh hết cả con gà gáy với chai bố rượu. Trong lúc ngà ngà cao hứng, Thó túm lấy con chó cốm nhà hắn, bảo Quềnh giữ chân, rồi Thó đổ cả một bát rượu vào họng chó làm con vện cũng say bò bới ra, miệng cứ tru lên như chó sói, rãi sều, mắt long sòng sọc như chó điên, trong lúc hai thằng vô dụng cứ xoa bụng cười sằng sặc như hóa ngộ.
    Tối nay Thó cũng chỉ chủ tâm đến nhà ông Phúc ngó đội kèn biểu diễn xem chơi. Nhưng đến khi thấy bà Phúc xuống bếp bắc chõ xôi lên bếp lò rồi không kịp khóa cửa, bà quay ngay lên nhà nhập vào đoàn con cháu đi đưa hồn cụ Cố quanh quan tài, thì cái máu nghề nghiệp của Thó nổi lên. Hắn lẻn ngay xuống. Xôi thì chưa chín, thịt thà không thấy đâu. Lợn thì chắc ngày mai mới mổ. Thế chả nhẽ họ lại để phường kèn ăn xôi nhạt? Hóa ra nhà này cũng kiết như chẳng phải vừa! Lần mò vào cái xó xỉnh thì lập tức hai cánh mũi rất mỏng của Thó phập phồng lên. Mùi rượu thơm cay cay thoảng đâu đây. Thó nuốt nước bọt. Hai tay rờ rẫm hết chai này đến lọ khác. Này. là chai mắm. Này là liễn muối. Này là vại dưa khú. Đồ khỉ gió! Đến khi Thó sờ vào một cái hũ tay rút nầm lá chuối khô làm nút, thì Thó rên lên trong bụng, hai chân chỉ muốn nhảy tưng tưng. Cả một hu đầy rượu. Thó lắc lắc tiếng rượu reo óc ách mời mọc. Thó kê ngay miệng làm một hơi. Rượu mới nấu ngon chí mề! Lúc ấy trên nhà tiếng ông trưởng phường bát âm đang cất cao giọng: ới ơi! Hôm nay ông đã đi rồi! Thó làm một ngụm nữa. ờ rượu ngon thế này mà chết khòng kịp uống thì phí của thật!Thấy thuyền xanh không xuống, chờ thuyền đỏ qua mau... Ông trưởng phường bát âm dặn dò. Thó ngồi bệt xuống làm ngụm nữa. ờ, thế mà người ta vẫn nói dương sao âm vậy. Vậy mà trên trần đèn xanh thì đi, đèn đỏ thì dừng. Chả nhẽ lẽ luật ở dưới ấy lại xoay ngược lại? Thó ngả người vào tường, hai tay vẫn ôm cái hũ. Rượu mạnh đang quẫy đạp trong ruột Thó. Mấy ngày nay chỉ bữa rau bứa cháo nên rượu vào thèm ăn tợn. Đã thấy mùi xôi. Thó đến mở vung chõ cào ngay một tảng bỏ vào vạt áo. Đang xít xoa vì bỏng rãy, thì chính lúc ấy bà Phúc xuống! Vừa nghe tiếng đấy cửa, Thó vớ ngay cái chậu nhôm đang dựa cạnh đống bát đĩa, đưa lên che lấy mặt, chân đứng lom khom ở tư thế vùng chạy. Bà Phúc đang xăm xăm, tý nữa đâm sầm vào con ma đúng sừng sững trước mặt. Bà kê u ớ lên, hồn xiêu phách lạc. Thó liền vút cái thau nhôm, nhưng vẫn nhớ xách hũ rượu luồn ngay ra cửa, lủi biến vào vườn chuối.
  6. keodau

    keodau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/01/2008
    Bài viết:
    22
    Đã được thích:
    0
    - Thế ra chú vừa lần vào bếp bà Phúc đấy? - Lão Quềnh hỏi lại cho chắc chắn.
    - Thì đã sao? Túng nên phải tính! Đừng có be lên như bê nghe chửa! Vừa nói Thó vừa ngả miệng hũ vào mồm lão Quềnh. Tiếng tu rượu chun chút vang lên.
    Cứ thế, hai gã một khôn một dại, một to lớn xù xì như con gấu, một bé nhỏ như con cáo, bá vai nhau đi ngã nghiêng giữa đường làng trong đêm khuya. Cái miệng hũ lúc thì dốc vào mồm người này, lúc lại đổ vào mồm người kia, đi trên đất mà cú líu ríu dập dờn như đi trên sóng. Không còn biết trời đất xung quanh là gì. Chợt một tiếng hỏi làm cả hai sững lại:
    - Ai thế này? Đi đứng thế nào thế này?
    Quềnh và Thó cùng khứng lại. Một người đàn ông cao, gầy, đã đứng sát bên cạnh. Người ấy dịu giọng:
    - à chú Thó à? Lại bác Quềnh nữa, ôm cái gì thế này?
    Thó nhìn lên, nhận ra ông Chỉnh, một trung tá về hưu, người cả xóm Giếng Chùa đều nể trọng. Ông Chỉnh cũng ở ngay gần nhà Thó, nên Thó biết lắm. Ông Chỉnh có vợ đi theo trai, nên đã lấy vợ khác. Bây giờ ông Chỉnh cha già con cọc, nhà cũng hoàn cảnh lắm.
    Thó cười, giọng lè nhè:
    - A bác Chỉnh đấy ư? Bác đi đâu mà khuya khoắt thế này? Hay cũng sang đám nhà ông Phúc? Thi hãy làm với em một ngụm!
    Nói rồi Thó định bá vai, khiến ông Chỉnh hốt hoảng né người ra, rồi bước vội. Ông đi canh lò gạch. Thó nhìn theo cười khùng khục, rồi bỗng hát nghề ngà;
    - Trung tá mà sợ rượu! Trung tá mà cũng tiên có khồng là không có tiền! Hí hí! Thế cho nên trẻ con nó mới hát láo là Đầu làng đại tá vá xe, cuối làng trung tá bán chè đỗ đen, thiếu tá thì buôn dầu đèn, để cho đại úy thổi kèn đám ma! A hà ha thổi kèn đám ma! Tò te tí te!
    Vừa hát Thó vừa nhún nhảy đôi chân chữ bát như ông trưởng phường bát âm lúc nãy. Tay giơ cái hũ lên như thổi kèn, và rượu lại chảy vào họng Thó tuồn tuồn. Rồi miệng hũ lại dốc vào mồm Quềnh. Cả hai tựa vào nhau, tay cùng ôm cái hũ. Chân bước lạng quạng. Đến chỗ rẽ, Thó lè nhè bảo Quềnh:
    - Xin đãi bác chầu nữa! Làm hơi thật dài vào. Rượu là cao của gạo. Nữa đi, thế! Thôi té nhá.
    Thó theo lối rẽ về nhà. Nhưng chỉ được vài bước, đầu nặng chân nhẹ, Thó chỉ còn lê vào được gốc ổi bên cạnh đường là lăn khoèo xuống, rượu từ trong hũ xối ra, ướt đẫm cả ngực Thó.
    Lão Quềnh còn khiếp hơn! Vì lão uống cấp tập hơn Thó, bụng cũng đói hơn Thó, nên rượu càng hành lão dữ. Khi lão khật khưỡng về được đến cửa rêu thì rượu và sương gió ban đêm đã đánh quỵ lão. Lão Quềnh vừa bíu được vào tấm cánh dại che cửa, thì miệng đã nôn phóng ra như cái vòi phun. Trong bụng lão chỉ có bát rau khoai từ sáng, còn là toàn nước và rượu, nên bây giờ lão đáng phun ra rượu! Một thứ rượu qua tiêu hoá lợm mùi đến quỷ cũng khiếp? Lão Quềnh vừa nôn đến nảy đom đóm mắt, tay vừa đẩy cánh dại đề vào nhà, nhưng đẩy không nổi. Trong lúc người đang rã rời vì say, lại thêm bộ óc vốn ù ì, nên lão không thể nhớ cánh dại lão chỉ chống hờ, mà sao bây giờ lại chắc thế này?
    Chắc thế là vì bên trong có người. Một người sống và một người chết! Cả hai đang nằm trên chiếc chõng ọp ẹp của lão Quềnh.
    Người chết thì cứ chết, đã đành! Còn người sống thì cũng lại ngủ như chết!
    Tiếng giật cửa của lão Quềnh làm người sống choàng thức. Đó là người đàn bà tuổi dòng dòng. Cao và gầy. Hốc hác và lôi thôi. Nhưng chân tay lại rất nhanh. Vừa nghe tiếng người đẩy lịch kịch, chị ta đã vực ngay dậy, rồi nhảy một bước tới cửa. Mặc dù đã chống một cái gậy vào tấm cánh dại, nhưng chị ta vội vã đứng áp người vào thêm cho chắc. Nhưng đến khi ghé mắt nhìn qua lỗ phên, thì người đàn bà bỗng bật ra một tiếng cười khô khốc:
    - Ôi dào, lại một lão cám hấp! Đồ phải gió phải dây? Nhồi nhét ở đâu về mà khố thế này!
    Vừa lẩm bẩm, người đàn bà mở toang cánh dại, rồi cầm tay lôi lão Quềnh vào nhà. Tối quá, lão Quềnh sờ sẫm đi lại chiếc chõng, thì người đàn bà đã kéo giật lão lại:
    - Ông không được nằm đấy! Để cho con bé nhà tôi nó được ở cõi trần một tý!
    Người đàn bà ngả tấm cánh dại xuống góc nhà, rồi kéo lão Quềnh đến. Quềnh ngã ngay xuống như một bao gạo, miệng hỏi ậm ẹ trong hơi men:
    - Thế nhà chị ở đâu mà lại đến đây? Những hai mẹ con à?
    Người đàn bà mở hộp dầu cao dúi vào tay lão Quềnh. Bằng con mắt trải đời, không cần hỏi, chị ta cũng biết đây chính là ông chủ của chiếc lều này, một ông chủ ngơ ngơ như bò đội nón! Dạng người này chỉ câu trước câu sau là có thể sai phái được rồi! Vì thế chị ta hỏi với giọng dấm dẳn:
    - Tôi ở đâu đến ấy à? ở chỗ đói đến chứ còn ở đâu nữa? Đói thì đầu gối phải bò. Không đói thì hơi đâu đi lang ********* nhọc. Có hai mẹ con, nhưng con bé nó chết rồi! Nó nằm kia nhưng nó chết rồi!
    - Cái gì? Nhà chị bảo cái gì? - Lão Quềnh nhỏm đầu dậy, hỏi giật giọng. Lão trương cặp mắt trong bóng tối sờ sẫm nhìn người đàn bà đang ngồi lờ mờ ở mép chõng. Lão đã tỉnh cơn say. Thở được ra là nhẹ cả người, lại thêm chất nóng của dầu cao, nên sương gió định quật lão đã phải lùi biến. Nhưng vì tỉnh nên lão biết sợ. Thế cái nhà chị này là thế nào? Người hay ma? Chả nhẽ lại có ma thật? Lão đã nghe người ta bảo chính lão đã bị ma làm, nhưng lão không tin; vì chưa bao giờ lão nhìn thấy ma. Lão chỉ tin những gì mắt lão sờ sờ nhìn thấy, chứ không thì đến rắn hai đầu, ma bốn mắt cũng chả là cái cóc khô gì đối với lão. Đêm hôm lão vẫn đi sùng sục mà có thấy gì đâu. Chả nhẽ hôm nay ma lại dám xông váo nhà lão thật? Kìa, một ma sống và một ma chết! Đói khát đến ma cũng chết!
    - Con nhà chị chết thật à? - Lão Quềnh hỏi với giọng rụt rè, nhưng thật quái quỷ, người đàn bà lại như muốn chồm lên, giọng rít lại:
    - Thì tôi đã bảo là nó chết? Chứ con tôi không chết mà tôi lại bảo là chết à? Ông có điên không đấy? Ông đã nghe thủng tai chưa đấy?
    Vừa nói, người đàn bà vừa sấn tới, khiến lão Quềnh đang nhổm người hiên nằm ẹp xuống. Người đàn bà đứng lại, hai tay chống nạnh, giọng vẫn chao chát như đang cãi nhau với ai: Còn tôi ở đâu đến đấy à? ở cái nơi vì đói quá mà đã có nhà bỏ thuốc sâu vào nồi cháo để ăn rồi cùng chết cho rảnh nợ! Tôi cũng bỏ thuốc sâu vào nồi cháo gà để định giết chúng nó, cái thằng chồng với con vợ thành đanh đỏ mỏ ấy! Chúng nó lấy nhau hàng chục năm mà không có con, cứ như nuốt gang nuốt sắt vào người! Thế là chúng nó nịnh tôi, hùn mẹ con tôi về ở với chúng nó cầu may. Tôi vừa đến tháng trước, thì tháng sau con vợ nó chửa. Rồi nó đẻ con trai. Thế là nó trở mặt, nó nhiếc móc tôi là đồ không cha không bố, là thứ không chồng mà chửa, sai tôi như sai con ở. Đêm hôm nó bắt tôi đi giặt tã lót cho con nó. Nó thì ăn cháo chân giò, còn mẹ con tôi thì cơm độn với sắn khô. Đã thế thì phải cho nó biết tay. Bà đã mang lộc đến cho mày, mà mày lại vong ơn bạc nghĩa với bà à? Bà phải thả thuốc sâu vào nồi cháo chim bồ câu của mày! Cho mày được bô béo một thể!
    Chị ta bỗng ôm mặt bật khóc! Tiếng ngàn ngạt trong lòng bàn tay:
    - Nhưng con chó nhà nó đã hại tôi! Cháo nóng thế mà con vện đánh sạch cả nồi, rồi giãy chết đành đạch. Thế là vợ chồng nó chửi tôi. Thằng chồng đã ăn nằm với tôi cũng đánh tôi. Con vợ thì xé cả áo quần tôi, đuổi mẹ con tôi, giữa lúc con tôi đang sốt, người nóng như hòn than. Chập tối nay dắt díu nhau đến đây là nó chết? May mà gặp được cái kêu này. Mai tôi bọc con tôi vào cái chăn kia, rồi phải về tận nhà vợ chồng chúng nó, tôi sẽ chết giữa nhà chúng nó, để cho chúng nó biết tay bà. Con ơi, mai mẹ lại đưa con về Mẹ con ta phcli chết trước mũi chúng nó? Phải móc mắt chúng nó.
    Người đàn bà càng khóc nức lên. Vừa khóc chị vừa kể lể đủ thứ chuyện mà chỉ riêng chị biết. Rõ ràng không phải chị khóc, chị kể với lão Quềnh mà chị đang cần xả ra cho vơi bớt nỗi lòng.
    Lão Quềnh cứ nằm co trên tấm cánh dại, giương cặp mắt ngơ ngáo nhìn người đàn bà xa lạ trong khoảng tối lờ mờ. Chị ta đang kể lể rền rĩ thì chợt có tiếng chít chít hốt hoảng phía sau nhà, rồi một con chuột cống bằng bắp tay lao thục mạng qua khe hở của bức vách, lao chồm qua chiếc chõng, đâm sầm vào chân chị, lủi biến vào xó tối. Giáp lá cà ngay phía sau, một con mèo hoang bằng con chó con, đen trũi như thiên lôi thần sét quả quyết phải nuốt tươi con mồi, cũng lao đánh roác qua phên nứa miệng kêu ngao một tiếng như kèn trận, hai mắt tròn xoe, xanh cháy lên. Con mèo xù lông, nhảy quăng mình qua đầu chõng, ngã dúi vào bức vách bên này vì quá đà lại gặp người đàn bà cuống quít, chân tay cứ khua ngậu xị trước cửa. Bị lạc mồi, lại bị chắn, mèo ta ngoão lên cáu sườn, nhảy chồm qua mặt chõng quay lại lối cũ, phóng ra ngoài. Tức thì một cảnh kinh hoàng diễn ra. Cái bọc chăn đang nằm im lìm, tức là đứa trẻ bốn tuổi con người đàn bà đã chết từ lúc chập tối, bị luồng sóng điện tử mắt con mèo hoang dựng bật dậy? Cả người đàn bà và lão Quềnh đứng bật dậy cùng kêu ối rụng rời khi thấy cái thi hài kia nhổm hẳn lên, gạt cả chiếc vỏ chăn rơi xuống đất. Cái xác không hồn dở đứng dở ngồi ở một tư thế rất chân lâng, chới với trong một giây, rồi ngã đánh roàng xuống mặt chõng. Người đàn bà đổ xuống ngất xỉu. Lão Quềnh thì nằm vật ra không động cựa.
    Đêm vẫn lặng phắc như tờ.
    Chênh chếch trên trời khuya, mảnh trăng khuyết hao gầy vàng úa bơi trong sương mù se sẽ nhát một, tiếng cú rúc thăm dò trên vòm cây trám tối đen phía sau nhà uỷ ban. Có phải sứ giả của tử thần đã đánh hơi thấy có mùi khang khác?
    Một lúc lâu sau.
    Người đàn bà hôm lồm bò dậy, rên rẩm:
    - ối giời cao đất dày ơi? Làm phúc cho con tôi được sống khôn thác thiêng. Khổ thân tôi, khổ con tôi!
    Vừa nói, chị vừa lê tới chiếc chõng, lập cập ôm lấy thi thể đứa con lạnh ngắt. Đầu đứa bé ngất ra ngoài. Mái tóc râu ngô lơ phơ rã rượi. Chị đắp mảnh vỏ chăn nhàu nát lên người con, rồi run rẩy nằm xuống bên cạnh, vừa khóc vừa nói liên chi hồ điệp, đến chính chị cũng không biết mình nó gì.
    Lão Quềnh đã hoàn hồn, nhưng mồ hôi lạnh vẫn ri ra ở sống lưng. Lão nằm trên tấm cánh dại, mắt mở trong bóng tối nhìn lom lom sang chiếc chõng. Trong bộ óc luôn luôn có màn sương bao phủ của lão chợt lờ mờ nhớ lại cũng đã có một người đàn bà đến ở với lão, và lão đã trở thành người sai kẻ khiến ngay trong nhà của mình. Đến bây giờ cả làng lão! ấy là ngày còn ở cạnh vợ chồng Quàng trong xóm kia. Một hôm vợ Quàng đi chợ trên phố huyện về có dắt theo một cô bụng chửa vượt mặt, vợ Quàng nói là đưa cô ấy về để làm bạn với bác Quềnh nhà em!. Không biết nghe bà em dâu nỉ non thế nào, mà Quềnh cứ cười hề hề nói tô tô Tớ tậu bò mà được cả bê!. Rồi Quềnh lại đi làm thuê hùng hục để nuôi cô vợ hờ suốt ngày ăn xong lại nằm ôm cái bụng chình ình như nhện ôm trứng. Rồi chị ta đẻ. Rồi chị ta lẻn di biệt sau khi ở cử được hơn một tháng. Đêm ấy thấy đứa trẻ khóc thét lên, lão Quềnh đang ngáy pho pho ở góc bên này thức giấc, gọi sang mẹ thằng cu vẫn ngủ à?. Không thấy tiếng trả lời mà thằng cu vẫn khóc ngằn ngặt. Lão Quềnh dậy châm đèn. Thì thấy mẹ thằng cu với bọc quần áo đã biến mất tăm rồi. Thằng bé đó sau cho gia đình không có con trai, và chuyện lão Quềnh lấy vợ thành một giai thoại. Đi làm ở đâu, Quềnh cũng bị cánh đàn ông xúm vào tra hỏi: Đã biết mùi chưa?. Mùi với mẽ gì! Đêm lão còn phải đi đổ cả nước giải cho nó, vậy mà không được mó đến người đó. Kể cả buổi tối nó tắm ở trong nhà. Cứ đến tối là cái gì nó cũng làm ở trong nhà! Nó bảo ra ngoài sợ gió máy, nhưng kỳ thực cô ả lười chầy thây. Lão Quềnh phải xách nước vào cho ả tắm. Người ả trần như con ếch lột. Dọc người ả đến là nhiều chỗ tôi lõm! Lão Quềnh vừa mon men như con gấu đến gần con chuột bạch, thì ả liền khoăm mặt lại, gắt: Xê ra đằng kia!
  7. keodau

    keodau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/01/2008
    Bài viết:
    22
    Đã được thích:
    0
    Thế là lão lại chui về ổ nằm. Còn bây giờ, với mẹ con nhà chị này, một sống một chết một người một ma, rõ khiếp! Lão phải làm gì đây? Lần đầu tiên lão Quềnh phải tính xa tính gần, nghĩ tới nghĩ lui. Đang lơ mơ thức ngủ, thì bỗng có tiếng gọi váng lên ngoài ngã ba:
    - Bác Quềnh đã dậy chưa đới? Hôm nay đến giúp em nhá.
    Quềnh vùng ngay dậy. Thế mà đã sáng bạch. Lão lịch bịch chạy ra, nói dòng dả;
    - Chu ích đấy hả? Lại đào đá ong hừ? được rồi, về đi tớ đến ngay.
    Người gọi làm thuê đi rồi, lão Quềnh quay lại. Người đàn bà thôi không nói lâm bầm một mình nữa. Chị ta nằm nghiêng, thở nặng nhọc. Một bên gò má nhô lên, trông gần như nhọn. Cạnh đấy một nốt ruồi to như hạt đậu đen làm cho tối cả khuôn mặt gầy. Hai bàn chân đen đùa co lên chõng. Bộ quần áo trên người còn lành lặn, nhưng nhàu nhỏ. Bên cạnh, cái bọc chăn kín mít nằm thẳng cứng. Lão Quềnh chờn chợn, sẽ sàng rút cái khăn tổ ong vắt trên sợi dây cùng với mấy bộ quần áo bộ đội, cái thì tàu tàu, cái đã rách. Tất cả thấm mồ hôi muối của lão cứng như mo nang. Lão rửa mặt khan, rồi xách chiếc mai, dụng cụ kiếm cơm của lão, đang định đi, thì người đàn bà nhổm dậy, giọng tỉnh như sáo
    - Ông đi ngay à? Nấu cơm ăn đã, tôi có gạo.
    - Thôi, nhà chị cứ ở đây nấu mà ăn. Bếp đấy, nồi đấy. Tôi đi làm rồi ăn ở bên này.
    Cơ mà nước nôi ở đâu? Cái vại nhà ông có mà rắn ráo nó đẻ trong ấy!
    Nhìn lão Quanh nghệt mặt ra, biết là nói khôn mồm thế thì lão không hiểu, thế là người đàn bà ngồi bật dậy, đã như muốn nỗi đoá lên:
    - Rằng là cái vại nước nhà ông cạn nhăn răng ra từ tám hoánh kia rồi! Ông đi xách về đây cho tôi một thùng! Lão Quềnh nhếch cặp môi dày ra như cười, miệng khẽ à một tiếng, rồi quay vào xó nhà xách chiếc thùng cùng cục chạy sang giếng nước nhà uỷ ban. Lão vẫn ăn nước bên ấy. Khi lão xách thùng nước về, thì người đàn bà đang ngồi trên chõng rũ tóc chải bằng chiếc lược gỗ trông như lược cổ. Cả mặt cả người chị ta chìm trong mớ tóc khô cứng vì lâu không gội, nhưng rất dài, rất dày, buông lù xù bốn xung quanh, nhìn cứ như bụi cây kỳ dị. Chị vẫn cắm cúi chải tóc soạn soạt, nói với lão Quềnh bằng cái giọng chùng hẳn lại:
    - Ông chờ tôi nấu cơm cho mà ăn, từ hôm qua tới giờ tôi cũng chưa có hạt nào trong bụng.
    ấy là tâm trạng của người luôn luôn bị hạch sách, sai phái, đến khi chính chị bỗng dưng được sai phái thì lòng chợt mềm lại. Nhưng lão Quềnh vẫn một hai trả lời:
    - Thôi chả cần, tớ đi đây. Bên ấy người ta đang chờ cơm đấy.
    Rồi lão vác mai bình bịch bước đi, mặc những gì diễn ra ở nhà lão. Khi người đàn bà rẽ tóc ra nhìn, thì chỉ thấy thấp thoáng bên bụi hóp một mảng lưng áo trăng khô mồ hôi muối, vài cái áo quần bộ đội đã rộng đã dài, mà khoác vào người lão vẫn cũn cỡn. Tới lúc người đàn bà rửa chiếc xoong cụt tay để nấu cơm, mới thấy mọi đồ đạc của lão đều nhẵn như chùi, đến bói một hạt thóc cắn chắt cũng không ra. Chị đong hẳn hai bơ gạo trong cái tay nải cho vào nồi cơm vo. Rồi chị để lại quá nửa xoong cơm trên ba hòn đá chụm làm kiềng. Đó là một lời cảm ơn của người khốn khổ dành cho một người khốn khổ.
    Nhưng lão Quềnh đã không sống được đến chiều mà về nhìn thấy phần cơm của người đàn bà xa lạ dành cho mình. Có ai ngờ một sức vóc như thế, một người vô hại như thế mà bị lưỡi hái của tử thần xén ngọt như đùa! ở hiền mà chẳng gặp lành là thế đấy ai ơi!
    --------------------
    ^^
  8. keodau

    keodau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/01/2008
    Bài viết:
    22
    Đã được thích:
    0
    Chương 3
    Đúng ba giờ chiều, thời khắc cô thống Biệu đã bấm cho ông Phúc là giờ thanh long, giờ hành trong ngày, tang lễ cụ Cố nhà họ Vũ Đình bắt đầu cử hành. Ông Phúc đang đứng túc trực bên đầu linh cữu luôn luôn đưa mắt nhìn ra ngoài ngõ đầy vẻ sốt ruột. Bởi lúc này chưa thấy hai thành phần quan trọng nhất của xã tới viếng: Đảng uỷ và uỷ ban. Thế là họ cố tình chơi ông đây! Coi thường ông đây. Thôi đành. Ông tiến ra giữa thềm, hai tay đưa lên chắp trước ngực, rồi hạ giọng trầm trầm cảm ơn chính quyền địa phương (thì cứ phải nói thế!) và bà con xóm làng đã đến chia buồn với gia đình ông, rồi ông mời tất cả sau buổi tang mọi người bớt chút thì giờ ở lại dùng bữa cơm rau muối với gia đình ông. Thật khéo, ông vừa dứt lời, thì mùi xôi, mùi thịt luộc và tiếng dao thớt kênh kếch từ dưới bếp đưa lên thơm đến cồn cào các con tì con vị!
    Ông Phúc nói xong quay vào, ông hội trưởng hội bảo thọ với bộ râu ngạnh trê vàng như râu ngô bước tới. Bây giờ đến việc của ông. Là người có đầy kinh nghiệm về khiêng cáng chôn cất, nên đám tang nào cũng mời hội trưởng hội bảo thọ đến điều khiển đội đô tuỳ. Ông phẩy tay ra hiệu như một nhạc trưởng, tức thì một hồi trống cái thùng thùng vang lên, đánh theo nhịp phát dẫn. Hội trưởng hội bảo thọ đang định phát lệnh tiếp, thì bỗng ngoài sân mọi người đứng dạt ra, rẽ thành một lối, bí thư đảng uỷ Trịnh Bá Thủ và chủ tịch xã Trần Văn Sửu cùng năm người nữa tiến vào. Một nửa đội kèn làm nhiệm vụ dẫn khách tưởng đã hết người viếng, nên đã tản mát từ lúc nãy. Người thì đi uống nước người thì đi xả nước chuẩn bị tinh thần và sức lực để đưa cụ Cố ra đồng. Thành ra đoàn chức sắc quan trọng nhất, ông Phúc chờ đợi nhất, lại hoá ra được khổ chủ đón tiếp thiếu nghi thức nhất!
    Hai anh em Phúc - Quý vội trở lại bên linh cửu để đáp lễ. Cặp mắt ba góc của ông Phúc cứng ra vì mệt, suốt ngày cứ nhịu nhíu cau cảu, giờ thấy Thủ và Sửu loé sáng lên. Mừng nhưng vẫn tức!
    Hai cô nhân viên trong uỷ ban bê vòng hoa đi trước. Thủ mặc quần ka-ki, áo kẻ cộc tay đi chính giữa. Đoàn xếp theo hàng dọc như một tiểu đội lính đi sau. Đến trước linh cữu, Thủ đốt ba nén hương cắm vào bát hương, vái một vái. Phúc nhìn chằm chằm vào từng động tác của Thủ, bụng bảo dạ:Hắn chỉ đứng sống lưng và chỉ vái một vái chớ không phải ba như mọi người. Đây dứt khoát là sự cố ý. Biết thế!
    Thủ đến bên Phúc, thay mặt đảng uỷ và uỷ ban nói những lời chia buồn rất trôi chảy lưu loát. Phúc nghiêng người đáp lại cặp mắt ba góc nhìn Thủ thầm bảo: Tôi biết là anh muốn nói những lời chúc mừng kia! Và ánh mắt của Thủ cũng đáp lại không vừa: Dù thế nào đi nữa lúc này ông vẫn rất cần sự có mặt của tôi! Đời là thế mà! Tạm thời thế thì phải thế. Phúc lại bụng bảo dạ, rồi quay sang hội trưởng hội bảo thọ nói nhỏ. Ông râu ngạnh trê liền huơ tay lên như một lão tướng, phát lệnh:
    - Thân quyến tang chủ ra làm cầu ngồi xuống! Các tay đòn đô tuỳ chuẩn bị!
    Ông Phúc bước xuống, đứng sẵn dưới giọt gianh. Hội trưởng hội bảo thọ vừa dứt lời, ông liền ngồi thụp xuống, quay mặt lên nhà. Tiếp đến là ông Quý, bà Sang, bà Lộc, bà Tài. Rồi các cháu chắt dâu rể, họ hàng nội ngoại. Người nọ tiếp người kia, thành một dãy dài. Tất cả cùng ngồi thụp, nhìn vào lưng nhau trên đầu khăn trắng xoá trông như một vạch vôi thẳng tắp từ bờ hè ra tận cổng. Theo tập tục, đó là chiếc cầu của con cháu đưa tiễn người quá cố là bậc trên mình ra đi được xuôi chèo mát mái.
    - Chú ý! Sau ba tiếng trống đầu nâng trước, chân nâng sau. Đầu xuôi đuôi lọt. Chuẩn bị!- hội trưởng hội bảo thọ hô lớn, rồi vung tay đánh ba tiếng trống dài. Tám thanh niên trong đội đô tùy chia làm hai, đứng hai bên áo quan đã cúi lom khom sẵn sàng. Tiếng trống thứ ba vừa dứt, cùng với tiếng hô Lên nào!. Chiếc áo quan được nâng bật dậy. Đầu nâng cao ra trước. Tám thanh niên trai tráng mà phải bặm môi, vì những tấm dổi chắc quá, dày quá. Đám này áo nặng hơn người. Theo những bước chân sâu đo, chiếc áo quan lừ lừ trôi trên những mái đầu quấn khăn trắng xoá, nối nhau ngồi phủ phục. Cụ Cố đang đi trên cái cầu cuối cùng của tình máu mủ nơi trần thế để sang thế giới bên kia.
    Tiếng kèn, tiếng nhị, tiếng trống cùng âm vang, rít xé lên nức nở. Khóc như ri. Người vòng trong vòng ngoài đầy sân, đầy vườn. Linh cửu đi tới đâu, cuốn theo những người chít khăn trắng trôi đi đến đấy. ở nhà lúc này chỉ còn những người hàng xóm đến giúp việc bếp núc. Đào văn Quàng, em ruột lão Quềnh (tức là Đào văn Quang ) người nhỏ thó, trông lụt cụt và khôn ngoan như con cò lửa. Quàng đi cùng ban quản trị hợp tác xã đến viếng từ trước đoàn của Thủ, giờ chưa biết tính nên ở hay nên về. Đang đứng lớ xớ bên đầu hồi nhà bếp, bỗng Quàng thấy một chiếc còng lợn chưa luộc, trắng hếu, không chân không cánh mà từ trong nhà bếp bay vọt qua cửa sổ, rơi đánh xàoxuống gốc cây hồng xiêm ở sát bờ dậu. Chắc chắn chỉ lát nứa là chiếc giò sẽ vượt biên sang nhà chủ bên kia. Và Quàng nghe đúng là có tiếng nhai xôi nhí nhóp trong bếp. Cái miệng phễu dầu của Quàng đang mủm mỉm cưới túm tó, thì bỗng có người kéo tay Quàng, vừa nói vừa thở:
    - Bác Quàng, bác Quềnh đang gay quá, có khi nguy mất! Vâng, bác Quềnh đang ở nhà em, bác về ngay đi.
    Đó là vợ ích, người đã thuê lão Quềnh đào đá ong sáng nay. Vợ chồng ích đang tích cóp chuẩn bị làm nhà. Khi phát hiện ra vỉa đá ong ở đồi ông Bụt, ích lập tức chiếm giữ khai thác ngay. ở vùng này nhiều người đã khui được những mạch đá ong ăn chìm dưới đất rất kỳ lạ. Đá ong cấu kiện thành từng viên rời, to bằng những viên đá tảng kê cột nhà, vuông vắn như đẽo, xếp liền nhau tầng tầng lớp lớp. Có người bảo thời nhà Mạc đã có thời kỳ định lập căn cứ địa ở đây. Vật liệu đã tập kết kha khá. Nhưng rồi đêm nằm chiêm bao thấy động, sáng dậy lại thấy gà mái gáy ke ke, thế là cha con bỏ của chạy lấy người, kéo nhau lên mãi Cao Bằng. Thành ra những vỉa đá ong này bây giờ ai vớ được làm móng nhà thì tuyệt vời.
    Sáng nay khi lão Quềnh vác mai đến, thì ích đang ngồi chờ bên rổ khoai luộc. Tiếng là nhà có đồng ra đồng vào, nhưng vợ chồng ích có thói quen không bao giờ ăn sáng. Ngủ dậy chỉ có củ khoai củ sắn nhì nhằng rồi đi làm.
    - Ta lót dạ tạm, rồi trưa ăn cơm một thể bác ạ!
    ích cười xoa xoa bảo lão Quềnh. Quềnh gật, với lão thì thế nào cũng xong. Cả việc trả công thế nào cũng được. Vì thế ai cũng thích mướn Quềnh. ăn khoai xong, đi làm. Lão Quềnh đánh xà beng chan chát như một cái máy đào. Đá toé lửa khét lẹt. Vợ chồng ích chỉ lăng xăng chạy ngoài. Đến trưa đá ong đã xếp một đống cao ngất. Nghỉ tay đến bữa ích với lão Quềnh ngồi riêng. Một cút rượu tăm với nửa cân thịt trâu. Đưa cay xong, lão Quềnh diệt gọn một nồi ba cơm. Buông đũa, súc miệng xong là lão đi làm ngay tắp lự, cần mẫn đến hơn cả chủ nhà. Lão lại thủ mai thình thịch như một cái máy khoan, rồi lão gánh gấp rưỡi vợ chồng ích, như một con lừa thồ. Đến gánh thứ mười thì lão kêu đau bụng. Mồ hôi hột vã ra đầm đìa. Hai mắt lão tối lại. Lão định gánh một chuyến nữa, thì hai chân lảo đảo, rồi ngã vật ra. Vợ chồng ích cuống quít lên, chạy gọi thêm một ông hàng xóm nữa. Khi cả ba người cõng được Quềnh về nhà ích, thì lão đã mê man gần đất xa trời. Trong khi vợ ích đi gọi Quàng, thì ích và ông hàng xóm vội vã cõng Quềnh lên trạm xá.
    Vừa trông thấy Quàng từ xa, ích đã lao bổ ra với bộ mặt vô cùng hốt hoảng:
    - Chết đứt rồi bác Quàng ơi! Làm thế nào bây giờ? Không phải tại em đâu. Em không giục gì bác ấy đâu, làm được đến đâu thì làm. Không phải tại em...
    Quàng nhịu nhíu bộ mặt nhỏ thó và sắc lạnh, cũ kỹ như một đồng xu đã bỏ, gắt lên với ích:
    - Làm gì mà anh cứ rối rít tít mù lên thế! Bác ấy thế nào? ích vẫn nói như rên:
    - Còn thế nào nữa, chết rồi! Bác ấy chết rồi!
    Vừa cáng tới trạm xá, lão Quềnh liền thổ ra một đống máu, người nhũn như cây cần héo, hai tay bắt chuồn chuồn, hàm cứng lại, đôi vành tai cụp dính vào da đầu. Cánh tay gân guốc với những ngón xù xì đang chới với, đổ xuống. Lão tắt thở. Hai con mắt ngơ ngơ đờ dại mở trừng trừng như kinh ngạc, như không tin vào cái chết của chính mình.
    ích sợ quá, cứ luôn miệng rên rỉ:
    - Nhà tôi không cho bác ấy ăn cái gì độc hại cả. Tôi với bác ấy cùng uống rượu, cùng ăn cơm với nhau, thế mà sao giời lại bắt tội thế này!
    Y sĩ trạm trưởng hỏi nguyên do, rồi kết luận rất quả quyết: Quềnh bị vỡ dạ dày vì ăn quá no rồi làm việc nặng ngay. Quàng đứng lặng nhìn thi thể thẳng cứng của người anh khốn khổ trong bộ quần áo vá. Một luồng sóng của tình huyết thống phả vào Quàng. Mặt nóng rực. Hai vai nặng trĩu.
    Luồng sóng đi dần dần xuống người, xuống chân, rồi tan ra theo tứ chi. Quàng quay lại hỏi nhỏ ích:
    - Anh lấy đá ở đồi ông Bụt à?
    ích gật đầu mà mắt thì bạc ra lo lắng, tưởng mình phạm thêm một lỗi gì. Nhưng Quàng lại lẩm bầm như nói một mình:
    - Có khi ma đồi ông Bụt lại bắt bác ấy như ngày xưa. Ma vẫn nhớ mặt bác ấy!
    ích cũng như sực nhớ ra, vỗ đét vào đùi:
    - Thôi chết, đúng rồi! Em quên mất! Sáng nay bác ấy bảo tối hôm qua ma đến chơi nhà bác ấy! Những hai mẹ con! Vợ chồng em lại cứ đùa: Ma mồ gì, hay bác lại vớ được món nào rồi! Đói vàng mắt ra lại còn rừng mỡ! Đúng là các ngài lên gọi bác ấy đi rồi!
    ích thở phào, lòng trút được gánh nặng.
  9. keodau

    keodau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/01/2008
    Bài viết:
    22
    Đã được thích:
    0
    Quàng quyết định chôn cất ông anh mình thật nhanh. Con ma keo kiệt trong người Quàng đã xui Quàng làm một việc táng tận: Hắn chôn ông anh bằng bó chiếu. Quàng, ích, Thó và một anh hàng xóm nữa đào một cái hố ở chính đồi ông Bụt, nơi xưa nay không ai đặt mộ, vì ở đây rất nhiều mối. Nhưng Quàng bảo, thôi thì chết đâu chôn đấy. Làm thế là chiều theo ý các ngài dưới đó, để các ngài khỏi quấy quả. Bốn Người khiêng Quềnh bó trong chiếc chiếu hoa của Quàng mang đến, đi lặng lẽ trong bóng chiều chạng vạng. Tiếng trống đám cụ Cố ông Phúc phía cuối làng vẫn thì thùng vọng lên. Theo tuổi cụ Cố, lúc này mới được giờ hạ huyệt. Khi nấm mộ cụ Cố đã đắp xong, vuông thành sắc cạnh, ông trưởng phường bát âm lại chống cây gậy dán giấy đỏ, theo động tác chèo thuyền, cùng con cháu cụ Cố rồng rắn đi vòng quanh một lượt hát bài tiễn biệt cuối cùng: Bây giờ con giã biệt cha. ì ơi... đầy nhà cháu chắt cũng là giã ông! Tiếng kèn giật lên nức nở. Lại than, lại khóc vang vang cả cánh đồng.
    Trên này mộ lão Quềnh cũng đã đắp xong. Xong sớm nghỉ sớm! ích lấy đòn đập bàm bạp mấy cái vào hai bên sườn mộ, rồi cả lũ cùn cụt kéo nhau ra về. Thó là người rút sau cùng. Thó vẫn chưa hết bàng hoàng về cái chết của lão Quềnh. Mới đêm qua mình với lão còn bá vai nhau vừa đi vừa nốc rước. Mùi mồ hôi rất nặng, mặn khét của lão vẫn như còn lởn vởn bên người Thó. Thế mà nhằng một cái. Mạng người thật chẳng là cái thá đếch gì!
    Thó đốt cả nắm hương còn lại cắm lên nấm cỏ tròn như cái mũ đặt chốc giữa mộ. Chợt nghe tiếng lạo xạo, Thó quay lại nhìn thấy một người đàn bà cao, gầy, dáng lam lũ, hai gò má nhô lên sạm nắng. Một nốt ruồi rất to mọc ngay dưới đuôi con mắt như hạt đậu đen. Vai đeo chiếc tay nải màu nước dưa. Người đàn bà nhìn Thó, cặp môi khô mấp máy:
    - Tôi mới quay lại chiếc lều của ông ấy thì được biết...
    Thó như bừng tỉnh. Những chuyện ma mồ từ xa xưa lập tức sững dậy. Thó hốt hoảng, môi run lên lật bật:
    - Chị là... Bà là...
    Vừa hỏi, Thó vừa bước giật lùi. Được mấy bước, Thó quay cổ vùng chạy. Đúng là chạy như ma đuổi! Lao cả vào những bụi gai xấu hổ ngã lăn chiêng, lại vùng dậy chạy. Vừa chạy, miệng vừa A...a! A...a! như người câm hoảng loạn.
    Người đàn bà đứng sững chẳng hiểu ra làm sao. Chị quay lại, cúi xuống đưa bàn tay cóc cáy bóp bóp một hòn đất trên mộ lão Quềnh. Một giọt nước mắt hiếm hoi chắt ra từ cặp mắt khô của chị rơi xuống. Đây là giọt nước mắt duy nhất rỏ trên mộ lão Quềnh! Chị khóc cho người mới gặp tình cờ chị khóc cho con, chị khóc cho mình!
    Sáng nay ăn cơm xong, chị ôm cái xác lạnh cứng của đứa con trong bọc chăn lên bến xe phố huyện. Một ông lái xe khách phát hiện ra, đã lu loa lên như cháy nhà. Người ta xúm đen xúm đỏ lại. Công an đã đưa chị vào đồn. Rồi không biết nghe khuyên can thế nào mà chị đồng ý cùng các đồng chí công an đưa chôn đứa trẻ ở sườn đồi bạch đàn gần đấy. Không còn xác đứa con, thế tức là trong tay không còn vũ khí, nên chị thôi không về để móc mắt cặp vợ chồng phụ bạc kia nữa. Đi lang thang quanh quẩn với bộ mặt cô hồn, cuối cùng chị lại quay về chiếc têu đã trú tạm đêm qua, thì được nghe đám trẻ trâu kể về cái chết của lão Quềnh. Thế là chị lần tìm đến nơi, mà chính chị cũng không biết mình đến để làm gì.
    Đêm ấy bà Đồ Ngật đi ăn cỗ bên kia sông về, khi qua ngã ba chợt thấy có ánh lửa lờ mờ trong lều lão Quềnh, rồi thấy loáng nhoáng đúng là bóng đàn bà, thế là ba Đồ chạy te tái đến thở ra đằng tai. Đến mấy ngày sau bà vẫn mắt tròn mắt dẹt kể ồn ĩ là bà đã hai năm rõ mười nhìn thấy con ma mặc áo cánh quần thâm, đầu tóc rũ rượi hiện lên ở lều lão Quềnh. Lại đến lúc các cô các ngài về đấy!
    Nhưng lúc này chẳng ai còn hơi đâu nghe chuyện ma của bà Đồ. Có người còn nói phũ là cái nhà bà quen ăn quà như mỏ khoét này, đến hàng tháng nay mồm miệng đến mốc ra như hang cua vì phải nhịn thèm, giờ được đánh rượu vào thế là mắt nọ sọ mắt kia, nhìn người ra ma, trông gà hóa cuốc! Điều cả xóm Giếng Chùa quan tâm, bàn tán ầm lên là cái chết trăm phần trăm của lão Quềnh. Người ta cứ túm Thó và ích để hỏi Quềnh chết thế nào, chôn cất ra sao. Trong lúc Thó kể Quềnh chết không được tắm rửa, vẫn mặc bộ quần áo đẫm mồ hôi nằm bó trong chiếu rồi buộc túm hai đầu lại; thì ích lại ra sức giãi bày về sự vô can của gia đình mình khi thuê mướn Quềnh.
    Còn Quàng thì lẩn biến như rắn mồng năm.
    Hôm sau nữa dân làng lại xôn xao lên về một tin sốt dẻo: ông chủ tịch huyện đã đánh xe về gặp bí thư Thủ và chủ tịch Sửu. Xong việc, vù ngay, chứ không ở lại để nhấc lên đặt xuống như mọi khi. Ông về vì có đơn tố cáo từ Giếng Chùa gửi lên. Người đệ đơn không ký tên, mà chỉ ghi là Một nhân chứng trung thực. Người ấy kể về việc lão Quềnh bị chôn bằng bó chiếu và lên án đó là việc làm dã man trong thời buổi này, mà lại chôn dấm chôn dúi như một việc vụng trộm: Vậy thì Đảng ủy, ủy ban và ban quản trị hợp tác xã coi việc nghĩa tử là nghĩa tận của nhân dân thế nào? Sự quan tâm đối với những người cô quả ra sao? Người viết đơn nói ngân quỹ của xã không phải là nghèo. Một bữa cơm thường khi họp Đảng ủy, khi họp hội đồng nhân dân, khi tiếp mấy anh điện cao thế là có thể chôn được mấy người như lão Quềnh một cách tươm tất! (Thật là đồ xỏ xiên! Thủ lẩm bẩm, Đầy đủ tiền để chôn cả họ nhà hắn nữa đấy!) Cho nên nếu huyện không có biện pháp nghiêm khắc với những người chủ chốt ở đây, thì người viết đơn nói, sẽ tố cáo lên tỉnh, lên Trung ương, lên báo lên đài kể nhiều việc bê bối khác nữa. (Đúng là cái thư đâm bị thóc chọc bị gạo! Thủ lại lẩm bẩm).
    Nhưng rõ là cái kẻ tố cáo kia đã đánh trúng huyệt ông chủ tịch huyện. Vốn là ủy viên thư ký, sau một thời gian đi học đào tạo giờ trở về với cương vị cao nhất về mặt chính quyền, bởi vậy vị tân chủ tịch rất không muốn có những việc rối ren trong khu vực mình quản lý. Chủ tịch huyện đã chỉ trích những người lãnh đạo ở xã quan liêu, tại sao xã ở gọn thế này, làng nọ sát làng kia, đầu xã tới cuối xã không quá năm cây số mà mấy anh lại không biết những gì diễn ra ở dưới dân chúng.
    - Việc này sẽ phải kiểm điểm, nếu cần phải kỷ luật Đảng tay Quàng, cái thằng keo kiệt uống nước cả cắn. Còn y sĩ trạm xá thì càng ngày hắn càng đúng là một tên bạch vệ vô chính phủ! Sắp tới cô Vi đi học về chúng tôi sẽ thay - Bí thư Trịnh Bá Thủ bật y như một cái lò xo. Thủ nói tiếp với giọng rin rít:
    - Còn giọng điệu cái đơn này thì tôi biết là của ai rồi. Họ mượn cái chết của ông Quềnh để đánh chúng tôi đây. Trong lúc tất cả đang đói nhao lên, thì họ làm ma ông bố đến mấy ngày. Hương khói, kèn trống, ăn uống linh đình, tốn kém bạc vạn. ý thức đảng vừa kém lại vừa hợm hĩnh khoe khoang! Chúng tôi chưa sờ đến đấy!.
    - Ai thế?
    Chủ tịch huyện hạ giọng khi thấy Thủ nói như muốn gây gổ với cái người vắng mặt đó.
    - Tay Phúc chứ ai! Cái đơn này đích thị là của Vũ Đình Phúc! Từ hôm mất chân đảng ủy đến giờ lão ấy cứ ***g lộn lên.
    Chủ tịch xã gật gù đồng tình:
    - Đúng, đúng là của Vũ Đình Phúc.
    Thủ bổng trở nên bình tĩnh đến mát mẻ, bởi Thủ chưa biết sự yêu ghét của đồng chí chủ tịch mới ra sao. Chỉ nghe nói đồng chí ấy là người mềm mỏng, không thích những gì quá khích. Thủ hạ giọng:
    - Đấy là những người cùng cánh với Vũ Đình Phúc. Hoặc là có họ hàng, hoặc là đã được ông Phúc bao che dạo ông ấy làm chủ nhiệm. Sau khi trượt Đảng ủy, những người phe cánh của ông Phúc đã đi vận động ráo riết để ông ấy trúng hội đông nhân dân. Hôm bầu hội đồng, cả họ hàng nhà ông ấy cứ sùng sục như muốn ăn tươi nuốt sống ai! Chả là họ nhà ông ấy to vẫn quen cái thói lấy thịt đè người! Chúng tôi biết một số người trong hội đồng cứ khăng khăng bầu ông ấy làm phó chủ tịch là vì đã bị họ hàng nhà ông ấy mua chuộc. Vì thế để tránh bè phái, tránh mất đoàn kết nội bộ thường vụ chúng tôi kiên quyết chỉ để ông ấy làm trưởng ban kiểm soát. Các đồng chí ở trên ấy hãy ủng hộ chúng tôi. Đồng chí mới về chưa hiểu hết cơ sở, chứ bác Luân bí thư và các anh trong thường vụ trên ấy chẳng còn lạ gì nhân sự dưới này.
    Chủ tịch huyện rít một hơi thuốc, giọng khảo khảo:
    - Chúng tôi có nhận được đơn khiếu nại của ông Phúc về việc phân công này. Ông ấy có đề nghị được gặp anh Luân và tôi, nhưng chúng tôi chưa bố trí được. Tôi mới về chưa hiểu hết, nhưng thấy xã này từ sau đại hội Đảng bộ và bầu hội đồng nhân dân lại đâm ra rắc rối quá. Nhưng thôi, việc ấy bàn sau. Giờ phải tìm cách dẹp cho yên cái pha này đã.
    Thế rồi sau một hồi bàn bạc. ba người đã đi đến một quyết định dữ dội như sau: Xã chi tiền mua một bộ áo quan để chôn cất lại cho lão Quềnh? Thủ nói phải kiên quyết thế mới bịt được những cái mồm xấu hay xúc xiểm. Vậy thì lão Quềnh được ưu đãi hay lão phải chết hai lần? Chôn xuống rồi lại moi lên là điều xưa nay người ta cấm kỵ. Nhưng lão Quềnh ơi! Đã được nằm trong bộ áo quan, nghĩa là được chết bình dẳng như những cái chết khác, lão phải vui lòng nhận thêm một sự vất vả khi đã nhắm mắt xuôi tay. Nghĩa là lão phải hy sinh một lần nữa để cứu danh dự cho những người khác đấy! Sứ mệnh của lão thế mà to! Thôi thì đại xá cho cái sự khôn ngoan của người đời, lão Quềnh à!
    Xã đã nói là xã làm. ủy ban thuê mấy anh thợ đấu mỗi người ba ngàn, tương đương với bốn cân gạo để làm cái việc mà sau này dân làng gọi là đội cảm tử: Moi xác lão Quềnh lên rồi chôn lại. Thó cũng được cánh thợ đấu vời vào ban tang lễ kỳ dị này.
    Đảng viên Đào Văn Quang, tức Quàng hiện giờ bị bí thư gọi đến xạc một trận tơi bời về hành động bạc đãi người ruột thịt của mình. Quàng sụt sịt nhận khuyết điểm và xin được lo an táng lại cho Quềnh, nhưng Thủ gạt phắt:
    - Thôi thôi xin đủ! Chúng tôi không cần đến cái thứ hối hận của anh! Để anh bỏ tiền ra, rồi bọn xấu bụng kia lại làm đơn kiện chúng tôi à! Bây giờ việc của anh là bàn với mấy ông thợ đấu lo sao cho tốt. Đừng để chúng tôi phải gọi anh lên lần nữa đấy!
    Quàng lủi thủi về, bàn với Thó và cánh thợ đấu rằng để tránh ồn ào, tránh sự nhòm ngó bép xép của đám trẻ con, tránh phải đèn đóm ban đêm, đội cảm tử sẽ thực thi nhiệm vụ vào sáng sớm.
    Vì thế bước sang ngày thứ tư kể từ hôm lão Quềnh chết, trời còn nhập nhòa tranh tối tranh sáng, bốn người đã khiêng chiếc quan tài màu đỏ cùng với Quàng đi cun cút như nhạy ra đồi ông Bụt. Rồi san, rồi bới. Đến khi hở chiếu bốn người cùng dừng tay nhìn nhau. Ông thợ đấu cao tuổi nhất quyết định:
    - Bác Quàng xuống đi, buộc dây vào hai đầu chiếu, chúng tôi ở trên này kéo lên.
    Khi cái bọc chiếu từ từ được lôi lên, một luồng khí lạnh cùng với một thứ mùi khăm khẳm của tử khí mà chỉ cần ngửi thấy một lần cũng đủ kinh sợ hàng năm trời, từ dưới lòng hố phả lên, khiến tất cả cùng rùng mình ớn lạnh. Ông thợ đấu cao tuổi nói lầm bầm như khấn:
    - Tạ vong linh bác Quềnh, sinh có nhà, tử có mồ. Hôm nay chúng tôi sửa sang lại chỗ ở cho bác đây. Bác sống hiền thác lành, phù hộ độ trì cho anh em liền khúc ruột, cho hàng xóm láng giềng chúng tôi.
    Rồi cái bọc chiếu âm ẩm như thấm nước được mở ra, một làn hơi mỏng như khói bay lên, mọi người cùng kêu ôi trời!. Thó bỗng run bắn lên, chân tay lẩy bẩy, hai hàm răng khua vào nhau cầm cập. Mắt Thó cứ tối lại trước cảnh toàn thân lão Quềnh trương phình lên, nước thấm ra dấp dính như cá ướp; mặt như phù thũng, to và phùng phịu như đọng đầy nước. Đến khi đặt Quềnh vào áo quan, mấy ông thợ đấu phải vừa ấn vừa ép người Quềnh uốn cho vừa, làm bật ra những tiếng lóp bọp, thì Thó xây xẩm mặt mày, ruột gan cuộn lên thốc tháo. Thó ôm lấy nghe ho rũ rượi.
    Hàng tuần sau nghĩ lại việc này, Thó vẫn sởn da gà.
    --------------------
  10. keodau

    keodau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/01/2008
    Bài viết:
    22
    Đã được thích:
    0
    Chương 4
    Làng Giếng Chùa lại rộ lên bàn tán về việc chôn lại lão Quềnh. Dạo này đói bụng, nhưng đến là nhiều chuyện để bàn! Nhiều lúc quên cả những cơn réo trong dạ dày! Bà con khen người nào đó đã kịp thời tố cáo lên huyện để ngăn chặn những hành động bạc đãi với những người cô quả, vì làng này còn đến dăm hộ đơn côi không nơi nương tựa. Trong số ấy có cả cha mẹ của liệt sĩ sống rất vất vả. Mỗi suất liệt sĩ được 632 đồng một tháng, nhưng lại lĩnh theo quý. Còn số thóc mua giá điều hòa theo chính sách ưu tiên, thì làng này chỉ có nhà ông Bỉnh là được mua đầy đủ, vì ông có thế ở anh con cả hiện là trưởng ban tổ chức huyện ủy. Mấy dân cán bộ cấp trên về thăm những gia đình có con liệt sĩ nhân ngày 27 tháng 7, xã cũng chỉ đưa đến nhà ông Bỉnh, vì ở đấy nhà cửa khang trang, còn những gia đình liệt sĩ khác đã túng bấn quá, lại thóc ưu tiên cũng bị cắt đầu cắt đuôi, nên những ông bà ấy hay nói ngang cành bứa với xã, bởi vậy chả bao giờ được rước chân cán bộ. Thôi thì sạch sẽ khoe ra, bươi ba đậy lại cũng phải, chứ xấu mặt xã thì thật hổ lòng dân!
    ấy thế mà bây giờ huyện lại biết đến cả cái việc chết của lão Quềnh, xã cũng cuống lên vì cái chết của lão Quềnh, kể cũng khoái đấy chứ! Nghe mọi người bình phẩm, cười hí há với nhau như vậy, ông Hàm chỉ lẳng lặng tảng lờ vẫn bào soạn soạt trên tấm gỗ kháo. Những phoi bào tròn loăn xoăn như những cái bánh phồng tôm rán giòn bắn ra lả tả. Câu chuyện của mọi người khiến ông Hàm sôi máu lên. Ông chính là Trịnh Bá Hàm, trưởng chi họ Trịnh Bá, chi họ đang lên ở vùng này. Bí thư Đảng ủy Trịnh Bá Thủ là em ruột ông.
    Ông Hàm bào, mắt vẫn nhìn chăm chú mà lại không thấy gì. Tai nghe, óc nghĩ, tay chỉ miết bào một cách bản năng, khiến cái vai giường ông đang bào vì ấn mạnh quá, lõm vào một đường mà ông không biết. Đến khi sực tỉnh thì đã quá đà. Cái vai giường gỗ kháo vàng au như tấm vải tơ tằm bị lẹm vào một đường, trông tức mắt như anh thợ vụng ăn cắp!
    Ông Hàm vứt bào đứng dậy, tập tễnh đi lên nhà. Vì một chân của ông bị co gân từ bé, nên dân làng cũng gọi ngay từ nhỏ là Hàm thọt, Hàm chấm phẩy. Những kẻ ác ý thì gọi là hùm thọt. Vì giống họ của ông Hàm thờ Hổ. Tô tiên của họ Trịnh Bá là một ông ba mươi nhe nanh múa vuốt trong những bức vẽ rất tỉ mỉ đặt chính giữa bàn thờ. Tại sao gốc đạo Phật, mà dòng họ ông lại thờ Hổ? Đó là cả một câu chuyện bi tráng mang nhiều chất thần thoại!
    Ông Hàm lên nhà trên mở toang cửa, rồi gọi với giọng rất sang:
    - Nước sôi chưa Hoa?
    Một tiếng dạ từ dưới bếp, rồi đứa con gái út hơn mười tuổi bỏ dở bài đang học, xách siêu nước lửa vẫn còn cháy nhấp nháy quanh ấm nhôm đi lên. Con bé tráng ấm, pha trà, khéo léo và thành thạo như người lớn, bởi nó đã được huấn luyện để phục vụ ông bố ghê gớm. Khác với ông, người lúc nào cũng lừ khừ, lúc nào cũng cau cau, mấy đứa con đều giống mẹ, mặt mũi tươi bưởi sáng láng. Chả thế mà ngày ông mới lấy vợ, những kẻ ghen ăn ghét ở đã xui trẻ con hát đố nhau: Vợ thì tươi tắn như hoa, chồng thì nhăn nhó chẳng ma nào nhìn! Đó là cái gì? Là mặt trăng mặt trời. Không phải! Là anh Hàm chị Son!
    Cái Hoa rót một chén nước để trước mặt bố, rồi đi kiểu nhảy dây xuống nhà dưới. Mùi trà ướp hoa ngâu tỏa lên thơm mát. Ông Hàm co hai bàn chân đi đất ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế sa lông rất to đóng bằng gỗ lát chun bóng nhoáng, vần vũ những đường vân như tranh sơn mài. So với những đồ đạc giường tủ bàn ghế vàng rực cả bốn gian nhà mái bằng quát ve xanh, thì ông chủ với bộ quần áo xanh tàu tàu xoàng xĩnh kia chỉ đáng mặt anh ăn đợ ở nhờ. Nhưng ông Hàm lại ngầm thích thú về điều ấy. Bởi hãy nhìn đồ đạc toàn một thú kiểu mới, chứ tịnh không có đồ cổ, thế nghĩa là nhà này mới mọc mũi sủi tăm lên thôi, chứ đời ông bà cha mẹ xưa không để lại được thứ gì đáng giá. Điều ấy chứng tỏ một tay ông Hàm dựng lên tất cả. Nên ông cứ ngồi xếp bằng, rung đùi tự thưởng, cứ việc tha cả đất cát lên mặt ghế bóng như gương, cứ việc xì bã điếu ra nền gạch men, rồi vợ con ông phải quát, phải lau bởi ông đã đẻ ra tất cả cái cơ đồ này. Ông tuy xấu mã, người lùn và to ngang, đó là dáng điệu của gấu. Chân tay ngắn, mặt ngắn, trán cũng ngắn choằn. Cái tài ẩn vào trong, khi cần mới ló ra ngoài. Như đôi tay ông, với những ngón to đầu tù thô tháp, nhưng đấy là đôi tay vàng. Hoa tay là cái thần của tứ chi, mắt mũi trần tục đâu dễ nhìn thấy. Ông chỉ học nghề mộc qua quít, mà đã tay tràng tay đục đi ăn cơm khắp bàn dân thiên hạ từ thời trai trẻ. Bây giờ ông chỉ ngồi nhà, nhưng quanh năm không hết việc Nào là giường mô-đéc, tủ buýp-phê, tủ lệch đến sa-lông chân quỳ. Thời này người ta đua nhau sắm đồ đạc như lây lan một cơn sốt. Đói cũng vẫn bóp bụng sắm. Đói mà được ngồi sa-lông gỗ lát cũng vẫn vênh vang. Khách đến làm sao biết được trong bụng chủ nhà chứa những gì. Rau lang, sắn mốc hay cơm tám giò chả đã qua khỏi cửa miệng thì cũng là nhập khẩu vô tang, có giời dân! Con công hơn con quạ cũng là ở bộ lông, chứ vặt trụi đi thì ông quyền cao cũng giống ông nhọ đít! Có quyền lo ô, lo ghế; dân chạy lo gỗ sắm đồ! Càng sắm ông Hàm càng trúng mánh. Cứ nhẩn nha túc tắc mà mỗi năm thu ngót tấn thóc, ngon như chén óc chó! Bằng mấy anh theo đuôi trâu ngoài đồng.
    Ông Hàm rít lạch sạch một hơi điếu bát, rồi ngửa cổ lim dim nhả khói. Một nửa người ông chìm trong màn mây thuốc. Chỉ thấy mái đầu muối tiêu khẽ gật gù bập bềnh trong khói mờ. Mồi thuốc làm ông Hàm tê mê bần thần cả chân tay đầu óc. Ông ngồi tĩnh tâm. Mắt lơ mơ óc lơ mơ. Làn khói bay lởn vởn bỗng đưa trí não ông Hàm trôi ngược về buổi tối cách đây hơn 30 năm trước khi ông Trịnh Bá Hoành từ giã cõi đời. Lúc ấy chỉ duy nhất người con giai trưởng Trịnh Bá Hàm được đứng bên cạnh giường để nghe bố dặn dò. Bằng một giọng lào phào nhưng rất tỉnh, ông Trịnh Bá Hoành dặn Hàm sống ở làng này phải biết bố con Đại - Phúc là người không thể di chung đường, ngồi chung chiếu. Không bao giờ nó muốn ta ngóc đầu lên được.
    Ông Hoành nói hồi năm 1949 giặc Pháp định mở một cuộc càn mà chúng nói là càn theo chiến thuật gọng kìm, chiến thuật càng cua lên đây. Một cánh quân sẽ từ Sơn Cốt tràn sang, một cánh sẽ từ Đáp cầu đánh lại. Hai gọng kìm, hai càng cua sẽ khép lại, hội quân ở quanh vùng này. Thế là cả làng bỏ chạy tán loạn như ong vỡ tổ. Nhưng rồi cuộc càn của giặc không thành. Ông Trịnh Bá Hoành từ vùng núi Phúc Thuận vội vã chạy về, thì đã thấy bố con Đại - Phúc ở nhà rồi. Dạo ấy Phúc là du kích xã phải ở lại đã dành nhưng còn lão Đại. Ai khiến cái mặt lão mà lão đã mò về sớm thế! Thấy cửa nhà mình mất dấu ông Hoành mở ra nhìn đồ đạc còn nguyên, nhưng nói có vía ngài chứng giám, bức tranh Hổ thần của họ nhà Trịnh Bá treo chính giữa bàn thờ không biết thằng giời đánh thánh vật nào đã chọc thủng cả hai mắt, rồi lấy than vạch chéo một dấu thập đen xì giữa đầu ngài. Thế này là nó bôi gio trát trấu vào tổ tiên nhà Trịnh Bá đây! Mà không thể là trẻ con được. Cách chọc, cách vạch than này, nhìn đường nét phũ phàng căm tức lắm. Thì còn ai vào đây nữa. Cái kiểu thù để cho động vào tận thủy tổ gia tộc thế này, hỏi rằng không phải là nó thì còn là ai! Có khi nó còn yểm bùa nữa đây.
    Ngay tuần ấy Trịnh Bá Hoành phải đi thửa một bức tranh khác, mà họa lên một tấm vải gai cho chắc chắn. Ông thợ vẽ truyền thần trên phố huyện không lấy tiền, mà đòi đến hai nồi thóc, vị chi là hơn nửa tạ. Có tranh rồi, lại lo sửa lễ. Phải có đủ xôi nếp, thủ lợn, gà trống luộc cả con không chặt và một con cá chép to rán vàng để chờm cả đĩa tây, rồi mời cô thống Biệu đến cúng, xin đủ âm dương ngũ hành và thưa báo cho ngài biết rõ sự tình tại sao phải tái họa lại chân dung ngài, xong đâu đấy rồi mới được treo lên. Thành ra tốn kém không khác gì giặc càn đến nhà! Thì chính nó là giặc, là thù của họ nhà ông chứ còn gì nữa!
    - ở đời hòn bấc ném đi, thì hòn chì ném lại - Trịnh Bá Hoành nói như thầm thì, nhưng cặp mắt quăm quắm nhìn Hàm thì sáng lên lạ thường, thứ ánh sáng của ngọn đèn sắp phụt tắt - Có vay phải có trả. Nó đã dám bạo nghịch dẫm đạp lên cả gia bảo nhà ta, thầy ân hận là chưa đòi cái món nợ ấy được vì chưa gặp dịp. Đến đời anh, anh phải nhớ! Chuyện thằng Phúc với con Son vợ anh dạo trước, thầy biết cả! Tha thứ cho vợ là phải. Đấng nam nhi có khi còn lấy đĩ về làm vợ để dạy, nhưng không được lấy vợ làm đĩ! Anh chỉ được phép tha riêng vợ anh thôi! Làm thằng đàn ông không được hèn! Chấp vặt là tiểu nhân, nhưng cái gì cũng bỏ qua thì lại là người hèn! Có mấy cách làm thày đã nói kỹ, để ở dưới đáy tráp.
    Rồi từ đấy cho tới nửa đêm, ông Trịnh Bá Hoành cứ nằm quay mặt vào tường không nói lời nào nữa. Ông đi, ai cũng bảo là thanh thản. Chỉ riêng Hàm biết bố mình vẫn nuốt một cục uất ức trong người! Tiếng hót của con chim trước khi chết là tiếng hót hay, lời dặn dò của người trước khi chết là lời thiêng, lời độc!
    Làm ma bố xong, Hàm vào buồng đóng cửa, mở cái tráp khóa chuông, cái tráp bằng gỗ nghiến nhỏ như cái hòm của ông thợ cạo chỉ có một chìa, và trong nhà chỉ có một người được mở. Dưới những tờ văn tự về đồng điền và thổ cư từ hai đời nay, là một quyển vở giấy giang xếp dưới cùng, loại vở học trò. Với những chữ quốc ngữ rất to trông cứ nghều ngoáo run rẩy như người vờ đánh vần vừa viết. Nhưng cái điều nói qua những nét chữ bấy bớt ấy thì đọc đến đâu, Hàm lạnh toát người đến đấy!
    Đọc xong, Hàm ngồi lặng người một lúc lâu rồi lại run run xếp quyển vở dưới đáy tráp, khóa lại, cất vào gốc cái hòm cáng như cất một quả mìn!

Chia sẻ trang này