1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nguyễn Khắc Trường

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi keodau, 19/01/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. keodau

    keodau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/01/2008
    Bài viết:
    22
    Đã được thích:
    0
    Thì bây giờ đến lúc ông dùng quả mìn ấy rồi! Chỉ có cách này mới trị được thằng cha Phúc hay hợm của hợm người. Hàm biết Phúc vẫn nhìn mình bằng con mắt coi thường. Coi thường cả hình dáng lẫn địa vị trong thôn, trong xã. Thì phen này ông sẽ cho cả họ nhà mày ăn buồn ăn buồn! Quyết thế rồi, ngay chập tối ông Hàm đến nhà Thủ. Cũng bốn gian nhà mái bằng như nhà Hàm nhưng trên bờ tường trước cửa, đồng chí bí thư Đảng ủy cho đắp nổi một cây dừa trĩu quả. Trên ngọn chim bay dưới gốc cá lội. Con nào con ấy béo nần như đang chửa. Tất cả đêu tô đậm sơn màu xanh đỏ tím vàng, rực rỡ như cái phông của hiệu ảnh trên phố huyện. Nhà trên ở giữa, nhà ngang nhà bếp hai bên lợp ngói ta, trước cửa là vườn cây ăn quả xung quanh trồng găng làm bờ rào tất cả toát lên ve phồn thực và viên mãn.
    Vợ con Thủ đang nấu cơm, thấy Hàm, đều chào lễ phép:
    - Bác sang chơi ạ
    Hàm chỉ khẽ ờ, rồi tập tễnh bước lên nhà trên. Dù là anh em ruột, Hàm cũng giữ lề luật không bao giờ vào nhà bếp. Không nói giỗ tết, ngay ngày thường anh em giúp nhau làm gì, đến bữa cũng chỉ có đàn ông ngồi với nhau ở nhà trên.
    - Bác ở đây chơi, em nấu cơm bác - Vợ Thủ người sồ sề, mặt rỗ hoa chứ không được mỏng mày hay hạt như bà Son, nhưng được cái sởi lởi, lên nhà mời.
    Ông Hàm xua tay:
    - Thôi tôi gặp chú ấy một tý, rồi về ngay có việc.
    Khác với ông Hàm, Thủ là người có mã, cao ráo trắng trẻo. Với bộ quần áo pi-gia-ma kẻ sọc như công chức. Thủ đang tưới cây ngoài vườn, đã bỏ ô- roa đi vào. Thấy Hàm đang giở ngày giở tối thế này, Thủ biết là có việc cần. Mặc dù là bí thư quyền hành cao nhất xã, lại được học hành khá chu đáo từ bé, chứ không bị thiệt thòi như hai ông anh là Hàm và Long. Ông Long bây giờ làm công nhân trên khu gang thép cũng chỉ học hành chữ tác chữ tộ; vì khi Hàm và Long vừa lớn thì gặp ngay cái đận ông Trịnh Bá Hoành bán cả ruộng vườn để lao vào cuộc đen đỏ tranh giành cái chức lý trưởng với Vũ Đình Đại. Thật là một phen liểng xiểng. Vài năm sau gia đình mới hồi lực, có bát ăn bát để thì vừa lúc Thủ tới tuổi cắp sách đến trường. Thế là Thủ cứ đường quang lối rộng mà tiến. Dầu vậy chưa bao giờ Thủ dám trái lời ông anh cả. Người trưởng họ có một thứ quyền lực riêng. Không chỉ là trong gia đình ngay công việc của Thủ, Hàm cũng giữ vai trò cố vấn đặc biệt. Hôm đại hội Đảng bộ, các chi họ hồi hộp đến thắt tim khi đến mục bầu Đảng ủy mới. Rất nhiều không có chức trách gì cũng thập thò lảng vảng đến săn tin. Phải bầu đến vòng ba, tối mịt mới xong. Thủ vừa về đến nhà đã thấy ông Hàm ngồi chờ.
    - Chú cao phiếu nhất phải không?
    Ông Hàm hỏi thế, tức là chúc mừng đấy, nhưng mặt vẫn lạnh như tiền.
    Ông nói tiếp:
    - Lại đúng dịp ông Đáng về hưu đợt này, vậy chú phải thay chân ông ấy giữ ngay lấy cái triện đỏ, tức rằng là phải làm bí thư. Chứ còn chủ tịch cũng chỉ là thứ triện xanh! Thằng Tùng nhà Sang cũng trúng hả? Chỉ cho nó chân chạy ngoài, hữu danh vô thực thôi!
    Lúc ấy Thủ đang đầy phấn chấn vì đắc cử, đến mức không còn thấy ai là đối kháng với mình, nên lòng dạ bỗng thành dễ dãi. Với lại Thủ vốn thuộc dạng người cải lương, dễ bằng lòng và dễ chấp nhận.
    - Thực ra thằng Tùng cũng được chứ không đến nỗi nào đâu. Nó còn chất lính bộc trực thẳng thắn, với công việc thi xốc vác
    Ông Hàm nghiêm ngay mặt, kịp thời nhắc nhở Thủ đang nói khôn nói dại những gì:
    - Được là được thế nào! Rau nào sâu ấy! Hãy giao cờ vào tay nó xem, gai ngạnh sẽ mọc ra ngay!
    Gáo nước lạnh của Hàm đã làm Thủ tỉnh cơn say, và Tùng đã được phê chuẩn làm xã đội trưởng ngày sau đấy, chứ không phải chờ đến tuần sau họp Đảng ủy mới phân công, để mỗi năm cho nó dẫn đám thanh niên ra đôi nằm chổng mông lên mà nheo mắt bóp cò khan vào mấy cái bia giấy!
    Hôm nay ông cố vấn sẽ chỉ thị gì đây! Thủ rửa chân tay đàng hoàng rồi mới vào nhà. Hàm hỏi ngay:
    - Chú định thế nào về cái việc ấy?
    Vừa hạ giọng vào chuyện, Hàm vừa thu hai bàn chân ngắn và to bè lên đi-văng. Thủ tráng ấm pha trà, cũng nói nhỏ để hai anh em vừa đủ nghe:
    - Em cũng chưa định. Theo bác nên thế nào?
    - Chả nhẽ chịu thua nó à?
    Hàm tự rót nước ra chiếc chén hạt mít, hỏi thủng thẳng. Đó là cách nói chuyện riêng với nhau của hai anh em nhà này. Họ thường nói nửa vời, mù mờ rời rạc như vậy. Nếu có ai nghe được cũng chịu chết không hiểu họ nói gì, ám chỉ ai. Nhưng với Thủ thì anh biết ngay cái việc ấy và nó ở đây là chỉ ông Phúc và cái việc kiện cáo của ông ta khiến xã phải chôn lại lão Quềnh. Phúc đã thắng 1 - 0! Cứ đà này Phúc còn dở dói những gì nữa?
    - Tôi đã nghĩ ra cách rồi - Hàm chiêu từng ngụm nước nhỏ như nhắp rượu, rồi vẫn với giọng nhát một, ông công bố kế hoạch phản công:
    - Lấy độc trị độc, mỡ nó rán nó! Lại dùng ngay cách lão Phúc đã bắt các chú chôn đi chôn lại lão Quềnh - Tức rằng là... đào mộ?
    Thủ quay sang sửng sốt. Bởi ở đây dạo đã lâu có hai nhà thù nhau, bên nhà yếu lực không đủ sức đánh lại đã dùng cách khủng khiếp này.
    Hàm vẫn thủng thẳng:
    - Có gì mà chú đã tái mào lên như thế! Nó muốn cưa đốt đục suốt, thì sẽ được người ta đục thẳng vào cây nóc nhà nó! Đây là dịp tốt để lấy âm trị dương. Phen này tôi sẽ yểm cho cả họ nhà nó không ngóc lên được! Đào lên, lấy ván, lật sấp bố nó xuống! Còn cỗ ván dổi tôi sẽ đóng một bộ sa-lông thật mốt, rồi tìm cách bán cho chính anh em họ hàng nhà nó!
    Thủ đã thấy ớn khắp người, ngập ngừng:
    - Nhưng mà...
    Hàm biết thóp ngay ông em chỉ được cái võ mồm, quen phòng xa giữ gìn, mà cũng là phòng cho mỗi cái thân hắn thôi! Hàm càng hạ giọng tới mức lào thào:
    - Ngày thầy mất, chú với chú Long còn chưa nghĩ được đến đầu đến đũa, nên thầy chỉ dặn riêng tôi...
    Rồi ông Hàm trang nghiêm kể với giọng rin rít về bức tranh thờ Hổ thần của nhà ông bị chọc mắt, bị bôi bẩn và những lời chỉ dẫn của ông bố trong quyển vở giấy giang về cách lấy âm trị dương thế nào, rồi để tránh phản hồi trở lại thì trước khi hạ cuốc phải đọc bài tạ thần ra sao. Thủ ngồi cứng người, tay cầm chén nước mà quên cả uống.
    - Có hai thời điểm để lấy âm trị dương - Hàm vẫn nói thầm thì - Lúc vừa chôn xong và lúc được ngày cải táng. Nhưng chờ đến cải táng thì lâu quá, với lại nghi thức lúc ấy rườm rà lắm, phải lấy đến bảy đốt xương mang ra sông tạ thần, rồi đóng bè chuối, đưa bảy đốt xương lên đó thả trôi sông. Mất đến cả đêm, dễ lộ. Cho nên thời điểm này là tốt nhất. Làm xong lại đắp điếm như cũ đố biết! Chú khỏi lo. Không ai bắt chú phải mó tay vào. Chỉ cần tôi với thằng ưởng, thằng Ngạc, tí nữa chú nhắn thằng Thó đến tôi là được. Trong việc này phải có một người ở ngoài họ mới đại an. Thì chọn thằng Thó là tốt nhất.
    Thủ càng bứt rứt không yên:
    - Liệu thằng Thó nó có chịu không? Hôm trước đám ông Quềnh, nghe nói nó đã mửa ra mật xanh mật vàng.
    Hàm vẫn cứng như thép:
    - Chú cứ nhắn nó đến gặp tôi. Tôi sẽ có cách dọa để nó phải nghe. Cái đêm lão Phúc cầu hồn cho bố, thằng Thó đã lỉnh vào bếp nẫng cả hủ rượu tăm ra đường uống, rồi say bò lê bắt sải ở vườn ổi nhà bà Đồ Ngật. Cái hũ ấy đang ở nhà tôi! Tôi chỉ dọa là lão Phúc nó sắp trả thù là thằng Thó sợ thọt dái lên cổ! Muốn an thân phải có chỗ dựa, thì hỏi còn dựa đâu vững bằng dựa vào ta!
    Thủ chỉ còn biết ngồi ngay tán tàn nghe ông anh giảng giải. Ông ấy suốt ngày đục đẽo ở nhà, mà sao chuyện gì cũng biết. Lại đưa được cả cái hũ; tang vật ăn vụng không biết chùi miệng của Thó vào tận nhà mình, thì thật là chịu ông anh ma xó! Thủ cũng muốn trừng phạt Phúc, cũng muốn cho Phúc xiêu điêu liểng xiểng, nhưng người ra tay phải là ai kia chứ không thể là mình. Mình chỉ đóng vai tọa sơn quan hổ đấu mới sướng! Bây giờ ông Hàm xin lĩnh trách nhiệm, thực ra cũng chưa phải là hay, giá là người không dây mơ rễ má gì với mình thì tốt, nhưng kiếm đâu ra. Thôi cũng dược, có gì Thủ cũng đủ lý là người tay trắng! Ông Hàm không cần biết những nghĩ ngợi vân vi trong óc Thủ, ông đứng dậy, coi như việc đã bàn xong, dặn thêm:
    - Chú nhắn ngay thằng Thó đến nhà tôi, làm như vẫn nhờ nó đi áp tải gỗ chứ mình lại đằng ấy không tiện. Để tối mai là làm luôn!
    Thủ chỉ còn biết nhắc lại như cái máy:
    - Ngay tối mai à?
    Hàm buông một câu lạnh gáy:
    - Cho nó đỡ nặng mùi!
    --------------------
  2. keodau

    keodau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/01/2008
    Bài viết:
    22
    Đã được thích:
    0
    Chương 5
    Nhận được lời nhắn, Thó sắng sẻ đến nhà ông Hàm ngay.
    Chắc ông lại nhờ đi áp tải gỗ ghiếc gì đây. Ông Hàm có cậu con trai thứ khỏe mạnh, không biết bằng cách nào mà chưa hết hạn nghĩa vụ đã ra quân, rồi nhảy tót đi lao động nước ngoài, thành thử bây giờ ở nhà còn rặt đàn bà con gái, nên ông vẫn hay nhờ Thó đi áp tải gỗ về đóng đồ. Tiếng là hay ma lem ma cuội, nhưng thực tình Thó chỉ thuổng những miếng chín, chén ngay; chứ làm ăn lớn thì Thó sợ. Với lại được người như ông Hàm tin, trước khi đi bao giờ cũng lót miệng vài choạc cho ấm bụng, khi về lại cùng ông cuộn chân ngồi xếp bằng trên chiếu hoa cơm rượu bí tỉ, thế là Thó khoái. Còn ông Hàm thì thật tinh đời, vì ngoài những miếng ăn ngay, ông không phải trả một đồng công nào.
    Thó đi tắt qua khu đầm nước cho nhanh. Đã tối sò sẫm. Xóm làng trở về tịch mịch. Một con bò gọi con, tiếng âm ồ của nó vang trong bóng chiều chạng vạng. Con bê be lên nũng nịu, rồi tế chạy, nện móng lốc cốc ròn rã trên những viên gạch vồ như ném một tràng mưa đá. Bầy liếu điếu giật mình, kêu thé lên trong bụi tre. ở dưới ấy, chân các rặng tre, một dải sương mờ mờ như đùn từ dưới đất lên, bay là là phập phồng như giăng một tấm to xanh biếc. Tiếng cuốc kêu luốc cuốc cu loa trầm đục như thấn ướt hơi sương trong ấy. Khói bếp thở trầm ngâm trên mái rạ. Giờ này là giờ nghỉ ngơi, giờ sum họp. Dù sung sướng hay đau khổ thì giờ này người ta cũng rút về hang ổ cuối cùng của mình là những mái nhà. Dù ít dù nhiều, ngay người giàu nơi thôn dã cũng chỉ ngày cơm hai bữa, và kẻ khó cũng cứ đỏ lửa hai lần. Nơi đây từ bao đời nay cái ăn cái uống gần như chỉ là chuyện phụ. Người ta có thể nhịn ăn nhịn mặc để xây một căn nhà gạch, sắm một cái xe, có khi cả xe máy; mua đài, mua cát- sét rồi mở om tỏi suốt ngày để được,mở mày mở mặt với xóm làng. Nơi vùng quê bề ngoài rất yên tĩnh này, vừa có những người ngơ ngác dại khờ, những người thật thà như đếm nhưng cũng lại lắm những kẻ đủ mưu ma chước quỷ, không mấy lúc ngồi yên, và cũng không để cho người khác ngồi yên. Cũng có đủ cách bon chen để giành một cái ghế ngồi không to hơn cái vảy ốc, chen một chỗ đứng không caữ hơn cái đế dép thường ngày. Cũng có đủ những thì thầm thì thụt, cũng xúi bẩy, kích động, cũng ném đá dấu tay, cũng cười bả lả chạm cốc nhau lanh canh trong những bữa tiệc đồng chí, nhưng trong bụng lại thầm rủa sau bữa rượu này mày sa chân lỡ bước chết dấp đi cho rảnh! Mặt ao làng tím thẫm những hoa bèo giờ đây không còn bình lặng nữa. Những sóng cồn của biển rộng sông dài đã vang động đã lôi kéo khuấy sục lên, khiến những mảnh ao cung đủ gan tùng những cơn sóng buồn tanh tưởi!
    Tiếng con cuốc kêu khắc khoải bên bờ đầm. Nó gọi gì? Gọi ********, hay gọi cái chết?
    Thó bước cắm cúi cũng như một con cuốc. Thấy nhà trên ông Hàm ìấp lóa ánh đèn, Thó đi thẳng vào.
    Nhà ông Hàm đang chuẩn bị ăn cơm tối. Tiếng mâm bát lanh canh dưới nhà bếp. Tiếng hai chị em nhí nhắn. Vợ chồng ông Hàm đang ở nhà trên. Nghe tiếng Đào, cô con gái lớn chào Thó ngoài sân, ông Hàm tập tễnh đi ra niềm nở, đúng là ông đang nóng lòng chờ.
    - Vào đây chú. Có việc cần đến chú đây. Nhưng ta hãy làm vài chén cho ấm bụng đã - Rồi ông Hàm quay sang bà vợ dang gấp quần áo trên chiếc giường Đức nâu bóng:
    - Bà xuống rang cho tôi đĩa lạc.
    Bà Hàm vặn to ngọn đèn ba dây treo giữa nhà, rồi thu vội đống quần áo, con cón đi xuống bếp. Đã ngoài năm mươi đến dăm cái lẻ, nhưng bà vẫn giữ được dáng người gọn gàng cân đối. Tóc vẫn dày, nước da vẫn trắng. Khuôn mặt trái xoan được điểm thêm cặp mắt lá răm và cái miệng tươi, khi cười còn trẻ lắm Dân làng bảo bà là người có số sướng, đã được cái sắc trời phú, lại từ bé đến giờ chưa đến cái đói rách là gì, nên cái duyên càng bền. Bà sẽ đẹp đến già, đẹp đến chết!
    Ông Hàm mở tủ buýp-phê, bê ra một cái hũ da lươn đặt giữa bàn. Thó bỗng giật thót người. Chính cái hũ nhà ông Phúc mà Thó đã khoắng đêm hôm trước!
    - Chắc chú đã nhận ra cái hũ này - ông Hàm vừa róc rượu ra hai chén vại, vừa khề khà - Nhưng tôi đưa được về đến đây là đã cứu sống chú rồi. Hôm kia lão Phúc có đánh tiếng là đã biết việc làm của chú, lại biết cả cái hũ đang ở đây, nhưng đố dám hoạnh họe với tôi.
    Rồi ông Hàm vươn người trên mặt bàn, nhìn sát vào bộ mặt thờ thẫn với cái cằm vốn đã nhọn của Thó, giờ cái đói càng vót cho nhọn hoắt như bút chì, ông Hàm thì thầm nhỏ tới mức Thó phải dỏng tai, nhăn trán lại mà nghe. Vừa lúc bà Hàm xuýt xoa với đùm lạc nóng trong tay đi lênl ông Hàm quay lại, nói phắt sang chuyện khác:
    - Mẹ nó đong cho chú Thó vay nồi thóc, dồn vào bao tải để chú vác cho tiện.
    Bà Hàm bày lạc ra chiếc đĩa sứ hoa. Bà biết hai người đang có câu chuyện gì hệ trọng lắm, và ông không muốn cho bà biết. Nếp quen nhà này là ông Hàm đã không nói thì không ai được hỏi. Hôm nay đích thị không phải chuyện thóc lúa gỗ lạt gì. Bà Hàm ân cần hỏi Thó:
    - Nghe nói chú cũng bán lúa non à? Bao nhiêu một tạ?
    Thó đang sững cả người. Đang nói chuyện đi quật mộ ông bố Phúc, Thó nghe khiếp quá, vậy mà ngoắc một cái, ông Hàm lại sai vợ đi lấy thóc cho vay. Một nồi chóe, đó là cách gọi cổ truyền ở đây, là chừng ba mươi cân, đến mùa mới trả không lấy lãi, lòng tốt ấy bây giờ đến bói không ra. Thó nhìn khuôn mặt đầy đặn hồng lên dưới ánh đèn của bà Hàm, kể lể ca cẩm:
    - Em phải bán non hai tạ cho nhà ông Quàng đấy bá ạ. Giá có mười hai. Mấy nhà có tiền định giá như thế, chứ thóc bây giờ bỏ rẻ cũng phải năm mươi ngàn một tạ. Lượt chợ nữa mới được gặt, đập xong rồi cho bá lấy thóc tươi luôn chứ không cần chờ khô. Dắng là sợ nhà em ăn quịt.
    Bà Hàm khẽ cười, đưa mắt nhanh sang nhìn ông. Thì nhà bà cũng mua lúa non với cái giá ấy! Chẳng ai bắt, nhưng những nhà thiếu ăn đều phải bán mười hai ngàn một tạ lúa chưa gặt ở ngoài đồng. Không biết nhờ ai mối lái, mà ông Hàm còn móc nối được với ông thợ may và ông hàng phở trên phố nhận mua thóc với giá hai mươi. Tiền đã trao cho ông Hàm từ tuần trước, còn thóc thì đến gặt chiêm mới lấy.
    Vậy là mỗi tạ ông Hàm ngồi không đã được lãi tám ngàn. Về mặt tính toán sít sao ở nhà này thì bà còn phải chịu ông. Nên cái việc cho Thó vay nồi thóc không lấy lãi, bà biết chắc là ông không hớ. Thả con săn sắt bắt con cá rô, ông không được lãi thóc thì cũng phải lãi cái khác.
    Bà Hàm bảo Thó:
    - Người ta đòi thóc tươi, tức là muốn nắm đằng chuôi đấy chú ạ.
    Ông Hàm chép miệng:
    - Thôi được, chú cứ trả cho sòng phẳng, rồi có thiếu lại sang đây - Đoạn ông quay sang vợ - Mấy mẹ con cứ ăn cơm trước đi, rồi rán thêm mấy quả trứng để tôi với chú ăn sau.
    Bà Hàm vừa đi xuống, ông Hàm lại thì thào:
    - Phải từ mười giờ đêm trở đi, lúc ấy thì tất cả đã ngủ kỹ rồi. Tôi, chú, thằng ưởng, thằng Ngạo, thế là đủ. Rồi bốn người vác bốn tấm ván về đây, thế là xong! Chú không lo, đào tới rồi tôi sẽ vẩy cả hũ rượu này xuống đó để tẩy mùi. Làm xong lại rửa tay bằng rượu, tha hồ sạch!
    Thó cũng vươn cổ trên mặt bàn, như mổ cái mũi nhọn vào mặt ông Hàm. Đã có mấy chén rượu cất nước đầu trợ sức, vậy mà giọng Thó vẫn run:
    - Bác dã gọi thì em cũng xin hết lòng, nhưng vía em nó yếu lắm. Em chỉ lo rồi thì...
    Ông Hàm xua tay:
    - Rồi thì ma nó vật chú chứ gì? Đừng lo, đã có tôi. Tôi có bài khấn để yểm rồi. Với lại đây là chuyện dòng họ nhà tôi với dòng họ nhà Phúc, chứ chú không có dính gì. Còn dòng họ nhà tôi thì chú biết rồi chứ? Tôi treo bục tranh kia không phải là treo làm cảnh, mà đấy là tranh thờ. Chính Ngài đã giữ phần âm cho chúng tôi, hùng mạnh và an toàn lắm.
    Vừa nói, ông Hàm vừa trỏ lên bàn thờ. Trên ấy đằng sau cái lư hương đồng là bức truyền thần họa một ông ba mươi trên tấm vải dệt bằng những sợi gai ở tư thế chồm lên. Những răng lợi móng vuốt giương ra trông đằng đằng lẫm liệt. Nghe nói đời kỵ nhà ông Hàm, tức là ông cụ tổ đã cách đây bốn đời của dòng họ Trịnh Bá đã giáp mặt một đấng trượng phu hồ vằn chân thọt trong tư thế phanh thân xé xác ấy! Phúc ân chi sớ họa, trong họa có phúc. Có thể tin được chăng? ông ba mươi kia chính là thần sát sinh, rồi sau lại trở thành thần phù trợ, thần cứu thế của dòng họ Trịnh Bá. Chuyện rằng:
    Đời kỵ nhà ông Hàm đến sinh cơ lập nghiệp ở đây nghèo lắm. Cả nhà sống dựa vào cái tài kiếm cá của ông. Thuở ấy đồi ông Bụt còn là khu rừng già đầy bí hiểm. Chưa nói chuyện ma hiện hình, người thấy người không, riêng thú dữ thời ấy thì ai cũng gặp. Hổ báo, hươu nai, vượn trắng ngồi bế con trên cành trông khéo như người. Trăn gió quăng mình từ cây nọ sang cây kia ầm ầm như một cơn lốc.
    Trong sách Dư địa chí của cụ Nguyễn Trãi khi nói về huyện này có câu: Huyện... có trăn, chim trĩ và vượn trắng. Có phải cụ Nguyễn đã viết chính về sản vật ở núi ông Bụt này? Ban đêm tiếng hươu tác rầm rì, hổ đuổi, hươu lao cả vào nhà người đang ở là chuyện thường. Con suối cạn dưới chân đồi ông Bụt bây giờ, thuở ấy rộng như một nhánh sông, quanh năm đầy nước, tôm cá đánh dễ như ao nhà. Ông kỵ của chi họ Trịnh Bá lúc ấy sống nhờ vào con suối này. Chỉ với cái đó đón ở hồ nước xiết, vậy mà sáng nào là vợ cũng có cá bán. Thế rồi liền trong mấy hôm, đó của ông bị xé rách, cá mất. ông đoán với cách ăn trộm vụng kiểu này chỉ là một chú rái cá hay một con vòi gà nào đó chứ không phải người. Vì suối toàn là đá nên con thú ăn vụng không để lại một dấu chân. Một hôm ông đi thăm đó sớm hơn thường lệ để rình, thì lạy trời! Kẻ ăn trộm cá của ông là một bác hổ vằn không biết đi đứng hấp hoảng thế nào bị đá kẹp một bên chân hậu, chặt tới mức khỏe như hổ mà mà cứ chịu đứng ngay đơ, không tài nào rút chân lên được. Trước mặt ông mãnh là cái đó đã cào rách, nhưng hình như đau quá, nên cá vẫn quẫy phanh phách trong đó mà hổ ta bỏ mặc, không ăn. Thấy người ehủ của đó cá, hổ ta nhìn bằng con mắt cầu cứu và hối hận vô cùng. ông kỵ của chi họ Trịnh Bá liền chắp hai tay trước ngực, nói như khấn:
    - Lạy thần núi Bụt, lạy chúa sơn lâm, tôi xin cứu ông được tai qua nạn khỏi, chỉ mong từ giờ trở đi ông đừng lấy cá của tôi, cả vợ chồng con cái tôi sống nhờ vào cái đó này.
    Rồi ông lấy đòn bẩy đá. Hồ bị giập một bên chân, tập tễnh nhảy lên núi Bụt. Từ đấy ông không bị mất cá, mà còn được thêm phần. Hôm thì một con cá quả bằng bụng chân chửa, hôm thì một con cầy hương còn tươi rói để ngay trên bờ, cạnh đó cá. Hổ đền ơn đấy. Thế rồi một đêm mưa gió, sấm chớp ầm ầm, ông sợ đó bị trôi, liên đội nón, khoác áo tơi ra đi. Chính bộ tơi nón lòe xòe ấy đã dẫn đến sự nhầm lẫn chết người. Giữa lúc ông đang lúi húi bốc đá chắn cơn đập để dòng nước chạy thẳng vào đó, thì hổ vằn cầm một con cheo cheo đến tạ ơn như thường nhật. Thấy có người, hổ dừng lại. Nhìn bộ tơi áo tùm hụp với dáng điệu lom khom lục sục đầy vẻ vụng trộm; tin chắc đấy là một kẻ gian đang ăn hớt tay trên. Thế là để bảo vệ nguồn sống cho người đã cứu mình, không một hai suy tính, ngay tắp lự, hố vằn nhảy chồm lên cái bóng tơi nón ấy! Đến khi lật cái xác tơi tả, nhìn mặt, ông ba mươi bỗng lăn lộn, đập đầu vào đá, rống lên gào thét về sự nhầm lẫn không sao cứu vãn được của mình. Thế rồi hổ cõng xác con người xấu số đến một gốc cây gạo, dùng móng vuốt cào đất thành hố, đặt xác ông đơm cá xuống đó. Sáng hôm sau mối đùn lên thành một nấm mộ, vuông vức như đắp. Dạo ấy có một người thợ săn được chứng kiến, liền ba ngày sau đó, cứ đến nửa đêm hổ thọt lại cầm một con cá đến trước mộ, rồi đập đuôi bình bịch xuống đất, dựng đứng người đi bằng hai chân sau đến phía đầu mộ, miệng tru lên thống thiết về lỗi ìâm của mình. Gào thét đến xé họng một hồi, rồi hổ ta cúi đầu tập tễnh bước đi rũ rượi đến chán ngán cả chính mình. Ngồi bên này, người thợ săn tắt đèn ló, buông khẩu súng hai nòng, rồi bỏ con mồi như bỏ cục vàng đã nắm trong tầm tay. ông cũng thừ người ra trước nỗi lòng của anh thú dữ tưởng chỉ biết có cắn xé! Chi họ Trịnh Bá làm lăn phất lên như diều từ đấy.
    Theo lời thầy tướng, đó là sự đền bù, sự phù trừ của Hổ thần. Chi họ Trình Bá thờ loài thú dữ nhất nhì của sơn lâm từ đấy.
    Đến đời bố ông Hàm đã làm được nhà gỗ, mua được ruộng thượng đẳng điền. Trong chuồng rậm rịch lợn đàn, trâu nái. Thế rồi tất cả lại gần như về số không khi có cuộc tranh đua ném tiền ra mua cái chức lý trưởng. Đâm lao theo lao, lợn sề trâu nái, ruộng sâu giữa đồng cứ lần lượt chống gậy ra đi, mà cái chức lý trưởng lại về tay Vũ Đình Đại. Lúc ấy ông Hàm chưa học hết Tam tự kinh đã phải bỏ đi cầm tràng đục kiếm ăn. Nhà chỉ còn cái vỏ. Bố ông Hàm - Trịnh Bá Hoành lại cày sâu cuốc bẫm để dựng lại cơ đồ. Miếng ăn giữa làng hơn sàng xó bếp. Những lúc rượu vào, ông trừng trừng cặp mắt vằn những tia đỏ, miệng lẩm bẩm: Ta không có vòng bạc, xà tích, không đủ bạc trắng để chạy nên thua. Rồi ông rít lên, nhưng tao chưa chịu đâu? Chưa chịu đâu!
    Cũng may thời thế chuyển vần. Lý trưởng Vũ Đình Đại chưa kịp ăn lộc thì cách mạng đã đến. Gió nổi can qua, Vũ Đình Đại bán vội con ngựa vừa mua, mới nhoong nhoong được dăm lần lên phủ, chưa kịp ngấm cái sướng của anh đầu gà hơn đít voi, thì đã bán ngựa tậu trâu để trở lại làm anh dân thường. Trịnh Bá Hoành mổ chó ăn mừng!
    Ngày ấy Hàm chưa đủ tuổi, đủ trí để cảm hết được cái cay, cái uất của cha, nên cũng không để tâm đến sự tranh giành giữa hai họ. Nhưng vài năm sau đến tuổi lấy vợ, thì mối hận của người bố đã trở lại nguyên vẹn trong lòng Hàm, mà còn sôi sục hơn! ấy là chuyện về cô Son, vợ Hàm.
    Hồi ấy cô Son đẹp nhất làng. Mặt hoa da phấn, thắt đáy lưng ong. Đi một bước là có người theo, người ghẹo một bước.
    Nhưng chưa có anh nào lọt được vào cặp mắt lá răm vừa đen vừa sắc của cô. Thế rồi bỗng dưng cả làng Giếng Chùa đồn ầm lên là Son phải lòng cậu giáo Phúc, con ông lý Đại (người ta vẫn quen mồm gọi Đại như thế). Phúc lúc ấy đã học hết sơ học yếu lược, nhận một chân gõ đầu trẻ ở trường tư thục trên phố huyện. Phúc đã một vợ một con, nhưng vẫn phong tình lắm. Vợ Phúc răng đen hạt na, tóc vấn trần, người vừa gầy vừa khô. Khô chân gân nhặt, đắt tiền cũng mua! Nhưng đây là bố mẹ Phúc mua, chứ Phúc không thích. Được cái chị làm ăn giỏi và chịu nhịn. Từ nhỏ vợ Phúc đã được bố đẻ răn dạy phận nhi nữ là Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Nên chị nghĩ đàn bà như dây leo dây cuốn. Nhỏ ở nhà nghe bố, lớn lấy chồng nghe chồng theo chồng, chồng chết theo con. Ai thế nào số trời đã định. Vì thế nghe người ta đồn chồng chị mua khăn mùi xoa, mua lược sửng có cán, mua gương có hình cô đầm để tặng Son. Chị ức, nhưng sợ chồng nên lại cười bảo, trò đời đàn ông như cái nơm, chòm chóp úp cầu may cũng như thả những lời trăng hoa ỡm ờ, nhưng đâu phải cứ úp là được cá, đâu phải cứ ghẹo là gái theo!
    Rồi người ta lại kháo nhau là ở bờ tường ngoài điếm canh có cái bài ca dao ca thớt thế này:
    Chiều tà dao ná bờ sông
    Thấy cái nón trắng thà không thấy người
    Ngỡ là có đám chết trôi
    Hóa ra trong bụi một đôi tinh tình!
    Tính tình là tính tình tinh
    Chị Son anh Phúc tính tình bên sông!
    Người làm vè còn chỉ rõ nơi tính tình của ổ con chuồn chuồn là ở chỗ quẹo suối ông Bụt chảy qua sông Cầu. Không biết ban đêm vợ Phúc có cào cấu ******** làm tội Phúc không, chứ bề ngoài chị chỉ buông một câu: Rõ đồ quạ mổ! Không nhịn được nữa hay sao mà đâm đầu đi theo người đã có vợ, cho nó chết!
  3. keodau

    keodau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/01/2008
    Bài viết:
    22
    Đã được thích:
    0
    Nhưng cô Son không chết! Son vẫn lấy chồng có thách có treo phân miệng tử tế. Hôm cưới cả làng Giếng Chùa được ăn cỗ nhờn môi. Son lấy anh Hàm, người không được hào hoa phong nhã như cậu giáo Phúc. Hàm lại đi tập tễnh, nhưng nhiều hoa tay, làm cái gì cũng khéo. Hàm đã mê Son từ lâu Son gặp nhiều khi Hàm đón đường chỉ để hỏi một câu giở trăng giở đèn vì hai con mắt cứ nhìn Son đờ đẫn như người say thuốc thì Son biết, nhưng cô dửng dưng tảng lờ.
    Son còn không biết là Hàm đã lén ra tận bờ sông, chỗ vai cày của suối ông Bụt tiếp giáp với sông Cầu như bài ca dao đã chỉ dẫn, để xem binh tình hư thực thế nào. Thì Hàm thấy một đệm lá ở dưới gốc cây bạc thau rùm ròa như một cái ô che cho hai kẻ đi ăn vụng. Hàm đã ngồi xuống đấy ức đến phát khóc. Nhưng Hàm vẫn không bỏ ý định lấy Son làm vợ. Nghe dân làng đàm tiếu về con gái mình, bố mẹ Son vừa mắng mỏ chì chiết, vừa canh chừng riết róng, cứ phấp phỏng như giấu trong nhà một thùng thuốc súng. Nhằm trúng thời cơ ấy, Hàm giục gia đình đến hỏi Son, và cuộc gả bán được ngã ngũ thật chóng vánh.
    Ngày cưới, cỗ bàn bày dàn dạt từ trong nhà ra tít ngoài sân. Người ăn hết lớp này đến lớp khác, rào rào từ sáng đến chiều tà như tằm ăn rỗi. Trước giờ thành nhân của đôi trẻ, ông Trịnh Bá Hoành khăn áo chỉnh tề, thắp ba nén hương trước bàn thờ. Ông đứng trước. Vợ chồng Hàm đứng sau. Ông sịt soạt khấn lầm rầm. Đó là lễ giới thiệu đôi vợ chồng trẻ với gia tiên, giới thiệu một người khác họ về nhập tịch làm dâu con chi họ Trình Bá. Vợ chồng Hàm quỳ lạy rồi lui. Một bà bác cao tuổi nhất họ đã chờ sẵn. Bà là người được tiếng mát vía về đường con cái, từng sòn sòn ba năm đôi. Bà eắp chiếc chiếu mới xuống gian buồng dưới nhà ngang. Căn nhà này chỉ để cối xay, cối giã và đồ lề của Hàm, bây giờ dành riêng cho vợ chồng Hàm. Bà phẩy giường, giũ chiếu, rồi trải ra lấy khước, đoạn quay lại dắt tay đôi vợ chồng trẻ ngượng ngập líu rfu bước vào nơi bí ẩn của cõi đời, nơi hứa hẹn những đam mê và cũng lắm lắm cái đau khổ của kiếp người! Mà đau khổ thật! Hàm thấy ngay mình là kẻ chậm chân!
    Cái trái cấm kia đã có kẻ bóc trước!
    Hàm vặn to đèn con, rồi kéo miếng vải xô lót dưới giường lên, vứt trước mặt Son. Miếng vải còn trắng tinh, không một dấu vết của sự trinh tiết. Và cuộc hỏi cung bắt đầu.
    Son cuốn chăn quanh người, ngồi co vào góc giường, nước mắt chảy ngoằn ngoèo trên má, trên cằm, khiến cho khuôn mặt đẹp mang hình một tấm gương vỡ. Cô khóc lặng lẽ, không bật ra tiếng, không nói một lời, như thể người câm. Hàm cứ bặm môi tra hỏi, như thể đối đáp một mình. Nỗi ghen tức thấy mình bị Son coi rẻ vẫn âm ỉ lâu nay, giờ càng bùng lên như lửa bắt dầu. Những tiếng đồn đại, những câu ca tinh quái móc máy về Son và cái kẻ ấy, lại thức dậy sôi réo trong người Hàm. Hàm hỏi dồn dập, tiếng cứ líu lại vì uất hận: Cô nằm với nó mấy lần? Hả, hả? Nằm ở chỗ nào? Hả, hả? Có đúng quãng vai cày ở suối ông Bụt không? Hả, hả? Son vẫn lặng thinh. Hàm nổi cơn lôi đình, giật tung chiếc chăn trên người Son. Cả cái khỏi ngọc ngà như trứng bóc, như đá tạc trắng lóa dưới ánh đèn. Nhưng Hàm chỉ thấy mình bị khinh khi, bị thua thiệt, bị là người đi sau đổ vỏ cho kẻ ăn ốc! Cả cái khối nõn nà ấy đã dâng hiến, đã run rẩy mê cuồng trong vòng tay của kẻ thập thành quen phỗng tay trên! Và anh thợ mộc đã nổi cơn điên, ứng xử theo đúng nghề nghiệp; Hàm rút phất tay thước quất hai cái như trời giáng xuống cặp đùi tròn mịn như bột lọc, và tiếng Hàm rít trong họng phả hơi rượu vào mặt Son: Nhìn đường gân ở bụng dưới của mày là tao đã biết? Ngày mai tao sẽ trả cho bố ******? Đến nước ấy thì Son chồm dậy. Mái tóc dài đen mun phủ dọc tấm thân tràn. Son gạt nước mắt, giọng khô lạnh rắn
    - Anh im lặng thì tôi nguyện làm con hầu con hạ cho anh suốt đời. Tôi cắn răng là vì thầy u tôi, chứ không bao giờ tôi yêu anh? Còn nếu anh chỉ cần hé răng với ai việc này, tôi sẽ đâm đầu xuống sông tự vẫn. Rồi tôi sẽ báo oán, sẽ vật anh chết theo!
    Hàm buông rời tay thước, đứng như trồng. Rồi bất thần như một kẻ chiếm đoạt man rợ, Hàm nhảy choàng tới nằm phủ lên người Son như phủ một con mồi. Tình yêu của kẻ ghen tột cùng đến thành rồ dại, bỗng chốc biến Hàm thành một tên có máu sa-đích. Đêm động phòng có mùi vị địa ngục ấy đã gần bốn mươi năm nay. Những gì diễn ra đêm ấy chỉ có vợ chồng Hàm và bốn bức tường biết. Sáng hôm sau bà bác mát vía dẫn đầu nhà trai đi lại mặt; người ta chỉ thấy anh Hàm bước tập tễnh vui vẻ như nhún nhảy, còn Son hai má vẫn đỏ au, đôi mắt nhung nhìn rất đằm như e lệ. Son cố đi tự nhiên, cố giấu hai con trạch vẫn lằn đỏ, bỏng rát, vắt cho trên đùi non. Câu chuyện trong đêm hai người chôn chặt vào nơi u tối của lòng mình, như cùng giữ lời nguyền sống để dạ, chết mang đi.
    Bây giờ những chuyện xưa lại sống dậy trong ông Hàm. Như lửa vẫn ủ kín trong trấu, im lìm không một sợi khói, cứ tưởng đã tắt, nhưng không! Gió đã thổi cho than ủ bùng lên thành lửa rồi! Ông Hàm thấy đây là thời cơ tốt nhất để ông ra tay theo cách riêng của ông. Chỉ ra tay một lần mà đối phương phải lụi tàn tử gốc đến ngọn!
    Đêm.
    Bầu trời bùng bìu vá víu trong những đám mây lờm xờm tựa một tấm da thú nham nhở. Hôm nay là ngày cùng tháng kiệt, trăng bỏ trốn, chỉ còn những vì sao yếu ớt bị nuốt trong mây xám. Đêm càng mung lung, vừa bí hiểm, vừa bồi hồi vẫy gọi. Đêm chở che và đêm đồng lõa!
    Đào đang chạy trong đêm đến chỗ hẹn.
    Với Đào, một cô gái hai mươi tuổi, đang được tiếng là xinh đẹp nhất nhì trong xóm Giếng Chùa này, lại là người mau mắn cả mồm miệng lẫn chân tay; lại là cháu bí thư Đảng ủy, lại là con ông Hàm, người giàu có tiếng, chỉ quanh năm ngồi nhà mà hái ra tiền, nên đi đến đâu Đào cũng được mời chào, được nhận những ánh mắt vuốt ve.
    Với Đào, không có sự đe dọa nào, kể cả bóng đêm. Bóng đêm là tấm màn nhung xanh mượt che chở cho Đào. Mà điểm hẹn đâu phải nơi xa lạ bí hiểm gì. Là gốc nhãn rùm ra như một cái dù xanh trên con đường xép nối giữa xóm Giếng Chùa với xóm Mới. Vì là xóm lập sau khi dân cư quá đông, nên mới gọi nôm na như vậy. Trên giấy tờ văn bản, người ta gọi là xóm Đại Thắng, nhưng xem ra dân lại không thích cái tên mĩ miễu ấy Con đường xép chạy giữa cánh đồng nối liền hai làng này mới có từ khi hợp nhất hợp tác xã toàn xã, nghĩa là mới có gần mười năm nay. Những cây xoan, cây nhãn, bạch đàn trồng đã cao quá đầu người. Ban ngày chỉ có người làm đồng ngồi trú mát khi nắng, chứ trai gái có cho ăn kẹo cũng không dám đứng ở giữa nơi đồng trống tô hô này mà liếc nhau đầu mày cuối mắt! Tình yêu nơi thôn dã vẫn có thói quen thầm lén. Yêu thầm lén, và lấy nhau xong rồi cũng vẫn thầm lén. Sự say mê của những cặp vợ chồng được gói trong những căn buồng tối mò mò, đếm mức dù có mở thao láo mắt ra cũng bằng thừa! Thành thứ bóng đêm bao giờ cũng là bạn đồng hành của tình yêu.
    Bóng đêm đang che chở và khuyến khích Đào. Đào đang chạy gần đến gốc nhãn, chạy đến nơi say mê của lòng mình. Chập tối nay, lúc Đào đang nấu cơm, thì bỗng nghe tiếng Tùng chào ông Hàm rất to ngoài cổng:
    - Bác tưới cây ạ? Bác Thủ có đây không ạ?
    Ông Hàm vẫn tưới ròe ròe vào mấy gốc táo Thiện phiến, nói nho nhỏ gì đó, trong khi Tùng vẫn oang oang như muốn thông báo cho cả làng biết:
    - Vâng, cháu mới đi mua sắn về. Lên Võ Nhai sắn nhỏ và đắt, thế là phải ngược tận Định Hóa, Bạch Thông. Cháu đi tìm bác Thủ để cùng bảo quản trị lên phương án chia cho xã viên.
    Đào bỏ cả nồi cơm đang ghế chạy ra sân, và bốn con mắt tinh quái đã loáng bắt vào nhau như điện. Tùng chỉ muốn gào lên: Đào! Anh đã về! Đào đọc được tiếng gọi đó và ánh mắt Đào cũng reo lên trả lời: Thôi biết rồi, đi đi ông nỡm! Lộ hết bây giờ! Tối gặp nhau ở gốc nhãn!.
    Thế là bản thông báo quan trọng của hai người đã xong. Cái cớ đi tìm bí thư Đảng ủy của Tùng đã đạt kết quả mĩ mãn, và vẫn kín mít, đến mức tinh khôn như ông Hàm mà cũng chịu cứng. Thế mới biết tình yêu mà đã thông đồng thì chúng có trăm phương nghìn kế, trời cũng bó tay! Mặc cho ông Hàm lử khừ nói nhát một, Tùng cứ hào hứng kể chuyện giá sắn, giá ngô trên mạn ngược thế nào, rồi chào ông Hàm rất ngọt ngào lễ phép trước khi đi như bay về nhà.
    Đào nấu cơm mà hồn vía như bay đi đâu mất. Tay đang cầm đũa cả, mà mắt cứ nhớn nhác đi tìm đũa ghế cơm. Đáng nhẽ tra mì chính vào canh, thì lại cứ tống mãi muối trắng vào! ấy là óc Đào đang nghĩ làm cách nào để tý nứa đi vắng có lý do. Không họp hành mà đi nửa đêm mới về là không xong với cụ via! Và nếu cụ biết lại đi với Tùng thì Đào đến gọt đâu bôi vôi! Không biết hai họ nhà này có điều gì mà cú nhau đến thế! Đào không biết những chuyện sâu xa, cô chỉ nghĩ là Tùng trêu tức vào ông via cái hôm Tùng mới ở bộ đội về. Ngày ấy cách đây đã hơn một năm, Tùng hết hạn nghĩa vụ trở về. Sau mươi hôm thu xếp việc nhà, anh đi tìm Thủ để nộp giấy sinh hoạt Đảng. Lúe ấy Thủ đang ở bên nhà ông Hàm.
    - Đồng chí nhận một công tác gì để xây dựng quê hương chứ? - Thủ xem xong giấy giới thiệu, ngửng lên hỏi Tùng.
    Vừa lúc ấy Đào ở trên phố huyện về. Quần bò, áo phông, lại thêm dáng người ong óng giống mẹ, trông cô tươi bưởi như vừa ở đám hội bước ra. Vốn là học sinh trung cấp nông nghiệp của tỉnh, xã định đào tạo để rồi về làm kỹ thuật viên cho hợp tác. Nhưng mới học được một năm thì trường giải thể vì khó khăn về cơ sở vật chất, đông thời bây giờ người ta không mở hệ trung cấp nữa. Về nhà, nhưng Đào vẫn có tác phong của một nữ sinh. Nghe tiếng chào, Tùng quay khẽ gật, và rõ ràng anh bị sửng sốt về vẻ đẹp khoẻ mạnh, mới mẻ của cô gái, nhưng Tùng vội quay lại phía Thủ, nói rành rọt:
    - Báo cáo đồng chí bí thư, cho tôi nghỉ dăm sáu tháng nữa để tôi kiến thiết nhà cửa.
    Lúc ấy Thủ mới là phó bí thư thường trực, nhưng ông Đáng hen suyễn đã gần như giao hết quyền cho Thủ, chắc Tùng đã quen biết, nên cứ một hai gọi Thủ là bí thư. Hắn tôn trọng thật, hay hắn móc máy đây?
    - Mới có vài năm, mà xóm làng đã ngói hóa đỏ cả - Tùng tiếp lời: Nhưng mà tôi thì vẫn nhà tranh vách đất. An cư mới lạc nghiệp. Không có cái nhà hẳn hoi, mưa gió không yên, mà bà con dân làng cũng khinh cho!
    Lúc ấy ông Hàm mới quay sang bắt chuyện, nhưng mặt vẫn lạnh khô:
    - Nghe nói anh đang đốt gạch, anh định làm mái bằng hay mái chảy?
    - Dạ trước mắt cháu làm nhà bếp và nhà ngang mái chảy, còn nhà trên hãy thư thư rồi cũng phải cố theo gương các bác! Rồi Tùng hỏi ông Hàm về công xá của phần mộc. Cũng nói vanh vách những thượng thu hạ thách, những kèo kìm chống chéo để bớt được trụ ra sao. Và anh đã mặc cả công thợ nếu khoán trắng thì thế này, nếu chủ nhà phải chi một bữa ăn trưa trong một thời gian thợ làm thì sẽ còn lại là...
    Ông Hàm gật gù:
    - Nghe anh nói tôi thấy anh cũng thạo việc đấy. Thế mấy năm ở bộ đội anh làm gì?
    - Dạ, cháu ở bộ binh. Nhưng đến hơn năm nay đơn vị cháu đi làm kinh tế. Cháu có thẻ ra quân từ năm kia, nhưng cháu xin được ở lại để chuyển Đảng chính thức cho xong, kẻo về địa phương lại rắc rối! Với lại ở đấy học thêm được mấy nghề để về có vốn liếng sinh sống.
    - Sao đồng chí lại nghĩ chưa chuyển Đảng chính thức thì về địa phương sẽ rắc rối? - Thủ hỏi đã có ý bực.
    Nhưng Tùng vẫn cười cười. Cái cười của hắn như chọc vào người nghe! Với hai anh em ông Hàm, Tùng có cách xưng hô rất phân biệt. Với ông Hàm thì bác, cháu. Còn với Thủ thì cứ đồng chí và tôi. Đào dọn dẹp quát sân bên ngoài, cứ tủm cười. Nghe nói lão này mới ngót ba mươi tuổi, nhưng nói năng cứ như ông cụ non! Ngày ở nhà lão đã học hết phố thông, làm thư ký đội, làm bí thư chi đoàn, năng nổ và hoạt bát. Nhưng ngày ấy Đào còn nhỏ và lại ở khác tổ sản xuất, nên chỉ biết chứ không quen. Nghe người ta nói từ hôm về đến nay, lão đào đất, đóng gạch huỳnh huỵch cả ngày cả đêm. Định làm giàu thành ông địa chủ chắc!
    Trong nhà Tùng vẫn vui vẻ trả lời Thủ với giọng rành rẽ:
    - Báo cáo đồng chí bí thư, tôi tự thấy tôi rất hiểu địa phương ta. Dạo ở nhà tôi đã được thử thách đến vài ba năm. Kể cả ông cậu của tôi cũng bảo tôi chưa thể là Đảng viên được vì người ta ít nhìn vào hiệu suất công việc. Từ ngày tôi đi đến giờ gần năm năm, mà cả Đảng bộ chỉ kết nạp được hai đảng viên mới.
    Ông Hàm như bỏ ngoài tai chuyện công tác, vẫn hỏi theo chủ đề của ông:
    - Thế anh học được những nghề gì?
    - Dạ, đóng gạch và đốt gạch thì cháu đã thạo. Nghề mộc mới sơ sơ. Ban đêm cháu đi học võ!
    - Lại học cả võ nữa?
    - Dạ, đơn vị cháu có mấy anh rất giỏi ka-ra-te.
    - Anh khá đấy! - Ông Hàm gật gù, mặt vẫn tỉnh khô, không biết ông khen thật hay khen đùa.
    Lát sau Tùng về, bấy giờ ông Hàm mới xổ ra:
    - Mới nứt mắt đã cốc láo? Không còn coi ai ra gì! Thằng này rồi làm loạn ở cái làng này đây!
  4. keodau

    keodau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/01/2008
    Bài viết:
    22
    Đã được thích:
    0
    Ró thật ghét của nào trời trao của ấy! Ông Hàm không thể nào ngờ được con gái rượu của ông lại đi đầm đầu yêu tháng cốc láo, cái tháng sẽ làm loạn ấy! Với Đào, chỉ sau mấy buổi đi họp ở xã đoàn, vì xã yêu cầu những Đảng viên trẻ vẫn tiếp tục cùng sinh hoạt đoàn, và đi tập dân quân, thì cô chỉ thấy Tùng rặt những ưu điểm! Cả gương mặt vuông chữ điền với nước da bánh mật của Tùng, Đào cũng thấy quanh đây chẳng anh nào ăn đứt? Nếu có cần sửa chăng là sửa cái mồm. Cứ gáy lên để làm ngứa gan các ông khốt thì ăn bàn ăn giải gì? Đào đã cắn vào miệng Tùng, beo vào tai Tùng mà bảo sớm chừa cái tính ta đây ấy đi. Còn anh chàng cũng có tý máu khoe khoang, khi ngồi bên Đào thì chỉ là một chú cừu, cứ rúc mặt vào nách Đào mà nỉ non những lời sám hối!
    Và bây giờ hai người đã quen hơi bén tiếng nhau có đến dăm tháng, nhưng vẫn phải hoạt động trong vòng bí mật, chưa thể công khai được! Đào đang nghĩ cách, thì vừa lúc cái Hoa đi học về: Đào bảo nó như dỗ dành:
    - Chị nấu cơm sắp chín rồi, Hoa sang chị Minh bảo lúc nữa chị ấy ăn cơm xong, sang đây chị nhắn cái này nhá. Đi đi, rồi gọi u ở ngoài bãi chè về ăn cơm.
    **** tối Minh sang, rúc rích một lúc, khi chiếc đông hồ Ô-đô gõ bình boong chín tiếng, thì lòng Đào nóng như lửa đốt. Việc này thì chưa thể nói với cái con ruột ngựa này. Mãi đến chín rưỡi Minh mới về. Đào dặn nhỏ bà Son: U cứ để cồng, tý nữa về con đóng. Rồi hai cô dắt nhau đi, làm như cùng chung một đường. Ra tới cổng, Đào bảo bạn: Mày về nhá, tao đến nhà chú Thủ có tý việc.
    Rồi Đào đi. Rồi Đào chạy. Một tay giữ vạt áo một tay giữ ngực, động tác của người con gái có ý, dù đêm khuya không một bóng người. Con đường dẫn ra đồng Tròn, nơi có gốc nhãn hẹn hò mấp mô sống trâu. Lại tối, Đào cứ như chạy trong mơ. Lúa hai bên ruộng ngả sang tê đường, quát rào rào vào ống quần. Châu chấu phóng càng bay tanh tách, đạp cả những bộ chân ráp như chấu vào má, vào cổ Đào. Đào vẫn chạy dần, ngực đập thình thịch. Cây nhãn đã hiện ra, mờ mờ rùm ra như một người đứng xõa tóc trong đêm. Tới gần, Đào dừng bước, cứ tưởng Tùng từ gốc cây sẽ lao bổ ra ôm chầm lấy Đào như mọi khi. Nhưng đến tận nơi mà không thấy gì. Chỉ có gốc nhãn đứng chơ vơ một mình. Sao thế này? Hay là Tùng ra chờ lâu quá đã về rồi? Hay Tùng bận phải trông xe sắn nên không đến? Không, chưa bao giờ Tùng lỡ hẹn cả. Có hôm mưa Tùng còn khoác áo mưa thì không có gì quan trọng bằng gặp Đào. Mà lần này đã năm ngày không gặp nhau rồi còn gì. Đào ngồi xuống cái rể cây đội gồ lên, thở. Bực, Đào đã thấy bực. Để người ta chạy hộc tốc, rồi bây giờ đứng ôm gốc cây một mình như con dở thế này đây! Phen này thì phải cắt cầu vài ngày nữa mới được! Cho chết?
    Bỗng có tiếng cú rúc đâu rất gần. Đào rùng mình nghiêng ngó, thì ngay trên ngọn cây, tiếng Cú! Cú! lại vang lên lẫn tiếng người cười! Đào vừa kêu ớ định vùng chạy, thì con cú đã từ trên cành nhảy đánh rào như ném mình xuống, và bằng động tác của con đại bàng cắp nàng công chúa trong truyện cổ, Đào bị hai cánh tay rắn chắc ôm trùm lấy, nhấc bổng lên, quay tròn một vòng. Đào nhận ra tiếng cười, mùi mồ hôi và những cái xoắn từ những ngón tay của người con trai như muốn lặn vào da thịt mình. Bởi những động tác ấy đã quen thuộc với Đào lắm. Bởi hai người đã qua giai đoạn thả lời ướm ý. Đào ngã lịm vào ngực người yêu. Vòng tay lên ôm lấy cổ Tùng, miệng cắn vào bả vai Tùng, giọng rên lên sung sướng đến nức nở:
    - Chết đi! Làm người ta cứ tưởng mình bỏ về rồi!
    Tùng áp miệng vào tai Đào gọi liến láu như một gã điên:
    - Đào ơi em Đào ơi, chị Đào ơi, bà Đào ơi, cụ Đào ơi! Có nhớ anh không?
    Vừa liến láu, Tùng vừa xoay người lại, nâng mặt cô lên, nhìn sát vào khuôn mặt hình bầu dục với hai má tròn đầy, cặp mắt mở lim dim. Đào nằm cuộn trong lòng Tùng, hai tay vẫn ôm chặt lấy cổ. Tùng cà cà cái cằm ram ráp những chân râu lên khắp khuôn mặt Đào, rồi cà xuống cổ, cà xuống bộ ngực đã mở cúc căng đầy mịn màng khiến Đào rùng mình rướn cong người lên, miệng càng rên se sẽ, đầu óc loạn xạ, không còn biết nên chống đỡ hay nên buông thả. Tùng thì hoàn toàn mê mẩn, lòng chỉ còn sôi réo đòi hỏi. Bàn tay khao khát lần tìm những nơi sâu kín trên cơ thể chắc mẩy, nuột nà, rừng rực sức trẻ của người yêu. Bỗng Đào kêu giật giọng. Không hiểu sao những lúc này người tỉnh táo, cảnh giác được xung quanh bao giờ cũng là nữ giới, là đàn bà chứ không phải là đàn ông. Đàn ông lúc này chỉ còn biết có chết!
    - Có người! - Đào kêu hốt hoảng.
    Tùng vẫn còn chưa tỉnh cơn mê. Cả mũi, cả miệng vẫn đang thở hít hà cái mùi ngầy ngậy hôi hổi của da thịt con gái, thì Đào kéo cổ áo, gỡ Tùng ra, ngồi vùng dậy cuống quít:
    - Họ đi lại đây! Tùng ngẩng lên. Đúng là lờ mờ có mấy bóng người đang từ trên đường chính đi xuống, và họ sẽ đi qua đây thật!
    - Chạy, anh!
    - Không, lên cây!
    Khi mấy bóng người vừa đi khuất xuống hủm, thì Tùng đã đu người chạc lên cây nhãn, rồi kéo tay Đào lên. Nhưng Đào lóng ngóng như đã sắp khóc.
    - Em không trèo được!
    Tùng nhảy xuống, đội Đào ngồi lên cổ. Đào vừa bíu được vào cành nhãn, Tùng đã đu người lên, rồi kéo Đào ngã ngồi xuống mấy chạc cây xòe ngang như một cái sàn. Tùng gỡ lá gài cho kín phía dưới, rồi một tay bíu cành, một tay ôm chặt ngang người Đào nóng rừng rực và trẹo trọ như muốn ngã. Mấy bóng người đã hiện ra ở đầu ruộng. Một, hai, ba, bốn.
    Tùng bỗng rùng mình, rồi thì thào rất sẽ:
    - ồ, thầy!
    Đào nhắm mắt, rúc mặt vào ngực Tùng, người run lẩy bẩy, tiếng cũng run lấy bẩy:
    - Thầy em?
    Tùng bịt miệng Đào. Cả hai cùng run như dẽ. Trống ngực người này đập, người kia nghe rõ, cứ thình thịch như đập đất bên tai!
    Trong ánh sao bạc mờ, trên bờ lúa đã hiện rõ ông Hàm tập tễnh đi đâu, vai vác cuốc. Rồi ưởng, rồi Ngạc, hai người cháu ông Hàm, hai người anh thúc bá bất trị của Đào. Một tay của ưởng xách cái gì như là một cái can nhựa. Rồi cuối cùng là ông Thó, sao ông Thó lại như con gà lạc đàn vào đây? Trên vai, trên tay người nào cũng cuốc và xẻng. Tất cả cùng lặng phắc, cắm cúi đi rất nhanh. Rồi họ đi sát vào gốc nhãn. Mùi người, mùi mồ hôi thoang thoảng tỏa lên. Trên cây, tim hai người đến ngừng đập. Khi những bước chân lạt sạt nghe đã đuối mờ, Tùng và Đào cùng se sẽ thở hắt ra một hơi dài.
    Đào hỏi giọng giống như người ốm:
    - Có những ai hả anh? Họ đi đâu?
    Tùng nhảy xuống, nghểnh eổ nhìn theo hút mấy bóng người. Đi đến giữa đông, họ rẽ trái, rồi biến mất sau những bụi lau. Thế có nghĩa là họ không sang sớm Mới, mà ngược lên đồi Sim. Họ đi đâu? Trên ấy không còn nhà ai, chỉ là đồi hoang. Bãi tha ma của làng ở đấy! Ông Phúc vừa chôn cụ Cố ở đấy! Đó là ông ngoại của Tùng. Một tia lạnh bỗng chạy dọe người Tùng. Chả nhẽ lại là... Tùng rùng mình, không dám nghĩ nữa.
    Đào bíu vào cổ Tùng đu xuống, rồi theo lệ Tùng đưa Đào về. Hai người lại ôm nhau đi tắt qua những bờ ruộng mấp mô. Cả hai cùng yên lặng, không vừa đi vừa cấu chí cười rúc rích như mọi khi. Đào nói thầm thì:
    - Thảo nào lúc nãy ra ngõ em gặp ông Thó với anh ưởng, anh Ngạc đến tìm bố em. Anh đoán họ rủ bố em đi đâu?
    Tùng sững người, tý nữa thì kêu a. Thế là vô tình Đào đã giao chiếc chìa khóa của sự bí mật cho người yêu. Hỡi Mỵ Châu công chúa! Đây là người con gái thứ bao nhiêu đã vì con tim yêu bồng bột mà đi theo bước sai lầm của Người? Vì yêu nàng đã mở hết những bí mật của vua cha cho người tinh của mình. Người đời vẫn nói yêu là đui, là mù, thật bao giờ cũng đúng vậy thay!
    Thế thì đúng rồi, không phải họ rủ, mà chính bố cô rủ họ? Tùng thầm kêu lên như vậy. Bàn tay đang ôm eo Đào bỗng lỏng rời ra. Nhưng Đào không để ý. Đến chỗ rẽ, Tùng chỉ ôm Đào xiết vào ngực chứ không cắn cấu cuồng nhiệt như mọi khi.
    - Tám giờ tối mai lại ra đây nhé - Tùng dặn.
    Đào đồng ý bằng cách cắn vào ngực Tùng, rồi biến vào rặng tre tối thẫm đang kẽo kẹt trong gió, miệng lại hát se sẽ nữa. Tùng đứng một mình một lúc để ngẫm nghĩ, rồi quay đầu chạy hối hả về xóm Mới. Bà Sang đã ngủ được một giấc đầy, bỗng nghe Tùng mở cứa ken két, rồi gọi giật giọng:
    - U ơi! Dậy ngay có việc cần!
    Bà Sang nói giọng khê nặc trong chiếc màn nhuộm nâu:
    - Việc gì đêm hôm này? Gọi cái Mai, thằng Tú dậy thì sao.
    Tùng vừa xập xèo đánh diêm, vừa nói hào hển như sợ ai cướp lời:
    - Con đã bảo U dậy có việc. Cái Mai, thằng Tú không thể để cho chúng nó biết được.
    Bà Sang vừa dụi mắt bước ra, thì Tùng đến gần bà nói từng tiếng một đầy hệ trọng:
    - U đến nhà cậu Phúc nói cậu ấy phải ra ngay đồi Sim, chỗ vừa đặt mộ ông. Ngoài ấy đang có chuyện không lành!
    Bà Sang tỉnh ngủ hẳn, bủn rủn cả người, dụi mắt nhìn Tùng như người bị ma ám đồng nhập.
    - Chuyện gì? Thế sao mày không đến nói với cậu? Con không đi được. Con đi là hỏng hết việc. U cứ nói với cậu là U nằm ngủ được báo mộng ngoài ấy có chuyện? Bảo cậu phải gọi thêm người, không được đi một mình. Nếu cậu có hỏi thì u bảo con thưa về.
    Bà Sang cuống quít tìm cây gậy hèo, lấy đèn pin, rồi bước lập cập đến nhà ông Phúc. Ra đến sân bà còn ngoái lại nhìn Tùng như nhìn một người lạ vừa mang họa đến nhà! Còn lại một mình, Tùng đi đi lại lại, suốt hai gian nhà ngoài, vơ vẩn như một kẻ mộng du, rồi đến nằm vật xuống giường, miệng thầm kêu lên: Thế là lúc chúng ta phải đối đầu với họ rồi!.
    Chính lúc này, ở đồi Sim.
    Ông Hàm đi trước dừng lại. Ba người bước lạt sạt qua những bụi mua phía sau dừng theo. Sương thấm lạnh vào những ống chân. Ngôi mộ cụ Cố họ Vũ đã ở trước mặt. Chiếc nhà táng đặt trên chốc mộ chỉ còn lại bộ khung tre. Lớp giấy vang tróc ra, rách lùa tủa, gió thổi bay lật phật. Những vòng hoa xếp kín xung quanh hôm trước, nay trẻ trâu đã mang nghịch vung vãi. Ngôi mộ nằm dài im lìm, đen sẫm trong đêm. Trời bận mây, che nốt cả thứ ánh sáng nhợt nhòa của những vì sao yếu ớt. Đêm càng tối. Đêm giấu trong mình những việc làm của người đời mà ban ngày họ không đủ gan làm. Đêm đồng lõa!
    Ông Hàm đứng im nhìn ngôi mộ. Nó! Chính nó đây! Đối thủ của ông? Một đối thủ tay không vũ khí, vậy mà ông bỗng khẽ rùng mình. Thó và hai người cháu bất trị của ông Hàm đi nhẹ như nhón gót, sột soạt đến sát bên ông. ưởng vuốt lại mái tóc gần chờm vai, thở phì phì như con trâu dái sắp sửa lao vào cuộc. ưởng và Ngạc từng có nhiều thành tích bất hảo, đã đón đường đánh cả thấy giáo vì không cho chúng lên lớp vì học quá dốt. Đánh nhau ở bãi chiếu bóng, đánh nhau ở giữa chợ. Cũng có nhiều phen bò lê bò càng, bố mẹ phải bán cả lợn nái, và đàn lợn giống để mua ******* bóp mới khỏi, nhưng rồi chứng nào tật ấy. ưởng đi lính chưa được một năm, thì bị loại ngũ vì quá nhiều vụ vô kỷ luật.
    - Tất cả đứng sau tôi - ông Hàm nói khe khẽ - Chú Thó chuẩn bị sẵn hương với diêm, lúc nào tôi bảo hẵng châm.
    - Em cầm sẵn đây rồi - Thó nói run run.
    Bốn người đứng hàng dọc theo mộ, cuốc xẻng chống bên người, rất sẵn sàng xông vào trận. Ông Hàm bước lên một bước, ngang đầu mộ, đầu khẽ quay về sau, bảo Thó:
    - Chú Thó đốt ba nén hương.
    Thó lật đật đánh lửa, châm ba nén hương. Ông Hàm với tay lại cầm, rồi huơ lên một vòng đỏ. Đoạn ông cầm hai tay, đưa thẳng ra phía trước. Chân đứng hơi khuỳnh như lên tấn, miệng sịt soạt hít vào dọn giọng, rồi bắt đầu đọc bài khấn:
    Lạy thần Thành hoàng
    Lạy ông Tiên chỉ
    Lạy ngài Quan âm chốn niết bàn
    Lạy bà Bồ tát nơi âm phủ
    Nay con xin tâu rằng :
    Dòng họ Vũ nhà này chua cay ác độc, mấy đời nay từng thay đen đổi trắng, từng buôn quạ bán diều, buôn rết bán rắn, gây nhiều tai oán với họ Trình nhà con. Chúng chiếm ruộng nương gia sản, chiếm tình chiếm nghĩa, xui khiến họ Trịnh sớm hôm lục đục, lửa ít khói nhiều, bức bối toàn gia! Nay đến lúc gặp ơn đền ơn, gieo oán trả oán, Ô hô hô!
    Ông Hàm lại huơ ba nén hương thành một vòng tròn. Những lời vừa đọc đã kích thích ông. Mối thù được khơi lại. Máu bừng sôi. Ông e hèm, rồi cao giọng tuyên án:
    - Lạy thần Thành hoàng, giờ con xin được cải mả, lật sấp thi thể chi họ Vũ Đình xuống, để đưa quả báo này tới chốn dương gian, bắt họ Vũ phải chịu:
    Ba đời tuyệt tự
    Hữu nữ vô nam
    Hữu sinh vô dưỡng
    Gái thì đẻ ngược
    Giai chết không mồ
    Đứa ngã xứ Đoài
    Đứa vùi xứ Đông
    Đứa sống chạy rông
    Quanh năng khốn khó
    Trồng rau ra cỏ
    Cấy lúa ra lau
    Trồng trầu hóa tiêu
    Gieo cà ra ớt
    Long đong lật đật
    Hệt đường sinh nhai
    Ô hô hô!
    Vừa dứt, ông Hàm quay sang tung ba nén hương lên mộ, rồi cầm can róc rượu vào chén vẩy xuống theo. Ông vẩy ba chén liền xuống mộ, rồi dằn giọng hạ lệnh như dao chém đá:
    - Đào!
  5. keodau

    keodau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/01/2008
    Bài viết:
    22
    Đã được thích:
    0
    Miệng nói tay làm, Hàm vớ ngay lấy cuốc đẩy chiếc khung nhà táng xuống, giận dữ như đẩy nhào một đối thủ bằng xương bằng thịt. Rồi Hàm bổ nhát cuốc xuống đỉnh mộ như hạ một lời tuyên chiến. ưởng và Ngạc nhảy bổ vào như hai thằng thiên lôi lành nghề, phóng lưỡi xẻng vào bờ thành ngôi mộ, hất đất xuống rào rào, Thó lóng ngóng gạt đất phía sau.
    Đêm càng đen kịt. Đen như chính lòng người!
    Trong chốc lát phần nổi của ngôi mộ đã bị phá tung. Đã có những hơi thở ậm è vì quá hộc tốc, Hàm vẫn là người đâu tiên cuốc xuống phần âm của ngôi mộ. Hâu như Hàm không biết mệt, cứ lầm lì và quả quyết như một gã phá huyệt chuyên nghề! Trong lòng Hàm vừa căm giận, vừa hả hê. Lão dồn sức vào cán cuốc, hất tung đất lên như hất nỗi u uất bao lâu nay từ chính lòng mình.
    Thó đang lúi húi cào đất phía trên bờ huyệt, bỗng kêu giật giọng kinh hoàng:
    - Có người!
    Ngay lập tức tiếng Vũ Đình Phúc, trưởng chi họ Vũ Đình vang lên phía sau như một tiếng sét:
    - Tất cả đứng im! Thằng nào chạy tao bắn!
    Rồi để cho lời nói có hiệu lực, Phúc cao giọng ra lệnh cho người em rể, chồng bà Lộc, một cán bộ mới về hưu, chiều nào cũng khoác súng săn đi bắn gà gô, chim gáy:
    - Chú Tính lên đạn, thằng nào chạy bắn què!
    Cả Hàm, ưởng, Ngạc và Thó cùng đứng cứng người như bốn cái cọc cắm xuống đất. Ông Phúc đi lại, cúi xuống nhìn mộ bố đã bị phá tan. Phúc gầm lên:
    - Quân khốn nạn! Quân tán tận lương tâm. Quân...
    Thó bỗng vứt cuốc, chạy lại bên Phúc, nức nở:
    - Bác Phúc ơi, bác tha cho em! Em không muốn, nhưng bị người ta bắt đi. Bác Phúc ơi, bác hiểu cho em!
    Phúc định hét lên, nhưng một sự tính toán đã đến rất nhanh. Phải biết lôi kéo, phải biết phân hóa, phải biết nhằm vào mục tiêu chính. Phúc hắng giọng, dõng dạc:
    - Chú Thó, tôi biết chú bị mua chuộc, bị ép buộc. Tôi không chấp chú. Chú đứng sang bên này. Chú sẽ là người làm chứng. Còn ba người nhà này đứng yên, động đậy tao bắn! Rồi Phúc quay sang thằng cháu con bà Tài cao như một cái sào đứng bên cạnh, nói lớn:
    - Thằng Quyền về báo động, khua cả làng ra đây! Gọi cả thằng Thủ ra đây! Chú Quỳ sang bãi chè nhà tôi vơ hết guộc lại để đốt. Phải cho cả làng Giếng Chùa thấy việc làm của chúng nó! Phen này cả làng sẽ thấy chúng nó quỳ lạy dưới chân tao! Thằng Thủ cũng phải quỳ lạy dưới chần tao! Quảng, đốt lửa lên!
    Tiếng chân chạy rầm ráp, rào rào. Khi ngọn lửa bùng vào đống guộc khô; gặp gió, lửa reo ù ù phần phật, sáng hửng cả vùng đồi, quát dạt những dải sương bay vật vờ, thì Hàm hực lên một tiếng, nhảy bổ vào Phúc!
    --------------------
  6. keodau

    keodau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/01/2008
    Bài viết:
    22
    Đã được thích:
    0
    Chương 6
    Tối nay bí thư Đảng uỷ Trình Bá Thủ có cuộc đánh chén ở nhà chủ tịch Trần Văn Sửu.
    Nhà Sửu ở xóm Trại, khuất lảnh ngoài vùng đồi. Đây là xóm của bà con dưới Nam Định, Thái Bình lên khai hoang từ những năm sáu mươi. Mặc dù cũng ăn nên làm ra, con cái đi bộ đội, đi thoát ly, nhiều người trở thành cán bộ đảng viên rất chững chạc, nhưng trong thâm tâm của mọi người, xóm trại vẫn là xóm của dân ngụ cư, dù thế nào cũng không thể là cái xương sống của xã. Hồi chiến tranh phá hoại, đã có một dạo bí thư Đảng uỷ xã là người của xóm Trại. Dịp ấy có năm thanh niên của Giếng Chùa nhập ngũ. Sau ba tháng huấn luyện, đơn vị hành quân vào nam. Tới khu 4 thì bị máy bay oanh tạc, cả đại đội gần như bị xoá sổ. Năm người Giếng Chùa thì chết ba. Hai người còn lại hoảng quá, liền đằng sau quay đi nước mã hồi phóng thắng về nhà. Ngày ấy chủ tịch và xã đội trưởng đều là người của Giọng Chùa, nể nả định lờ đi. Nhưng bí thư Đảng uỷ đã chỉ thị cho phó chủ tịch kiêm trưởng ban công an phải gọi hai người thanh niên kia lên và đã xử trí đúng như xử trí những quân nhân đào ngũ, tức là đi làm lao công cho xã. Thôi thì thượng vàng hạ cám, từ rẫy cỏ quanh nhà uỷ ban, ngào đất trát tường cửa hàng mua bán xã, đến xe gạch xe vôi từ trên phố huyện về làm nhà tắm, làm hố tiêu hố tiểu công cộng. Xã không thiếu việc. Cứ cơm nhà việc xã. Ngày ngày trưởng ban công an đích thị đôn đốc kiểm tra, còn việc thì bí thư Đảng uỷ sẽ nghĩ ra, vẽ ra, làm đến quanh năm không hết. Lúc ấy có một trợ lý quân lực của tỉnh đội là người của Giếng Chùa đã ra tay cứu danh dự cho làng mình bằng cách khuyên hai chiến sĩ báo cáo xã xin trở lại đơn vị. Thế rồi khi lên tỉnh, và không biết bằng cách nào, hai anh lính ấy đã biên chế về một đơn vị của tỉnh đội. Cuối năm ấy đại hội Đảng bộ, bí thư Đảng uỷ mất phiếu tới mức chỉ còn là một đảng viên thường. Rồi llên đó có đợt kiểm tra Đảng, đồng chí bí thư cũ bị một phen cuống cà kê lên khi bỗng có dư luận là chuyện vào Đảng của anh không rõ ràng? Lý lịch chưa khai hết những chỗ khúc mắc, còn hai người giới thiệu thì đều dinh tê vào Nam năm 1954! Anh đã phải chạy đi chạy lại về quê gốc ở mãi dưới vùng biển mất dăm lượt mới lấy đủ giấy tờ chứng thực anh là đảng viên chính hiệu! Thật hú vía! Phải chống đỡ lao đao, mà lại không biết ai là đối thủ chính. Bởi tất cả đối với anh vẫn rất thân tình vui vẻ. Khi họp hành không ai lên giọng bới móc chỉ trích gì, mà chỉ nhỏ nhẻ Đề nghị đồng chí giải thích cho cái chỗ ông cụ bên vợ có đúng là đã tham gia Quốc dân đảng không? Còn hai người giới thiệu thì lý do gì lại chạy vào nhà thờ để đi Nam với một số giáo dân? Tất nhiên để bảo đảm lời nói đông chí là đúng, thì phải có chứng thực! Thế là đủ giết nhau không gươm giáo! Mà thái độ vẫn cứ ngọt ngào, vẫn êm như ru! Chỉ bên ngoài dân chúng mới có lời nhắn tin rằng: Đất có thổ công, sông có hà bá, thành hoàng vùng này chưa đến nỗi mạt vận phải chuyển bài vị sang dân ngụ cư xóm Trại.
    Từ đấy dân xóm Trại nhìn những người quê gốc ở đây cứ chờn chợn, thấy như họ tiềm ẩn một cái gì thật vô hình, mà lại có ma lực biến hoá khôn lường. Tốt nhất hãy chăm lo làm giàu. Nếu trong những cuộc bầu bán nếu ai có thắng phiếu, thì khôn ngoan chỉ xin lận làm cấp phó thôi, chớ dại tranh phần chiếu trên của dân bản xứ mà rồi có lúc tự mang dây buộc mình! Người xóm trại bảo nhau như vậy.
    Lần này Trần Văn Sửu trúng ghế chủ tịch, mà có người đã nói là ông Sửu trúng sổ xổ, là bởi Trịnh Bá Thủ thấy cùng một lúc bên cánh nhà ông Phúc có đến ba đảng viên nối theo nhau nhảy dù về xã. Hai người em rể ông Phúc là chồng bà Lộc, bà Tài. Một người làm quản đốc trên Khu gang thép, một là cán bộ tuyên huấn lâu năm ở nông trường bò sữa cùng về hưu trong một tháng. Rồi Tùng, con bà Sang một thượng sĩ như trâu tơ ngứa sửng. Cả ba đảng viên đều kết nạp ở nơi khác, thế tức là họ không chịu ơn chịu nghĩa gì ở đây. Anh nào cũng có sỏi trong đầu! Phải nhanh chóng hùn vào cho Sửu người đứng đầu xóm Trại, đang là thường trực uỷ ban xưa nay tôn trọng Thủ đến kính nề. Và để không bị mang tiếng là hẹp hòi, bè phái, chính Thủ đã đề xuất ý kiến khi họp với chi bộ Giếng Chùa nên đề cử Tùng vào danh sách bầu Đảng uỷ mới, bởi Thủ thấy Tùng dám phê bình ông Phúc cả trong cuộc họp. Ngày Tùng chưa đi bộ đội, ông Phúc đã nhận xét về Tùng khi duyệt danh sách đối tượng là còn thiếu chín chắn, còn lớp cớp! Vậy thì phải triệt để lợi dụng ngay mối bất hoà ở trong dòng họ Vũ Đình này, chứ không thể trông chờ vào hai đảng viên già đời là chồng bà Lộc, bà Tài. Thủ đã giới thiệu Tùng khi họp toàn đảng bộ như là một nhân tố ga-ne-pho nhiều sức bật. Nhưng tất nhiên khi bỏ phiếu thì anh gạch tên Tùng đầu tiên! Tùng sao lại có thể ngồi cùng chiếu với mình được! Đến khi Tùng trúng cử với số phiếu vừa phải, nhưng đã là nỗi sửng sốt đối với Thủ. Còn Trần Văn Sửu thì trúng khá cao, bởi hai phe mạnh nhất chống nhau, thì người đứng giữa dễ dàng hưởng lộc. Lại phải làm cuộc vận động nữa để Sửu trúng cao trong cuộc bầu cử hội đông nhân dân. Đến khi Sửu ngồi được vào ghế chủ tịch rồi, thì không riêng Sửu mà cả xóm trại đều biết công lao to lớn của Trịnh Bá Thủ. Vậy là Thủ đã đạt được ý định không để chức chủ tịch rơi vào phe cánh chi họ Vũ Đình, đồng thời với Sửu, Thủ như người ơn mưa móc, anh có thể hoàn toàn lái theo mình.
    Hôm nay vợ chồng Sửu cúng giỗ bố vợ, vì bên nhà vợ Sửu không có con trai. Làm từ trưa. Ngả một chú vện gần chục ký. Cả ban thường vụ kéo đến chén chú chén anh từ mười một giờ cho tới quá ngọ. Thủ cáo lỗi trưa này bận, hẹn tối sẽ đến thắp nén hương để tưởng nhớ cụ. Đó là ý định của Thủ, chứ thực ra anh không bận gì. Vì buổi tối ông Hàm đi làm cái việc ấy nên Thủ muốn vắng mặt ở nhà. Đến nơi nào càng đông người càng hay. Để nếu có sự cố gì, thì nhiêu người chứng giám là Thủ không liên quan, không biết tí gì.
    Buổi chiều đạp xe lên xã, Thủ đi qua cổng nhà ông Hàm, thấy ông đang kỳ cạch chữa xe cải tiến để vài hôm nữa là gạt chiêm. Thủ vẫn ngồi trên xe, chống chân xuống hỏi nhỏ:
    - Tối nay bát vẫn làm cái ấy chứ?.
    - Thì vẫn! - ông Hàm tiếp tục đục canh cách không ngửng lên, cũng trả lời vừa đủ nghe.
    Thủ đạp xe đi ngay. Buổi chiều, hết giờ làm việc ở trên xã, Thủ còn thong thả chán. Hết sang trạm xá, lại sang khu nội trú các giáo viên trường cấp I, II. ở đấy có đến ba cô giáo đã ngoài tuổi băm mà vẫn chưa chồng. Mỗi ìần gặp đồng chí bí thư cao ráo xởi lởi, là đôi bên chuyện trò không dứt. Thấy khói từ túp nhà bếp nhỏ như cái quán chợ bốc lên nghi ngút. Thủ nói gióng từ ngoài:
    - Ba cô đội gạo lên chùa! Cho xin bát cơm bát cháo đây!
    Có tiếng bấm nhau, rồi một giọng vóng vót:
    - Có gạo mà đội đã tốt! ở đây là ba cô hết gạo lên chùa, một cô má thắm bắt đền bí thư!
    Những tiếng cười ré như bị cù. Rồi vẫn cô gái mồm miệng như tép nhảy gạt khói chui ra. Mặt tròn người óng lẳn được lắm! Chỉ phải cái miệng rộng quá, cứ như miệng một gã đàn ông phàm tục đặt thâm vào. Chắc cánh con trai sợ vía cái miệng áy!
    - Bây giờ nói nghiêm chỉnh với bí thư nhé, chúng em sắp đội nón chống gậy sang uỷ ban ăn xin đấy? Có cái mái nhà bị thủng, đã kêu đến tỉ lần mà xã vẫn không dọi cho. Đêm hôm kia mưa dột như sảo, chúng em phải dậy ngồi quàng áo mưa. Đấy, xã bảo thương mấy cô trưởng ban phòng không, thương thế thì cái xương chả còn!
    Thủ dừng lại trước cửa, nhe bộ răng trắng bóng ra cười, nói ỡm ờ:
    - Ai bảo kén cho lắm vào còn kêu!
    Thế là nói cười càng ồn ĩ, đối đáp ráo riết. Cứ xem cung cách nói năng như chém chả, nhưng lại với thái độ vui vẻ, ánh mắt đôi bên ngắm nhìn nhau rất bạo dạn thân ái, là đủ biết là đồng chí bí thư đảng uỷ và ba cô gái sống độc thân ở đây quen biết nhau đến mức nào.
    Thủ còn chuyện trò con cà con kê một lúc lâu. Mâm cỗ đậy ***g bàn để cạnh. Thủ bước tới bắt tay người anh họ vợ Sửu khiến ông nông dân chuyên nghề thợ đấu lúng túng với cách chào hỏi mà ông cho là phù phiếm này. Vào bàn thờ trong nhà thắp ba nén hương trước bức ảnh truyền thần một ông già gân guốc cắt đầu móng lừa, vừa quay ra Sửu đã kéo Thủ ngồi xuống chiếu. Còn nguyên vẹn một mâm đầy. với đủ các món ăn. Thủ gọi với xuống bếp:
    - Bà chủ đâu rồi?
  7. keodau

    keodau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/01/2008
    Bài viết:
    22
    Đã được thích:
    0
    Thủ chưa dứt lời, vợ Sửu đã từ nhà dưới cầm cây đèn toạ đăng đi lên đon đả, tiếng người đồng bãi trồng đay vẫn giữ nguyên pha tạp. Nghĩa là phát âm rất ngọng:
    - Giờ bác mới sang. Bác Hợi với bố cháu mong bác từ trưa. Hôm nay em sắp cơm canh quấy quá nhớ cụ cháu. Nuôi được con cày béo quá, mà mấy anh em thợ vụng nàm hỏng mất bộ nòng. Bố nó xem có phải hâm nại canh không?
    Về khuya, gần tàn bữa rượu, mấy ông hàng xóm bên cạnh mới lệt sệt kéo những đôi guốc mộc sang. Số láng giềng này Sửu đã mời lúc trưa, bây giờ họ tự động đến là một cách biểu hiện tình cảm với đông chí bí thư Đảng uỷ. Vợ Sửu trải thêm chiếu nữa ra hiên. Mấy ông tự tráng ấm pha trà. Chè móc câu nhỏ khô săn như gạo rang, bỏ vào xuyến kêu roong roong như đông. Chế nước chỉ được qua lưng ấm, đậy nắp, rồi dội một chén nước sôi lên bên ngoài để xuyến nóng đều khiến chè mau ngấm. Nước róc ra xanh ánh trong những chiếc chén hạt mít uống sít soạt rất to, chép miệng rất to, nhưngbnước chỉ thấm môi. Người sành trà là phải biết tận hưởng, biết nhâm nhi ngẫm ngợi từng cái hương cái khói toả ra từ những nụ búp căng nhựa rang khô đang nở ra trong thủy nhiệt. Đó là phép thưởng trà. Lúc này chuyện mới nở như ngô rang. Từ chuyện đảng ủy và uỷ ban cho người đi mua sắn, mua khoai về bán chịu cho bà con từ mươi hôm trước thật là sáng suốt, đúng là một miếng khi đói bằng cả gói khi no (Họ khen Thủ đấy!) Rồi nhảy sang chuyện bà con có kêu ca về việc hợp tác chia ruộng khoán còn có chỗ chưa hợp lý giữa Giếng Chùa với xóm Trại (Họ muốn nhắc nhở Thủ đấy!). Rồi sang chuyện nghe đồn lại có đơn kiện từ dưới này gửi lên huyện, lên tỉnh tố cáo rằng xã tự ý cắt một số đất canh tác cho con cháu mấy cán bộ chưa tách hộ làm nhà. Thoắt cái, chuyện của mấy ông nông dân vươn tới tầm chiến lược, bàn từ ông Goocbachốp dấy lên cái việc cải tổ, làm cho một số cán bộ cũ bên ấy về nghỉ như sung rụng. Thì ra con người cũng như cái kèo cái cột, dùng lâu quá không mối mọt bên ngoài, thì cũng ải nát bên trong! Rồi thì từ chuyện ông tai to mặt lớn đang khuấy đảo cả gầm trời, đến những anh cu chị cún chỉ quen với con cua cái ốc nơi xó đồng, các bố đều trộn lẫn với nhau, bàn rôm rả bên manh chiếu cùng ly rượu chén trà và những hơi khói thuốc lào sòng sọc.
    Thủ giở nằm giở ngồi, tựa người vào tường, làm ra vẻ say lừ đừ để đỡ phải nói nhiều, nhưng thực ra đâu óc anh rất tỉnh. Chốc chốc Thủ lại kín đáo liếc nhìn đồng hồ tay. Anh bỗng thấy nóng ruột bồn chồn thế nào. Đã hơn mười giờ, nhưng chưa ai buồn ngủ. Sửu lại pha một ấm trà mới. Mọi người quay sang bàn tán về chuyện con ma hiện lên ở lêu lão Quềnh mà bà Đồ Ngật mắt tròn mắt dẹt kề mấy hôm nay. Hoá ra là một người đàn bà thật. Bà cả Lợi chủ quán phở ở đâu xã đã thuê chị ta gánh nước và rửa bát hai hôm nay. Nhưng hình như ban đêm chị ta lại về ngủ ở nhà lão Quềnh. Sao thế nhỉ? Hay lão Quềnh đã được tí tá tí mẻ, nên chị ta nhớ hơi cái ổ nằm? Hay là ma đội lốt người? Mọi người đang cười hinh hích, thì bỗng phía cuối làng có tiếng gì ầm ầm và ánh lửa chấp chới. Rất nhanh, cái khối ầm ào ấy mỗi lúc một to thêm, sáng thêm, rùng rùng chuyển động giữa đường làng, đi ngược lên phía uỷ ban xã.
    - Cái gì thế nhỉ? Bắt được cướp hay sao?
    - Hay đấy chính là một đám cướp?
    Mọi người nháo nhác hỏi nhau, rồi bỏ những chén trà vừa róc chạy ra cổng. Thủ cũng nhỏm người dậy, mắt vẫn nhìn ngơ ngác như chưa hết cơn say. Nhưng toàn thân anh bỗng nháy một cái như có tia điện chạy lướt từ chân lên đầu. Không nhẽ lại chính là chuyện ấy? Thế thi chết cả nút!. Sửu thu vội ấm chén, bảo Thủ:
    - Ta cũng phải ra xem cái gì anh ạ!
    Thủ gật đâu, vùng dậy, châm một điếu thuốc. Không có ai bên cạnh để nhìn thấy bàn tay Thủ đang run bắn. Một sự thầm mách bảo rằng cái đám ồn ào và những ánh lửa nhấp nhoá kia là điều rất gở đối với anh! Cái điều anh thắt thỏm lo ngại suốt ngày nay, hình như có đến thật rồi! Không khéo ông Hàm bị rồi? Thế thì hại tôi, chết tôi rồi? Xoay xở thế nào đây?.
    Khi Thủ vừa lẹp kẹp đến ngõ, thì thằng con trai lớn của Sửu dưới chân đồi chạy bố lên, miệng lấp bấp cứ lạc đi:
    - Bác Thủ! Bác Thủ! Bác Hàm bị người nhà ông Phúc trói! Họ.. Họ đang dong lên xã.
    Mắt Thủ tối xầm lại, ngực dội lên một cái Chết đứt rồi! Chỉ tí nữa thì Thủ kêu lên như vậy, nhưng anh đã lái được sang câu hỏi đến ngớ ngẩn:
    - Sao? Hai ông già mà đánh nhau à?
    Rồi cả Thủ, Sửu cùng mấy người hàng xóm băng qua mặt đồi chạy xuống đường. Mặc dù đã chuẩn bị thần kinh và gân cốt để đương đầu với cánh khan tương đổ mẻ nhưng người Thủ vẫn rã rời như chỉ muốn đổ sập xuống khi đám đông đèn đuốc rừng rực, rùng rùng những mặt người phừng phừng vừa đi vừa hô hoán kia đã hiện ra ở trước mắt.
    Quang cảnh này y như hồi chiến tranh phá hoại, một hôm cũng vào lúc gần sáng có chiếc F4 đến bỏ bom trộm trên khu gang thép, bị tên lửa bắn cháy, thằng giặc lao quáng quàng xuống đến đây thì vỡ tung giữa cánh đồng Cây quáo ở cuối làng kia. Mảnh bắn vung vãi làm vỡ một mái ngói, cháy hai túp nhà bếp, nhưng may không ai việc gì, kể cả viên đại uý phi công nhảy dù treo lơ lửng trên bụi tre gai, dân quân phải bắc thang khều hắn xuống, rồi dong tên giặc cao lênh khênh bó người trong bộ quần áo kháng áp nhằng nhịt những túi, những khoá như dong một con thú mặt người mình thuồng luồng lên uỷ ban xã. Người các làng đổ đến như đi xem xiếc.
    Lần này cũng gần như cả làng Giếng chùa mất cả ngủ ngáy, chạy xô vào nhau để nhìn ba bác cháu ông Hàm bị dòng họ Vũ Đình bắt làm tù binh.
    Khi Hàm nhảy xổ vào Phúc, vung tay đấm vào ngực Phúc, thì ưởng và Ngạc cũng hét một tiếng, huơ xẻng lên như hai tên hung thần. Rất nhanh một cái gậy phanh đánh chát vào chiếc xẻng của ưởng và một cây gậy khác phạt phía dưới, ngang gióng chân, làm ưởng ối lên một tiếng, ngã sấp vào bụi đồng ré lá sắc như cật nứa. Cùng lúc cái xẻng của Ngạc bổ bừa xuống những cái bóng nhốn nháo trước mặt. Một tiếng kêu á và một phát súng nổ đánh đoàng toé lửa ở đầu nòng. Không ai động đến Thó, nhưng anh lính đánh thuê đã ngã nhào xuống, rồi cư lăn người rào rào trên bãi cỏ như một khúc gỗ tròn, miệng khóc hu hu. Viên đạn ghém bay sượt qua tai Ngạc. Biết là chưa dính da, nên một bóng người ở phía sau kéo giật ngang chân Ngạc, khiến cả cái khối thịt bị hẫng, ngã đánh hự. Đám con cháu nhà Vũ Đình nhảy phất ngay lên người Ngạc. Con trai bà Lộc, một gã thanh niên cao to như cái minh tinh, cùng xấp tuổi với Ngạc, từng hục hặc với Ngạc, llên mượn gió bẻ măng, gióng lấy súng của chồng bà Tài lên đạn lách chách, rồi chọc cái nòng lạnh ngắt vào mang tai Ngạc, rống lên đắc thắng:
    - Đ. Mẹ! Ta phải bắn vỡ sọ thằng này!
    Nhưng ông Tính đã vội giật lại khẩu súng. Vừa lúc tiếng Vũ Đình Phúc cũng hét lên:
    - Không được bắn? Trói tất cả lại!
    Thoắt cái, ưởng và Ngạc đã bị trói gô bằng chạc trâu. Còn lại vị chủ tướng của chi họ Trịnh Bá, ông Hàm đang oằn oại bên bụi sim. Sau khi đấm cả hai nắm tay vào ngực Phúc, trút nỗi uất ức rồ dại vào đối thủ, thì Hàm bị Phúc đá vào hạ bộ, ngã lăn ra. Thực chất là cả hai ông trưởng họ không biết miếng mẹo gì cả, đánh nhau như trẻ con, cứ lao bừa, đấm đá bừa, được đâu hay đấy! Khi Hàm tỉnh lại, thì bị trói cứng cả hai tay.
    - Dong chúng nó lên xã! Hô hoán nữa lên cho cả làng thấy cái mặt mo mặt mẹt!
    - Để nguyên chỗ nó phá, đừng lấp. Sẽ gọi công an đến làm chứng.
    Anh em nhà Vũ Đình hò hét bảo nhau, rồi đẩy ba bác cháu ông Hàm đi. Những bó đuốc được đốt thêm, người đổ ra thêm. Vừa đi đám người vừa hò hét khua gõ ầm ĩ. Một người cháu họ của ông Phúc bị một lưỡi xẻng của Ngạc bổ sượt qua vai, tí nữa cậu ta bị chẻ theo chiều dọc! Bây giờ một miếng vải xô trắng cuốn trên bả vai, trông mùi mẫn như một nhân chứng của sự cảm tử! Cậu ta vác chiếc gậy đi cạnh bó đuốc cháy chửng chửng, nhìn dữ dần như một đội nghĩa quân thời bộ lạc.
    Đám người đi đến đâu, đêm vỡ ra đến đấy trong ánh lửa và tiếng hò hét thinh nộ. Đám đông đã hiện ra nhỡn tiền trước mắt Thủ.
  8. keodau

    keodau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/01/2008
    Bài viết:
    22
    Đã được thích:
    0
    Đi đầu là con trai bà Tài. Người dài lêu đêu như con sếu. Hai tay dơ bó đuốc quá đầu, chốc chống lại huơ tròn cho ngọn lửa bốc cao. Tiếp đến là ưởng và Ngạc tóc tai bù xù rũ rượi, mặt mũi sây sát, tối sầm. Rồi đến ông Hàm, vẫn bộ quần áo xanh tàu tàu, mắt gườm gườm nhìn xuống, mái đầu cắt móng lừa, tóc dựng lên như bông gáo. Lòng Thủ bỗng quặn lại, thương ông anh khốn khổ. Mồ hôi vã ra từ lòng bàn tay. Nỗi đau của tình máu mủ dội lên trong người Thủ. Uất ức đến nghẹn ứ lên. Trán và sống lưng chảy mồ hôi lạnh. Thấy Thủ bỗng run toàn thân như dẽ khi cái đám bộ lạc kia chỉ còn cách mươi bước chân, Sửu quay sang hỏi nhỏ:
    - Anh quay lại vào nhà tôi đã. Coi như anh không ở đây. Cứ để tôi lo liệu.
    Thấy Thủ vẫn đứng ngây ra bất động, Sửu bảo con trai.
    - Thằng Mùi đưa bác về nhà.
    Sửu lo Thủ không giữ được bình tĩnh, lại giống như Nẫm hồi năm ngoái thì hỏng bét. Đang là phố chủ tịch kiêm trưởng ban công an, chỉ vì bênh em gái, mà em gái Nấm chúa hay cậy thế gào làng ăn vạ. Làm thủ kho mà ăn cắp như ranh. Bị Phát giác còn lu loa xông vào xé áo người ta. Thế là đánh nhau. Được tin, Nẫm lao bế đến bênh em. Khi bị phê bình kiểm điềm, Nẫm còn nói chầy bứa: Dù mất chức, mất quyền, mất Đảng, chứ tôi không cho ai động đến người nhà của tôi! Đã thế thì mất ráo! Anh mất chức tháng trước thì em gái mất cái chân thủ kho béo bở tháng sau. Cả làng cười cho là dại!
    Giờ đây Sửu chỉ lo Thủ cũng không giữ được mình. Anh ấy đang run thế kia. Mặt tái đi thế kia! Dân gốc vùng này hễ động đến họ hàng ruột thịt của họ, là họ dễ nổi máu điên lắm. Thằng Mùi vừa kéo Thủ quay lại, thì Sửu nhảy xuống đường vung tay nói lớn:
    - Có chuyện gì thế này? Tại sao đêm hôm lại khua ầm ĩ thế hả? Biểu tình hả? Tất cả giải tán ngay! Có việc gì mai lên xã giải quyết!.
    Đám người đang hùng hổ, bỗng sững lại. Như dòng nước đang sôi sục, bỗng hút vào một con đập chắn ngang. Những người không dính dáng gì đến dòng họ Vũ Đình, chỉ đóng vai chầu rìa, nếu cần nhảy vào đánh hôi dăm ba quả cho sướng tay. Bầy giờ thấy mặt chủ tịch xã đàng đằng cương quyết, nên lỉnh ngay. Chả dại dây với chính quyền, trứng chọi đá.
    - Báo cáo với ông xã là thế này! Một tiếng nói the thé rẽ đám người đi lên. Đấy là bà Lộc, người đành hanh nhất họ Vũ Đình, cũng ham hố vào loại nhất họ. Khi ông Phúc mất chân chủ nhiệm, bà nói toang toang là ông anh bà không cùng a kíp với cánh cán bộ xã bây giờ, chứ còn ai thạo việc bằng bác Phúc! Thấy chồng về hưu, bà thở dài đánh thượt: Ông vội về làm gì? Tôi không cần ông phải chân lấm tay buồn, tôi gánh được tất. ở làng này mà cả vợ chồng con cái phải bán mặt cho đất, bán lưng cho giời mới kiếm được miếng ăn, thì không ai người ta trọng - Bà đang ấm ức khi thấy họ Trịnh Bá đang lên, họ Vũ Đình nhà bà đang xuống. Cả bên nội bên ngoại những một đống đảng viên mà lại chịu đi xuống? Đảng viên mà lại chỉ biết cái cày cái cuốc người ta bảo quan ba cũng ừ, quan tư cũng gật, thì còn đảng làm gì! Bà Lộc thấy nội tộc nhà mình như bị vặt lông vặt cánh. Cho nên lúc nãy đang ngủ, nghe chồng về báo, bà chồm ngay dậy. Nỗi căm tức mộ bố bị phá còn chưa sôi sục bằng thấy họ nhà mình bị thua thiệt. Bây giờ có cớ bà lập tức như con chim xù lông, thấy đây là lúc tốt nhất để bà túm tóc cả nhà Trình Bá mà ấn dúi xuống!
    - Báo cáo với xã là chúng tôi không có lật đổ ai, chỉ vì mấy người xấu bụng này định hại cả họ nhà chúng tôi. Đã đào mộ bố chúng tôi vừa chôn, lại định đánh chết người nhà chúng tôi ra ngăn. Lúc nãy thằng con tôi không tránh nhanh thì bị bổ chết rồi! Hỏi cả cái gầm trời này có còn ai ác độc hơn thế nữa không? ối bà con làng nước ơi!
    Bà Lộc oà khóc nức nở. Chủ tịch Sửu lại huơ tay nói lớn:
    - Nhưng cứ phải giải tán! Đêm hôm không được làm loạn xà ngầu lên. Có gì sáng mai giải quyết.
    Bỗng một tiếng hét cắt ngang từ phía cuối đoàn người:
    - Tại sao lại giải tán? Định âm mưu đánh tháo những tên có tội hả?
    Rồi đến năm sáu bóng người lừng lững xừng xổ đi lên. Ông Phúc vội kéo tay một người, thì người ấy nói rinh rích như nhai chính giọng nói của mình Bác mặc chúng em. Đấy là những người họ xa của ông Phúc, vừa mắt nhắm mắt mở đến, nhưng đã nghe thủng câu chuyện, họ lên gầm lên. Đây cũng là những thành phần ghê gớm, thật ra họ chẳng thù hằn gì anh em nhà Trịnh Bá, mà lại cay cú với chính Trần Văn Sửu về việc Sửu giải quyết đất đai không đúng ý họ từ hơn năm nay, nên họ muốn nắn gân Sửu cho hả giận. Một người quay sang bà Lộc hét:
    - Thím Lộc câm ngay mồm? Việc gì phải khóc? Cái lý nắm trong tay mình, sao phải khóc?
    Rồi ào một cái, cả sáu người đàn ông đứng vòng tròn quanh Sửu. Lô nhô những đầu gậy và cả một cái lưỡi thùng lùng nhọn hoắt cứ lấp ló sau lưng Sửu. Một bàn tay nặng như cùm ấn vai Sửu xuống. Những khuôn mặt gân guốc như đá đeo, những tia mất sóc sói như đã nổi cơn điên, cứ xỉa vào người Sửu Một giọng nói trầm, nhưng rất sắc chõ vào tai Sửu:
    - Này ông chủ tịch ngụ cư hãy liệu thần hồn! Mở tai ra nghe đây: ông định hống hách với ai? ông định bao che để trả ơn thằng Thủ hả? Định để sáng mai rồi đổi trắng thay đen, *** trâu hóa buồn hả? Khôn hồn phải giải quyết ngay đêm nay, và không được động đến mấy thằng này, nếu không phải có người phá hết lúa má, sẽ đốt nhà rồi dìm ông xuống sông! Những thằng trọc đầu này đã chơi là không ngán đâu.
    Sửu đang tái xám cả mặt mũi, thì chính người vừa nói những lời dao búa ấy quay ra, đấm tay vào thinh không, cao giọng:
    - Tất cả im lặng! Chúng tôi đã hội ý với ông chủ tịch! Ông chủ tịch đã bằng lòng sẽ giải quyết ngay đêm nay. Bây giờ mời ông chủ tịch có vài lời!
    Sửu lách người, đứng ra khỏi vòng vây hãm, nhưng mắt vẫn liếc dè chừng. Cái giọng quyền biến lúc nãy, bây giờ bỗng ngắc ngứ.
    - Xin bà con yên tâm. Tôi sẽ không bao che khuyết điểm cho ai. Nhưng vì đây là việc phức tạp, nên phải có mặt của cả đảng uỷ, uỷ ban và công an, rồi nghe đôi bên trình bày. Vì thế tôi không muốn gây rối loạn giữa đêm thế này.
    Thế là tất cả lại ầm ầm lên:
    - Đừng có nói quanh co tù mù thế! Ông có giải quyết không?
    Ông Phúc bây giờ mới lên tiếng:
    - Tất cả im lặng, mọi việc đã có tôi. Từ nãy đến giờ tôi chưa nói, là tôi muốn xem xã định giải quyết thế nào. Bây giờ chúng tôi yêu cầu: xã phải lập biên bản ngay. Phải giam giữ luôn mấy người này! Tôi đã cho người đi gọi trưởng ban công an và bí thư đảng uỷ tới.
    Sửu quay lại Phúc nói thống thiết:
    - Đồng chí Phúc, tôi đề nghị chúng ta hãy lấy tinh thần đảng viên để giải quyết công việc. Đồng chí định khua cả xã dậy hay sao? tôi được biết tối nay cả bí thư đảng uỷ và trưởng ban công an đều đi vắng không có nhà.
    Lại ầm ầm như vỡ chợ:
    - Khua cả xã dậy cũng được. Đừng có đánh bài chuồn mà không xong đâu? Làm cán bộ thấy việc phải giải quyết, chứ không phải chỉ quen nghe người ta mời vào mâm!
    - Bí thư với công an đi vắng, chúng tôi cũng tìm bằng được có lẩn đằng trời!
    Đang nhao nhao, thì bỗng một giọng rất đanh, vang lên phía trên đồi:
    - Tôi đây! việc gì tôi phải lẩn đi đâu!
    Rồi Thủ nhảy từ trên thành ta-luy xuống. Đôi mắt thường ngày hay nheo cười lấy lòng, bây giờ ánh lên sắc lạnh.
    Thủ liếc nhanh sang Sửu như muốn nói: Anh chỉ tổ gây rối thêm việc! Đáng lẽ phải vờ nhũn để lấy lòng họ, để dập tắt đám cháy, rồi sẽ tìm cách phản công sau, thì anh lại chọc tức họ, rõ là chọc tổ ong, ngốc!..
    Sửu đã đọc được những lời chỉ trích ấy và ông chủ tịch sổ xổ đứng co người lại.
    - Thưa bà con! - Thủ cố hạ giọng, nhưng tiếng vẫn run lên - Tôi mới được tin vội đến đây ngay. Nhưng tôi đã nghe rõ sự việc. Như vậy là người nhà của chúng tôi sai. Mức độ thế nào đã có pháp luật phân giải. Tôi đồng ý sẽ giải quyết ngay đêm nay. Ngày mai sẽ mời huyện về xem xét. Bây giờ tôi yêu cầu đồng chí Phúc, đại diện bên tố cáo, cùng chúng tôi lên văn phòng uỷ ban để lập biên bản. Còn tất cả xin mời về nghỉ để đảm bảo trật tự an ninh.
    Bà Lộc lại the thé:
    - Nhưng giữ ba người phạm pháp này lại không được thả.
    Thủ khoá tay dứt khoát:.
    - Tôi đồng ý! - Bên chúng tôi không phải chỉ có mình ông Phúc, mà phải có cả thằng Quyền con tôi bị chém hụt, rồi ông Thó bị mua chuộc cùng lên để kể rõ sự việc vào biên bản.
    - Tôi đồng ý!
    Một tiếng thở phào từ cuối đám đông:
    - Có thế chứ!
    - Nghe lọt tai đấy!
    Sự nhũn nhặn của người có quyền cao nhất xã, cộng với sự đầu hàng của người đại diện cho dòng họ Trịnh Bá đã làm cho quả bóng đầy hơi của chi họ Vũ Đình được mở van. Cả đến những anh chầu rìa sẵn sàng nhảy vào đánh hôi tuốt tuột cả hai dòng họ, giờ cũng toát ra cười hể hả! Những bộ mặt đang hầm hè hến chùng ngay xuống. Duy nhất chỉ có một người nghe lời mềm mỏng của Thủ, thấy như mình bị thoi từng quả đấm vào tim. Miệng chỉ chực gầm lên chực chửi bới tất cả, chân tay đập phá tất cả. Đấy là ông Hàm!
    Ông trừng trừng cặp mắt cá rói nhìn thẳng vào Thủ, người cùng giọt máu với ông. Người xưa nay quen gặt hái trên công lao nhọc nhằn của ông. Ông đã vì hắn mà nai lưng ra cáng đáng mọi việc như một con lừa! vậy mà hắn đã bán phéng ông! Đồ đểu! Mặc cho ông Hàm tức giận đến dựng ngược cả mái đầu bông gáo, nhưng lên tới văn phòng uỷ ban, ông vẫn phải ký vào biên bản rằng: ba bác cháu ông cùng một lúc đã phạm vào hai tội: phá mộ người mới chết và hành hung thân nhân người chết khi họ ra can ngăn.
    Cả hai tội đều to kềnh! Đó là hai cánh cửa để đón ba bác cháu vào tù! Biên bản được lập trước sự chứng giám của những người chủ chốt của chính quyền địa phương: bí thư đảng uỷ, chủ tịch xã và phó ban công an.
    Đồng chí phó ban công an thực sự bị dựng dậy từ trong buồng vợ, giữa lúc đồng chí đang lắp ghép bức tượng người hai lưng? Phó ban công an là cháu bên vợ Thủ, gọi Thủ bằng dượng. Thế nghĩa là ba người này: bí thư, chủ tịch xã và phó bạn công an rất hợp ý, hợp lòng như ba chân kiềng. Vậy mà vẫn thua. Vẫn phải làm theo yêu cầu của Vũ Đình Phúc, là xã quyết đinh tạm giam ba bác cháu ông Hàm để hôm sau huyện về phân xử. Và ba bác cháu ông làm đã nằm chờ sáng trên mấy cái ghế băng ghép lại trong căn phòng dùng làm nhà kho ngổn ngang những cờ, đèn, kèn, trống, panô, khẩu hiệu của xã. Một căn phòng tối tăm đây những mùi mốc, mùi bụi. Bên ngoài cửa khoá trái. Đích thị là nhốt những thằng tù! Xong việc, Thủ vừa ra đến cổng uỷ ban thì gà gáy canh hai. Người mệt như rút tuỷ. Thủ cay đắng nhận thấy chính mình, đang có trong tay cả một chính quyền, nhưng vừa bị thua một cú nốc ao! Chính anh, vừa phải bàn giao cả uy tín và sức mạnh của cá nhân mình, của dòng họ mình cho Vũ Đình Phúc! Hai tay Thủ bỗng chốc như tuột hẫng, không còn biết bấu víu vào đâu. Xung quanh trống hoác!
    - Anh ạ, ta bàn xem - Sửu bước vội lên gần Thủ, rụt rè nói.
    - Thôi! - Thủ dằng giọng, bước nhanh. Anh cũng tự thấy mình vô lý khi nổi cáu với Sửu, nhưng lại không thể ngọt được! Cả Sửu và Cao, phó ban công an đều không dám gọi Thủ lại.
    Vừa ra đến cổng, Thủ bỗng giật mình khi thấy một bóng người quen quen đang đứng tựa vào gốc cây bạch đàn phía trước.
    - Ai? Cái Đào hả?
    Thủ vừa lên tiếng, thì bóng người con gái đang đứng ủ rũ ngửng phắt lên, giọng đanh lại, đúng là con gái ông Hàm!
    - Phải! Cháu đây! Chú đã cứu một người ruột thịt của chú như thế đấy! - rồi Đào khóc hức hức lên, chạy xiêu xiêu nhoà vào những bóng cây tối thẫm.
    Thủ đứng lặng, lòng tan nát!
    Đào vẫn chạy xuôi theo đường, miệng vẫn khóc nức lên như bị đòn oan, như bị hắt hủi. Nhưng Đào vốn là cô bé không chỉ biết có sướt mướt. Mang hình dáng mẹ, một hình dáng thon óng, gợi cảm gợi tình, nhưng trong người Đào là dòng máu bố, chất máu của sự quyết đoán và bạo liệt. Khóc cho vợi lòng, rồi Đào lần lần nhớ lại. Đào thấy mình đã bị lừa!
    Mà người lừa cô không phải ai xa lạ. Chính cái người tối tối Đào vẫn phải tìm mọi cớ cho lọt tai hai cụ via, để rồi cô lao bố ra gốc nhãn, ra điểm hẹn, điểm say mê của hai người. Đến khi về nhà, đêm đã rét se se, nhưng Đào vẫn dội nước lạnh để cho dịu người lại. Da thịt cứ hôi hổi, bừng bừng. Có hôm cái Hoa sang ngủ chung, đêm nằm mơ, Đào cứ ôm ghì lấy đưa em, dụi đầu vào mặt nó, đến khi cái Hoa kêu thét lên, Đào mới tỉnh. Sáng dậy, đang rửa mặt, cái Hoa bỗng sực nhớ, và ở đứa con gái mười hai tuổi, đã có nhạy cảm về giới tính, nó nháy mắt quay sang bà Son: U ơi đêm qua chị Đào ghê quá? Đào gần như hét lên, lấp liếm cất ngang lời nó: Im đi! Đừng có nhí nhố! rồi Đào kèm sát nó, thấy nó định mở miệng là chí tay vào sườn, cho đến khi nó đi học cô mới thở ra cười thầm. Để rồi đến tối, trước sự háo hức của người con trai, Đào hãy tay ra, béo vào tai Tùng khoan đã nào, để yên người ta kể cho mà nghe chuyện đêm qua người ta mơ. Rồi kể, rồi cả hai cười rinh rích rồi ôm cuốn lấy nhau. Những vòng tay siết chặt như bện thừng!
    Đêm nào gặp nhau cũng như men, như lửa. Rồi xa nhau chỉ mươi tiếng đồng hồ, và chỉ có cánh nhau một cánh đồng, nhưng lúc chia tay cứ bịn rịn nấn ná. Người này nhìn như uống lấy người kia. Đang đi, lại đứng, lại ngồi dùng dằng nối tiếc. Nhưng tối nay rõ ràng là khác lắm. Hắn vội vội vàng vàng như người mất của. Vừa đến đầu rặng tre kia là hắn quay lại phới ngay. Thế mà lúc ấy mình ngu quá, không phát hiện ra. Hắn đã chạy vội về để huy động cả họ hàng ra đồi sim bắt mấy người làm bậy. ừ thì mấy người này sai rồi, nhưng thiếu gì cách để ngăn cản họ. Chỉ cần một mình hắn chạy ra đánh động từ xa, thế là đủ để mấy người kia bỏ chạy ré kèn. Nhưng hắn đã không làm thế. Chinh hắn đã đầu têu, đã tồ chức ra cái việc bắt bớ này. Đào lại khóc nức lên uất ức. Cô đang thầm hoạch tội hắn, tức là tính sổ Tùng với tất cả sự vứt bỏ và căm thù!
    Cả bà Son và cái Hoa cũng đang nằm khóc. Cái Hoa cứ ôm lấy bà Son khóc như bị mắng, bị phạt từ lúc Đào tất cả chạy theo đám người đèn đuốc rừng rực dong ba bác cháu ông Hàm lên xã. Lúc ấy bà Son đi như lê từ ngoài cổng vào. Chỉ tới được chiếc giường là bà lăn ra như không còn xương cốt. Buổi tối thấy Thó đến với bộ mặt thấp thỏm, bà đã nghi nghi. Rồi về khuya thấy ưởng và Ngạc, hai ông cháu bất hảo đến, thì bà Son thấy rõ mấy người này sắp làm cái gì vụng trộm. Chiều ý ông Hàm, bà vào buồng nằm, cố lắng tai nghe, nhưng không sao rõ được những lời thì thầm của họ. Thôi mặc, lại đến đi móc trộm gỗ, trộm phản của ai là cùng chớ gì. Cái ông này đến lạ, có thiếu thốn gì cho cam. Hay đấy là cái máu của những anh cầm tràng đục? Nhìn thấy gỗ đẹp, gỗ tốt là cứ mắt la mày lét như anh háu sắc thấy gái!
  9. keodau

    keodau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/01/2008
    Bài viết:
    22
    Đã được thích:
    0
    Khi họ dắt nhau đi, thì bà Son đã thiu thiu ngủ. Rồi chó cắn rầm rĩ, rồi người la, rồi những bó đuốc đùng đùng cứ huơ lên như phát cuồng. Thấy ông Hàm chưa về, linh tính bỗng báo cho bà có cái gì không lành. Bà chạy ra đường cái chính. Rồi bà dụi mắt mấy lần để nhìn xem có đúng là ba bác cháu ông Hàm bị trói và đang bị dong đi kia không. Đến khi thấy đúng là thật rồi, chứ không còn mộng mi gì nữa, bà đã nhìn thấy ông Phúc và cái đám đông kia hầu hết là anh em họ hàng nhà Vũ Đình, thì bà Son run hết cả chân tay, ngồi khụy xuống, nước mắt chảy ràn rụa. Chắc chắn không phải chuyện gỗ lạt rồi, cái gì đó nghiêm trọng hơn nhiều. Bà Son chạy tắt về nhà, dựng Đào đang ngủ mê mệt dậy. Chưa hết tuổi ăn tuổi ngủ, lại được tình yêu đắm say ru vỗ nên đặt mình xuống là Đào trôi ngay vào giấc ngủ vừa bềnh bóng vừa thăm thẳm.
    Đào khoác vội áo, rồi vùng chạy theo đám đèn đuốc. Lát sau lại chạy bổ về kể đầu đuôi cho bà Son nghe. Bà Son thất kinh, miệng mếu máo kêu: Giời ơi! Sao thầy mày dám làm cái việc ác ấy? Chân tay bà càng run như eơn kinh giật. Thì ra ông ấy thù hằn anh em nhà Vũ Đình ghê gớm quá nhưng ông ấy lại chuốc lấy tai hoạ rồi! Một lần nữa ông ấy lại thua rồi. Lần trước thua, ông ấy đã trút sự uất ức lên đầu bà. thua lần này, ông ấy sẽ đổ vào đâu ai? Càng nghĩ, bà Son càng tuổi cho cái số của mình, chỉ muốn yên phận mà cũng không được. tiếng khóc cứ lặng đi. Cái Hoa cũng đã thức. Ba mẹ con rặt đàn bà con gái ôm nhau khóc như nhà có đám. Đào lại vùng dậy chạy ra đường.
    - Mày còn đi.đâu? - Bà Son kéo áo Đào.
    - Con phải đi xem người ta làm gì thầy.
    - Đừng có lu loa, Đừng có gây sự với họ nữa con ơi! Mình sai rồi? - Bà Son nói như van vỉ. Bà biết tính con gái. Khi cần nó cũng đanh đá ghê gớm lắm, chứ không mềm mỏng như thằng Dương anh nó. Nó giống thằng Dinh, tính cục. Ngày mới lớn đi chăn trâu, Đào đã thấy lần đánh nhau với con trai, mà lại đánh được! Vì lúc tính cục nổi lên, Đào vớ cái gì đánh nấy, vớ gì phang nấy. Đám con trai làng này vừa thích nó, lại vừa sợ nó!
    - U cứ mặc kệ con! - Đào vùng vằng rồi lao ra cổng.
    Và cô đã đi theo đoàn người đến tận cùng, đến phút chót. Đào lùi lại một quãng khuất vào bóng tối để không ai nhận thấy mình. Đào cố nhìn nhưng không thấy hắn. Thế tức là hắn ném đá giấu tay! Hiểm thế! Cụ bô thế mà tinh, ngay từ hôm đầu cụ đã bảo hắn không phải tay vừa! Tới uỷ ban, Đào núp trong bụi chuối ở góc vườn. Đến khi thấy người ta đưa ba bác cháu ông Hàm về gian nhà kho ở cuối hội trường, thì Đào định nhảy ra hét lớn. Nhưng rồi cô đã kìm được khi quyết định chờ Thủ ra để trút hết sự giận dữ lên ông chú đang nắm quyền cao nhất xã, vậy mà bây giờ đã hoàn toàn bất lực.
    Nhưng rồi Đào chỉ ném được câu trách móc ấy vào người Thủ, rồi khóc tứe tưởi chạy về nhà.
    Đào đi sầm ầm lên nhà trên. Bà Son văn mở cửa. Ngọn đèn con vặn nhỏ đề trên bàn sa-lông giữa nhà. Bấc đèn có hoa. Người hay tin điềm, cho đó là một báo hiệu xấu.
    Cái Hoa nằm ôm lấy bà Son, rúc đầu vào nách mẹ như sợ một tai hoạ gì sẽ đến với chính nó.
    - Người ta làm những gì với thầy? - Bà Son nhỏm lên tiếng đã rè đặc.
    Trong ánh sáng vàng mờ của ngọn đèn, khuôn mặt bà Son như gầy võ hẳn đi.
    - Ông Thủ cũng chẳng được cái tích sự gì! Anh em ông Phúc yêu cầu thế nào, mấy ông xã cũng phải chịu nghe thế? - Đào vừa nói dằn giọng, vừa róc nước như xối ra cốc, uống; rồi vặn to ngọn đèn. Bà Son sửng sốt thấy Đào đã có cái giọng đúng là người của dòng họ Trịnh Bá khi nói về người dòng họ Vũ Đình. Nó nhiễm cái máu ấy từ bao giờ? Sao lại nghe phong phanh là nó với thằng Tùng con bà Sang phải lòng nhau?
    - Lúc đi thầy có nói gì với u không? - Đào vẫn ngồi lầm rầm ở ghế, giọng đanh lại chứ không còn sùi sụt nữa.
    - Những chuyện riêng của thầy mày có bao giờ tao được biết? - Bà Son nói ấm ức - Lúc mấy người kia đến, thầy mày còn không cho tao ngồi gần sợ nghe thấy. Chả nhẽ việc như thế ông Thủ lại không biết?
    Đào buông một câu, càng đúng là cái gien ông Hàm:
    - Có biết bây giờ cũng chối là không!
    Chiếc đông hồ ô-đô trên tường buông năm tiếng. Cả bà Son và Đào chợt khẽ rùng mình. Bởi cả hai người cùng hiểu sáng ra, giữa thanh thiên bạch nhật, chuyện nhà bà sẽ càng ầm ĩ cả làng, cả xã. Rồi những người không ưa ông Hàm, không ưa họ mạc nhà này sẽ được dịp cười cợt khích bác cho bằng thích để hả lòng hả dạ. Kể cả những người không yêu không ghét, xưa nay không có xích mích gì, nhưng thấy một nhà phong lưu một dòng họ phong lưu bị sa sẩy, thì họ cũng vẫn cứ thích? Nhất là lại được nói những lời an ủi, được san sẻ nỗi âu lo với các người quen đứng ở trên mình, thì sự thích thú càng tăng! Bởi lâu nay họ phải nhìn thấy anh em nhà Trịnh Bá may mắn nhiều rồi, làm chơi ăn thật nhiều rồi, đến bây giờ họ mới được đưa tay ra cảm thông cùng những lời trắc ẩn để an ủi anh em nhà Trịnh Bá thì còn gì thú vị bằng! Làm thế là chính là để tự vuốt ve mình đấy thôi! Được đưa tay cúi xuống nâng người khác, bao giờ cũng dễ chịu hơn rất nhiều là phải kiễng chân để xin một ân huệ! Bà với con Đào cũng sẽ bị họ cười vào mũi! Nhan sắc hơn người mà! Nhan sắc luôn là con dao phản chủ!
    Mặc nỗi lo của mẹ con bà Son, đêm đông tỏ ra sáng dần.
    --------------------
  10. congaituthan

    congaituthan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/06/2007
    Bài viết:
    150
    Đã được thích:
    0
    Chương Ba?y
    Đã sáng một lúc lâu nhưng Thủ vẫn chưa muốn dậy. Mặc dù từ lúc ở xã về đến giờ anh không hề chợp mắt. Người cứ như rỗng không. Đêm qua về đến nhà không thiết rửa ráy, Thủ vào ngã người ngay xuống giường. Vợ Thủ nằm với đứa con gái nhỏ ở góc bên kia, nói với sang:
    - Thầy nó có đói đi ăn cơm thêm? Buổi tối cậu Lưu cho thịt vịt em vẫn để phần đấy.
    Vì nhà Thủ ở khuất, lại xa đường, thêm cái nết ngủ của Luyến đến súng bắn bên tai cũng coi khinh, nên vợ con Thủ chưa hay biết gì cả. Thủ nói lừng khừng:
    - Ăn rồi. Sáng mai không được gọi tôi đấy nhá!
    Rồi Thủ tắt đèn, mắt mở chong chong nhìn vào đêm tối. Đau óc nhức tấy lên. Lần này thì Thủ thật sự bị đôn vào chân tường rồi, không còn lượn lờ dựa dẫm vào ai được nữa. Về mặt xã và chính quyền, đã có Sửu và những người khác, họ cứ dựa vào pháp luật mà thi hành, dễ ợt. Nhưng với Thủ là cả dòng họ Trịnh Bá trông vào anh. Phải tự xoay xỏa. Lúc này một mình một ngựa, một mình một chiến trường! Xưa nay Thủ chưa hề thấy sự bức xúc trong việc giành chỗ đứng cho dòng họ, bởi Thủ không có những uẩn ức riêng tư như Hàm, và mọi việc đối với Thủ đều quá thuận lợi, đều ở trong tàm tay. Vậy mà ông Hàm chơi cú này đến mất cả chì lẫn chài của dòng họ Trịnh Bá đây! Thủ cũng đến chết chìm theo con thuyền này! Chịu khoanh tay phó mặc sao? Muốn thay đổi thế cờ thì thay cách nào? Đến nước này trở tay không được đâu. Cánh lão Phúc nó cúng có sừng có mỏ chứ không phải dân ngu cu đen gì mà dễ bắt nạt.
    Thủ hết nằm ngửa lại nằm nghiêng. Đầu ong ong. Sáng ra Thủ nghe thấy tiếng mấy mẹ con thì thào rồi đi lên đi xuống đây sốt ruột, nhưng vẫn không ai dám đánh thức Thủ. Bây giờ lại nghe tiếng Sửu ở ngoài sân, rồi vợ Thủ cứ thế á, thế á đầy hốt hoảng.
    Dường như không đừng được nữa, vợ Thủ rón rén lại bên giường gọi nhỏ:
    - Thầy em dậy đi, có chú Sửu đến.
    Thủ vừa dụi mắt, chui ra khỏi màn, thì Sửu đã quần ống thấp ống cao nét mặt rầu rầu như người có lỗi, đến bên Thủ:
    - Gay lắm anh ạ! Cứ ầm ĩ từ sáng đến giờ. Đám trẻ con thì bỏ cả học, cứ bâu lấy hội trường. Cánh nhà ông Phúc đã cho người lên huyện báo từ sớm, chắc lúc nữa họ về. Ta phải làm gì hả anh?
    Nhìn Thủ cứ ngồi lựng với bộ mặt mất thần, Sửu càng lúng túng. Mới cớ một đêm mà anh ấy hốc hác đi khiếp quá. Đúng như người ta nói đa suy tổn tỳ, nghĩ nhiều tổn thọ. Sửu lại nói nho nhỏ:
    - Cánh nhà ông Phúc cũng đáo để. Đêm hôm qua họ bí mật gài hai
    người ngồi suốt đêm ở nách hội trường để nếu xã đánh tháo bác Hàm, thì họ sẽ la lối lên.
    Vợ Thủ bưng chiếc mâm từ dưới bếp lên. Bên trên là tô cơm rang và đĩa thịt vịt xào. Chị vừa dọn bàn, vừa nói sẽ sàng:
    - Thầy em đi rửa mặt, rồi mời chú Sửu ăn tạm bát cơm.
    Sửu quay lại lấy làm may mắn đã có cớ rút lui để khỏi phải ngồi với Thủ lúc này.
    - Thôi tôi ăn rồi. Sáng nay bên tôi vẫn còn nồi xáo ăn cố mới hết.
    Rồi Sửu quay sang Thủ hỏi nhỏ:
    - Tý nữa anh có lên xã không? Tôi thấy lúng túng quá.
    Thủ đáp sổng:
    - Tôi sẽ lên.
    Sửu tươi nét mặt.
    - Vâng thế tôi lên trước nhé.
    Dứt lời, Sửu ra sân dắt xe đi ngay. Sửu còn chưa nói với Thủ chuyện này: ấy là hai người của nhà họ Vũ Đình gài nằm lại ở nách hội trường đã nghe hết chuyện lục đục của bác cháu ông Hàm trong đêm. Thằng ưởng nằm trên hai chiếc ghế băng ghép lại, thừa cả đầu cả đuôi. Đang nằm thẳng đẵng như khúc gỗ bỗng nó co chân đập chan chát xuống ghế, miệng chửi rầm lên. ở bên ngoài chỉ nghe nó hét Mẹ kiếp! Mẹ kiếp Không biết nó mẹ kiếp với ai! Rồi nó làu nhàu những gì, cũng không nghe rõ. ở góc bên kia, ông Hàm và thằng
    Ngạc nằm chung trên mặt bàn. Thằng Ngạc nhổm lên văng tục sang thằng ưởng Làm đ. gì mà rống lên thế? Ông Hàm nằm im không động cựa, miệng chỉ làu bàu im nào! im nào Nhưng thằng ưởng không im, chốc chốc nó lại dộng chân thình thình, lại văng tục ầm ĩ.
    - Thế tức là ông via trưởng họ mất thiêng rồi! Cá mè một lứa rồi! - Vừa kể chuyện oang oang trước đám đông, hai người của họ nhà Vũ Đình vừa bình, vừa đế thêm vào rồi gã con trai nhà bà Lộc cao như cái sào chọc mít cứ hoa đôi tay dài ngoằng, hét tướng lên khoái trá: Thế là nội bộ họ lục đục rồi! Khỉ tự vặt lông khỉ rồi!
    Người ta xúm đông xúm đỏ nghe chuyện, cười hấng nhấc khoái chí lắm!

Chia sẻ trang này