1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Minh Giáo, lịch sử và huyền thoại

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi panzerlehr, 19/03/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. panzerlehr

    panzerlehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2004
    Bài viết:
    935
    Đã được thích:
    0
    Minh Giáo, lịch sử và huyền thoại

    Bài này đúng ra để bên box kiếm hiệp cũng được nhưng do nó có nhiều tính chất lịch sử, văn hoá và tín ngưỡng hơn cho nên em để quách vào đây để mọi người cùng bàn luận :


    Minh Giáo của Kim Dung và sự thật ​

    bài của Leviathan

    Đạo Minh là 1 tôn giáo đã thất truyền từ lâu, hiện nay chỉ còn vài nhà khảo cổ học và sử gia còn chú ý tới. Vào những năm 70, nhà văn Kim Dung đã xử dụng đạo này làm đề mục chính trong tiểu thuyết võ hiệp (Wuxia)"Ỷ Thiên Đồ Long ký", từ đó đạo Minh đã từng bị lãng quên được hàng triệu độc giả chú ý. Kim Dung đã tìm kiếm rất kỹ càng về Minh Giáo và cả về lịch sử những phong trào tôn giáo bí mật có liên kết đến giáo phái này. Vì thế những hoạt động của giáo dân Minh trong truyện đều khớp với những sự kiện lịch sử. Nhưng tiểu thyết vẫn là tiểu thuyết, truyện kiếm hiệp không phải là sách lịch sử ... Minh Giáo của Kim Dung vẫn có gì đó khác với Minh Giáo đã có thật.

    Nguồn gốc của Minh Giáo​

    Minh Giáo thật sự là như thế nào? ở hồi 25, Trương Vô Kỵ lúc đọc cuốn sách của Dương Tiêu "Minh Giáo lưu truyền Trung Thổ ký" có đọc :
    "Minh Giáo nguyên từ nước Ba tư, có tên là Ma-Ni giáo truyền sang Trung Quốc vào năm Diên TảI thứ nhất, đời Đường Võ hậu (VõTắc Thiên). Thời đó người Ba Tư tên là Phật Đa Diên (???) đã mang bộ "Tam Tông kinh" (Bible of Dualism) vào triều. Từ đó người Trung Quốc mới biết đến bộ kinh này.
    Ngày 29/6 năm Đại Lịch thứ 3 đời Đường "Đại Vân Quang Minh Tự" được xây cất tại Lạc Dương , Trường An (...)
    Nhưng đến năm Hội Xương thứ 3, triều đình ra lệnh giết các giáo đồ làm thế lực của Minh Giáo đại suy. Từ đó, Minh Giáo trở thành 1 giáo phái bí mật, bị nghiêm cấm, triều đại nào cũng bị quan phủ truy lùng giết hại. Để suy tồn, Minh Giáo không thể không hành sự ngụy bí, để rồ i chữ "Ni" trong Ma-Ni Giáo bị lược mất chỉ còn là Ma Giáo, Ma thành chữ có bộ "thủ" của chữ ma quỷ ..."

    Người sáng lập ra đạo Ma-Ni tên là Ma-Ni (216-276) sinh ra ở Babilon ( lời của người dịch : tức là Bát-đa ngày nay ) thời Ba Tư đô hộ. Tưtuổi 12 đến 24, Ma-Ni được "1 thiên thần cho biết mình sẽ là tiên tri cho lời Thượng Đế". Đến tuổi 26, Ma-ni bắt đầu 1 chuyến chu du lâu dài với tiên hiệu "Người truyền Sự Thật" qua đế quốc Ba Tư đến Ấn Độ và được thấm nhuần bởi đạo Phật. Ma -Ni với sự bảo hộ của hoàng đế Ba Tư Shapur đệ nhất đãtruyền giáo đạo của mình. Rất nhanh chóng đạo của ông ta đã lấn chiếm phần của đạo Zarathoustra (đạo một thượng đế đầu tiên, rất phổ biến ở Ba Tư trước khi bị đạo Hồi chiếm chỗ) và với hoàng đế mới Bahram đệ nhất, Mani mất bảo vệ và đã chết do hoặc trong tù hoặc bị hành quyết. Cái chết của Mani được kể lại li kì không kém gì cuộc lên thánh giá của Dê-Xu.

    Những học thuyết của Mani được truyền lại với cái tên "Manicheism", nó gắn với nhiều đạo khác chẳng hạn như Thiên Chúa, Gnostic, Zoroastre (Zarathustra). Trung tâm của đạo Manichean là sự phân đôi của thế giới, cũng như của tất cả vạn vật ra phía Tốt, với Chúa Ánh Sáng làm chỉ đạo và phía Xấu chỉ đạo bởi sân si. 2 phiá hoà toàn độc lập với nhau, nhưng trên thế giới thì lại được trộn lẫn. Tất cả sinh linh đều được tạo ra từ chất Xấu, nhưng đề u có 1 chút ánh sáng Tốt cần phải làm phát triển để vượt qua được cái xấu xa của thể xác. Khi thế giới và vạn vật được xây dựng, cái đêm xấu đã nhập được vào với ánh sáng tốt. Từ đó có 1 trận đánh liên miên giữa ánh sáng và ban đêm trên trái đất và nhất là trong mỗi người. Tất cả những gìcho ánh sáng đều thuộc phía tốt, và tất cả những gì hút ánh sáng đều theo phía xấu. Tất cả mọi người đều có mầm mống ánh sáng trong người và cách duy nhất để phát triển nó là qua diễn biến chung của trận đánh giữa xấu và tốt, và chiến đấu sự đố kỵ và dâm đãng (envy and lust).
    Đạo Manicheism được truyền bá trên khắp thế giới thời đó từ Tây Ban Nha đến Trung Quốc trong khắp thiên niên kỷ thứ nhất sau công nguyên. Nhưng từ thế kỷ thứ 10, đạo này biến mất ở châu Âu và tưthế kỷ thứ 14 ở Trung Quốc. Đến nay thinò đãhoàn toàn biến mất. (lời người dịch : ngày nay trong tiếng Anh hay tiếng Pháp, từ Manicheism vẫn còn được dùng để chỉ tâm trạng suy nghĩ theo kiểu phân chia thiện ác, trắng đen rõ ràng).


    Đạo Manicheism ở Trung Hoa​
    Như trong truyện "Ỷ Thiên Đồ Long", đạo Manicheim được cho rằng đã xâm nhập Trung Hoa vào thời Võ Tắc Thiên (năm 694),
    trong khoảng 80 năm đến năm 762, đạo này là quốc đạo của người Thổ ở vùng Uighur (Tây Vực ???), đồng minh hùng mạnh của nhà Đường. Với vai tròquan trọng của Uighur hãn, đạo Mani được xem là đạo quan trọng nhất trong số 3 đạo nước ngoài ở Trung Quốc (Manichean, Nestorian và Zoroastrian). Nhưng với sự lụn bại của đế quốc Uighurs, đạo Mani cũng xuống dốc. vào năm Hội Xương thứ 3 (853), Hoàng đế Wuzong chính thức đặt đạo Mani ngoài vòng pháp luật. Các giáo đồ Mani trung quốc bị tàn sát phải lẩn trốn và mất liên hệ với các nhánh Mani ở phương tây.

    Minh Giáo nổi tiếng do tính chất bạo loạn của nó vào thời hậu Lương (Liang) (907-923). Minh Giáo bắt đầu từ loạn Yi Mu (???). Trong thời Bắc Tống, Minh Giáo đã dính líu vào nhiều cuộc nổi loạn, nhất là ở các vùng dông nam như Jiangsun, Zhejiang, Fujian (Phúc Kiến ???). Minh Giáo cũng có 1 thời gian ngắn sống lại thời nhà Nguyên khi đông đảo quần chúng theo họ để lật đổ người Mông Cổ. Nhưng sau khi nhà Minh được thành lập năm 1368, giáo phái dần dần biến mất cho đến diệt vong hoàn toàn.

    Minh Giáo Trung Quốc và Minh Giáo Ba Tư ​

    Trong truyện Minh giáo Ba Tư có gửi sứ giả và vương gia sang Trung Nguyên tìm kiếm Càn Khôn Đại Nã di và định chỉ huy Minh Giáo Trung Quốc với thánh Hoả Lệnh dẫn đến trận đánh với giáo chủ Trương Vô Kỵ (hồi 29). Nhưng trong lịch sử sự liên kết giữa Minh Giáo 2 nơi như thế nào ?

    Theo các nghiên cứu lịch sử, sau cái chết của Mani vào năm 276, nhiều đệ tử của ông ta chạy sang Trung Á lập ra các chi nhánh ở đây. Vào thế kỷ thứ 6, phân đàn Trung Á chính thức tách khỏi tổng đàn Ba Tư. Theo "con đường tơ" (lời người dịch : đường thương mại dũa châu Âu và châu Á), đạo Man đã vào Trung quốc từ phân đàn này chứ không phải tổng đàn Ba Tư.
    tổng hành dinh của Minh Giáo Trung quốc được đặt ở Samarkand. Vì vậy, sự giao thiệp giữa Minh Giáo Trung Quốc và tổng đàn Ba Tư chưa bao giờ có. Hơn nữa "Ỷ Thiên Đồ Long Ký" xẩy ra vào khoảng 1360 khi mà đạo Mani đã hoàn toàn biến mất ở Ba Tư và Trung Á trước phát triển của đạo Hồi. Minh Giáo lúc này là phần tử còn lại duy nhất của đạo Mani trên thế giới. Do đó chuyện tìm kiếm thánh nữ Tiểu Chiêu để làm giáo chủ của Minh Giáo ở Ba Tư là không thể xẩy ra. (lời người dịch : )

    Minh Giáo và triều đại nhà Minh​
    Vào cuối truyện, Chu Nguyên Chương đánh lưà Trương Vô Kỵ để chiếm lấy quyền hành, khi y trở thành hoàng đế, y đã lấy hiệu Minh để tôn thờ Minh Giáo. Nhưng trong lịch sử, Chu Nguyên chương là 1 viên tướng của Liu Futong (Lưu ???). Liu FuTong thuộc phái Hoa Sen Trắng, đảng bán tôn giáo rất bị ảnh hưởng bởi tư tưởng Minh Giáo. Liu Futong công nhận người con của trưởng môn Han Shantong (Hàn Sơn Đồng) phái White Lotus là Han Lin''er(Hàn Lâm Nhi) làm con cháu nhà Tống. Hàn Lâm Nhi được phong là "Tiểu Minh Vương" hoàng đế nhà tân Đường (Minh Vương là chúa ánh sáng chỉ huy phái Tốt trong đạo Mani).
    Sau khi Liu Futong chết, quyền lực dần dần rơi vào tay Chu Nguyên Chương và Hàn Lâm Nhi trở thành 1 ngụy hoàn đế. Sau đó, chu Nguyên Chương cho giết hại Hàn Lâm Nhi để lấy ngôi. Tên gọi nhà Minh là để tôn sùng "Tiểu Minh Vương" và lấy tính chính thống của người tiếp nối Hàn Lâm Nhi. Không có 1 bằng chứng nào cho thấy là Chu Nguyên Chương đi theo Minh Giáo hay đặt tên cho triều đại nhằm truyền nối giáo phái này.
    Hơn nữatrong truyện có nhắc tới giáo chủ Minh Giáo Fang La thời Bắc Tống nổi loạn. Nhưng trong quá khứ, nhiều sử gia cho rằng Fang La là người của Minh giáo chỉ vì chuyên ăn chay. Gần đây nhiều nhiều cứu mới không tìm được bằng chứng nào khác về mối quan hệ của Fang La với Minh Giáo.

    Minh Giáo, truyền thống và tục lệ​
    1- Ăn chay và cấm uống rượu :
    Phần này Kim Dung đã mô tả khá đúng với những nghiên cứu lịch sử. Trong truyện, Trương Vô Kỵ đã bác bỏ luật lệ ăn chay do khan hiếm thức ăn (hồi 25 ) và do Quang Minh Đỉnh ở núi Côn Luân là 1 vùng ít rau cỏ khó có thể thực hiện được điều luật này (hồi 23 ). Đây là hoàn toàn sai. Vùng tây vực trong quá khứ là 1 vùng nổi tiếng về số lượng hoa quả trồng trọt. Ngươì Minh Giáo xem hoa quả như 1 nguồn ánh sáng cho nên đó là 1 loại thức ăn lý tưởng. Ngay và o nhưñg năm đói cuối đời nhà Nguyên, không mấy giáo chúng từ bỏ luật lệ này, trừ những người từ đạo

    2- Ăn mặc :
    Trong truyện người Minh giáo mặc đồ trắng với hình thánh hoả khâu lên trên. Trong lịch sử các nhà tu Minh giáo có mặc đồ trắng, mũ trắng. Nhưng người thường không cần phải mặc. Hình thánh hoả là do Kim Dung đặt ra.

    3- tín ngươñg ngọn lửa :
    Trong truyện, Minh Giáo thờ ngọn lửa. Thật ra dù đạo Mani thờ anh sáng nhưng không có lễ thờ ngọn lửa nào. Thờ lửa là một phần của đạo Zoroastre. Minh Giáo trong lịch sử không có thờ cúng lửa cho nên cũng không có nguyên nhân nào để khâu ngọn lửa trên áo. Kim Dung đã mượn những mô típ của đạo Zoroastre để cho đạo Mani Minh Giáo sinh động hơn. Nhiều người trước kia đã nhầm lẫn từ hình ánh lửa trong truyện này rồi suy Minh Giáo là 1 nhánh của đạo Zoroastre.

    Source :
    "Heaven Sword and Dragon Saber", Louis Cha
    "Jin Yong bixiade Ming Jiao yu lishi de zhenshi", Lin Wu-Hsu
    "Wo xin de Jin Yong lishi", Wang Yue
    "Mani", Encyclopedia of the Orient
    "Manichaeism", Encyclopedia of the Orient

    nguyên bản tiếng anh của bài trên :
    http://www.spcnet.tv/article_mingcult.shtml

Chia sẻ trang này