1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Mổ xẻ tên lửa có điều khiển(Guided Missle)

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi ducsnipper, 12/11/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ducsnipper

    ducsnipper Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/04/2003
    Bài viết:
    1.866
    Đã được thích:
    0
    Mổ xẻ tên lửa có điều khiển(Guided Missle)

    Hehe, hôm nay làm gan chơi cai topic này cho pà con thửơng lãm, dạo này box như cái chợ buôn dưa lê, chả có ai chịu khó mổ xẻ chi tiết về mấy món đồ chơi chi cả, toàn nói chuyện gì đâu chán wé?.., trong phạm vi bài này nói có gì sai sót về kỹ thuật mong bà con góp ý hehe, vì dù sao cũng chỉ là tay ngang mà thôi.

    Đầu tiên xin nói qua về tên lửa không có điều khiển (unguided missile). Tên lửa không có điều khiển nói nôm na giống như một viên đạn lớn, ví dụ như rocket hydra của trực thăng Mỹ. Nó đòi hỏi rất nhiều về khả năng nhắm bắn của xạ thủ để có thể trúng mục tiêu. Vì thế mà tên lửa có điều khiển ra đời nhằm mục tiêu tiêu diệt những mục tiêu cơ động cao hay những mục tiêu cố định nhưng được phòng vệ cao, cho nên xạ thủ có rất ít thời gian hay cơ hội nhắm bắn.

    Tên lửa có điều khiển được phân loại dựa trên hai điểm cơ bản:
    -Nơi bắn ra nó (ví dụ, máy bay)
    -Mục tiêu của nó (ví dụ, xe tăng trên mặt đất)
    Vì vậy người ta gọi các loại tên lửa có điều khiển như: đất đối không, không đối đất, đất đối đất (2 ku ngồm cả mục tiêu trên biển), không đối không.

    Đại phẩu ku tên lửa có điều khiển gồm những phần cơ bản sau:
    -Đầu dò (seeker section)
    -Bộ phận dẫn đường (guidance section)
    -Ngòi nổ (fuse)
    -Đầu đạn (warhead)
    -Bộ phận điều khiển chuyển động (control section)
    -Động cơ tên lửa (rocket/missile motor)

    Lưu ý: Phân chia trên chỉ mang tính cơ bản, không phải áp dụng cho mọi thiết kế tên lửa có điều khiển. Ví dụ như phần điều khiển chuyển động, thường thì những chiếc vây (fin) nằm trên thân hay đầu tên lửa là di động, nhưng ở một số thiết kế khác như tên lửa của Rapier thì thường vây sau di động còn vây trước là cố định. Đồng thời, phân chia này chỉ là phân chia logic, thực tế thiết kế mẫu vật lý có thể kết hợp những phần khác nhau thành một, ví dụ như phần dẫn đường và hệ điều khiển ở AIM-9 là một.

    Từng phần chính sẽ được cụ thể xem xét, trước hết xin nói về ngòi nổ.

    Ngòi nổ (fuse/fuze):


    Nhiệm vụ của ngòi nổ là kích nổ đầu đạn của tên lửa ở một thời điểm nào đó mà khả năng sát thương của tên lửa với mục tiêu là cao nhất và đồng thời đảm bảo thiết bị bắn và người bắn an toàn khỏi ảnh hưởng nổ này. Ở tên lửa có điều khiển ngòi nổ thường được gọi là bộ phận phát hiện mục tiêu (TDD ?" Target Detecting Device), một số chuyên gia quân sự mặt khác đồng nhất TDD với ngòi nổ định hướng (proximity fuse).

    Các thuật ngữ cơ bản liên quan đến ngòi nổ:
    -Thời gian kích hoạt ngòi nổ (arming time): thời gian giữa thời điểm tên lửa được bắn ra và thời điểm ngòi nổ được kích hoạt một cách toàn bộ (fully armed). Kích hoạt ở đây không có nghĩa là kích nổ mà là sẵn sàng nổ khi mục tiêu vào gần.
    -Thời gian đến kích nổ (functioning time/delay): sau khi quyết định nổ được duyệt thường có một khoảng thời gian nhất định đến việc kích nổ vật lý
    -Khoảng cách an toàn (safe air travel): sau khi bắn, tên lửa sẽ di chuyển khỏi thiết bị bắn một khoảng cách nhất định trước khi ngòi nổ được kích hoạt (armed) để sẵn sàng nổ. Khoảng cách này có ý nghĩa bảo vệ thiết bị bắn khỏi bị tên lửa của chính nó phá hủy nếu tên lửa nhầm lẫn thiết bị bắn là mục tiêu.

    Phân loại ngòi nổ (có hai cách phân loại cơ bản):
    -Ngòi nổ cơ học (mechanical fuse): kích nổ do tác động cơ học hay số vòng quay của motor ngòi nổ
    -Ngòi nổ do xung điện (electrical fuse): cơ bản cấu trúc vật lý thường giống ngòi nổ cơ học, điểm khác biệt là hoạt động kích nổ ban đầu là do xung điện
    hoặc
    -Ngòi nổ tiếp xúc (impact/contact fuse)
    -Ngòi nổ chậm (time-delay fuse)
    -Ngòi nổ theo lệnh (command fuse)
    -Ngòi nổ theo hiệu ứng môi trường (ambient fuse)
    -Ngòi nổ định hướng (proximity fuse)

    Chi tiết:

    Ngòi nổ tiếp xúc (impact/contact fuse):
    -Thường cấu trúc vật lý của ngòi nổ này là ngòi nổ cơ học
    Trong suốt quá trình bay, cò đập nổ (plunger) nằm nguyên ở phần sau của tên lửa. Khi tên lửa chạm vào mục tiêu thì theo quán tính bay của tên lửa cò nổ đập vào chốt kích nổ (priming mixture). Chốt kích nổ này là một hỗn hợp chất cháy cực nhạy. Từ đây, một loạt phản ứng dây chuyền xảy ra, kíp nổ phụ (fuse booster) sẽ được kích nổ và nó sẽ làm kíp nổ của đầu đạn (warhead main charge) phát nổ.
    -Thông thường, ngòi nổ tiếp xúc thường được kết hợp với thiết kế ngòi nổ chậm nhằm tạo điều kiện cho tên lửa xuyên sâu vào mục tiêu trước khi phát nổ.
    -Ngòi nổ tiếp xúc đa phần được dùng ở bom hay một số rocket tấn công mặt đất. Nó cũng được dùng ở hầu hết các loại tên lửa đất đối không, kết hợp với một thiết kế ngòi nổ khác.


    BE COOL!



    Được ducsnipper sửa chữa / chuyển vào 14:25 ngày 12/11/2003

    Được ducsnipper sửa chữa / chuyển vào 14:46 ngày 12/11/2003
  2. ducsnipper

    ducsnipper Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/04/2003
    Bài viết:
    1.866
    Đã được thích:
    0
    Tiếp tục nhe:
    Ngòi nổ chậm (time-delay fuse):
    Ngòi nổ chậm được định sẵn trước khi phóng tên lửa dựa theo những tính toán thường là về loại mục tiêu mà tên lửa đó được thiết kế cho (ví dụ loại máy bay bay chậm so với loại máy bay bay nhanh). Những tính toán này dĩ nhiên là nhằm mục đích đưa tên lửa vào gần mục tiêu nhất khi nổ.
    Sau đây là các hình thức trì hoãn thời gian của ngòi nổ (cho bomb và tên lửa):
    +Ngòi nổ trì hoãn (delay): thời gian đến kích nổ (functioning time ?" chi tiết có thể tìm ở phần thuật ngữ ban đầu) là lớn hơn 0.0005 giây
    +Ngòi nổ không trì hoãn (non-delay): thời gian đến kích nổ là từ 0.0003 giây cho đến 0.0005 giây
    +Ngòi nổ tức thì (instantaneous): thời gian đến kích nổ là bé hơn 0.0003 giây
    Đạn pháo phòng không là một ví dụ điển hình về việc dùng ngòi nổ chậm. Tên lửa có điều khiển sau này rất ít khi dùng ngòi nổ chậm vì tính thiếu chính xác đối với những mục tiêu cơ động.
    Ngòi nổ theo lệnh (command fuse):
    -Ngòi nổ lệnh được kích do tín hiệu gởi đi bởi thiết bị bắn (ví dụ, trạm tên lửa đất đối không). Tín hiệu lệnh này thường được truyền đi dưới dạng sóng radio, datalink. Ví dụ như ở SA-2 Guideline, những người điều hành trạm tên lửa có thể nhìn vào màn hình radar, và kích nổ SA-2 qua radio khi thấy nó đã vào gần mục tiêu. Cũng chính vì dựa trên những ước đoán của người mà đầu đạn của SA-2 được chế rất lớn nhằm tạo một vụ nổ lớn, tăng xác suất trúng mảnh của máy bay mục tiêu.
    -Một chức năng khác của loại ngòi nổ này là phá hủy tên lửa (self-destruction) khi nó bay lạc hay nhắm vào mục tiêu phe mình.
    -Về việc tự phá hủy tên lửa, về sau này do phát triển điện tử, tên lửa có thể tự hủy nó khi lạc khỏi mục tiêu được cho ban đầu. Ví dụ, khi radar điều khiển bắn (fire control radar) của máy bay tấn công không truyền được thông tin đến tên lửa. Các mạch điện tử của tên lửa sẽ duyệt lệnh nổ sau một khoảng thời gian khi vẫn không tiếp tục nhận được tín hiệu dẫn đường từ radar máy bay tấn công
    Ngòi nổ theo hiệu ứng môi trường (ambient fuse):
    Ngòi nổ này được kích hoạt theo các thay đổi môi trường. Ví dụ điển hình là ngòi nổ theo áp suất (hydrostatic fuse) dùng cho ngư lôi. Ngòi nổ này đo áp suất và kích nổ khi áp suất đạt đến một mức nào đó, thường là cho một độ sâu nào đó được ước lượng dựa trên áp suất đo được.
    Ngòi nổ định hướng (proximity fuse):):
    Đây là loại ngòi nổ hiệu quả nhất, và sau này được áp dụng rất nhiều cho các loại tên lửa có điều khiển. Khác với các loại ngòi nổ khác, ngòi nổ này được kích hoạt dựa trên thông tin (vật lý) thu được về mục tiêu ngay trong tình huống bắn đó. Ngòi nổ định hướng sau này thường kèm theo một chip xử lý những thông tin thu được trước khi duyệt lệnh nổ.
    Target Detecting Device chính là fuse của tên lửa có điều khiển (AIM-120)
    Lưu ý: ngòi nổ định hướng có kèm theo một bộ phận dò thông tin vật lý (tracker), hoạt động vật lý của bộ phận này cũng rất gần với đầu dò của tên lửa (seeker section) nên dễ gây nhầm lẫn khi tranh luận hehehe. Cả hai bộ phận này hoạt động đồng thời và bổ xung cho nha. Điểm khác biệt dễ thấy là đầu dò phát hiện mục tiêu (seeker section) có tầm xa hơn rất nhiều so với bộ phận cảm ứng mục tiêu (tracker). Tầm dò mục tiêu của ngòi nổ chính là tầm sát thương của đầu đạn tên lửa (khi nổ), thường rất ngắn, ví dụ ở SA-13 Gopher, bán kính dò mục tiêu của ngòi nổ định hướng là 4 mét (nguồn: http://www.fas.org).)
    Hai mẩu thông tin vật lý cơ bản dùng bởi ngòi nổ định hướng:
    +Khoảng cách của tên lửa đến mục tiêu
    +Tỉ lệ thay đổi về khoảng cách hay khép góc giữa mục tiêu và tên lửa (missile closure rate)
    Ở những thời điểm khác nhau, hai mẫu thông tin trên là khác nhau. Hai mẫu thông tin này được kiểm tra vào từng thời điểm để quyết định có kích nổ hay không.
    -Có rất nhiều thiết kế khác nhau cho ngòi nổ định hướng nhưng cơ bản phân loại là như sau:
    +Dạng thụ động (passive fuse):
    Bộ phận cảm ứng (tracker, receiver) dò những tín hiệu như âm thanh, nhiệt (IR), hay sóng radio phát ra từ mục tiêu và quyết định thời điểm kích nổ.
    +Dạng bán chủ động (semi-active fuse):
    Bộ phận cảm ứng vật lý (tracker) là không tồn tại, hoặc chức năng vật lý rất hạn chế, chỉ thuần túy về xử lý thông tin được cho về mục tiêu. Ở dạng này, phần dẫn đường (guidance section) cho ngòi nổ thông tin về mục tiêu mà phần dẫn đường nhận được từ đầu dò seeker section. Chính vì thế có thể nói phần hồn của ngòi nổ định hướng dạng bán chủ động chính là hệ dẫn đường (guidance section). Chi tiết về hệ dẫn đường sẽ được bàn đến sau này ( nếu có thời gian hihihi)
    Ví dụ về hoạt động của ngòi nổ định hướng dạng bán chủ động như khi đầu dò (seeker section) đo được là tần số Doppler bắt đầu giảm nhanh, cho thấy rằng tên lửa sắp bay xa khỏi mục tiêu, hay thời điểm hiện tại là lúc gần mục tiêu nhất.
    +Dạng chủ động (active fuse): khác với ngòi nổ thụ động (passive fuse) vốn có bộ phận cảm ứng (tracker) đơn thuần là một thiết bị thu tín hiệu (receiver), bộ cảm ứng của ngòi nổ định hướng dạng chủ động gồm cả cả thiết bị phát tín hiệu (transmitter) và thiết bị thu tín hiệu (receiver). Ngòi nổ phát ra tín hiệu, và thu tín hiệu phản xạ ngược từ mục tiêu để phân tích. Hai loại tín hiệu được dùng có hiệu quả là radio hoặc laser. Ví dụ ngòi nổ định hướng phát ra tín hiệu radio tần số cao về phía mục tiêu sau đó thu lại sóng radio phản xạ từ mục tiêu. Do tên lửa đang bay về phía mục tiêu, theo nguyên tắc Doppler, tần số của radio phản xạ sẽ cao hơn tần số radio phát ra ban đầu. Ngòi nổ sẽ kích nổ khi radio phản xạ đạt đến một tần số cao được định sẵn, hoặc tần số của radio phản xạ bắt đầu giảm như đã nói ở ngòi nổ dạng bán chủ động ( tức là lúc này tên lửa đến gần mục tiêu nhất).
    Hình minh hoạ hướng quét và cửa sổ laser của ngòi nổ định hướng
    Hehhe, mệt qúa rùi, hôm nay tạm thế đã, còn phải đi nhậu
    BE COOL!
    Được ducsnipper sửa chữa / chuyển vào 14:57 ngày 12/11/2003
  3. ducsnipper

    ducsnipper Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/04/2003
    Bài viết:
    1.866
    Đã được thích:
    0
    He he, tiếp nè, dạo này đang sung
    Ngòi nổ định hướng dạng chủ động ít phụ thuộc hơn vào thông tin nhận được từ hệ dẫn đường về mục tiêu, nó tự thu lấy loại thông tin này qua bộ cảm ứng của nó (tracker). Nhưng thông tin về hướng (ban đầu) của mục tiêu vẫn tiếp tục cho bởi ăngten của đầu dò (seeker section) qua hệ dẫn đường (guidance section).
    Các dạng dò mục tiêu của ngòi nổ định hướng

    Ví dụ về ngòi nổ định hướng dạng chủ động như radio proximity fuse của R-73 Archer hay laser proximity fuse của Python 4.
    Lưu ý: các dạng thụ động, bán chủ động và chủ động đang nói tới ở đây là của ngòi nổ. Đừng nhầm lẫn với các loại tên lửa có phương pháp dẫn đường về đích (homing) dạng thụ động, bán chủ động hay chủ động (ví dụ, Semi-Active Radar-Homing) mà lại cãi nhau um sùm..hehehe)
    Ngòi nổ định hướng laser dạng chủ động của ASRAAM
    -Ngòi nổ định hướng ở bom thường liên quan đến việc kích nổ ở một độ cao xác định trước nhằm có tỉ lệ sát thương cao nhất. Đối với đầu đạn mảnh thì độ cao để kích nổ thường từ 10 ft đến 70 ft. Các đầu đạn vũ khí hóa học thì độ cao này là vài trăm ft.
    -Vì quyết định kích nổ là dựa trên thông tin thu được về mục tiêu nên điểm yếu cơ bản của ngòi nổ định hướng của tên lửa có điều khiển là nó dễ bị gây nhiễu và kích nổ sớm trước khi đến gần mục tiêu. Vì yếu điểm này nên tên lửa mang loại ngòi nổ này thường mang theo cả thiết bị chống nhiễu (electronic counter measure hoặc counter-counter-measure). Đồng thời ngòi nổ định hướng luôn kèm theo thiết kế ngòi nổ tiếp xúc (impact/contact fuse) phòng trường hợp ngòi nổ định hướng bị tê liệt bởi nhiễu.
    Link cho ngòi nổ có định hướng:
    http://www.history.navy.mil/faqs/faq96-1.htm
    -Có thể nói ngòi nổ là điểm yếu cơ bản của tên lửa có điều khiển vì nó lệ thuộc vào hoạt động mang tính thời điểm của hệ dẫn đường(guidance section) và hệ điều khiển chuyển động (control section) của tên lửa trong cả chu trình chung khi tên lửa bay về phía mục tiêu. Vì thế ngòi nổ được chế tạo cụ thể cho từng tình huống mục tiêu khác nhau. Ví dụ như tên lửa đang đuổi sau lưng máy bay mục tiêu hay tỉ lệ khép góc (closure rate) là thấp. Trong tình huống này, nếu tên lửa kích nổ ngay khi ngòi nổ định hướng phát hiện ra nhiệt từ động cơ máy bay mục tiêu thì khả năng trúng mảnh của máy bay mục tiêu là thấp vì nó đang bay ra xa khỏi tên lửa (cùng hướng bay với tên lửa). Một thiết kế đơn giản khắc phục nhược điểm này là kết hợp thiết kế ngòi nổ chậm. Bằng cách gia tăng thời gian đến kích nổ (functioning time) sau khi quyết định cho nổ được duyệt (vào thời điểm phát hiện ra nhiệt của động cơ máy bay mục tiêu), tên lửa với tốc độ nhanh hơn máy bay mục tiêu sẽ bay đến ngang thân máy bay mục tiêu khi phát nổ vật lý xảy ra. Đây chính là thiết kế ngòi nổ của tên lửa tầm nhiệt AA-2 Atoll hay AIM-9s Sidewinder thời chiến tranh Việt Nam. Mặt khác, nếu tên lửa bay ngược chiều mục tiêu, thì ngòi nổ định hướng kích nổ ngay khi phát hiện ra sự hiện diện của mục tiêu để gia tăng hiệu quả-Điểm yếu của thiết kế đơn giản trên là tên lửa có thể được bắn vào mục tiêu từ phía trước hay phía sau, tùy tình huống. Nếu chỉ thiết kế cố định cho việc tiếp cận mục tiêu từ phía sau như tên lửa không đối không tầm nhiệt thời chiến tranh Việt Nam thì hầu như không tồn tại khả bắn máy bay địch từ phía trước mặt. Về sau này, ra đời loại tên lửa bắn từ mọi góc độ (của mục tiêu) (all-aspect missile). Để nói về thiết kế bắn từ mọi góc độ (all-aspect) thì liên quan rất nhiều đến đầu dò tên lửa (seeker section) và hệ dẫn đường (guidance section) nên ở đây chỉ đề cập đến ngòi nổ dùng cho loại tên lửa đó. Loại ngòi nổ tiêu biểu được dùng là ngòi nổ theo tình huống tấn công (?oadaptive? fuse). Bộ xử lý của ngòi nổ này dựa trên những tình huống tính toán hình học giữa tên lửa và mục tiêu mà ra quyết định có tăng thời gian đến kích nổ (functioning time/delay) hay không. Bộ xử lý trong ngòi nổ này (?oadaptive? fuse) còn cho phép việc ngắm (?oaim?) đầu đạn về phía mục tiêu lúc nổ hay là định hướng ? thông minh. Nghiên cứu về loại ngòi nổ này đang là hướng chính của việc chế tạo ngòi nổ.
    -Trước khi kết thúc phần ngòi nổ và sang phần đầu đạn, xin sơ lược qua bộ phận kích hoạt ngòi nổ (không phải là kích nổ vật lý), nối liền đầu đạn và ngòi nổ theo giải phẩu logic. Bộ phận này tiếng Anh gọi là chốt S&A (Safety and Arming). Về thiết kế vật lý thì chốt S&A là một công tắc gồm 2 vị trí: an toàn (safe) và kích hoạt ngòi nổ (armed ?" không phải là kích nổ). Việc chuyển đổi công tắc giữa hai vị trí đòi hỏi một chiếc chìa khóa ngòi nổ (arming key). Khi tên lửa nằm trong kho, hay chưa được sử dụng thì chìa khóa ngòi nổ (arming key) gắn liền với chốt S&A và không thể tháo ra được nhằm đảm bảo tên lửa không nổ khi xảy ra sự cố hay tai nạn. Khi tên lửa được đưa vào sử dụng, ví dụ ngay trước khi máy bay chiến đấu xuất kích thì chốt S&A được bật qua vị trí kích hoạt ngòi nổ (armed) và chìa khóa ngòi nổ (arming key) được tháo ra. Những thiết kế ban đầu cho chốt S&A là thuần túy cơ học, sau khi tháo chìa khóa ngòi nổ ra, tên lửa/bom có thể nổ bất kỳ lúc nào nếu có tác động cơ học như đã bàn đến đối với ngòi nổ tiếp xúc (impact/contact fuse). Nhưng về sau này, chốt S&A đa phần có thiết kế cơ điện học (electromechanical). Và ngòi nổ chỉ được thật sự được kích hoạt toàn bộ (fully armed) qua chỉ lệnh bằng xung điện sau khi tên lửa đã đạt đến một vận tốc nhất định nào đó hoặc tên lửa đã rời xa thiết bị bắn ra nó một khoảng cách an toàn như đã nói ở phần trên.
    BE COOL!
    Được ducsnipper sửa chữa / chuyển vào 16:49 ngày 14/11/2003
  4. Antey2500

    Antey2500 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/07/2002
    Bài viết:
    2.764
    Đã được thích:
    6
    Dạo này anh khoái mổ xẻ quá nhe ,ham hố thật post 1 hồi rồi lại kéo anh em vào nuôi ké .Chắc phải phong anh cái danh hiệu chuyên viên mổ xẻ của Box KTQS mới được .
    Có gì anh post cái mổ xẻ xe tank luôn đi rồi em vào nuôi nó cho ,dạo này post hình vô tư rồi có thể mổ xẻ tiếp được rồi .

    With these advanced weapon the WW3 will be fought ,but in the WW4 they will fight with sticks and stones (Albert Einstein)
  5. ducsnipper

    ducsnipper Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/04/2003
    Bài viết:
    1.866
    Đã được thích:
    0
    He he, xe tăng thì teo không có rành nên không dám nói, hơn nữa teo không có khoái xe tăng nên không có tìm tòi về nó, chỉ khoái sub, carrier, missle thôi ku à...
    Có rảnh dời bài anh trả lời Tande về mấy thứ flare, chaff, depth charges, towed array sonar qua bên câu hỏi cho nó đúng chỗ đi kìa
    BE COOL!
  6. Condor

    Condor Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/02/2003
    Bài viết:
    2.311
    Đã được thích:
    0
    Radio altimeter hay terrain-clearance indicator là thiết bị đo độ cao từ máy bay hoặc hỏa tiển tới mặt đất/ mặt biển nhằm giúp máy bay/ hỏa tiển có thể duy trì một cao độ ổn định so với mặt đất/ mặt biển trong quá trình phi hành. Đây là một trong những thiết bị thiết yếu trong hệ thống hạ cánh tự động (automatic lading sysytem) của máy bay cũng như lái tự động (autopilot system) của máy bay và của các hỏa tiển hành trình (cruiser missile).
    Hình của loại radio-altimeter ALT-4000 của hảng Rockwell Collins
    Hoạt động của Radio-altimeter:
    Bộ phận trasmitter của radio-altimeter phát các xung radio từ hỏa tiển xuống mặt đất và receiver sẽ nhận các xung phản hồi từ mặt đất. Khoảng thời gian từ lúc phát xung cho tới lúc nhận tín hiệu phản hồi sẽ cho biết độ cao phi hành của hỏa tiển. Khi địa hình thay đổi, lập tức radio-altimeter phát tín hiệu cho bộ phận lái tự động để bộ phận này điều chỉnh độ cao phi hành của hỏa tiển. Nhờ có radio-altimeter, các hỏa tiển phi hành (cruiser missile) có thể bay ở độ cao thấp, men theo địa hình tránh radar (loại land attack ?" cruiser missile như Tomahawk) hoặc bay là là rất thấp trên mặt biển (antiship ?" cruiser missile như Harpoon của Mỹ hay Switchblade SS-N-25 của Nga).
    Sơ đồ cấu tạo hỏa tiển SS-N-25 Uran/ Switchblade của Nga. Phần số 5 là radio-altimeter.
    1. Active radar homing head
    2. Penetrating warhead
    3. Autonomous self-destruct system
    4. Internal control system
    5. Radio altimeter
    6. Air intake
    7. Fuel system units
    8. Turbojet engine
    9. Servo unit
    10. Solid propellant rocket booster
    Sống trên đời sống cần có một tấm lòng...
  7. ducsnipper

    ducsnipper Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/04/2003
    Bài viết:
    1.866
    Đã được thích:
    0
    Tiếp tục phần đầu đạn nhe:
    Đầu đạn (warhead):
    Đầu đạn trong tên lửa có điều khiển tiếng Anh thường gọi là Arming Section, khi nói về arming section người ta có thể ngụ ý gồm cả đầu đạn (warhead), ngòi nổ (fuse) và chốt S&A (xem cuối phần ngòi nổ trong bài trước). Đầu đạn là bộ phận gây sát thương vật lý của tên lửa, bomb, đạn pháo,? Cụ thể thì sát thương thể hiện ở ba điểm (tồn tại độc lập) của đầu đạn:
    -Sức ép khi nổ (blast effect)
    -Khả năng xuyên thủng mục tiêu (penetration)
    -Khả năng tạo mảnh (fragmentation)
    Có nhiều cách phân loại đầu đạn khác nhau.
    Đối với việc lưu giữ trong kho thì người ta thường phân loại đầu đạn theo đường kính của nó. Ví dụ trong quân đội Mỹ, hai loại đầu đạn rocket thông thường (conventional) hay được nói tới là loại 2.75 inch. và loại 5 inch.
    Mặt khác, có thể phân chia đầu đạn theo phương cách sát thương hay ứng dụng:
    -Đầu đạn sức ép ?" HE (High-Explosive)
    Một dạng điển hình của đầu đạn tạo sức ép thuần túy đến ngày nay là depth charge ( tạm dịch: bom chìm được không quý dzị????)
    -Đầu đạn chống tăng thuốc nổ mạnh ?" HEAT (High-Explosive Anti-Tank), gọi nhanh là đầu đạn HEAT
    -Đầu đạn chống tăng/chống nhân sự ?" AT/APERS (Anti-Tank/Anti-Personnel)
    Hai loại đầu đạn trên xoay quanh thiết kế đầu đạn lõm (shaped charge), sẽ được bàn chi tiết sau.
    -Đầu đạn động năng (Kinetic-Energy Warhead): khả năng xuyên thấu mục tiêu cực kỳ cao, ví dụ đạn sabot
    -Đầu đạn mảnh ?" FRAG (Fragmentation)
    Thông thường thì để tạo nhiều mảnh và văng xa thì cần có sức nổ mạnh nên loại đầu đạn hay gặp là đầu đạn có thuốc nổ mạnh và mảnh (HE-FRAG).
    -Một dạng đầu đạn mảnh đặc biệt sau này là mảnh bằng những que sắt (rod) nối liền nhau, khi chưa nổ được xếp liền nhau theo kiểu thước xếp của thợ mộc chia làm hai phần chứa trong tên lửa, khi nổ bung ra có hình như môt vòng cầu (continuous/expanding rod).,Hình nó nè:
    -Đầu đạn Flechette: thuần túy chống nhân sự, dùng nhiều trong các loại bom hay rocket tấn công mặt đất
    -Đầu đạn đa năng (GP - General Purpose)
    -Đầu đạn khói ?" Smoke Warhead
    -Đầu đạn pháo sáng, flare ?" Flare Warhea
    Đi vào Chi tiết thì:
    Đầu đạn sức ép (HE - thuốc nổ mạnh):
    -Loại đầu đạn này chủ yếu dựa vào số lượng và sức nổ của loại thuốc nổ nằm trong đầu đạn nhằm tạo một vụ nổ lớn gây sức ép hay sóng chấn động nổ-mấy bác VN mình có khi gọi là sóng xung kích(shock wave) để phá hủy mục tiêu.
    -Đầu đạn sức ép thường ít khi được dùng cho tên lửa không đối không hay đất đối không vì càng lên cao không khí càng loãng nên khi nổ không tạo đủ sức ép cần thiết, chưa kể là những mục tiêu trên không thường di chuyển khá nhanh và cơ động.
    -Thay vào đó, đầu đạn sức ép được dùng chủ yếu cho các mục tiêu trên mặt đất hay dưới nước do môi trường không khí tầng thấp hay nước là đặc hơn.
    Có ba điểm cơ bản về sóng chấn động nổ:
    +Lan tỏa sóng đều theo mọi hướng (isotropic)
    hoặc
    +Truyền sóng theo một số hướng nhất định (non-isotropic)
    +Sóng phản xạ từ một trong hai phương truyền sóng trên và Mach Wave
    Ba điểm trên có ý nghĩa quan trọng với việc tăng tầm sát thương của đầu đạn sức ép. Cụ thể là một số loại bom (ví dụ bom nguyên tử) thường được kích nổ cách mặt đất một khoảng cách nhất định. Khi nổ trên cao thì sẽ tạo ra sóng phản xạ với mặt đất, và sóng phản xạ sẽ kết hợp với sóng chấn động nổ ban đầu để tạo thành một loại sóng thứ ba gọi là Mach Wave. Khi ba loại sóng này giao nhau (?oTriple-Point?) thì sức ép nổ ban đầu sẽ được tăng lên một cách đáng kể, có khi đến 50%.(By detonating a warhead at the proper height above the ground, the maximum radius at which a given pressure or impulse is exerted can be increased, in some cases by almost 50%, over that for the same bomb detonated at ground level).
    -Một vụ nổ dưới nước khác ở chổ sức ép được tạo ra khi thể bọt khí (bubble) từ vụ nổ tăng và đẩy nước ra khỏi tâm điểm vụ nổ. Một vụ nổ dưới nước sẽ nguy hiểm hơn vì những yếu tố sau:
    +Môi trường nước đặc hơn không khí nên sức ép tạo ra bởi cùng một vụ nổ sẽ lớn hơn khi xảy ra dưới nước.
    +Áp suất trong nước sau khi tăng không giảm nhanh như trong không khí.
    +Sóng phản xạ sẽ không chỉ đến từ đáy biển/sông mà cả từ mặt nước. Hình minh hoạ đây:
    -Điển hình cho thiết kế đầu đạn sức ép, xin nói về kíp nổ độ sâu (depth charge) của ngư lôi, thủy lôi hay bom chìm. ?oDepth charge? đơn giản là một thiết kế đầu đạn nổ sâu dưới nước hơn là một loại vũ khí cụ thể nào. Kkhi nói về ?odepth charge? có thể hiểu là nói về bom chìm chống tàu ngầm được bắn đi bởi súng nén hơi K-Gun ( trước đó lăn bằng tay trên ray trượt)
    Có thể thấy là bom chìm Mark 6 dùng ngòi nổ độ sâu (hydrostatic fuse) như đã nói để đo áp suất nước và tạo kích nổ cơ học.
    Sau chiến tranh thế giới thứ hai, K-Gun bị thải dần do điểm yếu cơ bản của nó là tầm bắn (xa nhất khoảng 150 yards). Đồng thời, bomb chìm thì cơ bản không có khả năng tìm đến mục tiêu như ngư lôi hay thủy lôi sau này. Một số loại bom chìm cải tiến (ví dụ MK 11 Mod3) vẫn còn được dùng bởi trực thăng chống tàu ngầm (ASW). Các trực thăng dùng máy dò âm (sonar) để xác định tàu ngầm địch, và thả bom chìm theo mô hình tam giác hay chữ nhật bao quanh quanh tàu ngầm mục tiêu nhằm tạo sức nổ ép từ nhiều hướng khác nhau của tàu ngầm mục tiêu.
    Thiết kế kíp nổ độ sâu (depth charge) ngày nay chủ yếu được kết hợp trong đầu đạn ngư lôi của các hệ thống rocket chống tàu ngầm (ASROC ?" Anti-Submarine ROCket) như RPK-9 Medvedka của Nga hay RUR-5 của Mỹ. Bằng cách dùng động cơ rocket bắn đầu đạn ngư lôi đi thay vì dùng súng nén hơi K-Gun xa xưa, tầm bắn tăng đáng kể (gần 20km).
    Đầu đạn chống tăng thuốc nổ mạnh (đầu đạn HEAT):
    -Đầu đạn chống tăng HEAT liên quan nhiều đến khả năng xuyên giáp (penetration). Đầu đạn lõm (shaped charge, HEAT) là thiết kế cơ bản nhất của việc xuyên phá mục tiêu. Thiết kế này được dùng ở RPG (B40, B41, ?), các tên lửa chống tăng có điều khiển, hay ở những tên lửa tiến công mặt đất như AGM-65 Marverick.
    Sơ lược thiết kế đầu đạn lõm BunkerFaust (của Đức).Phần màu vàng là thuốc nổ (penetrating charge), nó được thiết kế lõm nón, đồng thời được bọc quanh bởi một lớp kim loại (liner).
    -Đầu đạn này thường được thiết kế lõm vào theo hình nón có góc 60º. Thuốc nổ được đặt ngay sau phần lõm nón này, bọc quanh bởi một lớp kim loại (thép hoặc đồng). Khi phần thuốc nổ được kích nổ, một nguồn phản lực (jet) sẽ được tạo ra với đầu mũi (tip) của nguồn phản lực bắt đầu từ tâm phần lõm. Khả năng xuyên phá của đầu đạn được nhân lên khi lớp kim loại bọc phần lõm đã được đốt chảy và cấu thành phần mũi của nguồn phản lực. Vận tốc của đầu mũi (tip) nguồn phản lực lên đến 8,500-10,000 m/s trong khi vận tốc của phần đuôi là 1,500 m/s. Những phần đặc hơn chưa được đốt chảy hẳn của vỏ bọc kim loại phình ra thành phần thân (slug) của nguồn phản lực. Phần này di chuyển cùng hướng với nguồn phản lực ở vận tốc 600-1000 m/s. Thiết kế đầu đạn lõm khá đơn giản nhưng lại rất hiệu quả trong việc xuyên phá mục tiêu. Khả năng xuyên phá còn có thể được tăng nữa lên qua việc thay vỏ bọc phần lõm từ đồng hay thép sang uranium giảm xạ (DU ?" Depleted Uranium, đặc hơn chì đến 1.7 lần).
    -Sự ra đời của đầu đạn lõm (HEAT) trở thành một mối đe dọa lớn đối với xe tăng. Câu trả lời từ phía chế tạo xe tăng là giáp hỗn hợp (Composite/Combination Armour), ví dụ ở xe tăng Challenger (của Anh). Xin nói vắn tắt về giáp hỗn hợp. Loại giáp này cơ bản có hai lớp bọc thép (steel plates), giữa hai lớp bọc thép này là hổn hợp sứ, thủy tinh, plastic,? Hỗn hợp này thường có cấu trúc tổ ong (honeycomb), tương đối nhẹ nhưng đặc. Khi đầu đạn HEAT xuyên qua lớp giáp đầu tiên, lực (jet) của nó bị chia thành nhiều nguồn lực nhỏ do lớp hỗn hợp sứ văng theo nhiều hướng, tác dụng lên nguồn lực ban đầu của đầu đạn HEAT vốn tập trung vào một điểm.
    -Một loại giáp khác đặc biệt hơn là giáp phản lực (ERA ?" Explosive Reactive Armour). Điểm khác với giáp hỗn hợp là phần độn giữa hai lớp bọc thép của giáp phản lực là thuốc nổ (thường là C-4). Khi đầu đạn xuyên phá đến phần thuốc nổ thì thuốc nổ sẽ nổ hất văng nguồn lực của đầu đạn khỏi xe tăng. Giáp phản lực được dùng ở T-80 hay M1A2 (khi cần).
    -Để đáp lại ứng dụng giáp hỗn hợp và giáp phản lực-Reactive Amour, đầu đạn lõm được cải tiến thành loại có hai đầu nổ (tandem HEAT warhead). Đầu đạn tandem HEAT cơ bản có hai đầu nổ, đầu nổ ban đầu sẽ phá đến lớp giáp hỗn hợp sứ hay giáp phản lực, ngay sau đó chưa đầy một phần nhỏ của một giây, đầu nổ thứ hai sẽ được kích nổ, xuyên phá lớp bọc thép còn lại. Đầu nổ thứ hai thường yếu hơn nhưng do được cộng hưởng từ sức ép từ vụ nổ thứ nhất nên nó trở khá mạnh.
    Một hình thức khác là dạng lõm tuyến tính (linear-shaped). Ở dạng này phần lõm không sâu, và thường kéo dài như một đường thẳng. Ứng dụng thông thường là ở bom mảnh ví dụ MK 118 Mod0/1 (antitank bomb), khi được kích nổ thì nhiệm vụ của kíp nổ dạng lõm tuyến tính là xé tan phần chứa mảnh ra để mảnh bom bay tứ tán. Một ứng dụng khác nữa của kíp nổ dạng lõm tuyến tính là xé cửa sổ máy bay chiến đấu khi phi công nhảy dù. Vì chủ đề này tập trung vào tên lửa có điều khiển nên không tiện bàn về chuyện nhảy dù ...hehee ( buồn chút xíu hen ku AKM).
    -Đầu đạn chống tăng/chống nhân sự - AT/APERS (Anti-Tank/Anti-PERSonnel):
    Loại này kết hợp đầu đạn chống tăng (HEAT) và đầu đạn mảnh (HE-FRAG). Ví dụ là MK 32 Mod 0 Zuni của Mỹ.
    -Đầu đạn động năng (Kinetic-Energy Warhead):
    Điển hình là đạn APFSDS (Amour Piercing Fin-Stabilized Discarding Sabot), tạm dịch là đạn sabot xuyên giáp (ổn định bằng cách lái- Fin-Stabilized) nhằm phân biệt với sabot mảnh (flechette sabot) sẽ bàn đến sau.
    -Điểm mạnh nhất của đạn sabot (APFSDS) là khả năng xuyên phá mục tiêu. Thiết kế đầu đạn là một đoạn sắt dài (rod) như một mũi phi tiêu, đúc bằng kim loại nặng (như Wolfram-Carbide) hay cả DU ?"uranium gi ả m x ạ (Depleted Uranium). Độ cứng của đầu đạn cộng với tốc độ cực kỳ cao tạo ra khả năng xuyên thấu mục tiêu. Dĩ nhiên người thiết kế luôn phải lưu ý là khối lượng đầu đạn và vận tốc của nó thường tỉ lệ nghịch với nhau.
    -Đạn sabot xuyên giáp thường hiệu quả hơn đạn lõm về khả năng xuyên giáp. Thiết kế đầu đạn sabot thường ở đạn pháo, rocket không điều khiển hơn là tên lửa có điều khiển.
    Hình đạn sabot khi đang tách vỏ
    BE COOL!
  8. ducsnipper

    ducsnipper Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/04/2003
    Bài viết:
    1.866
    Đã được thích:
    0
    Đoạn phim minh hoạ hướng công phá của đầu đạn lõm (shaped charge)
    BE COOL!
  9. ducsnipper

    ducsnipper Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/04/2003
    Bài viết:
    1.866
    Đã được thích:
    0
    hehe, Không ai khoái mổ xẻ em tên lửa này sao?
    BE COOL!
  10. Antey2500

    Antey2500 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/07/2002
    Bài viết:
    2.764
    Đã được thích:
    6
    Có em thích đây nhưng đang định để anh độc diển thử 1 thời gian xem .
    Sẳn đây anh nhầm vài chổ này :
    Cái đầu đạn Tandem thì đầu nổ lần hai bự hơn cái thứ nhất nhiều anh ơi ,chứ không phải cái ở trước bự hơn đâu ,cái trước đúng ra chỉ là nổ mồi ,để ERA bị bung mất và cái thứ hai chơi luôn 1 phát vào vỏ giáp đã bị nung nóng và trần trụi không bảo vể ,để kiếm lại tấm hình coi ,dạo này lười và bận quá nhưng cũng pốt được khối bài đấy chứ .

    With these advanced weapon the WW3 will be fought ,but in the WW4 they will fight with sticks and stones (Albert Einstein)
    Được antey2500 sửa chữa / chuyển vào 17:39 ngày 20/11/2003

Chia sẻ trang này