1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Mổ xẻ tên lửa có điều khiển(Guided Missle)

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi ducsnipper, 12/11/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Đọc đến những thứ tên lửa này, bác Đức Xịt Nai tức muốn nổ mắt luôn: ai đời, tên lửa có điều khiển, đỉnh cao nhất của các hệ thống vũ khí, lại có ngày sơ sài đến thế.
    Đức tự hào đã có tên lửa V1 và v2 gây kinh hoàng cho đồng minh. Nhưng sự thật,. V1 và v2 có đáng tự hào thế không??? Theo em, hoàn toàn không, mà đó chỉ là sự khoe mẽ nhiều hơn là thực tế. Khả năng chính xác tồi tệ của chúng, gây ít thiệt hại hơn là bị máy bay đồng minh bắn hạ.
    Việc hoàn thiện hệ thống dẫn đường làm tên lửa chính xác hơn luôn là một yêu cầu mũi nhọn, trong hệ dẫn đường, việc tự tìm mục tiêu được Đức đặt ra từ những ngày đầu. Nhưng Quốc Trưởng dốt đã cắt tiền cho dự án cải tạo V2 thành tên lửa diệt hạm radio homing, làm nó tịt ngóp luôn. Người Nhật đành dùng những tên lửa chống hạm có điều khiển tự tìm mục tiêu "thần phong" của riêng họ. Ở đây, em lại trình bầy một bước nhỏ, trong cái dự án chết yểu đó. Nhưng đây, có thể không được coi là tên lửa có điều khiển, vì nó chỉ có điều khiển, không có tên lửa: bom lượn. Nếu tên lửa diệt hạm định hướng sóng điện từ được chế tạo, Mỹ Anh chắc không thể thắng nổi ở thái Bình Dương và Normandi. Ngày nay, tên lửa diệt hạm có điều khiển đã trở thành một hệ thống vũ khí chủ yếu, là đạn chính trên đại dương. Thế nhưng, việc sử dụng chúng rất khó, và bi hài làm sao, thứ vũ khí hiện đại này, lại tham chiến những trận đầu rất tồi tệ, hơn cả ngáo ộp. Đầu tiên là Ai Cập, sau một số thắng lợi nhỏ, bị Israel gây nhiễu đến vô dụng. Rồi cuộc xung đột ngắn Mỹ-Iran(dẫn đến chiếc Abus của Iran bị hạ), Mỹ phóng nhiều tên lửa chống hạm từ một chiến hạm hiện đại khủng khiếp vào một thuyền chiến nhỏ của Iran: trượt hết, may sao, một người Mỹ nảy ra sáng kiến phóng vào thuyền Iran một tên lửa đất đối không trúng ngay, không có lẽ tầu chiến Mỹ to đùng này chìm nghỉm. Mãi đến Manvinat, Exocet Pháp mới thắng lợi hoàn toàn. Thật hiếm thứ vũ khí quan trọng nào lại cóp bắt đầu đen đủi như vậy.
    Ta trở lại với nó, đây chỉ là một mảnh nhỏ của dự án tắt ngóm, vũ khí không đối đất (hạm) có điều khiển và....không tên lửa.
    Blohm & Voss BV 246 "Hagelkorn" (Hailstone-mưa đá)
    Dự án có tên ban đầu là BV 226, thiết kế bởi tiến sĩ Richard Vogt. dự án được mang tên BV 246 ngày 12 tháng 12 năm 1934 khi lô sản phẩm đầu tiên được đặt hàng. Ý tưởng đằng sau vũ khí này là tấn công mục tiêu từ khoảng cánh xa, cho phép máy bay mang ở ngoài tầm súng phòng không và bom lượn đến mục tiêu.
    Bom lượn có cấu tạo khí động như một máy bay bay rất chậm hay chở rất nặng, có hai cánh ngang, cao, sải rộng, rất mỏng và một đuôi ngang có gắn hai đuôi đứng song song. Một điều thú vị là hai cánh được đúc từ bê tông??????. Một thuận lợi là Mưa Đá luôn được thả từ máy bay mẹ, nó được thả từ độ cao 7000 (23100 feet), met và lượn 175 kilometers (109 miles). ban đầu, bom lượn được thiết kế để điều khiển từ radio máy bay mẹ, nhưng lấy lý do quân Anh chú ý săn bắt hệ thống dẫn dường-trợ giúp radio của Đức, nên chương trình dừng lại ngày 26 tháng giêng 1944, như tất cả chương trình tên lửa có điều khiển khác, mặc dù sau đó được tiếp tục thử nghiệm bởi KG101 ở Karlshagen. Chương trình được khởi động lại đầu năm 1945 với "củ cải", đầu dẫn đường thụ động sóng cực ngắn, có thể dẫn đường tấn công radar đối phương. BV-226 được sống slại với cải tiến, tạo khoang chứa "củ cải" và trang bị con quay hồi chuyển điều khiển lái đứng và ngang. Mười quả bom lượn của cải BV 246 "Radieschen"-có nghĩa là củ cải, được thử nghiệm có bom thật tại bãi thử Unterlüss, nhưng như các thiết bị đang được phát triển khác, 8 trong số đó thất bại, và mặc dù, số còn lại rất chính xác (cách mục tiêu 2 met), khoảng 1000 bom đã chế tạo không quả nào được dùng.
    Sải cánh: 6.4 m (21'''''''') dài: 3.53 m (11'''''''' 7") tốc độ tại mục tiêu: 450 km/h (280 mph)
    Ba quả BV-226 trên máy bay He 111H-6
    BV P.204, chương trình máy bay mang bom BV-246 phản lực-cánh quạt. Chú ý, giá treo bom lượn cong, làm bom dứt khoát nhảy khỏi giá khi thả.
    BV-226, BV-246 và BV-246 củ cải. BC-226, tiền thân BV-246 (đuôi chữ thập)

    Mẫu thử đã hoàn thành của BV-246(củ cải có cải tiến như mũi và dưới thân)
    Thử nghiệm BV 246 với chiếc Focke-Wulf Fw 190F-8
    Sơ đồ củ cải, và BV-246 thường ở Cosford Royal Air Force Museum in Shropshire, England

    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 17:40 ngày 28/09/2004
  2. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Xin lỗi bác Đức Xịt Nai nhé, em tìm không ra, bốt lại vậy.
    Tên lửa "Feuerlilie" (Hoa Huệ Lửa) là tên lửa đối không được bắt đầu như là một chương trình nghiên cứu tốc độ cao bởi Forschungsführung (phần nghiên cứu điều khiển) thuộc RML, để đạt được dữ liệu cho tên lửa có điều khiển sau này. Trên quỹ phát triển nhận được do đơn đặt hằng chế tạo hỏa lực phòng klhông mới, hay là tên lửa phòng không có điều khiển "Feuerlilie-Hoa Huệ Lửa". Tên lửa có hai cấu hình F25 và F55, con số đi sau là đường kính thân tên lửa tính bằng cm, hình dạng khí dộng phát triển bởi tiến sĩ G. Braun and A. Busemann của Luftfahrtforschungsansalt (LFA).
    F25 đơn giản là tên lửa âm thanh, dùng dể nghiên cứu đặc điểm khí động khi chuyển qua tốc độ âm thanh. Đánh giá đó là một tên lửa đối không vẫn vội vàng, nếu trang bị cho nó ngòi nỏ và đầu đạn. Thân hình trụ và cánh lắp giữa thân, một cánh phụ nhỏ ở đầu mút cánh xuôi. Một đuôi đứng sau thân và trên đó là hai cánh điều khiển lên xuống có thể điều khiển cùng nhau hay khác nhau. Năng lượng được cung cấp bởi động cơ nhiên liệu rắn hai thành phần Rheinmetall 109-505 tạo lực đẩy 500kg trong 6 giây. Tên lửa được phóng từ giàn phóng dốc hay máy bay-điều khiển qua radio. Lần thử nghiệm đầu tiên vào tháng 4 năm 1943 tại Leba và đảo thuộc Greifswalder Oie, gần Peenemünde. Ba quả được phóng trong lần phóng này và một đã thành công. Nhiều F25 khác được phóng, tất cả chúng đã thành công và cung cấp nhiều thông tin mong muốn. F55 thiết kế hơi khác, nó không có đuôi. Nó có hai cánh giữa thân xuôi sau, vượt qua thân và hai cánh phụ đứng ở mút cánh. Động cơ nhiên liệu lỏng sử dụng R-Stoff và S-Stoff tạo lực đẩy 6350kg trong 7 giây. Động cơ được thiết kế bởi tiến sĩ Conrad của DVK, ông là người thiết kế đọng cơ tên lửa cho Enzian và Rheintochter. Lần thử đầu tiên vào tháng 5 năm 1944 gần Pomerania, tên lửa được phóng đi bằng 4 động cơ nhiên liệu rắn Rheinmetall 109-505. Thử nghiệm thành công với tốc độ M1.25. Lần thử thứ hai, với động cơ nhiên liệu lỏng của tiến sĩ Conrad không thành công và lần thử thứ ba, làm lại gần Peenemünde tháng 11 năm 1944 không được thực hiện.
    F25 sải cánh: 1.15 m (3'' 9.25") dài: 2.1 m (6''10.7") tốc độ cao nhất: 840 km/h (522 mph)
    F55 sải cánh: 2.5 m (8'' 2.5") dài: 4.8 m (15''9") tốc độ cao nhất: 1500 km/h (932 mph)
    Như vậy, đây đơn thuần là mẫu thử tên lửa, mà chưa đạt được những nguyên tắc đầu tiên cơ bản của tên lửa có điều khiển, chính điều đó làm chúng có khả năng phóng thành công rất thấp. Ai đời, tên lửa có điều khiển mà vẫn mang theo cỡ nòng như đại bác hay một thứ đại bác là tên lửa không điều khiển, hay là hình dáng vẫn giống máy bay. Chúng đóng góp, nếu có thể, là những đặc điểm khí động khi vượt bức tường âm thanh. Đây là tiền đề để khi trang bị thiết bị điện tử (hồi đó vẫn rất cồng kềnh), và cho ra đời tên lửa có điều khiển thật sự đầu tiên. Tức là tên lửa có ổn định tự động, có lái dựa trên ổn định đó, có hệ thống dẫn đường và máy tính điện tử. Tóm lại, ổn định tự động-lái tự động và dẫn đường (định vị hay dò mục tiêu) là những tiêu chí cơ sở của tên lửa có điều khiển. Người Đức khi nghiên cứu ổn định tự động, đã chứng minh vai trò đặc biệt quan trọng của con quay hồi chuyển-không thể thiếu ngày đó.Ngày nay, nhiều hệ thống định hướng thay thế cho con quay hồi chuyển, nhưng đây vẫn là thiết bị cổ truyền an toàn, chính xác và rộng rãi. Bv 246 "Hagelkorn" củ cải có ai trò đặc biệt trong sự phát triển tên lửa có điều khiển, mặc dù dự án tắt ngóm. Nó chứng minh rằng, dò mục tiêu tự động là một nhiệm vụ quan trọng của tên lửa. Có lẽ, củ cải đã trở thành tên lửa đầu tiên hoàn toàn tự động tìm đến mục tiêu một cách chính xác. "Feuerlilie" (Hoa Huệ Lửa) còn thiếu nhiều điều kiện để trở thành một tên lửa, đừng nói là tên lửa đối không, tên lửa có tính cơ động và hệ đầu dò-dẫn đường phức tạp nhất. Ta sẽ xem xét những thiết bị khác buổi sơ khai này.
    *
    Vận chuyển và bảo dưỡng F55 "Feuerlilie"
    *
    Mô hình trong hầm khí động và phần khởi động với bốn động cơ nhiên liệu rắn F55 "Feuerlilie"
    *
    Tranh vẽ của đồng minh sau chiến tranh, có vài thứ bên trong. Một trong những nước đồng minh đã thu thứ này về, và bi giờ, chúng ta vẫn chưa biết hết có những gì trong đó.
    Rheinmetall-Borsig F55 "Feuerlilie" trên giàn phóng-ảnh chụp và tranh vẽ
    *
    F55 "Feuerlilie" tại bảo tàng Cosford Royal Air Force Museum in Shropshire, England.

    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 19:28 ngày 28/09/2004
  3. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Đây, sau những thử nghiệm trên, tên lửa có điều khiển thật sự đầu tiên của thê giới đã ra đời. Thật sự, là vũ khí hiện đại nhất của chiến tranh Thế Giới lần thứ hai. Nếu như cái gọi là tên lửa đối không trên kia còn giống nhiều máy bay, thì đây đã khác hẳn. Thứ nhất, tên lửa không dùng cánh nâng hoặc lực nâng do cánh tạo ra không cần thiết nhiều nữa cho nên cánh nhỏ đi, trong khi đó, cánh lái to ra. Vì khác máy bay, khái niệm phân biệt đâu là chiều ngang, lưng và bụng cũng mất đi, các hướng quanh tên lửa giờ như nhau, cánh tên lửa đều ra các hướng. Quan trọng nhất là khí tài điện tử, dành cho việc tự động lái và ổn định. Ngày đó, điện tử còn nặng nề nên tên lửa phải to ra để mang chúng. Với sự tăng cường ném bom của Đồng Minh, nước Đức cần một phương pháp mới để hạ máy bay địch. Các phương pháp dùng súng phòng không không hiệu quả, còn dùng máy bay thì tốn nhiên liệu, máy bay và phi công. Thế là tên lửa có điều khiển đối không được phát triển (FLAK-phòng không). Một trong số chúng là Wasserfall được phát triển tại Peenemünde.
    EMW C2 Wasserfall
    Phần thân cơ bản được chế tạo năm 1943, cùng cỡ với A-4(tên lửa V-2). Dr.Thiel người đã thiết kế động cơ cho tên lửa V-2 tiếp tục phát triển động cơ cho Wasserfall và mô hình của chúng sớm được thủ nghiệm năm 1943, với một số bản phát triển tiếp được thử nghiệm tháng 7-1943. Thật không may cho chương trình Wasserfall, tiến sĩ Thiel mất khi không quan Anh ném bom Peenemünde tháng 8 năm 2943. Từ đó, theo một vài thông báo, chương trình dừng lại đợi thử nghiệm tiếp. Có lẽ đến những tháng cuối năm, nó chờ đợi quyết định về nhiên liệu mới do hệ thống nhiên liệu lỏng cồn/oxi được dùng trong tên lửa V-2 không sử dụng được.Visol (vinyl isobutyl ether) và SV-Stoff, hoặc và Salbei (90%nitric acid, 10% sulfuric acid) được sử dụng (tự cháy khi trộn). Nitơ nén được sử dụng để bơm nhiên liệu từ bình chứa xuống buồng đối, bằng một đĩa vỡ làm thông bình nitơ và ống dẫn. Một số động tác an toàn được thực hiện khi phóng. Một trong số đó là đĩa ngăn oxi được mở trước khi đĩa ngăn nhiên liệu mở, làm cho buồng đốt trần đầy ôxi ngăn không cho nhiên liệu phát nổ trong trường hợp buồng đốt đầy nhiên liệu. Một biện pháp an toàn nữa là một van nổ được đặt trong bình nitơ nén, giải phóng áp suất nitơ khi buồng đốt không sảy ra cháy lên trên. Bản đầu tiên Wasserfall (W-1), cánh còn to và không xuôi sâu. Cánh chéo 45 độ từ gốc đến mép đặt gữa thân(xem sơ đồ).
    Mai tiếp, ở đây muỗi quá.
    Bây giờ là mai đây, tiếp tục.
    Cánh lớn của ấn bản đầu tiên (W-1) được cho là bảo vệ cơ chế lái bằng cánh đuôi trước những ảnh hưởng khí động. Nhưng những thử nghiệm trong buồng khí động sau đó cho thấy điều đó là không cần thiết. Bản thứ hai (W-5) do đó, tuy hơi to hơn nhưng cánh lại nhỏ hơn và xuôi sau rõ ràng. Bản cuối cùng, W-10, tương tự như bản thứ hai nhưng nhỏ hơn 27%, giúp tiết kiệm nhiên liệu, đã khan hiếm trong những ngày cuối của chiến tranh. Như vậy, hệ động lực của tên lửa đã khác hẳn máy bay: lực nâng chủ yếu từ động cơ phản lực chứ không phải cánh, cánh thu nhỏ lại. Tên lửa cũng giống như các tên lửa đạn đạo khác sau này (nay Iran vẫn dùng), có cánh lái than chì để lái lực đẩy và cách lái không khí ổn định hơn. Sơ đồ động lực của nó không khác gì mấy R-27 vũ trụ của Nga(hơn 10 năm sau đó).
    Hệ thống dẫn đường bao gồm một người điểu khiển mặt đất, lái tên lửa bám đường (line-of-sight) bằng một joystick nhỏ. Tên lửa được hệ con quay hồi chuyển điều khiển quay, lên xuống và ngang. Điều khiển tên lửa qua liên kết radio thay đổi góc phương vị và độ cao. Việc lái thực hiện được bằng bốn tấm lái than chì, đặt ở tuye thoát khi tốc độ thấp. Khi tốc độ cao, tên lửa được lái bằng bốn cánh lái không khí gắn trên đuôi. Còn một hệ thống dẫn đường radar Rheinland được dự định, bao gồm bộ radar, bộ định vị trực tiếp, máy tính tương tự và bộ truyền tín hiệu. Radar theo dõi mục tiêu và bật bộ nhận tín hiệu trên thân Wasserfall. Tín hiệu từ bộ nhận có thể nhận được qua bộ tìm kiếm trực tiếp, cho thấy góc phương vị và độ cao tên lửa. Thông tin này được nhập vào máy tính tương tự và ở đó được so sánh với thông tin mục tiêu nhận được từ radar. Ở chỗ này, những hiệu chỉnh cần thiết được tính toán sau đó chuyển đến bộ truyền lệnh, điều khiển thiết bị ổn địng tự động trên tên lửa mang tên lửa vào chùm chiếu radar, khi ở chùm chiếu, tên lửa theo chùm chiếu đi đến mục tiêu. Một phương pháp điều khiển nữa được đề nghị là dùng hai bộ radar, sử dụng chúng quay lưỡng cực để tìm ảnh quét hình nón, trong đó, khi mục tiêu không theo dõi được, nó sẽ điều chỉnh tín hiệu để tìm lại mục tiêu. Khi sử dụng radar với tên lửa có tốc độ siêu âm, không đủ để điều khiển tên lửa chính xác. Tên lửa dùng radar đến một vài dặm cách mục tiêu và sau đó hệ tầm nhiệt hay gì đó tương tự dẫn tên lửa đến gần hơn trong quãng đường còn lại.HP- như vậy hệ thống điều khiển tên lửa bao gồm một hệ thống ổn định tự động và lái tự động trên tên lửa, hệ truyền nhận lệnh giữa tên lửa và thiết bị lái trên mặt đất, maý theo dõi mục tiêu, máy theo dõi tên lửa đều có góc phương vị và tầm, tất cả được kết nối bởi máy tính tương tự. Người Đức đã chế tạo và hiểu rõ vai trò đặc biệt qua trọng của con quay hồi chuyển
    Ban đầu, đầu đạn chứa 100kg thuốc nổ nhưng sau tăng thêm 306kg, bổ sung thuốc nổ lỏng để tăng bán kính nổ. Kích nổ thực hiện bằng điều khiển từ xa hay máy đo gần nhau xung. Mục tiêu của Wasserfall là phá huỷ máy bay bằng bán kính vùng nổ lớn, do đó, một số máy bay ném bom có thể rơi bởi một tên lửa. (Cơ chế nổ, lái và cỡ đầu đạn này giống hệt SAM-2 Nga, mà quân ta dùng đánh Mỹ, cơ chế RADAR cũng thế, nhưng SAM-2 thiết bị điện tử đã ngon nhiều, cỡ đầu đạn SAM-2 cũng 295kg, gần bằng).
    Ban đầu, dự định triển khai Wasserfall chống máy bay trên tất cả những thành phố trên 100000 dân của Đức, như vậy cần triển khai khoảng 200 giàn phóng tên lửa đất đối không này, và trên ba tuyến vào khoảng 80km (50km mỗi tuyến). Như vậy cần khoảng 300 giàn phóng để Đức chịu đựng được tất cả những cuộc tấn công của không quân địch. Cung cấp cho kế hoạch vĩ đại này cần 5000 tên lửa mỗi tháng, mỗi tên lửa có giá 500 mark (để so sánh khoảng 4000 mark cho mỗi tên lủa V-2). Trạm Wasserfall đầu tiên có thể lắp đặt sơm hơn tháng 11 năm 1945, và thêm khoảng 20 bệ phóng trong bốn tháng sau, với khoảng 100 tên lửa mỗi vị trí. Kế hoặch sản xuất 900 tên lửa mỗi tháng vào tháng 3 năm 1946.
    Mặc dù những phần khác nhau được thử nghiệm đầu năm 1943, nhưng lần phóng thử đầu tiên đã không thể sơm hơn 28 tháng giêng năm 1944 tại đảo Oie, gần Peenemünde. Lần thử thứ nhất tên lửa không đạt tốc độ siêu âm và chỉ đạt độ cao 7000 mét, nhưng lần thử thứ hai, tên lửa đạt tốc độ leo cao 2772 km/h. Đến tháng 7 năm 1944 đã có hơn 7 tên lửa được phóng thử và đến đầu tháng giêng 1945, thêm 17 tên lửa nữa được phóng. 25 quả được thử nghiệm trong đó có 24 quả có điều khiển radio và trong đó 10 quả thất bại. Ban đầu, tên lửa được giữ bởi bốn chốt bật, sẽ rời ra khi lực đẩy đầu đủ. Nhưng một hay hơn nữa tai nạn sảy ra khi có chốt nào đó không rời ra đúng lúc, làm kểu neo đứng này bị bỏ. Người ta phát hiện tên lửa có thể đứng yên không cần cột dây hay chốt giữ trong gió 60km/h. Ngày 22 tháng giêng năm 1945, báo cáo cho thấy một vài vấn dề bvới động cơ trong lần thử đầu tiên, nhưng đã được vượt qua. Việc phát triển tên lửa dừng ngày 26 tháng hai năm 1945, dù một vài công việc nhỏ vẫn tiếp tục. Dẫu cho không được kiểm chứng, nhưng một vài nguồn cho thấy ít nhất một lần, khoảng 50 tên lửa Wasserfall đã được triển khai trong mọt nhiệm vụ "cương quyết chiến thắng không quân địch".
    Wasserfall được coi là ông tổ của tên lửa chống máy bay, một thời gian ngắn Sau chiến tranh, Mỹ đã chế tạo thành công tên lửa đối không NIKE, với sự giúp đỡ của tiến sĩ Werner von Braun tại White Sands trong sa mạc New Mexico.
    HP- cấu trúc của tên lửa này giống hệt như SAM-1 Nga, và nguyên tắc thiết kế như vậy vẫn thấy trong SAM-2 Nga. HP đờng ý, đó là tên lửa có điều khiển đầu tiên của thế giới, với các đặc điểm ổn định tự động, lái tự động, dò mục tiêu.....Cấu trúc của nó đã gồm đủ các bộ phận và tính năng của tên lửa có điều khiển. Thành tựu này cực kỳ vỹ đại, nó đánh đấu thời đại tên lửa có điều khiển bắt đầu, tên lửa thay dần cho đạn khác trên tất cả các ngóc ngách của bãi chiến trường. Thậm chí, người ta đã từng nghĩ đến đạn tên lửa cho súng sát thương cầm tay (súng trường, làm sao có thể chế tạo hệ điều khiển-dẫn đường cho đạn này nhỉ). Trên biển, đại bác thật sự đã nhường gần hết cho đạn tên lửa, vì đầu đạn nặng hơn (đầu đạn tên lửa lớn thoải mái), tầm xa hơn, chính xác hơn, tốc độ bắn nhanh hơn. Ngày nay, đại bác lớn chỉ dùng trong trường hợp bắn phá, mà tầu chở đại bác không cần phải đối đầu với sự huỷ diệt của vũ khí đối phương, phương pháp này rẻ tiền nhưng tầm thì rất thấp. Một ứng dụng nữa còn lại của đại bác là pháo bắn nhanh cỡ trung bình (75mm-100mm) cũng vì rẻ, dùng cho các nhiệm vụ tuần tiễu, cũng một loại súng nữa còn dùng nhiều trên chiến hạm là pháo phòng không tầm ngắn, nhưng nhiệm vụ của chúng lại là.....chống tên lửa và càng ngày hiệu quả càng thấp xa vời. Tên lửa có điều khiển thật sự là đạn chính trên biển, nhưng trong WW2, tại Đức phát triển của nó gặp nhiều không may. Các bác đã xem phần dẫn đường radio homing, em sẽ trình bầy các mảnh vỡ khác nhau của thứ tên lửa chống hạm này, sau khi pos đủ 4 loại tên lửa đầu tiên khác.
    Trái: Đây là ba bản tên lửa phòng không đầu tiên của thế giới, W-10 là mẫu chế tạo hàng loạt. Phải: Elsass, hệ thống điều khiển và lái của tên lửa Wasserfall
    *
    Các bộ phận của tên lửa C2 Wasserfall (W-1) và vị trí của chúng.
    ---------------------------
    các bộ phận của tên lửa C2 Wasserfall (W-5)
    Trái: Một mô hình Wasserfall trong buồng thử khí động, được gắn với 121 ống đo manometer. Khi thử nghiệm cần một số lượng lớn người để đọc kết quả đo.
    Phải: Các mô hình thử khí động khác nhau của V-2 và Wasserfall, tất cả mọi mấu thử của hai loại tên llửa có thể thấy trong ảnh này.
    *
    Trái W-1 được chử đến đảo Peenemünde bằng tầu. Phải, ảnh không rõ, tên lửa W-1 được phóng.
    *
    W-5 trên giá phóng và người điều khiển nó, hiệu ứng của điều khiển từ xa quan sát bằng vệt khó.
    *
    W-5 vừa rời bệ phóng, ảnh trong chiến tranh lạnh của nó và trong WW2, nó được kéo lên giá phóng
    * *
    Tên lửa đất đối không EMW Wasserfall trên bãi cỏ tỉnh Aberdeen, 1990 .

    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 21:53 ngày 30/09/2004
  4. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165

  5. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Nhìn qua tên lửa phòng không đầu tiên, hẳn các bác thấy, sự vượt trội của người Đức với phần thế giới còn lại. Trong các topic về xe tăng (mất đi một nửa trong T-95, tank tàng hình Nga), em đã nói chuyện nhiều về sự định nghĩa lại vội vàng, của quân Đồng Minh, trong giai đoạn đầu WW2, về cả cấu trúc, cơ cấu trang bị và cách đánh trận xe tank. Sự muôn mằn và sau đó là vội vàng này trước quân Đức, đã làm Đồng Minh thiệt hại khủng khiếp. Nước Pháp hèn yếu nhanh chóng đầu hàng và chạy trốn, tránh bị huỷ diệt, còn Nga, phải đối đầu với tank Đức, thì các bác biết đã lao đao và thiệt hại thế nào trước khi trội lên. Không chỉ xe tank, các máy bay chiến đấu Đức, đặc biệt là các máy bay không chiến và đa năng (vừa không chiến vừa tấn công mặt đất), của Đức cũng trở thành những ông tổ của máy bay chiến đấy phản lực Nga-cái này thì em đã nói đến trong hàng không 100 năm.
    Nhưng rõ ràng, sự vượt trội lớn nhất của Đức là trong lĩnh vực tên lửa có điều khiển. Ngày nay, không ai nghi ngờ gì việc nó (tên lửa có điều khiển-TLCĐK) trở thành đạn chính trên tất cả các chiến trường, bắn tất cả các mục tiêu, nhưng ngày đó, mọi thứ mới chỉ bắt đầu. Trong một topic về sai lầm của Đức (LSVH), em cũng đề cập đến việc, do không ưu tiên phát triển và sử dụng hệ các hệ thống vũ khí mới, mà Đức không thể trội hẳn lên. Ngay cả máy bay Me-262 nổi tiếng, cũng chỉ được đặt hàng với số lượng không lớn khi không quân Đức đã bị Đồng Minh đánh cho tả tơi te tua, nếu như, máy bay này được chú ý đặt hàng hàng loạt sớm hơn thì sao. Tên lửa cũng vậy, đến cuối cuộc chiến, trong bom đạn tơi tả và thất bại thảm hại đang đến rất nhanh, Đức vột vàng phát triển, đưa kỹ thuật quân sự của thế giới tiến một bậc dài, nhưng bản thân nước Đức Quốc Xã không còn kịp dùng nữa. Việc ra đời sớm (trước WW2) và phát triển chậm chạp, rồi chết yểu của những dự án tên lửa đã minh chứng điều đó, rõ ràng nhất là tên lửa chống hạm radio homing. Em sẽ dần dần cùng các bác nghiên cứu về những tên lửa có điều khiển thực sự đầu tiên này. Với V2 đạn đạo (em xin lỗi, trong một bài trước em đã nói ngược, thực tế, V2 là tên lửa đạn đạo còn V1 là tên lửa hành trình) và tên lửa SAM C2, hệ động lực tên lửa đã thật sự hình thành(hai chú gần giống nhau về hệ động lực). C2 cũng đạt những cấu trúc cơ sở của hệ điều khiển, nó cũng có tham vọng trong việc tự tìm mục tiêu máy bay, nhưng chưa kịp thể hiện. Cơ cấu con quay hồi chuyển-thông tin lái-máy tính điện tử-cánh lái không khí và cánh lái khí đẩy làm cơ sở cho tất cả các tên lửa sau này. Chỉ đến những thập kỷ 90, mới có cơ sở cho hệ tên lửa mới động cơ nhiên liệu rắn kim loại nhẹ-định vị và định hướng radar hoặc GPS...nhưng hệ người Đức nghĩ ra vẫn an toàn, ổn định, rẻ...... và được áp dụng chủ yếu.
    Em cũng chưa được nhìn thấy cụ thể, con quay hồi chuyển ngày đó thế nào, rất mong các bác chụp hình và post giải thích lên.
    Tên lửa được quan sát thấy trong lịch sử thời Nguyên. Ngày nay, các dân tộc phương Đông vẫn phóng pháo thăng thiên lớn. Năm 1815, Nga đã lần đầu tiên đưa tên lửa vào bãi chiến trường. Năm 1914, Nga đã có dự án đại bác không giật, và trong WW2, Nga dùng khá nhiều tên lửa. Giữa hai thế chiến, phương Tây cũng nhiều nhóm thử nghiệm động cơ nhiên liệu lỏng. Thế tên lửa Đức khác chỗ nào, tại sao tên lửa Đức mới mở ra thời đại mới, chứ không phải thời Nguyên hay năm 1815. Thật ra, tên lửa có những ưu điểm như: đầu đạn lớn thoải mái, súng nhẹ hay không cần, tầm xa gần như thoải mái.....Thế tại sao trước đây không dùng. Vì tên lửa có độ tản mát rất lớn. Việc áp dụng kỹ thuật điều khiển đã làm mất điều đó và không những thế, tên lửa có điều khiển trở thành đạn siêu chính xác. Ngày nay, Nga và Mỹ bắn trúng những điạ điểm trên các ngôi sao, mà để đến được, đầu đạn phải đi hàng năm. Nó hơn hẳn súng là hiệu chỉnh được đường đi trong khi bay. Vì vậy, chỉ gắn chữ "có điều khiển" vào chữ "tên lửa", mới trở thành loại vũ khí mới-đó là công người Đức. Nhưng Quốc Trưởng dốt đã cắt tiền những dự án này, chúng được triển khai không kịp. Ôi chao, nếu ngày đó thiết giáp hạm Bismarrk có đạn mang đầu đạn nặng vài trăm kg, bắn xa vài trăm km, điều khiển chính xác bằng radio homing hoặc TV..
    Tên lửa đạn đạo V-2 (A-4) mang đầu đạn cỡ tấn đi xa 200 dặm (320km) trong thời gian dưới 5 phút với tốc độ siêu âm và độ cao lớn. Nó là vu khí khủng khiếp với các lực lượng đối địch, không thể có báo động trước và đánh chặn. Nó là sự kỳ diệu về kỹ thuật hồi đó và là một cái nhìn xa vào tương lai, nó báo trước thời đại của các tên lửa đạn đạo chiến lược xuyên lục địa (ICBMs). Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của tiến si Wernher von Braun , cuộc cách mạng về vu khí đã diến ra trước các nơi khác hơn 10 năm(theo HP, phải 20 năm, chưa kể các tên lửa sau này đều học được từ các nhà khoa học Đức bại trận). Bước tiến vi đại được bắt đầu năm 1937, khi đội phát triển đến đảo gần Peenemunde trên biển Baltic. Lần thử nghiệm đầu tiên diễn ra ngày 13-6-1942, lúc đó tên lửa đổ và nổ tung trên bệ phóng. Ngày 16 tháng 8, quả thứ hai trở thành tên lửa đầu tiên của thế giới vượt tốc độ âm thanh. Ngày mùng 3 tháng 10 năm 1942 lịch sử, quả tên lửa hoàn thiệt được phòng trong lần thử nghiệm thứ 3, tên lưae rơi cách mục tiêu 4km (2,5 dặm) sau khi bay 190km(118 dặm). Ngày 22-12-1942, tên lửa được đặt hàng sản xuất hàng loạt mới mã tên V-2 (Vergeltungswaffe 2 ), 31 lần thử nghiệm, với tổng cộng khoảng 50 tên lửa được phóng trong kế hoạch thử nghiệm.(HP thật ra, lần sản xuất nhiều này, sau này, được gọi là thử nghiệm đánh giá thực tế, sau thử nghiệm thiết kế). Đầu đạn chứa 2,006 lb (910 kg) thuốc nổ Amatol chịu được được nhiệt độ cao khi mui thép mỏng ma sát với không khí làm nhiệt độ tăng tới 600 độ C (1112 độ F). Động cơ khổng lồ lúc đó dùng máy bơm turbine dung tích lớn, đẩy bởi turbine có công suất 730HP (công suất máy bơm). Nhiên liệu C-stoff và T-stoff , có khả năng dùng LOX (liquid-oxygen) và Ethyl alcohol cho loại tên lửa nặng 28,000 lb (gần 12 tấn), động cơ cung cấp lực đẩy 56,000 lb trong quãng đường dốc lên của quỹ đạo. Các cánh lái khí thải than chì dùng để lái tên lửa, sau đó, khi tốc độ tăng, các cánh lái không khí trên bốn cánh đuôi lớn trợ lực lái tên lửa trên đường đi. Trước, tên lửa được điều khiển bám theo đường cong chính xác đến mực tiêu. Sau đó, hệ thống điều khiển quán tính đầu tiên của thế giới cung cấp ổn địng và dẫn đường tự động (bắn và quên). Hệ thóng dẫn đường quán tính đó bao gồm hai con quay hồi chuyển LEV-3 và một bộ tích phân quán tính. Hệ thống điều khiển sử dụng điện-thuỷ lực chỉnh các cánh lái để thay đổi góc tên lửa. Độ cao 96km đạt được trước khi tên lửa thực hiẹn đường cong rơi xuống mục tiêu. (đây là cấu trúc tên lửa đạn đạo điển hình ngày nay vẫn được dùng chủ yếu, ngày đó, khong một thiết bị nào có thể báo động hay đánh chặn được, ngày nay cung rất khó). Nhóm đầu tiên được sản xuất nam Peenemunde trong cuối năm 1943, nhưng phần lớn được lắp ráp ở Mittelwerke. Một nhà máy khổng lồ dưới lòng đất với 50 000 công nhân chế tạo tên lửa trong những điều kiện vô cùng tồi tệ. Hà lan, khoảng 300 tên lửa trong tháng 4 năm 1944 và đỉnh cao là khoảng 1 000 tên lửa vào tháng 10-1944. Trên 10 000 tên lửa tổng cộng. Chiến dich đầu tiên sử dụng tên lửa bắt đầu ngày 6 tháng 9 năm 1944, 1800 tên lửa trong kho, với mục tiêu Paris, đơn vị Artillerie Abteilung đảm nhiệm. Hai ngày sau, tên lửa được phóng từ các vị trí được giấu kín gần Wassenaar, Holland. 1,120 đạn được bắn tới Anh và thực tế, 1050 đạn được ghi nhận rơi xuống đây.
    Ngày dó, nguời Anh gọi các vụ nổ này là vụ nổ khí gas, do không hề có báo dộng phòng không. Thực ra thì, sức phá hoạt của tên lửa này chỉ có tác dụng với các thành phố nlớn, hầu nhu vô dụng với các mục tiêu quân sự, do sự kém chính xác thời dó, nhung V-2 vẫn là thuỷ tổ của các tên lửa dạn dạo sau này.Tổng cộng có 4320 lần phóng và 600 lần phóng huấn luyện khác. Tên lửa được sử dụng từ 6-9-1944 đến 27-3-2945. Tại Anh, 2754 người chết và 6523 người bị thương nặng do tên lửa. Giá V-2 lớn gấp nhiều lần V-1, nhưng sự thiệt hại gây ra thì lớn, do tên lửa chuyển động đến mục tiêu rất nhanh. Việc vận chuyển cung nhanh chóng với xe chở kiêm bệ phóng từ Meillerwagen. Dự án sau đó được rút gọn do nhiều lý do.
    Antwrep 1,341
    England 1,120
    Liège 98
    Brussels 65
    Paris 15
    Remagen Bridge 11

    A-4 Vergeltungswaffe-2 V-2 Role: Long Range Ballistic Missile
    Manafacturer:
    Country: Germany
    Đường kính lớn nhất: 5 ft, 61/8 in ( 1.68 m )
    Dài: 14.03 m ( 46 ft. 3/8 in.)
    Sải cánh: 3.5 m ( 11 ft. 5 3/4 in.)
    cấu trúc: Thép và bông thuỷ tinh cách nhiệt
    Vỏ bảo vệ: thép mòng gắn bằng đinh tán
    Cánh lái lực đẩy than chì điều khiển điện-thuỷ lực và cánh lái điều khiển điện.
    Trọng lượng cất cánh 28,314 lb (12870 kg)
    Động cơ EMW lực đẩy 27,500 kg ( 60,500 lb. ) gia tốc 6G.
    NHiên liệu 12,200 lb ( 5,533 kg ) oxygen lỏng ( A-Stoff ) và 9,200 lb ( 4,173 kg ) Methanol ( M-Stoff. )
    Propellants: 12,200 lb ( 5,533 kg ) of liquid oxygen ( A-Stoff ) and 9,200 lb ( 4,173 kg ) of Methanol ( M-Stoff. ). Máy bơm chạy bằng turbine T-Stoff (172 kg) và Z-Stoff đạt 730 HP. Cung có thể là nitơ nén đựng trong chai khí.
    Dẫn đường: tích phân gia tốc 1-Gerdt , con quay hồi chuyển LEV-3 và điều khiển radio.
    Đầu đạn 975 kg (trong đó chứa 907 kg of 60/40 Amatol ) ngòi nổ điện và hoá học.
    tốc độ tối đa: 5,760 km/h ( 3,110 mph )
    Thời gian động cơ hoạt động: 70 seconds
    trần bay tối đa: 96,000 m ( 314,880 ft. )
    tầm: 330 km (178 nm)
  6. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Trên kia, em đã nói đến hệ thống dẫn đường quá tính đầu tiên của thế giới. Chúng gồm 2 con quay hồi chuyển và một tích phân gia tốc-đến nay vẫn vậy. Ngày đó, máy tính điện tử và laser chưa có, chắc chúng phải khác ngày nay làm. Em cũng chưa được thấy nguyên lý và ảnh của chúng bao giờ. Em đã post về con quay hồi chuyển hiện đại, nhưng ngày đó thì không thể hình dung ra. Rất mong các bác có thông tin share lên đây em xem với.
    Các bác xem tạm một vài thông tin về hệ động lực vậy. Đây là những già của Đức Quốc Xã trong chiến tranh. Các loại nhiên liệu này và cơ chế bơm turbine là cơ sở các tên lửa sau này. Mãi đến thập kỷ 60 người ta mới chế ra và ứng dụng rộng rãi trong thập kỷ 90 loại động cơ nhiên liệu rắn, nhưng cũng không thể thay thế hoàn toàn được.
    Còn đây là động cơ
    thử chút nhé
    [video]http://www.ww2guide.com/v2launch.avi[/video]
  7. ducsnipper

    ducsnipper Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/04/2003
    Bài viết:
    1.866
    Đã được thích:
    0
    Hầy dà, cái lày giống kể chiện lịch sử quá dậy cà
  8. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Bác Bị Cúm này.
    Mổ xẻ thì môt cả chiều ngang, chiều dọc, rồi chiều sâu, phải không bác. Em môt thêm chiều thứ tư là chiều thời gian đã lâu. Hén hèn hèn hèn, bác bỏ nó đây không mổ thì em mổ tung ra cho cả nhà xem.
  9. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Thì đây, em mổ tiếp.
    Trên kia các bác đã xem con X-4. Bi giờ, là một dự án chạy đua với nó, và chết yểu. Henschel Hs 298.
    Đây là tên lửa không đối không có điều khiển đầu tiên được phát triển. Cuộc phóng thử nghiệm đầu tiên diễn ra ngày 22-12-1944 từ máy bay Junkers Ju 88 A-4. Hơn 300 cuộc phóng thử nghiệm rộng từ các máy bay Ju 88G, Ju 388L, Fw 190A tại bãi thử Karlshagen. (Hs 298 V2) là ấn bản lái dây mang đầu đạn lớn nhất 105.8 lb (48 kg) được chế tạo và thử nghiệm ban đầu trước khi chiến tranh kết thúc, vũ khí không bao giờ được trang bị cho không quân Đức.
    Nhìn vào sơ đồ, các bác có thể thấy nguyên nhân nó thất bại: nó chưa thoát khỏi hình ảnh một máy bay.
    Tên gọi Hs 298
    Quốc gia Germany
    Chế tạo bởi Henschel. Cánh được phủ gỗ. Thân được làm bằng hợp kim nhẹ mới mũi kép mang ngòi nổ tiếp xúc và máy phát điện.
    Dài 63/4 in ( 2.003 m )
    Đường kính lớn nhất 6.34 in (415 mm)
    Sải cánh 4 ft, 23.4 in ( 1.29 m )
    Trọng lượng xuất phát 209.5 lb (95 kg)
    Trọng lượng đầu đạn 55 lb (25 kg) 105.6 lb (48 kg) HE
    Hệ dẫn dường lái dây FuG 203 "Kehl"/FuG 230 "Strassburg" ( FuG 512/FuG 530 "Kogge" )
    Động cơ Schmidding SG32/109-543 tên lửa nhiên liệu rắn
    Tốc độ tối đa 455 mph ( 842 km/h )
    Tầm 5,248 ft (1600 m)
  10. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Bác Đức có nhiều tài liệu về cấu tạo chi tiếp các bộ phận trong tên lửa. Nhưng mà mãi chẳng thấy nuôi cái topic này. Em thì không sao (mất công mấy năm rồi) tìm được tài liệu mô tả hệ thống dẫn đường quán tính hồi WW2. Không thể hiểu làm sao, với các sensor điện trở than chì và máy tính tương tự, tên lửa có thể tổng hợp được lệnh lái và tình trạn con quay hồi chuyển, ra kết quả là độ nghiêng cánh lái. Cả bộ tích phân gia tốc hồi đó, cũng là một sự kỳ bí.
    Mổ cắt, chặt xén băm cưa đục khoét xoi xăm rạch tiêm, hèn hén, em chẻ tiếp. Nói chỗ này ít thôi, lúc nào sẽ trở lại sau.
    Một minh chứng cho sự vượt trội của người Đức, sau chiến tranh, các bên thắng trận xâu xe tranh giành đua nhau thu kỹ thuật từ Đức tan hoang bại trận.
    Quân đội Mỹ mang các bộ phận của tên lửa V-2 thu được của Đức đến White Sands trong hoang mạc New Mexico. Chương trình phát triển tên lửa Mỹ có tên Hermes do hãng General Electric điều hành.Wernher von Braun và đội của ông ở gần Fort Bliss, Texas, họ giúp người Mỹ lắp ráp, thử nghiệm, bắn và đánh giá tên lửa. Cuộc phóng đầu tiên, năm 1946, sử dụng toàn bộ các bộ phận Đức. Sau đó, kinh nghiệm thu được giúp Mỹ cải tiến thiết kế tên lửa và chế tạo những bộ phận của Mỹ.
    Quả tên lửa này được lắp ráp từ một vài bộ phận và được trưng bầu ở bảo tàng kỹ thuật không quân Park Ridge, Illinois. Smithsonian nhận được nó năm 1954. Các kỹ sư đã mất 2000 giờ mệt lửa để đưa nó lên giá trưng bầy. Lớp sơn giống như của tên lửa được sơn sau lần thử đầu tiên năm 1942, nó giúp dễ dàng nhận diện được tên lửa, cho việc theo dõi đường đi.
    Phải: U.S. Army Ordnance Col. Sỹ quan hậy cần Mỹ Holger Toftoy hội ý với Wernher von Braun:

    Vận chuyển tên lửa từ nơi lắp đến bãi phóng (10km) bằng xe của Đức:
    White Sands, một kỹ sư General Electric xem xét các bộ phận thu được của tên lửa cuối 1945.
    Ở Liên Xô, việc copy và phát triển, phóng to tên lửa cũng được đẩy nhanh như ở Hợp Chủng Quốc. Năm 1947, tên lửa đầu tiên lắp ráp từ các bộ phận của Đức được phóng thử. Một năm sau, bản do Liên Xô chế tạo được phóng, mang tên R-1
    Liên Xô chế tạo một số tên lửa dựa trên cơ sở V-2. Sau bản lắp từ linh kiện Đức phóng năm 1947, bản hoàn toàn Liên Xô chế tạo R-1 phóng năm 1948, Liên Xô dần dần tăng lực đẩy động cơ, làm thân tên lửa lớn hơn, cải tiến việc gắn thùng nhiên liệu và vỏ tên lửa. Kỹ thuật tinh xảo làm tăng vọt tầm bắn. R-5 là tên lửa thiết kế trên cơ sở V-2 cuối cùng của Liên Xô có tầm 1,200 kilometers (750 miles). Đây chính là các tên lửa sau được mang tên SCUB, theo một loại tên lửa Mỹ (từ này được các nhà báo dùng, không phải các tên lửa đó học từ SCUB, đáng ra, SCUB phải gọi là V-2 hay A-4 mới đúng).
    Đây là lớp tên lửa đạn đạo có điều khiển đầu tiên của Liên Xô, lớp tiếp sau là các tên lửa vượt đại châu mang đầu đạn chiến lược-chỉ khác là có nhiều tầng. Liên Xô nhanh chóng đứng đầu thế giới về kỹ thuật tên lửa(từ đầu những năm 1950), tổng thống Pháp Đờ Gôn khiếp sợ khi thăm căn cứ tên lửa của Liên Xô, lập tức đuổi bộ chỉ huy NATO ra khỏi Paris, bắt đầu chính sách tránh phụ thuộc Mỹ. Lớp liền tiếp sau V-2 các đời của tên lửa Liên Xô có nhiều tầng nhiên liệu lỏng, là các tên lửa đã mang vệ tinh vào quỹ đạo. Các tên lửa tầm trung ngắn vẫn dùng cấu trúc V-2 một thời gian dài. Cho mãi đến những năm 90, ở các nước phát triển mới phát triển và triển khai loại tên lửa tầm trung ngắn thế hệ khác. Đây là tên lửa dùng nhiên liệu rắn năng lượng cao (có sự tham gia của bột khim loại nhẹ siêu mịn, chế tạo bằng bay hơi trong chân không được phát triển những năm 60, có sự tham gia của nhiên liệu lỏng-thậm chí phun nhiên liệu lỏng vào buồng nhiên liệu rắn, cấu trúc động lực này còn được sử dụng cho S-300 nổi tiếng, với tầng đẩy của một loại tên lửa đạn đạo). Ở trên các bác thấy, một hiện tượng là tên lửa đạn đạo và tên lửa đất đối không cùng được phát triển phần động lực. Điều đó còn quan sát thấy ở S-300 nổi tiếng sau này. SAM-1 và các tên lửa đạn đạo Nga, cũng vậy. V-2 đã đưa đầu đạn quá tính vượt qua cản trở của nòng súng, trở thành thực nghiệm chiến trường đầu tiên của IBCM-thứ vũ khí bắn xa tuỳ ý và sức công phá quá dư để tiêu diệt loài người, vũ khí làm cho khái niệm chiến tranh tổng lực đồng nghĩa với ngày tận thế và mất đi, vũ khí đã quyết định việc em và các bác không phải chứng kiến WW3.
    V-2 (A-4) sử dụng con quay hồi chuyển LEV-3, sau đó con quay này được dử dụng cho các tên lửa vượt đại châu và vũ trụ Mỹ mãi đến những năm 70, em không có các thông tin về việc phát triển thứ này ở Liên Xô, nhưng chắn nó là phần cơ bản của hệ dẫ đường Liên Xô một thời gian dài. Ngày nay Con quay hồi chuyển là một đĩa quay được gắn lên giá tự do quay ba chiều, trên đĩa có gương, người ta chiếu laser lên đó để tia phản xạ khếch đại độ lệch của gương, tín hiệu này được số hoá và đưa lên BUS thông tin chung cho nhiều thiết bị dùng.
    http://conxproject.gsfc.nasa.gov/docs/docs_lib_online/%20Reference_Mission_Description_Document_Baseline.doc
    Ngày đó, thật là kỳ diệu, bằng các sensor điện trở, sao mà làm được????? bác nào có thông tin về trò ảo thuật vĩ đại này, bốt lên em xem với.
    Một điều nữa là tích phân quán tính (tích phân gia tốc)). Ngày nay, các máy tính loại trừ được nhiễu của con lắc hay vật nặng trong máy này, tích phân quán tính là ba lực kế theo ba chiều không gian siêu chính xác(quyết định phần lớn độ chính xác của tên lửa), và một đồng hồ, máy tính sẽ cộng lực theo đồng hồ, đưa ra vị trí ba chiều hiện tại của máy (tích phân quán tính hai lần). Ngày đó, chắc chỉ là một lực kế đo quán tính theo chiều dọc tên lửa, được đo bằng cảm biến biến trở (có lẽ chưa đủ linh kiện để thực hiện cảm biến điện dung). Vì lí do đó, V-2 không thể đo được quán tính ngang và độ chính xác thấp, may mà hầu hết các lực tác động lên V-2 đều theo chiều dọc. Công bằng mà nói, với độ chính xác vài km, V-2 không thể có tác dụng với mục tiêu quân sự. Em đã mường tượng, thiếu thiết bị bán dẫn, V-2 có tích phân quán tính cơ như dạng.....đồng hồ cát. 1-Gerdt, máy tích phân gia tốc ngày đó, em chưa một làn nhìn thấy bản vẽ và nguyên lý, mặc dù đã hỏi nhiều người. Và cả máy tính trung tâm của tên lửa.......thật là kỳ diệu. Mong các bác ai có thông tin về các thiết bị dẫn đường quán tính lịch sử này, bốt lên.
    Em sẽ bót lên toàn bộ những tên lửa, trên bản vẽ và trên chiến trường, không tưởng và quá thành công của Đức, nhưng hệ điều khiển dẫn đường thì quả là khó tìm. Ngày nay, hệ dấn đường quán tính vấn là hệ dấn đường đáng tin cậy nhất. Mặc dù, độ chính xác không cao (ngày nay, đạt 500 met với tầm bắn trên 10 000km), nhưng vài trăm mét thì không đáng kể với đầu đạn nhiệt hạch, nên hệ dấn đường quán tính vẫn là hệ dấn đường chủ yếu của các tên lửa đạn đạo chiến lược xuyên lục địa (IBCM), vì không gì làm nhiễu được nó.
    Để chuẩn bị cho bài viết mới, em xin nói lại sơ qua về tên lửa chống tank cầm tay(ở T-95 bị mất, trong đó, em đã trình bầy sơ về hai giai đọan phát triển WW2 và Triều Tiên, ở AT-14, em cũng nói sơ sài). Trước đây, bắn thủng vỏ thép dầy của xe tank và boongke, chỉ có đại bác bắn đạn xuyên, có thể được gắn trên xe. Đối diện với boongke và tank, lính bộ binh đành chịu chết. Các chương trình nghiên cứu đại bác không giật và tên lửa được Nga phát triển từ những năm 1914, nhưng đến WW2 không có khả năng chống giáp. Đức đã áp dụng liều nổ lõm, cho phép đạn có tốc độ thấp xuyên thủng giáp dầy, và Đức cũng chế tạo súng phóng đạn này đi, vác trên vai, cho phép bộ binh nhẹ bắn thủng tank và boongke. Vũ khí này gây thiệt hại nặng cho Nga cuối chiến tranh. Đến Triều Tiên, Mỹ ứng dụng súng loại này có buồng nổ khí động và bán khí động, cho tank Bắc Triều gặp hoạ luôn. Sau đó, Nga phát triển tiếp loại buồng nổ tích áp, đơn giản nhẹ nhàng và loại trừ hoàn toàn lực giật. Đây là những tên lửa chống tank không điều khiển-đã trở thành vũ khí diệt nhiều tank nhất trong các cuộc chiến tranh sau WW2, mở ra đường phát triển một loại vũ khí trở thành đạn chính trên bãi chiến trường: ATGM-anti tank guided missle-tên lửa chống tank có điều khiển. Mở đầu kỷ nguyên này, là X-7 của Đức.
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 18:30 ngày 03/10/2004

Chia sẻ trang này