1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Mổ xẻ tên lửa có điều khiển(Guided Missle)

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi ducsnipper, 12/11/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Mệt quá, gõ mỏi cả tay. Bác lan0303 đã có một đống động cơ nhiên liệu rắn, dẫn đường.
    Một chút về gyro, hy vọng bác lan0303 có phát minh mới, nhưng em là không liên quan gì gì đến đâu nhé:
    http://faraday.physics.utoronto.ca/IYearLab/gyroscop.pdf
    Đây là những thứ gyro dân sự. Chũng có giá treo 2 chiều, do mục tiêu của chúng là đo sự quay của quả đất. Thật ra, gyro quân sự nhiều khi cũng giá hai chiều, vì chiều của đĩa quay không cần thiết và người ta sử dụng hai gyro, như là V-2. Đây là hoạt động của gyro đo sự quay quả đất, người nhìn đứng yên trên mặt quả đất quay(cùng với giá):
    Trong quân sự, những tên lửa đạn đạo sử dụng hai hay nhiều gyro trong một hệ định vị-dẫn đường quán tính. Ví dụ là V-2, hay quả bom lượn em bôt trên kia, sử dụng 2 gyroscope và một tích phân quán tính. Do một gyro chỉ nhớ được một chiều ( giá vector, có phương và chiều), nên hai hay nhiều gyro mới nhớ được 3 chiều không gian. Với những tên lửa định hướng mục tiêu(lao thẳng vào mục tiêu) như tên lửa chống tank thế hệ trước, họ chỉ dùng một gyro, có chiều đĩa quay gần vuông góc với hướng tên lửa xuất phát và bay. Do các tên lửa chống tank này lao thẳng vào mục tiêu, đã có một định hướng là mục tiêu phía trước nên chúng chỉ cần không xoay, mà kích thước của chúng nhỏ, khi kỹ thuật còn còm thì linh kiện lại nhớn, nên cho nhiều gyro vào rất tốn. Các tân lửa anti tank thế hệ mới, có nhiều gyro và kết hợp với đo xa trên đầu đạn, nên có tầm rất xa và thực hiện những động tác tấn công khác hẳn: tấn công theo nhiều hướng bằng nhiều đạn, hướng tốt nhất, bắn và quên....
    Đây là một gyro siêu nhỏ:
    http://plaza.snu.ac.kr/~micro/research/gyro/ring/gyro.html
    Đây là một công trình thật sự lớn về gyro cơ. Để lúc nào rảnh, chúng mình xem qua gyro rung, rung laser và gyro lượng tử.
    http://www.dragfreesatellite.com/relgyro2.1.pdf
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 09:19 ngày 14/10/2004
  2. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Chất khử kim loại:
    Các tên lửa vũ trụ và đạn đạo lớn cần chất đốt hiệu quả cao, để có điều đó người ta thêm vào nhiên liệu một số chất khử đặc biệt mạnh như bột kim loại. Bột nhôm được dừng rộng rãi nhất. Nó thích hợp với các buồng đốt lớn, cung cấp thêm nhiều năng lượng và làm cho sự cháy trong buồng đốt được ổn định. Cùng với bột nhôm, bột cũng được sử beryllium dụng, về lý tuyết, bột này hiệu quả hơn bột nhôm về năng lượng. Nhưng bột này độc, hiếm và đắt. Thêm nữa beryllium không cháy tốt với hầu hết các chất kết dính hydrocarbon hiện có. Nhưng beryllium chỉ hoạt động tốt với chất kết dính mới nhất fluorocarbons, vậy, beryllium được xem như chất khử thêm của những tên lửa nhỏ, đắt đỏ, như không đối không hay chống tank.
    Bận quá, trước khi kết thúc vấn đề nhiên liệu rắn, bốt tạm chút
    Đây là Liti, hợp kim chống mài mòn của nó mới đưa vào sử dụng những năm 1970-1980, trước đó, MIG-25 phải dùng thép sắt-nicken nặng trịch cho mũi chống mài mòn, còn V-2 của WW2 thì dùng thép thường. Hidrat liti là chất khử tốt nhất về mặt năng lượng, nhưng khó dùng quá.
    http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/Tu-sach/2003/01/3B9C4A5E/
    http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/Tu-sach/2003/01/3B9C4A60/
    http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/Tu-sach/2003/01/3B9C4A68/
    Berili, chất khử cũng khó dùng như thế, nhưng rất nhiều triển vọng, đến mức rất nhiều nhóm lao đầu vào bức tường cứng là sử dụng nó làm chất khử cho tên lửa đắt tiền, nhờ công của họ, tương lai, Be sẽ được sử dụng cho AAM và ATGM, những kẻ sát thủ hoạt bát nhất trên chiến trường.
    http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/Tu-sach/2003/01/3B9C4A69/
    http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/Tu-sach/2003/02/3B9C4BB3/
    http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/Tu-sach/2003/02/3B9C4B7B/
    http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/Tu-sach/2003/02/3B9C4B7C/
    Magiê và nhôm, chất khử chính và hợp kim chính của tên lửa.
    http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/Tu-sach/2003/02/3B9C4CD1/
    http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/Tu-sach/2003/02/3B9C4D57/
    http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/Tu-sach/2003/02/3B9C4E82/
    http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/Tu-sach/2003/02/3B9C4F95/
    http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/Tu-sach/2003/02/3B9C5022/
    http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/Tu-sach/2003/02/3B9C50BC/
    http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/Tu-sach/2003/02/3B9C51EA/
    http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/Tu-sach/2003/02/3B9C51FB/
    Việc tìm kiếm nhiên liệu năng lượng cao.
    Sau chiến tranh thế giới 2, chiến tranh lạnh và viễn cảnh của du hành vũ trụ, việc tìm kiếm chất phụ gia và nhiên liệu mạnh đã là một quy tắc. Bo (boron ) là ngôi sao của những năm 1950, nhưng đến những năm 1960 và 1970, điều đó đã thay đổi. Nhiê liệu của tên lửa bấy giờ được chọn lựa cẩn thận hơn từ những thành phần. Một tính toán về biến đổi nhiệt độ trong sự cháy cách nhiệt của ôxy với một vài phần tử có trong báo cáo sau của Grosse.
    Một số hỗn hợp đốt hai thành phần cơ bản.
    J.P.:
    Nitrocellulose(13.25%N2): 52.2%
    Nitroglycerin: 43.0%
    Diethyl phthalate: 3.0%
    Diphenylamine: 0.6%
    Potassium Nitrate(saltpeter): 1.1%
    Nigrosine: 0.1%
    J.P.N.:
    Nitrocellulose(13.25%N2): 51.50%
    Nitroglycerin: 43.00%
    Diethyl phthalate: 3.00%
    Ethyl centralite: 1.00%
    Potassium sulfate: 1.25%
    Carbon black: 0.20%
    Candelilla wax: 0.05%
    Bột cháy chậm:
    Nitrocellulose(12.2%N2): 56.5%
    Nitroglycerin: 28.5%
    Dinitrotoluene: 11.0%
    Ethyl centralite: 4.4%
    Candelilla wax: 0.1%
    ---------------------------------------------------
    Thời gian cháy đẩy mạnh:
    Thuốc nổ đen:-----------------------~125 sec.
    Hai thành phần:---------------------~200 sec.
    Cellulose acetate+ammonium nitrate: ~175 sec.
    Asphalt+ammonium perchlorate:-------~180 sec.
    Polysulfide+ ":---------------------~200 sec.
    Polyurethane+":---------------------~225-230 sec.
    Polybutadiene+ ":-------------------~230-235 sec.
    Polyurethane+ Aluminum + " :--------~240 sec.
    Polybutadiene+ Aluminum + ":--------~245 sec.
    PBAA + Aluminum + ":----------------~250 sec.
    Chất kết dính và hai thành phần:----~275 sec.
    ---------------------------------------------------
    --------------------------------------------------------------------------------
    --------------------------------------------------------------------------------
    Thành phần hợp thành thuốc nổ hai thành phần
    --------------------------------------------------------------------------------
    Thuốc nổ dẻo (chất khử và oxy hoá) --NG: nitroglycerin --TMETN: trimethylolethane trinitrate --TEGDN: triethylene glycol dinitrate --DEGDN: diethylene glycol dinitrate
    --------------------------------------------------------------------------------
    Thuốc nổ dẻo (chất khử) --DEP: diethylphtalate --TA: triacetine --PU: polyurethane
    --------------------------------------------------------------------------------
    Kết dính (chất khử và oxy hoá) --NC: nitrocellulose
    --------------------------------------------------------------------------------
    Ổn định --EC: ethyl centralite --2NDPA: 2-nitrodiphenilamine
    --------------------------------------------------------------------------------
    Xúc tác tốc độ cháy --PbSa: lead salicylate --PbSt: lead stearate --Pb2EH: lead 2-ethylhexoate --CuSa: copper salicylate --CuSt: copper stearate --LiF: lithium fluoride
    --------------------------------------------------------------------------------
    Phụ gia tăng năng lượng --RDX: cyclotrimethylene trinitramine --HMX: cyclotetramethylene tetranitramine --NGD: nitroguanidine
    --------------------------------------------------------------------------------
    Chất làm nguội--OXM: oxamide
    --------------------------------------------------------------------------------
    Opacifier --C: carbon black
    --------------------------------------------------------------------------------
    ổn định, cắt ngắn lửa --KNO3: potassium nitrate (saltpeter) --K2SO4: potassium sulfate
    --------------------------------------------------------------------------------
    nhiên liệu (khử) kim loại --Al: aluminum
    --------------------------------------------------------------------------------
    chống không ổn định cháy --Al: aluminum --Zr: zirconium --ZrC: zirconium carbide
    --------------------------------------------------------------------------------
    --------------------------------------------------------------------------------
    Thành phần nhiên liệu tên lửa rắn
    --------------------------------------------------------------------------------
    Oxy hoá
    --AP: ammonium perchlorate
    --AN: ammonium nitrate
    --NP: nitronium perchlorate
    --KP: potassium perchlorate
    --RDX: cyclotrimethylene trinitramine
    --HMX: cyclotetramethylene tetranitramine
    --------------------------------------------------------------------------------
    Kết dính
    --PS: polysulfide
    --PVC: polyvinyl chloride
    --PU: polyurethane
    --CTPB: carboxyl terminated polybutadiene
    --HTPB: hydroxyl terminated polybutadiene
    --------------------------------------------------------------------------------
    Lưu hoá hay xúc tác nối ngang (trong trùng hợp cao phân tử, tạo nhành các dãy nối ngang)
    --PQD: paraquinone dioxime
    --TDI: toluene-2,4-diisocyanate
    --MAPO: tris(1-(2-methyl) aziridinyl) phosphine oxide
    --ERLA-O51O: N,N,O-tri (1,2-epoxy propyl)-4-aminophenol
    --IPDI: isophorone diiosocyanate
    --------------------------------------------------------------------------------
    Tác nhân liên kết
    --MAPO: tris( 1-(2-methyl) aziridinyl) phosphine oxide
    --TEA: triethanolamine
    --MT-4: adduct of 2.0 moles MAPO, 0.7 mole azipic acid,
    .........and 0.3 mole tararic acid
    --------------------------------------------------------------------------------
    Gây dẻo (dẻo hoá)
    --DOA: dioctyl adipate
    --IDP: isodecyl pelargonete
    --DOP: dioctyl phthalate
    --------------------------------------------------------------------------------
    Xúc tác điều khiển tốc độ cháy (do yêu cầu thiết kế các động cơ khác nhau, cần các tốc độ cháy khác nhau).
    --Fe2O3: ferric oxide
    --FeO(OH): hydrated ferric oxide
    --nBF: n-butyl ferrocene
    --DnBF: di-n-butyl ferrocene
    --LiF: lithium fluoride
    --------------------------------------------------------------------------------
    NHiên liệu kim loại
    --Al: aluminum nhôm
    --Mg: magnesium magiê
    --Be: beryllium bery
    --B: boron bo
    --------------------------------------------------------------------------------
    Chất ngăn ngừa cháy không ổn định
    --Al: aluminum nhôm
    --Zr: zirconium kẽm
    --ZrC: zirconium carbide carbua kẽm
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 23:53 ngày 15/10/2004
  3. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    Gửi Huyphuc1981_nb!
    Xin lỗi Huyphuc1981_nb! sau ASEM và ? có nhiều thông tin, sự kiện lớn buộc mình phải ?onhận thức lại? ít nhiều vấn đề cơ bản: trách nhiệm cá nhân, tập thể, quá khứ, hiện tại, tương lai, dân tộc, nhân loại, cái gọi là ý thức hệ ?, (Mấy cái nầy xưa rồi, nói nghe có vẻ sạo phải không? cứ coi như sạo, tù mù không thực!. ?oLàm được điều mà ít người làm được chỉ mới là thông minh, làm được điều chưa ai làm được mới là phát minh và là thiên tài?) do huyphuc1981_nb hỏi về phát minh nên mình sạo một tí vậy mà. (mình đúng là thiên tai mà thôi!)
    Hiện nay mình đang tự điều chĩnh để thích nghi, định dùng thành quả ?oKhoa học Kỹ thuật Quân sự cho mục đích Dân sự? và sự sống còn của bản thân (mình phải tự cứu mình thôi, biết làm sao bây giờ).
    Hôm qua mình được VTV1 an ủi, đêm 15/10/2004 Đài VTV1 có phát hình từ Nga (thực chất chỉ là tín hiệu âm thanh-Audio), nhưng đêm 14/10/2004 Đài Phát Thanh Truyền Hình Đồng Nai lại thực hiện buổi phát hình bằng kỹ thuật truyền dẫn INTERNET (đầy đủ tín hiệu âm thanh hình ảnh-Audio Video), nếu là những người trong cuộc thì đây là vấn đề dễ mà khó, sự thật Đồng nai đã dùng website tốc độ cao làm nơi trung chuyển tín hiệu, đây là một trong những giải pháp kỹ thuật về truyền dẫn mà Đồng Nai đã phối hợp cùng VASC thực hiện ngoạn mục từ năm 2001; đâu đó thỉnh thoảng có công trình còn ghi lại hình ảnh của mình ví dụ về các yếu điểm và khả năng tự vệ (Khứng chịu hỏng) của một CAMPUS đối với hiện tượng tự nhiên như sấm sét, hay do con người bằng vũ khí sử dụng công nghệ Xung Điện Từ Trường và Viba Cường Độ Cao? (High Power Electromagnetic Pulse generation techniques and High Power Microwave technology) trong Chiến tranh Thông Tin (Information Warfare - IW), sự phát cháy đường điện do điện trở tiếp xúc tại các điểm đấu nối không đúng tiêu chuẩn ?; suy nghĩ về một ít giải pháp kỹ thuật đã thực hiện mình cảm thấy tự tin hơn trước những sóng gió của cuộc đời và để vượt qua mặc cảm là chuyên gia ngây thơ: 2001 bảo vệ thành công một đề tài ứng dụng GIS và 2003 thực hiện việc tích hợp GPS&GIS nhằm mục đích cho biết đề tài 2001 đã được sử dụng không đúng, để rồi bị thiệt thân.
    Mình không để Huyphuc1981_nb đối diện với sự im lặng đáng sợ, nhưng mình cũng cần phải có thời gian để hồi phục. Qua bài nầy mình muốn cảnh báo là các hệ thống điều khiển Tên lữa và các CAMPUS có thể bị tiêu diệt bằng vũ khí sử dụng Công Nghệ Viba Cường Độ Cao đã được hiện thực lâu rồi và quan điểm của mình tới đây chỉ dùng thành quả ?oKhoa học Kỹ thuật Quân sự cho mục đích Dân sự? (cái nầy cũng xưa rồi).
    Không có sự im lặng đáng sợ!
  4. ducsnipper

    ducsnipper Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/04/2003
    Bài viết:
    1.866
    Đã được thích:
    0
    Hồi xưa kẻ tay ngang này tạo ra topic này nhằm tán hưu tán vượn về mấy ku tên lửa có điều khiển mà hệ thống dẫn đường của nó có liên quan tới radar hay IR , nói chung là mấy em tên lửa bé nhỏ mà thôi....Nào ngờ đâu HP giờ đây nhét luôn ku tên lửa đạn đạo vào đây mà xẻ thịt banh da rồi tán tiếp về thiết bị con quay củ nó , thôi thì về phương diện nào đó thì cũng tạm cho là thuộc bà con xa gần chi đó với tên lửa có điều khiển mà khi xưa tôi có nói đến
    Nhân dịp HP đang mổ xẻ em con quay gyro trong kẻ khổng lồ là tên lửa đạn đạo bằng ngôn ngữ bác học cao siêu mà rối rắm, tui đây chỉ dùng được ngôn ngữ bình dân pha lẫn chợ búa hầu chuyện mọi người, mong muốn là có thể giúp các huynh đệ tay ngang như tui đọc vào thì có thể hiểu vấn đề một cách bình dân học vụ:
    - Hệ thống dẫn đường của tên lửa đạn đạo là hệ thống dẫn quán tính. Người ta căn cứ vào nguyên lý quán tính của vật thể, đo tốc độ tăng tốc của tên lửa trong quá trình bay để xác định đạn đạo của tên lửa. Hệ thống này chủ yếu do ba bộ phận chính dưới đây cấu thành:
    1) Thiết bị đo đạc:
    Còn được gọi là đồng hồ đo gia tốc, dùng để đo gia tốc của tên lửa trong quá trìng bay. Nó phối hợp với các thiết bị khác, thường xuyên đo được tốc độ và vị trí của trọng tâm tên lửa.
    2) Thiết bị con quay:
    Còn gọi là thiết bị thăng bằng, nôm na thì nó là một thiết bị rắn xoay với tốc độ cao quanh môt trục.Tính năng đặc thù của nó là khi quay nhanh, hướng trục không thay đổi,tốc độ con quay càng nhanh, tính ổn định của trục càng tốt.Lợi dụng đặc điểm này người ta đo dược góc vận động quanh trọng tâm của tên lửa. Người ta gắn ba thiết bị con quay trên một bệ phóng bằng phẳng, ứng dụng cơ cấu tương tác như thế ta sẽ được một mặt phẳng không bị ảnh hưởng bởi tư thế vận động của tên lửa. Nói cách khác, ta sẽ lập được một tập hợp điễm quán tính tương đối ổn định cho tên lửa khi bay.
    3. Thiết bị lập trình: Bao gồm bộ phận dữ liệu số được tính sẵn cho phương án bay và bộ phận giải toán. Có thể gọi là một máy tính đa chức năng gắn trên tên lửa.
    Thông thường tên lửa vượt đạn đạo phóng thẳng đứng. Khi lên đến một độ cao nào đó nó bắt đầu chuyển hướng về mục tiêu. Phương hướng và quỹ đạo bay sau đó của tên lửa đều đã định sẵn từ trước. Căn cứ đường đạn đã chọn người ta tính tóan quy luật chuyển hướng, cái này do thiết bị lập trình đảm nhiệm.Thiết bị đo tạo độ thường xuyên tính tón toạ độ tên lửa bao gồm cac thứ như góc tà, phương vị, tốc độ tên lửa. Còn bộ phận giải toán sẽ đối chiếu vị trí cần thiết của tên lửa từ vị trí đang bay trên không so với vị trí đã địng trước. Nếu có sai lệch, nó sẽ hình thành tín hiệu điều chỉnh, qua hệ thống điều khiển để lái tên lửa trở về đúng quỹ đạo cần thiết đã định.
    BE COOL! [nick] [/]
    Được ducsnipper sửa chữa / chuyển vào 15:00 ngày 16/10/2004
  5. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Cùng với sự xuất hiện trở lại của bác ăn Hành Tây, bác spirou và bác Đức Bị Cúm, em cảm thấy hộp tán nhà mình rôm rả trở lại rùi. Quả thực là em hồi này bận quá. Việc các bác xuất hiện chắc chắn chúng mình có nhiều cái hay ho cãi nhau. Bác Đức nghi em oan rùi, oan wá, wá oan. Thật ra em muốn mô tả dễ hiểu, nhưng vốn từ và trình độ đặt câu có hạn, nên mới rối rúi ra. Em hứa là sửa ngay.
    GIS, hệ thông tin địa lý, nôm na là đặt các lớp thông tin khác nhau lên hệ toạ độ (tiếng chữ nghĩa là tạo quan hệ giữ các lớp thông tin và hệ toạ độ), lưu trữ trong máy tính và chế tạo các công cụ tools (phần mềm) để hỏi thông tin lưu trữ này được nhanh chóng thuận tiện. Điều đó cho thấy quan hệ giữa các lớp thông tin khác nhau. Ví dụ, lớp thông tin về địa giới hành chính, về đường bộ, về đường sắt, về lượng mưa, về công trình..........và về độ cao. Nhờ đó, người dùng nhanh chóng bít được quả núi này có bao nhiêu người ở... hay đi từ đây đến đó bằng đường nào. Mỹ đã đặt những nền tảng cho GIS, phải nói cái anh Mỹ ấy đóng góp lớn cho địa lý. Anh ấy có GPS, để người ta có thể đồng bộ toạ độ (kinh độ, vĩ độ, độ cao) và thời gian từ những điểm xa nhau dễ dàng. Anh ấy lại còn dùng hai chuyến bay tầu con thoi và một năm rưỡi siêu máy tính xử lý để lấy tôpô mặt quả đất. Nhờ anh ấy, tên lửa Tomahaw có thể dùng GPS để tấn công mục tiêu chính xác. Khi GPS bị nhiễu, anh ấy có bản đồ tôpô để tên lửa Tomahaw dựa vào đó mà đi đến mục tiêu, ít chính xác hơn. Khi radar của hệ dẫn đường-định vị bằng nhận dạng tôpô bề mặt bị nhiễu nốt, mới phải dùng đến hệ dẫn đường quán tính. Do đó, vài quả tên lửa bắn sang Iran chỉ có thể do trục trặc kỹ thuật hay cố ý chứ không phải máy gây nhiễu GPS của anh Nga gây ra.
    Ở trên, bác Đức có nói
    1) Thiết bị đo đạc:
    Còn được gọi là đồng hồ đo gia tốc, dùng để đo gia tốc của tên lửa trong quá trìng bay. Nó phối hợp với các thiết bị khác, thường xuyên đo được tốc độ và vị trí của trọng tâm tên lửa.
    Cái này bác nói rõ hơn cho em chút.
    Đồng hồ đo gia tốc thì đúng là tích phân gia tốc như em hiểu rùi, tức là gồm một đồng hồ đo thời gian (chứ không phải đo gia tốc) và một máy đo gia tốc. Cứ định kỳ thời gian đều (càng dầy càng tốt), đo trị số gia tốc rồi cộng tất cả trị số gia tốc đo được từ lúc xuất phát đến giờ, chia cho tổng thời gian từ lúc xuất phát đến giờ, là tích phân gia tốc một lần, chính là vận tốc bây giờ. Lấy tích phân lần nữa (vận tốc/thời gian) là toạ độ bây giờ. Đây là định vị quán tính. Tức là vế này thì em hiểu rồi. Nhưng còn vế đo trọng tâm???. Tên lửa đạn đạo có đặc điểm là khối lượng nhiên liệu rất lớn so với khối lượng tải trọng có ích (ví dụ đầu đạn chẳng hạn), mà tên lửa nào cũng thế hay sao ý. Vì điều đó, khi động cơ hoạt động, trọng tâm tên lửa thay đổi nhanh, và chắc là nếu biết trọng tâm hiện tại thì lái tốt hơn. Như đo trọng tâm như thế nào, bác nói rõ hơn chút, chỉ cần cơ chế thôi là em cũng hiểu, không cần mô tả máy móc cụ thể.
    2) Thiết bị con quay:
    Còn gọi là thiết bị thăng bằng, nôm na thì nó là một thiết bị rắn xoay với tốc độ cao quanh môt trục.Tính năng đặc thù của nó là khi quay nhanh, hướng trục không thay đổi,tốc độ con quay càng nhanh, tính ổn định của trục càng tốt.Lợi dụng đặc điểm này người ta đo dược góc vận động quanh trọng tâm của tên lửa. Người ta gắn ba thiết bị con quay trên một bệ phóng bằng phẳng, ứng dụng cơ cấu tương tác như thế ta sẽ được một mặt phẳng không bị ảnh hưởng bởi tư thế vận động của tên lửa. Nói cách khác, ta sẽ lập được một tập hợp điễm quán tính tương đối ổn định cho tên lửa khi bay.
    Chính xác ra, chiều của trục con quay không đổi (hướng có chiều, trên hình chuyển động con quay ở đầu trang, người ta đánh dấu chiều bằng cách treo vào đấy một cục trò tròn) chiều khác hướng là có chiều (tới và lui) nên chỉ cần hai con quay là xác định được ba trục không gian, do đó bom bay V-2 (tên lửa đạn đạo) sử dụng hai con quay hồi chuyển LEV-3 và một tích phân quán tính 1-Gerdt. Các bộ con quay hồi chuyển của hãng Northrop Grumman có thể dùng 2 hay 3 con quay đơn, mỗi bộ con quay đưa tín hiệu ra bus, cho nhiều thiết bị dùng chung, tăng chính xác và tránh trục trặc. Mỗi bộ con quay được treo giảm xóc, và đặc biệt, lại có con quay hồi chuyển phụ để theo dõi sai số -> siêu chính xác. Từ lâu, con quay hồi chuyển đã thay thế bọ nước trên buồng lái máy bay để xác định phương ngang (la bàn đường chân trời cho phi công nhìn), ngày nay, chúng còn được thay thế cho la bàn từ để xác định hướng trong tàu biển và máy bay.
    Treo ở đây 3 vấn đề rốt lại nhá:
    LEV-3
    1-Gerdt
    Các thiết bị dẫn đường quán tính này hoạt động ra sao trong WW2, khi mà ngành điển tử còn tồi, là một dấu hỏi lớn trong đầu em, mong bác nào có thông tin bốt lên.
    Đo trọng tâm tên lửa.
    ????????????????????
  6. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    http://ttvnol.com/forum/t_169500
    Đây là những gì chúng mình đã bàn về tên lửa.
    Còn bi giờ, chúng mình cùng cùng quay lại thời kỳ thiết bị điện tử còn yếu nhé.
    Năm 1948 và 1949, những máy bay chuyên không chiến bằng súng cuối cùng của Nga và Mỹ đã chào đời. Nga và Mỹ đã trở thành hai siêu cường thế giới về không quân và họ đều đang tìm câu trở lời cho bài toán chiến đấu mọi thời tiết. Nga tìm đủ loại, tên lửa điều khiển radar, tên lửa dùng đèn chiếu.... nhưng Mỹ đã thành công rực rỡ với tên lửa tầm nhiệt ổn định tự động, là AIM-9 SIDEWINDER. Lúc đó tên lửa điều khiển từ radar rất yếu vì không có máy tinhhỗ trợ. AIM-9 được nghiên cứu từ trong WW2 và Mỹ với Tấy Đức lúc đó phát triển thành sản phẩm thực tế. Tháng 10 năm 1958, Nga lấy được từ Trung Quốc và copy thành công với tên AAM-2 Atoll. Ở đây chũng ta xem lại cái bánh xe răng cưa ở đuôi tên lửa, đó các bác nó dùng làm gì :
    Hay đây cho đẹp:
    http://www.odu.edu/webroot/orgs/AO/MO/nrotc.nsf/files/Sidewinder.ppt/$FILE/Sidewinder.ppt
    Trong hình, chúng gọi là rollerons. Các bác có biết chúng làm gì không, chúng là con quay hồi chuyển đấy, để ổn định chống xoáy cho tên lửa đấy. Đây là các đĩa nặng, quay tít nhờ gió. Khi tên lửa xoáy, các đĩa này có xu thế giữ lại hướng trục quay, sự chuyển động tương đối so với thân tên lửa của đĩa tác động lên đuôi lái, đuôi lái bị bẻ góc và tác động vào không khí, làm tên lửa ổn định trở lại. Đây không cần thiết bị điện tử gì mà làm được, người Đức nghĩ ra cơ chế này thật thú vị. Đây là bàn mot trước bỏ hoang hoá của bác Đức, mái em mới tìm lại được.
    http://ttvnol.com/Quansu/272649/trang-2.ttvn
    http://ttvnol.com/Quansu/272649/trang-1.ttvn
  7. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Việc phát triển nhiên liệu lai rắn lỏng những năm 1960, tính độc.
    Bảng trên cho tháy sự toả nhiệt khác nhau giữa các nguyên tố. Nhiều nguyên tố nặng có khả năng toả nhiệt tốt hơn những nguyên tố nhẹ như Hidrro hay Carbon. Nhưng những nguyên tố nặng bị loại vì một số nguyên nhân, như là buồng đốt khó thực hiện với flo hay một só chất oxy hoá khác. Một số ít nguyên tố nặng, cạnh tranh đơn thuần trong giá trị toả nhiệt cơ bản của tương quan nhiệt dung-thể tích (BTU/cu ft) và thấp hơn đáng kể nhiệt dung trọng lượng (BTU/ft), các nguyên tố nhẹ có vẻ nhiều uu điểm hơn(­ hydrolithium, be-ryl, bo, cac bon, magiª, nhôm). Chỉ hydro, bery, bo là cho nhiệt lượng cháy cao hơn hidrro carbon thường (HC=18~19). Bery rất độc và hiếm nên hiện nay, trong thực tế không được xem xét đến, nhiên liệu năng lượng cao hiện tại chỉ có hidro và bo, hay một vài lớn hợp chất của hai nguyên tố đó. Cho những mục đích đặc biệt, nhiên liệu có chữa những hợp chất của liti, megiê, nhôm và carbon. (Một nguyên tố nhẹ hơn), có thể thoát đi nhanh hơn trong cùng một nhiệt lượng cháy,chũng có thể là carbon hay lưu huỳnh trong thuốc nổ đen, nảtri trong napal là những nhiên liệu rất nghèo năng lượng. Những ứng dụng quân sự và không gian đã kích thích việc tìm kiếm và sản cuất những chất phản ứng mạnh cho nhiên liệu rắn. Chất oxy hoá thường có nhiều nguyên tử oxy liên kết yếu trong các hợp chất của nitơ và clo. Trong tương lái nó phát triển sao cho ít các nguyên tử nitơ và clo, còn hầu hết oxy được thay thế bởi flo. Phần oxy còn lại dùng để đốt cháy carbon trong chất kết dính thành khí monoxide. Flo có thể liên kết các phân tử oxy và nitơ bằng những liên kết yếu.Nitronium perchlorate và những dẫn xuất flo của nó nitronium perfluorate hồi đó là chất oxy hoá nổi trội. Những hidrrua khim loại nhẹ được biết đến như thành phần nhiên liệu, nhưng khó khăn trong việc chế tạo hơn là những hỗn hợp ít phản ứng hơn. Nhiên liệu có thể chứa hidrrua kim loại nhẹ với chất tạo thành florua yêu cầu nhiệt lượng thấp mà oxy hoá với nhiệt lượng cao nhất. Một số tên lửa đơn giản có sử dụng nhiên liệu mạnh với thể tích có hạn, mật độ của nhiên liệu được đánh giá quan trọng. Nhiê liẹu tốt nhất được biết là hidrua kim loại nhẹ với tỷ lệ thấp, tỷ lậ chất kết dính và oxy hoá được cân nhắc kỹ. Một vấn đề lớn là ngăn cản chất oxy hoá, chất khử phản ứng với nhau và phản ứng với vật liệu liên kết. Chất kết dính có thể phát triển từ hợp chất trơ với chất khử và chất oxy hoá. Thêm nhữa chất kết dính ngăn cản phản ứng chất khử và chất oxys hoá chống cháy nổ. Chất kết dính ngon lành nhất là trùng hợp của nhóm CF2, một nguyên tỷư carbon với hai nguyên tử flo (fluorocarbons). Chúng được kết hợp với nhiên liệu tạp ra polyme trơ, chũng chứa hidrro bằng cách cho thêm các hidrua giữa hidrro nguyên tử lỏng lẻo. Nhiên liệu rắn tương lai này hoạt động bị hạn chế 285-300 giây. Với nhiên liệu rắn có thời gian đẩy cao (trên 350 giây), phải thêm oxy để đốt hết carbon monoxide độc, tỷ lệ cao nhất của kết hợp flo-oxy-carbon được đề nghị.Chất kết dính có tỷ lệ CF2 cao khó đạt được so với hidrrocarbon thông dụng. Hdrua được phát triển giải quyết vấn đề tương tích của nhiên liệu rắn. Mộ số nhiên liệu lỏng và chất oxy hoá hỗ trợ cho thành phần rắn, chất lỏng đạt yêu cầu cao hơn những bản sao chất rắn, vậy hudrrua đạt được cao hơn nhiên liệu rắn thường. Việc phát triển nhiên liệu năng lượng cao (250-300lsp) và nhiệt độ ổn định tăng (300 độ f đến 500 độ f) cần phải kết hợp một số chất hoá học thêm vào nhiên liệu rắn và những thiết bị liên quan. NHiều hợp chất này khác thường, việc sử dụng mạo hiểm và không được đồng ý ngay lập tức. Một số chất được sử dụng trong nhiều thử nghiệm nghiên cứu phát triển, có tính độc hay dễ nổ. Đây là thông tin về một số hợp chất được sử dụng trong phát triển nhiên liệu trong bảng sau.
    Chất oxy hoá
    Nitronium perchlorate hay NP (NO2ClO4)-Nitrosyle.
    Tính độc: Phân huỷ 80 độ C hoặc tiếp xúc với nước và chất hữu cơ trộn nhiều. Sản phẩm phân huỷ là những oxy nitơ (NO, NO2 hay clo cl2). Mật độ cho phép là 5ppm.
    Tính nhạy cảm: là chất nguy hiểm, trộn với tất cả các hợp cất có cấu trúc đễ tự phát nổ, trọn với các chất có khả năng oxy hoá khác cũng như vậy.
    Khả năng sử dụng: được đề nghị trong nhiên liẹu năng lượng cao.
    Lithium perchlorate or LP (LiClO4)
    Tính độc: không độc trừ khi uống lượng lớn.
    NHậy cảm: như là natri perchlorate, trở thành chất nổ khi trộn với chất khử và xúc tác.
    Sử dụng: cho nhiên liệu nhiệt độ cao.
    Hydrazinium diperchlorate or HP (N2H6(ClO4)2)
    Tính độc : phan huỷ tạo khí clo (CL2).
    tính nhậy cảm: nguy hiểm khi sử dụng, dễ cháy do ma sát, khả năng tự cháy cao.
    Sử dụng: nhiên liệu năng lượng cao.
    NHiên liệu:
    Lithium aluminium hydride or LAH (LiAlH4
    Tính độc: bụi làm dị ứng mạnh do lithium hydroxide.
    Tính dễ nổ: rất nguy hiểm, dễ nổ, dử dụng nó có thể bắt lửa và cháy mạnh, bột tự nổ, cháy khi tiếp xúc với nước, cồn, hidroxyt nhôm..v..v..v
    Sử dụng: là nhiên liệu năng lượng cao.
    Magnesium hydride (MgH2) and Lithium borohydride (LiBH4)
    MgH2 không độc. LiBH4 đọc và giải phóng B2H6 rất dọc khi phản ứng với acids. B2H6 đã được đề nghị trong nhiên liệu những năm 1950, trong B-70, mật độ tốt đa cho phéo là 1ppm.
    Tính nhậy cảm, ít hơn LiAlH4, nó giống như bột magiê, giả phóng hidro.
    Sử dụng: có năng lượng cao.
    Bột kim loại như kẽm (Zr) và Beryllium (Be)
    Tính độc: Có thể hít phải bụi, bụi beryllium rất độc.
    Tính nhậy cảm: bột kẽm dế bị bắt cháy do tĩnh diện, có thể tự cháy. khi trộn với chất oxxy hoá rất nguy hiểm vì dế nổ do tính điện.
    Sử dụng: kẽm là bột được dùng để cháy và các thiết bị tự cháy, còn beryllium trộn tăng năng lượng.
    Các chất kết dính:
    Nitrourethanes hay NU
    Tính độc: các hợp chất này đều độc trong đó có một vài chất rất độc, ngầm xuyên qua da. Có thể gây viêm da. alisocyanates từ chúng rất độc do đó sử dụng chũng nguy hiểm.
    Tính nhậy cảm: hỗ hợp của chũng là thuốc nổ lớp C, nhưng một vài chất rất nhạy.
    Sử dụng cho nhiên liệu năng lượng cao.
    Nitramines (HMX, RDX)
    Tính độc: Tương tự như NO nhưng hoạt động hơn, tuỳ thuộc vào cấu trúc, có thể có loại gây viêm da nặng.
    Tính nhậy: một số là chất nổ lớp B, trộn Nitrourethanes là chất nổ nhóm C.
    Sử dụng: CHỉ sử dụng trong thí nghiệm năm 1967.
    Tetrazoles
    Tính độc, không đủ thông tin nhưng không độc.
    NHậy cảm, đã có vài vụ bị thương do tiết bị tự nổ, dùng rất nguy hiểm
    Sử dụng: cách thiết bị tự cháy, mồi cho nhiên liệu năng lượng cao.
    Fluorocarbons hay FC
    Phần lớn không độc nhưng một số rất độc. NHiệt phân tạo ra khí không mũi rất độc.Kel-F, teflon, và FC polymers khác giải phóng khí độc khi nhiệt độ cao. Đốt FC giải phóng khí độc (hydrogen fluoride).
    Tính nhậy: Nối chung không dễ nổ trừ khi trộn với bọt kim loại hay hydrua kim loại với tỷ lệ nhất định, hay dẫn xuất cấu trúc kim loại. Hỗ hợp không nổ khi va đập nhưng cháy nổ ở nhiệt độ cao.
    Chỉ sử dụng trông thử nghiệm
    Plasticizers:
    Tính độc Hầu hết không độc nhưng những chất có natri và flo phải được để ý tới tính độc. Hợp chất nitro xuyên da làm viêm da. Dinitriles thì độc cũng được hút xuyên da.
    Nhậy cảm: không nhậy chú nào, trừ hợp chất nitro hoặc nitramino plasticiser
    Sử dụng trong những nhiên liệu có thuộc tính cải thiện
  8. l1

    l1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/10/2004
    Bài viết:
    9
    Đã được thích:
    0
    Em xin lỗi các bác đùa dai quá. HP đang chấp hành nghiêm chỉnh lệnh cấm vận, nhưng mà do thứ bẩy rỗi, có nhờ em chuyển cái này đến. HP có hứa sau không trêu chọc ai nữa.
    Tổng kết phần nhiên liệu đặc.
    Đến WW2, nước Mỹ có kỹ thuật tên lửa tồi tệ, vcác bác đã thấy năm đầu tiên của chiến tranh, nhòm thiết kế tên lửa Mỹ đã dùng phương pháp của pháo thăng thiên để chế tên lửa thế nào. Họ dùng nhiên liệu (thuốc nổ đen, gồm bột than, diêm tiêu như là các sách hướng dấn làm pháo 1000 năm rùi) và phương pháo nhồi như thời cổ đại. . Trong khi đó, Nga đã sử dụng thuốc phóng dạng chất dẻo đời đầu tiên của họ (biệt danh "cháo bắc cực"), và đạt thành công noit tiếng với súng cối phản lực bắn nhanh Kachuisa (viết thế nào nhỉ????). Đức đã bắt đầu sản xuất khối nhiên liệu đặc rắn dạng composite và sử dụng trong rất nhiều loại tên lửa của họ. Thế nhưng, nhờ nhòm nghiên cứu tài ba, Mỹ vượt lên rất nhanh, trong chién tranh đã ứng dụng ccược thực tế nhiên liệu nhồi hỗn hợp nhựa đường và KClO4. Sau chiến tranh, cùng Thiokol, Mỹ vợưt lên hàng đầu thế giới về nhiên liệu rắn. Nga phát triển thứ này chậm chạp, mái gần đây, Nga mới dùng nhiên liệu rắn trợ lực cất cánh cho vệ tinh và là nhiên liệu chủ yếu của tên lửa phòng không. Nga đuồi kịp Mỹ cùng với việc đưa bột kim loại nhẹ vào nhiên liệu. Ngày nay, ước mơ sử dụng hydrat kim loại nhẹ đang được thực hiện. Tên lửa R-73 nỏi tiếng của Nga đời đầu và đời cuối nâng tầm từ 12km lên đến gần 40km. NHiên liệu rắn là nhiên liệu chủ lực của vũ khí, vì nó không cần chuẩn bị phức tạp trước khi bắn, động cơ vất kho 10 năm đem ra dùng được ngay. Động cơ nhiên liệu rắn không lấy gì phức tạp, chỉ là một cái ống mỏng chịu nhiệt. Bản thân nhiên liệu rắn bền, nên động cơ nhẹ bớt đi vì tiết kiệm vật liệu chiụ lực.
    NHưng nhiên liệu rắn có nhược điểm chủ yếu: khi bật nó lên, không chách gì điều khiển tốc độ hoạt động của nó được, nó cháy ầm ỹ vài phút rồi ngủ luôn. Trong khi đó, các tên lửa với yêu cầu chiến đầu cao cần điều khiển lực đẩy động cơ thích hợp trong thời gian dài. Đọng cơ nhiên liệu lỏng hai thành phần thích hợp với điều đó. Hai thành phần của nó chỉ gặp nhau mới hoạt động được nên người ta thay đổi lực đẩy động cơ bằng cách bơm nhiên liệu nhanh hay chậm. Trên kia ta đã thấy động cơ nhiên liệu lỏng của V-2, máy bơm turbine bơm nhiên liệu vào buồng đốt được đẩy bằng mọt turbine phụ, có bình nhiên liệu phụ. Mỗi thứ nhiên liệu có áp suát buồng đốt, nhiệt đọ buồng đốt khác nhau. Chúng có khả năng sinh khí và sinh nhiệt khác nhau. Một thời gian dài, động cơ nhiên liệu lỏng hai thành phần là chủ lực của tất cả các loại tên lửa lớn Nga. Nga phát triển tầng đầu với nhiên liệu có áp suất buồng đốt thấp, động cơ và tuye lớn, thứ này tuy khó tạo ra động cơ lớn nhưng mỗi cuộc phóng rất rẻ. Các cuộc phóng lớn Nga ngày nay, dùng nhiêu liệu có áp suất cháy cao hơn, trợ lực động cơ nhiên liệu rắn giồng như Mỹ. Thứ nhiên liệu lỏng đầu tiên được kể đến của Xi ôn côp sky (viết thế nào nhỉ), theo các tính toán của ông, H2 và O2 lỏng đủ cho mộttầng tên lửa bay vào qũ đạo. Động cơ nhiên liệu rắn hai thành phần được thử nghiệm khoảng những năm 30 ảnh dưới, với oxy lỏng. H2 và O2 lỏng có tỷ lệ năng lượng/khối lượng lớn nhất. Nhưng động cơ chũng phức tạp, do phải làm lạnh bình chứa(^'253 độC) và bình chứa phải lớn do tỷ khối thấp (70kg/m3). Thưch tê, nhiên liệu này được dùng cho:động cơ chính Space Shuttle , Saturn V, Saturn IB, và Saturn I , tầng trên cùng (đặt vệ tinh) Centaur . Chuũng được viết tắt oxy lỏng liquid oxygen (LOX, O2) và hyđro lỏng liquid hydrogen (LH2,H2). Chúng chỉ được dùng nới khối lượng nhiên liệu quý giá, các tầng trên cùng hay trở lại mặt đất. Một thứ nhiên liệu nữa là oxy lỏng liquid oxygen (LOX) và kerosene hoặc còn gọi là RP-1 - được dùng cho các tầng cần nhiên liệu rẻ hơn Saturn V, một vài tên lửa xuất phát Soviet ,Delta, Saturn I, và tầng 1 của Saturn IB , Titan I, Atlas. Kerosen là các hidrro carbom có nhiệt đọ bay hơn từ 150 độ đến 275 độ C, còn gọi là paraffin, chũng có 12-15 nguyên tử carbon trong phân tử. Bộ nhiên liệu oxy lỏng liquid oxygen (LOX) và cồn alcohol (Ethanol, C2H5OH) - được dùng đầu tiên cho động cơ tên lửa, như các tên lửa Đức (WW2) A-4, còn gọi là V-2, và Redstone . Oxy lỏng và khí hoá lỏng, đây là nhiên liệu cho tên lửa nhiên liệu lỏng đầu tiên trong ảnh. Tác giả đứng cạnh là Robert Goddard''s , bọn này động cơ rất đơn giản vì không cần máy bơm, chỉ cần van điều áp, áp suất nhiên liệu tự đẩy vào buồng đốt. T-Stoff (80% Hydrogen Peroxide, H2O2) và C-Stoff (methanol, CH3OH, với hydrazine hydrate, N2H4.n(H2O) là nhiên liệu được dùng cho động cơ Walter Werke HWK 109-509 của máy bay đánh chựn động cơ tên lửa Đức WW2 Messerschmitt Me 163B Komet. Nhiên liệu nitric acid (HNO3) và kerosene - được dùng cho tên lửa Liên Xô cũ (USSR) SCUD-A, hay còn gọi là SS-1, những tên lửa đầu tiên rất giống V-2 Đức. Nhiên liệu hiện đại hơn Acid Nitric thiếu nước inhibited red fuming nitric acid (IRFNA, HNO3 + N2O4) và mêtyl-hyđrat không đối xứng unsymmetric methyl hydrazine (UDMH, (CH3)2N2H2) được dùng cho tên lửa Liên Xô (USSR) SCUD-B,-C,-D, (Tên thường gọi là SS-1-c,-d,-e. Mỹ hay gọi là SCUD vì giống SCUD của Mỹ, thật ra phải gọi chũng là V-2xxx mới phải). nitric acid 73% with dinitrogen tetroxide(N2O4) 27% (=AK27) và hỗn hợp kerosene-khí hoá lòng - dùng cho một số tên lửa đạn đạo Liên Xô (USSR), Iran: Shahab-5, North Korea: Taep''o-dong-2. hydrogen peroxide and kerosene - dùng cho Anh Quốc (1970s) Black Arrow, tên lửa thử nghiệm Mỹ BA-3200. Hydrazine (N2H4) và nitric acid thiếu nướcdùng cho tên lửa phòng không Nike Ajax. Areozine 50 (hỗn hợp 50%/50% hydrazine N2O4 và dimethyl hydrazine)và dinitrogen tetroxide - được dùng cho Titans 2?"4, một số tên lửa Liên Xô, khối hạ cánh trên mặt trăng Apollo ,khối phụ vụ Apollo , tầu thăm dò (như là Voyager 1 và Voyager 2). monomethylhydrazine (MMH, (CH3)HN2H2) và dinitrogen tetroxide - dùng cho động cơ trên quỹ đạo của tầu con thoi.

    Đây là một máy bơm bán tự do:
    http://www.xcor.com/DARPA_LOX-pump_milestone.html
    Chất oxy hoá thông dụng của nhiên liẹu lỏng Hydrazine. Công thức hoá học N2H4. chất lỏng không mầu. phân tử lượng 32.0 amu. Nhiệt độ đông đặc 274 K (1 °C;) . Nhiệt độ sôi. 387 K (114 °C;) Tỷ khối1.0 -103 kg/m3, rất tan trong nước,

    Nhiệt sinh do phản ứng cháy:

    "fH0gas; 95.35 kJ/mol
    "fH0liquid; 50.63 kJ/mol
    "fH0solid; 37.63 kJ/mol
    S0gas, 1 bar 238.66 J/mol·K
    S0liquid, 1 bar 121.52 J/mol·K
    S0solid ? J/mol·K
    Được l1 sửa chữa / chuyển vào 15:07 ngày 23/10/2004
  9. l1

    l1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/10/2004
    Bài viết:
    9
    Đã được thích:
    0
    Đây là một ví dụ về động cơ nhiên liệu rắn. Tên lửa trợ lực cất cánh của tầu con thoi.
    Solid Rocket Boosters hay viết tắt SRB
    Mỗi tên lửa có trọng lượng cất cánh 1,300,000 pounds (590,000 kg), khối lượng nhiên liệu 1,100,000 pounds (499,000 kg). Cân nặng của tên lửa 192,000 pounds (87,000 kg, 87 tấn).
    NHiên liệu gồm ammonium perchlorate (oxidizer, 69.6 % trọng lượng), nhôm (chất đốt, 16 %), oxide kim loại (chất xúc tác, 0.4 %), một polymer (chất kết dính, 12.04 %), epoxy lưu hoá (1.96 %).
  10. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    Xác nhận Huyphuc1981_nb nói đúng, B40 rocket bộ binh: B40 không có ?ocon quay hồi chuyển?, B40 sữ dụng cánh đuôi tạo hiệu ứng tự xoay tít khi được bắn đi, nhằm ổn định đạn đạo; Vì vậy trong chiền tranh VN người ta dùng lưới B40 nắm đuôi bắt giữ và treo tòn ten được nguyên trái đạn. (Sự thật B40 trong chiến tranh VN)
    Thân!

Chia sẻ trang này