1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

MỘNG ĐỜI BẤT TUYỆT- Nguyễn Tường Bách

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi lyenson, 13/10/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. lyenson

    lyenson Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/03/2006
    Bài viết:
    3.005
    Đã được thích:
    0
    MỘNG ĐỜI BẤT TUYỆT- Nguyễn Tường Bách

    MỘNG ĐỜI BẤT TUYỆT
    Tác giả: Nguyễn Tường Bách
    Thể loại: Tùy bút
    Nhà xuất bản: Văn Nghệ, TP. HCM
    Năm xuất bản: 2006

    Tác giả Nguyễn Tường Bách hiện sống tại Đức. Ông là một học giá khá nổi tiếng trong những năm gần đây, nhất là khi cuốn "Đạo của vật lý" do ông chuyển ngữ đã gây được dư luận trong giới học thuật.
    Ông cũng là một Phật tử qui y, có nhiều công trình nghiên cứu Phật giáo mà đồ sộ nhất là quyển "Từ điển Phật học" soạn chung với Chân Nguyên.
    Một người bạn của tôi đã gởi mail xin phép ông cho phổ biến cuốn này dưới dạng e.book, nhưng ông từ chối với lý do đã hợp đồng với nhà xuất bản không cho phép phổ biến toàn bộ tác phẩm trên mạng; đây có lẻ là chủ trương của NXB để bảo đảm doanh thu?
    Tuy nhiên với một diễn đàn phi lợi nhuận như TTVNOL, tôi nghĩ chúng ta có thể bỏ công đánh máy từng đoạn để chia sẻ với nhau; trong điều kiện không phải ai cũng dễ dàng bỏ ra vài chục ngàn để mua cuốn sách về xem, mà chưa biết có thực sự hay như lời đồn không?
    Các bạn đồng ý với tôi chứ? Nếu ok, chúng ta bắt tay vào làm?
    Mục lục:
    Còn nhớ tiếng ve sầu?
    Hoa trên cát
    Trên những ngọn đèo
    Hương sen
    Rồi mùa thu xôn xao lá úa...
    Trước nhà là sông
    Quán cóc bên đường
    Chuyện trên máy bay
    Mộng đời bất tuyệt
    Tùy bút mùa lụt
    Mưa trên biển
    Aegean
    Sư cô Trí Hải không còn nữa
    Hoài niệm Hội An
    Ngàn xưa vọng tiếng
    Thiên thần đã mất
    Dòng người bất tận
    Còn đâu áo vải cờ đào
    Màu phượng thắm
  2. lyenson

    lyenson Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/03/2006
    Bài viết:
    3.005
    Đã được thích:
    0
    Còn nhớ tiếng ve sầu?
    Không phải là nhà sinh vật để phân loại ve sầu thuộc họ nào trong loài sinh vật, dù có biết có lẽ tôi cũng chẳng cần nói ở đây vì điều đó thật vô nghĩa. Đối với tôi ve sầu đơn thuần là một chàng ca sĩ không biết mệt mỏi. Đó là một chàng Trương Chi kiểu mới, có hình dáng xấu xí như một con ruồi không lồ, không màu sắc không trau chuốt. Ve sầu cũng không được như Trương Chi, giọng hát không lấy gì làm hay, nó chỉ biết hát không biết chán chê.Thế mà tôi vẫn nhớ ve sầu.
    Tôi cho rằng ai đặt tên ?ove sầu? là oan cho nó. Tiếng hát của ve không ?osầu? tí nào. Có lẽ có chàng thi nhân thất tình nào đó, buồn cuộc đời, nghe tiếng ve thấy ?osầu? chẳng? Cũng có thể có ai làm thơ, nghĩ thêm chữ ?osầu?cho hợp vần, hợp điệu? Theo tôi tiếng ve là một thứ âm thanh dũng mãnh, dài hơi và đầy sức sống. Tôi cảm nhận như thế vì tiếng ve sầu hay đi chung với hình ảnh mùa hè rực nắng. Quê tôi xứ Huế mùa hè vốn thường im lặng, một thứ im lặng mà trẻ con như tôi thấy nao lòng nhưng không biết vì sao. Trong cái im lặng da diết đó, tiếng ve thường cất lên khi chúng tôi nằm dỗ giấc ngủ trưa. Trước sau tiếng ve chỉ có vỏn vẹn một nốt nhạc, gần như tiếng của sự im lặng vốn cũng chỉ có một thanh âm duy nhất, nhưng trong trẻo và cao hơn tiếng ve. Trong gió lách qua các thân chuối trong vườn ông bà ngoại tôi không át được tiếng ve, thứ tiếng hay đưa tôi giấc ngủ trưa thừa thãi vì ở xứ Huế, buổi trưa không ngủ thì không biết làm gì.
    Vào Sài Gòn dưới tuổi hai mươi, tôi không còn nghe tiếng ve sầu nữa. Bao điều xáo trộn của tuổi mới lớn, của học hành thi cử, của mộng viễn du đã xóa nhòa trong tâm trí tiếng ve sầu bền bỉ của ngày xưa. Vả chăng, đất Sài Gòn cũng không phải đất dụng võ của loài ve, chúng cần cây cối, bóng mát và như mọi nghệ sĩ khác, chúng cần người nghe. Không ai thèm nghe đâu tiếng ve lạc điệu giữa thành phố Sài Gòn, nếu có chàng ve nào lạc loài bay đến. Cũng có đấy vì thỉnh thoảng tôi thấy có người bắt ve bán trẻ con chơi, mỗi lần thế tôi thoáng thấy lòng xúc động rồi thôi.
    Ở Sài Gòn thỉnh thoảng tôi được ngủ trưa, không cần tiếng ve mời gọi. Tiếng ồn ào của xe cộ, của xe xích lô máy - một thứ xe không hề có trong xứ Huế tĩnh mịch - đã trở thành âm thanh thông thường của cuộc sống. Trở về xứ Huế, chúng tôi thường than xứ mình sao buồn, về thăm thì được, về ở thì không. Hình như chúng tôi đã lấy tiếng ồn làm thói quen trong đời sống, làm thước đo của tiến bộ.
    Tôi hăm hở ra nước ngoài, mong mình sẽ ở trong những cao ốc ngất trời, phía dưới xe cộ chạy nườm nượp, đèn đuốc sáng rực, người đi như thác đổ. Tôi mong mình được sống trong một nước công nghiệp tiên tiến, nhà bê-tông, đường tráng nhựa, với truyền hình, điện thoại cá nhân. Trong trí tôi không hề có chỗ cho cây lá, nói chi đến chàng ve xấu xí ngày xưa. Các cao ốc sáng rực kia phải là dấu hiệu của nền văn minh, xe cộ nối đuôi nhau là niềm vui của sự tiến bộ. Nếu không phải thế thì tại sao người ta gửi bưu thiếp từ nước ngoài về, hãnh diện khoe chỉ toàn những cảnh đó?
    Những ước mơ đó đều trở thành sự thực. Sau nhiều năm tôi trở thành một thành viên không tên tuổi của một xã hội công nghiệp. Quả thật tôi cũng bị chôn mình trong những cao ốc, nơi chứa đầy những số phận vô danh, cũng bị đẩy đưa giữa những dòng người hối hả, cũng bực dọc cáu kỉnh trong những giờ kẹt xe... Thỉnh thoảng tôi cũng được đi núi, đi rừng, được lững thững trong những công viên xanh tươi. Tiếng ve sầu, tuy nhiên, không bao giờ trở lại. Dĩ nhiên thôi, làm sao ve có thể sống trong xứ châu Âu lạnh lẽo này được.
    Nhiều năm sau, về thăm đất nước, về thăm xứ Huế, tôi càng thấy quê mình quá yên tĩnh. Nếu trẻ con ngày xưa nao lòng vì không khí quá im ắng thì ngày nay người lớn nao lòng vì thấy thời gian như đọng lại ở xứ mình. Tôi không còn nghe thấy tiếng ve sầu, phải chăng lòng tôi không đủ lặng yên hay ve không còn chấp nhận tôi làm người thưởng ngoạn? Buổi trưa tôi không còn nằm dỗ giấc ngủ. Người lớn đi xa về như chúng tôi ai còn có thì giờ ngủ trưa? Người trở về vốn mang đầy tâm tư chộn rộn, nếu có thoáng thấy vài hình ảnh cây đa bến cũ thì vài kỷ niệm cùng hiện lên vội vàng, nhưng chưa kịp định hình thì chúng đã nhanh chóng biến mất. Điều chắc chắn là tôi đã quên hẳn tiếng ve sầu.
    Mùa hè năm 1987, tôi nghỉ trên đảo Mallorca, miền Địa Trung Hải. Sau bữa cơm, trong một giấc ngủ trưa hiếm có ở châu Âu, tôi nghe vang đâu đây tiếng ve sầu! Tưởng mình đang nửa mơ nửa tỉnh, nhớ lại tiếng vang vọng ngày xưa, tôi ngơ ngác rồi vùng dậy chạy ra bao lơn khách sạn lẳng nghe. Xung quanh tôi là một vùng đồi núi đầy thông xanh, tiếng ve đầm đìa tràn ngập cả một vùng thung lũng! Hàng ngàn con ve sầu nhỏ bé nào đang đọng trên các cành thông, bền bỉ cất tiếng ca xuyên qua ngàn hoa vàng cỏ nội. Gió mát thổi thốc qua những đóa hoa vàng dandelion mà ta gọi là hoa bồ công anh, tung những sợi tơ trắng như hình ảnh của nàng thiếu nữ trong từ điển Larousse Je sème à tout vent, mang theo tiếng ve tha thiết về cửa sổ phòng tôi.
    Tiếng ve, tiếng ve sầu! Tôi gần ứa nước mắt. Âu châu sao có ve sầu? Thoảng trong hơi gió bay mùi hăng hắc của nhựa thông, thơm nồng nàn mùi nhiệt đới. Và tiếng ve. Ôi, tiếng ve sầu bền bỉ, dũng cảm mà khiêm tốn. Mùi nhựa thông thơm lừng, mùi này chỉ có trong những ngày nóng nực quê tôi, nhất là trong những buổi trưa hè im ắng. Mùi này tôi đã quên quá lâu, còn tiếng ve sầu tôi đã quên hơn 25 năm. Cái tiếng và cái mùi này chỉ có cùng một lúc trên đồi Từ Hiếu xứ Huế. Cùng một đồi thông, cùng một tiếng ve. Đồi Từ Hiếu là nơi vui chơi một thời niên thiếu của tôi, là nơi học bài, là nơi cắm trại, là nơi ngắm trời mây, là nơi cuộc đời vẽ tranh vân cẩu. Mùi nhựa thông, tiếng ve sầu trong một buổi trưa hè yên tĩnh đến nao lòng bất chợt về lại với tôi, vô cùng mãnh liệt, không hẹn mà nên. Tôi nhớ quê hương biết chừng nào! ?oBên kia biển là quê hương tôi đó?. Trong lòng quê hương xa xôi đó, có một vùng núi non, có một ngọn đồi nhỏ, gọi là đồi Từ Hiếu.
    Thì ra nhựa thông chỉ có một mùi thơm, ve sầu chỉ có một thứ tiếng, trưa hè đâu cũng giống nhau, tiếng im lặng thì tất nhiên chỉ là một âm, tôi tự nhủ. Nhưng chỉ có một quê hương duy nhất trên trái đất này. Đồi Từ Hiếu hiện lên rõ nét trong đầu tôi. Một nơi thân thiết như thế mà sau bao lần về Huế lại, sao tôi không đi thăm! Tôi nghiệm ra rằng, có nhiều người, nhiều nơi thân thiết, sau một thời gian cách biệt quá lâu, mình không còn dám gặp mặt. Không phải vì mình hết muốn gặp, nhưng có lẽ vì ân hận mình không đủ tâm tư để gặp cho tương xứng, cho thủy chung.
    Ôi tình quê hương, tưởng chừng chỉ là một khái niệm trừu tượng, nào ngờ nó có thể hít được, nghe được. Khái niệm chỉ là cấu trúc của tư tưởng, cảm nhận của giác quan mới là những điều có thực. Và những điều có thực đó đã lấp đầy tim tôi trong một buổi trưa hè tưởng chừng như rất yên tĩnh.
    6.1993
  3. lyenson

    lyenson Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/03/2006
    Bài viết:
    3.005
    Đã được thích:
    0
    Hoa trên cát
    Ấn tượng của đại dương đậm nét trong ta là không gian mênh mông với vô số sóng biển nhấp nhô. Trên thế giới có những vùng như biển mà không phải biển. Đó là sa mạc.
    Không gian của sa mạc Sahara không kém đại dương bao nhiêu. Nó chiếm hẳn một phần ba của miền bắc châu Phi, có một diện tích cỡ bằng toàn bộ nước Mỹ. Vùng sa mạc bao la đó không phải chỉ là một vùng đất bằng phẳng mà có núi có trũng. Ngọn núi cao nhất của nó đo được 3415m, cao hơn cả đỉnh Phanxipang của Việt Nam. Nơi thấp nhất của Sahara nằm dưới mặt nước biển đến 134m. Điều đó có nghĩa, nếu Sahara được trời cho đầy nước thì đây là một vùng có núi có hồ, có lẽ không kém phần xinh đẹp so với các nơi khác trên thế giới.
    Thế nhưng, thiên nhiên xem ra bất công với châu Phi, nơi đây quá ít mưa. Có những vùng mà suốt cả chục năm không mưa, có nơi chiếm kỷ lục 17 năm không mưa. Thanh thiếu niên châu Phi có kẻ cả đời chưa biết giọt nước trên trời rơi xuống là gì. Thiên nhiên cho miền đất này quá ít sông hồ và khoảng cách vô tận giữa biển cả và trung tâm lục địa châu Phi làm không khí nơi đây cực khô, không đủ độ ẩm để tạo mưa. Cái khô khốc của khí trời đó có một hệ quả không mấy dễ chịu. Nó làm nhiệt độ ban ngày rất nóng, có thể trên 50 độ C và ban đêm trời lạnh làm nước có thể đóng băng. Và sự biến thiên của nhiệt độ tưởng chừng chỉ ảnh hưởng lên con người đó lại tác dụng lên cả đá, nó làm đá nứt nẻ và sau nhiều trăm triệu năm, cùng với các yếu tố địa chất khác, đá biến thành cát.
    Nhiều người cho rằng, sa mạc chỉ có cát. Không phải! Tại Sahara chỉ khoảng 25% là cát, phần còn lại là sỏi và đá. Nhưng một phần tư diện tích Sahara phủ đầy cát là quá đủ, quá nhiều cho những người yêu cát. Ai mà có thể yêu cát, ngoài nhà công nghiệp luyện cát làm thủy tinh? Có chứ. Có những người đi cả nửa vòng trái đất, đến Sahara để ngắm những sóng cát, đụn cát, để thấy một mặt khác rất bí hiểm và đầy duyên dáng của thiên nhiên. Khách đến Sahara cũng để ngẫm nghĩ về một cái được gọi là sức sống, tiếng nói thì thầm miên viễn của thiên nhiên, của người và vật luôn luôn muốn thể hiện và bảo tồn, kể cả trong những môi trường khắc nghiệt nhất. Và cũng có nhiều kẻ, đến Sahara để khi về lại quê hương mình, biết tôn trọng một vùng xanh tươi của sông hồ, biết tôn quí thứ báu vật của trời cho mà mình cứ tưởng là một điều dĩ nhiên. Sahara quá lớn nên không ai tự hào mình biết hết, phần lớn đều thăm Sahara từ phía Bắc, từ các nước Tunisie, Algerie, Marocco.
    Địa hình tự nhiên sa mạc sinh ra những vùng cát không theo một qui luật nhất định nào cả. Đến Sahara khách sẽ ngỡ ngàng vì quá nhiều danh từ đặt tên cho cát. Cũng như người phương Tây lấy làm lạ tại sao ta có quá nhiều từ như cháo, gạo, cơm, nếp, tẻ, tấm, cám?chỉ để nói về rice thì chỉ một thứ cát mà tại Sahara có hàng chục từ nói về nó. Cát có sỏi khác, cát có đá khác, đụn cát cao khác, đụn cát thấp khác, đụn cát có hình bán nguyệt khác, đụn cát có hình tròn lại khác nữa. Giữa những vùng toàn cả những hạt cát rời đó có những khu vực cát cứng mà người ta gọi là Gassi, trên đó xe cộ có thể lưu thông. Trên những trục lộ đó khách có thể đi hàng trăm cây số để ngắm nhìn biển cát, một vùng đất kỳ lạ của địa cầu mà mới nghe ta dễ tưởng gây cảm giác nhàm chán.
    Nếu tại sa mạc hầu như không bao giờ mưa thì nơi đây luôn luôn có gió. Bão cát là cơm bữa của người và vật sống trong sa mạc. Thế nhưng cũng có những cơn bão cát đã trở thành huyền thoại vì sức tàn phá của chúng. Có những ốc đảo và nhiều đoàn thương nhân đã bị bão cát xóa tên vĩnh viễn. Sức gió cực mạnh thường bốc cát lên cao cả ngàn mét và đưa chúng đi rất xa, có lúc ở châu Âu mà xe cộ được phủ bằng một lớp cát vàng nhạt của sa mạc Sahara. Dưới sức gió, cát thường được dồn thành từng đụn có lúc cao đến 300m và sườn của chúng được trang trí bằng những sóng cát li ti hết sức lạ lùng. Sóng cát đều đặn tới mức mà người ta phải tự hỏi phải chăng thiên nhiên đang chơi một bản hòa ca bằng cát mà đây là điệp khúc bất tận của nó. Có kẻ bi quan hơn tự hỏi, phải chăng thượng đế đã tuyệt đường sáng tạo để cho nơi đây một sự lặp lại trùng điệp của ý tưởng để sinh ra những đường nét kỷ hà mà thứ bậc giản đơn của nó chỉ có trong cơ cấu tạo hình của pha lê.
    Điều lạ lùng là sự lặp lại đó đối với con người không hề nhàm chán. Dưới ánh sáng mặt trời biển cát hiện lên một màu vàng óng mượt rực rỡ. Trên mặt cát đó không hề có vết chân sinh vật nên nó cực kỳ mịn màng và tinh khiết. Buổi chiều, khi mặt trời dần lặn, các đụn cát óng lên một màu tím than trước khi rút vào màn đêm. Và ta đừng tưởng chúng bất động. Nếu tuần sau, khách đi ngang lại miền cát vàng tinh khiết đó thì những gợn sóng đã đổi dạng, có thể những đụn cát đã xê dịch lại gần hơn hay xa hơn đường xe chạy, có thể chúng đã biến mất. Và lúc đó ta mới biết thượng đế chưa cạn hết tư tưởng, thiên nhiên vẫn còn biết sáng tạo. Ai đã xem phim Bệnh nhân người Anh thì có thể cảm nhận một phần vẻ đẹp lạ lùng của biển cát.
    Trong vùng thiên nhiên chỉ đầy đá, sỏi và cát đó, lạ thay, sức sống vẫn thể hiện. Nơi đây cây lá dĩ nhiên không được ưu đãi như trong rừng nhiệt đới nhưng thực vật vẫn tìm cách đâm chồi nẩy lộc, chỉ với chút sương ẩm hay nước ngầm tối thiểu. Thế nên rải rác trong các vùng sỏi đá có nhiều bụi cây thấp nhỏ với lá dày và thân nhiều gai để giữ nước, cầm cự sống. Thảng hoặc chỗ nào có chút nước ngầm hào phóng thì cát đá vội sinh ra một loại dưa hấu của ta. Về thú thì chỉ có một loài chồn với cặp tai rất to mang tên là Fennek mới sống nổi. Trong họ chồn cáo thì chỉ có chúng mới chịu sống trong sa mạc. Trong loài bò sát thì có một số rắn và cắc kè sinh tồn, da của chúng mang màu của cát. Có một điều lạ là có một loài châu chấu cũng sống được nơi đây, dáng của chúng không hề khác châu chấu Việt Nam. Nhưng nói đến động vật thì không ai có thể quên lạc đà, đó là con vật vô địch trong tài nhịn khát. Chúng có thể nhịn uống vài tuần liền, nhưng khi sẵn nước thì chúng tợp một hơi có thể đến 150 lít. Ôi, những con lạc đà, chúng là hiện thân của những vị du tăng kham nhẫn, chậm rãi đi từ phương trời này qua chân trời khác, không chút tham cầu, xa rời vọng tưởng. Và con người? Trong cảnh hoang vu này vẫn có con người. Hang động là nhà của họ vì không có lều bạt nào chịu nổi cơn bão cát. Khách vào thăm ?onhà? của họ hẳn sẽ có người ngạc nhiên vì sự ngăn nắp sáng sủa, có nơi nấu nướng, có nơi ngủ nghỉ. Và cũng có khách bỗng nhớ quê hương mình vì thấy họ dệt vải, dệt thảm ra những màu nâu hay xanh có sọc như ở xứ ta, chúng chính là vải ?othổ cẩm? đặc trưng của châu Phi. Trong điều kiện khắc nghiệt nhất của thiên nhiên này của Sahara mà các loài thực vật, động vật và con người vẫn tiếp tục sinh tồn. Sức sống của thiên nhiên dường như chờ có chút điều kiện thuận lợi là vội thể hiện.
    Thế nên trong một vùng tưởng chừng như bị ?othượng đế bỏ rơi? này, sức sáng tạo của thiên nhiên càng thuyết phục hơn, càng dễ làm ta động tâm hơn. Hơn thế nữa, sa mạc còn dành nhiều cảm khái cho những ai biết yêu chúng. Khách thăm sa mạc thường được ngồi lưng lạc đà. Một khi lạc đà chở khách có chút ngơ ngác và khi những người bản xứ mặc áo thổ cẩm nhảy trên lưng lạc đà xuống đất, khách cần đưa mắt theo dõi họ làm gì và sẽ khám phá ra một điều. Họ đi tìm hoa trên cát. Hoa gì mà mọc trên cát?
    Trong vài chỗ trũng của sa mạc, ở những nơi có mạch nước ngầm thì thỉnh thoảng có nhiều khe hở tí hon mà từ phía dưới, nước ngầm trào lên mặt cát. Dưới sức nóng và độ khô của không khí, nước ngầm sớm bốc hơi và các khoáng sản trong nước kết tinh lại thành những lớp đá mỏng như vỏ hến, chen chúc xếp hàng như từ địa ngục mới trồi lên, giành chỗ dưới ánh mặt trời. Chúng xếp thành từng lọn xinh xắn như những cánh hoa mà người Bắc Phi nói tiếng Pháp gọi là Rose de sable. Những đóa hồng trên cát này quả nhiên có cái có dạng hình e ấp như những cánh hoa hồng. Chúng có thể nhỏ như lòng bàn tay, cũng có thể to bằng chiếc ghế đẩu. Những tinh thể khoáng sản trước kia chỉ là phân tử tan trong nước chảy trong lòng đất, mắt người không thấy được, nay đã nghiễm nhiên tượng hình, trở thành một khối có dạng hình, có màu sắc, lại được con người phong làm hoa.
    Nhưng những cánh hoa bằng đá đó cũng chịu số phận như loài hoa thực vật anh em. Đó là chúng cũng bị hủy hoại. Dưới cơn gió sa mạc những hạt cát li ti bào mòn chúng không chút thương tiếc. Vì do khoáng sản tan trong nước mà thành, chủ yếu là do chất sulfat tạo nên, chúng tương đối ?omềm?, không sao cự lại nổi những hạt cát bén nhọn. Thế nhưng nhìn lại ta mới thấy, những cánh hoa nằm lâu trong nắng gió thì lại đều đặn hơn, hài hòa hơn, dường như già giặn hơn. Có lẽ chúng cũng như số phận con người, có bị cuộc đời dày vò mới tiêu tan được cái sắc cạnh nông nỗi của tuổi thanh niên.
    Rose de sable! Cái tên ngắn ngủi mà chứa được cái yêu kiều nẩy sinh trên một vùng cát đá khô cằn. Vì thế mà Rose de sable là tên gọi của nhiều quán ăn, khách sạn, trung tâm du lịch, kể cả của nhiều nàng kiều nữ da màu tự đặt biệt hiệu cho mình. Rose de sable cũng là tên một tác phẩm của nhà văn Henry de Montherlant, viện sĩ hàn lâm viện Pháp, nói về lịch sử của một mối tình đặc biệt. Nó như hoa trên cát, không thể kết trái nhưng mối tình cũng không dễ gì tan.
    Trên đường băng sa mạc, khách dừng lại quán bên đường nghỉ ngơi. Theo cách của người Bắc Phi, khách uống trà với những chiếc tách nhỏ xíu. Nếu đúng điệu với dân địa phương hơn nữa, khách phải uống một thứ nước bạc hà màu xanh đậm và pha rất nóng. Trước cửa quán là một kệ gỗ, trên đó người ta bày bán Rose de sable. Những chiếc hoa trên cát này tiếc thay xem ra không được kẻ du lịch chú ý. Có lẽ chúng chỉ làm nặng hành lý của con người, không khéo chúng có thể làm đứt tay, nằm trong nhà chỉ tổ bám bụi.
    Thật ra Rose de sable chỉ đáng ở cùng nhà với những ai biết nhìn nó như một sáng tạo của thiên nhiên, một tư tưởng của thượng đế, như sự hiện thân của những yếu tố trầm lắng trong bóng tối nay được phơi mình thành sắc thể.
  4. lyenson

    lyenson Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/03/2006
    Bài viết:
    3.005
    Đã được thích:
    0
    Trên những ngọn đèo
    Đầu những năm sáu mươi, tại một vùng hồ núi hoang vắng ở Quảng Nam có một hiện tượng được gọi là ?ocá thần?. Nơi một chiếc hồ nọ, có một con cá thỉnh thoảng xuất hiện trên mặt nước. Không mấy ai được thấy cá, người ta chỉ nghe kể lại, thân của nó to lớn dị thường. Người ta đến đó để cúng bái, để xin nước của chiếc hồ. Nghe nói thứ nước thiêng liêng đó có tác dụng hết sức kỳ diệu, nó mang lại sức khỏe, may mắn và hạnh phúc.
    Những câu chuyện thần bí đó xem ra rất hấp dẫn với dân miền Trung vốn đã quen mùi nhang khói. Trong số hàng vạn người nườm nượp từ xa đi đến lễ bái ?othần cá? có kẻ viết bài này, hồi đó chỉ là một cậu bé ưa đọc truyện linh dị như Nam hải dị nhân hay Lĩnh Nam trích quái. Ngày đó, trong tâm tưởng của tôi, đường đi Quảng Nam, tới một chiếc hồ trên núi là một cuộc phiêu lưu xa vạn dặm. Nhất là con đường đó sẽ dẫn tôi qua đèo Hải Vân, một vùng núi non vô cùng ẩn mật cho một đứa trẻ mới đi đèo lần đầu.
    Trước khi đi, tôi đã nghe kể về Hải Vân. Những huyền thoại về ngọn đèo Hải Vân mà người lớn ưa kể cho con nít nghe đọng sâu trong tâm trí tôi, chúng hiển hiện trên con đường dẫn lên đèo. Dưới chân đèo người ta đã nhao nhao chỉ nhau xem ?omây? đọng trên sườn núi, chỗ mà tôi sẽ lên đến và sẽ lên cao hơn nữa. Xe chỉ mới chạy qua vài khúc ngoặt, trên xe đã có kẻ xây xẩm mặt mày. Còn tôi cố mở mắt thật lớn nhìn núi cao vực thẳm, đời mình đâu dễ đến đây, tôi tự nhủ. Hải Vân là nơi nổi danh vì những tai nạn thảm khốc, đó là nỗi sợ của người vượt đèo. Nhìn xuống vực thẳm, tôi vẫn còn thấy nhiều xác xe đổ. Theo lời người lớn căn dặn, tôi cúi đầu thành kính khi qua các am miếu, đó phải là nơi quỉ thần ngồi nhìn xe cộ qua lại, biết đâu các vị sẽ phù hộ cho mình.
    Nỗi sợ hãi của tôi tuy lớn nhưng nó phải nhường chỗ cho lòng hân hoan khi tôi được nhìn xuống biển. Ôi, đây là nơi mà núi và biển gặp gỡ. Màu xanh của rừng núi dường như không khác lắm với màu lục của nước biển. Chiều cao của vách núi lại tương phản với cái rộng mênh mông của đại dương cho tôi được ngắm nhìn một cảnh quan tuyệt diệu của thiên nhiên. Xe sớm lên tới đỉnh đèo, mọi người trong xe ai cũng đã mặc chiếc áo ấm, trên đỉnh cao chót vót này dĩ nhiên là trời rất lạnh, người lớn cẩn thận bảo tôi.
    Con đường đất đầy bụi dẫn chúng tôi đến hồ. Tới gần bờ hồ tôi đã thấy đoàn người kéo nhau đi vừa nghiêm trang vừa chộn rộn mà người lớn thành kính gọi là ?ohành hương?. Quanh chiếc hồ nước đục, hàng trăm hàng ngàn người ngồi thắp hương chờ đợi cá thần xuất hiện. Chúng tôi cũng kiên nhẫn ngồi đợi suốt buổi trưa nắng cháy, nhưng hôm nay thần cá xem ra không chịu ra mặt để chúng tôi lễ bái. Tôi đi quanh quẩn bờ hồ, cảm phục lắng nghe nhiều người dân địa phương xứ Quảng kể chuyện, họ là người đã hân hạnh thấy thần cá nhiều lần, họ cao hứng chê chúng tôi không có ?oduyên? được thấy. Cuối cùng trời đã về chiều, chúng tôi đành xuống hồ múc nước đem về thờ cúng, nước đựng đầy trên xe vốn đã chật ních.
    Trên đường về, lúc xuống đèo Hải Vân, bỗng nhiên xe lao vùn vụt một cách kỳ lạ. Tài xế nín lặng khó hiểu, bỗng có ai trên xe la lên ?ođứt thắng?. Xe tôi đi là một chiếc Citroen đã cũ mèm. Tôi run bần bật, đau đớn nghĩ, mình đi đèo lần đầu mà sao tai nạn đã vội xảy ra cho mình. Sẽ có thêm một cái miếu nơi đây chăng? Chiếc xe quả nhiên hỏng thắng nhưng may thay anh tài xế đã thắng xe bằng cách chủ động ép hông xe vào vách đá, dùng một bức vách tương đối bằng phẳng để hãm xe lại trước khi nó lao xuống vực thẳm. Hông xe bên trái bị nát, tôi ngồi phía đó nhưng kỳ diệu thay, không hề hấn gì. Thần cá không xuất hiện nhưng nước hồ kỳ diệu chất đầy xe xem ra đã cứu mạng chúng tôi.
    Lớn lên tôi ra nước ngoài. Về sau, trong các chuyến du hành, tôi vẫn nhớ đến đèo Hải Vân xa xưa. Nó để lại cho tôi ấn tượng không thể nào quên mặc dù khi đi nhiều, tôi nhận ra rằng ngọn đèo đó không có gì gọi là cao, là nguy hiểm nếu so với nhiều nơi khác. Tôi nhận ra rằng, trên các ngọn đèo, tôi luôn luôn có lòng sợ hãi và niềm cảm khái khác nhau. Một đêm nọ, thời còn sinh viên trẻ tuổi, tôi đi từ Thụy Sĩ qua Pháp. Đó là đầu những năm bảy mươi, thời đó chưa có xa lộ, đường đi là những ngọn đèo dài vô tận trên rặng Alp, một rặng núi mênh mông đầy uy lực của châu Âu, là suối nguồn của các con sông lớn Rhein, Rhone. Xe tôi đi là một chiếc Renault 4, thời đó đã rất cũ, ngày nay không còn ai tìm thấy nó. Những con đường đèo rặng Alp không những không có am miếu và quỉ thần ngồi nhìn tôi, mà chúng còn vắng cả người sống. Đó là một con đường hiu quạnh cả trăm cây số không có người ở. Nếu trong đêm đó chiếc xe này đứt thắng hay hỏng bất cứ cái gì, tôi sẽ làm sao trong núi rừng mênh mông. Nơi đây sẽ có thứ nước kỳ diệu nào cứu độ tôi?
    Rời Thụy Sĩ đi về phía tây, châu Âu có một nơi rất giống đèo Hải Vân, đó là đoạn đường núi Costa Brava, dọc theo Địa Trung Hải để về Barcelona. Đó là nơi mà lúc lái xe qua những đoạn đường ngoằn ngoèo, trên là núi, dưới là biển với hàng trăm khu du lịch, tôi tha thiết nhớ tới Hải Vân và ước mơ nước mình sẽ xinh đẹp và phồn vinh như Tây Ban Nha. Đó cũng là nơi mà tôi nhận thấy mình cũng lái xe vững vàng trên các ngọn đèo và sẽ có một ngày không xa, mình sẽ tự tay lái xe trên đèo Hải Vân, một nơi tôi vẫn còn kính sợ.
    Khoảng đầu những năm chín mươi tôi có dịp đi Simla thuộc vùng bắc Ấn. Đây là một thị trấn nằm trên sườn nam của dãy Hy Mã lạp sơn. Một chiếc xe nội hóa Ambassador bốn bánh mòn nhẵn chở chúng tôi vượt đèo lên một độ cao khoảng 2300m. Trong xe, tài xế người Ấn thắp hương cầu các vị thần Ấn Độ giáo cứu độ cho khách nước ngoài. Quả nhiên các vị đó không hẹp hòi và cho chúng tôi đến nơi đến chốn. Đây là nơi mà ta có thể ngắm những đỉnh trên 8000 mét. Dáng núi vương giả và uy nghi, màu tuyết vạn niên trắng ngần tinh khiết, đó phải là trú xứ của thánh thần. Tôi bị chấn động tâm linh mãnh liệt và quyết sẽ đi Tây Tạng để có thể đến gần vương quốc bất tử hơn nữa.
    Một ngày nọ quả nhiên tôi đến Tây Tạng. Trên đường du hành từ Lhasa đến Gyatse, tôi đi với một chiếc Toyota, vượt từ những con đèo này qua những con đèo khác của sườn phía bắc rặng núi Hy Mã. Đây là những con đường đèo nguy hiểm nhất mà tôi đã từng đi trong đời. Trên cao nguyên này không khí đã loãng, hơi thở tôi gấp rút, môi tôi tím bầm vì thiếu dưỡng khí. Độ cao này đã vượt xa đỉnh Hoàng Liên sơn của ta, nói chi Hải Vân của tôi ngày xưa. Đến đỉnh một ngọn đèo, tôi sững lại vì một cảnh quan tuyệt diệu, đó là hồ Yamdrok. Đó là một chiếc hồ nước mặn nằm trên núi, có độ cao 4441 mét. Màu nước của nó chính là màu xanh lục turquoise, màu của nước biển dưới chân Hải Vân. Sau một đoạn leo núi nữa, xe tôi vượt đèo Karo, cao 5010 mét. Đó là chỗ cao nhất trên địa cầu mà tôi đã tới và có lẽ sẽ không bao giờ được tới nữa. Nơi đây, băng vạn niên đã vươn những cánh tay khổng lồ của chúng ra tận đường xe chạy, chim chóc đã vắng bóng. Thế nhưng mây trắng vẫn còn nằm xa trên cao, loại ?omây trắng bay hoài ngàn năm? này hẳn sẽ có ngày kéo đến quê tôi. Trên đỉnh đèo chót vót này quả nhiên trời rất lạnh, tôi nhớ đỉnh đèo Hải Vân và chiếc áo len của mình thời xa xưa đó.
    Người ta kể tôi nghe, hồ Yamdrok là hồ thiêng, trong đó sống toàn là sinh vật thiêng liêng. Tôi nhớ tới thần cá ngày xưa ở xứ Quảng. Trên cao nguyên Tây Tạng này điều nổi bật là cảnh quan kỳ lạ của thiên nhiên, màu sắc rực rỡ của đất đá núi rừng, sự tĩnh lặng đến nao lòng, sự nhất thể hầu như đang hiện hình. Tất cả những thứ đó làm người ta phải nghĩ mọi sự hẳn phải có thần, chờ gì đến sinh vật. Tôi đã đi một vòng đời tâm linh. Bắt đầu với ngày trẻ con tin có thần cá thần sông, đến ngày cho rằng thế giới chỉ là vật chất đang vận động, làm gì có thánh thần ma quái, và bây giờ tôi nghĩ, người xưa nói ?ovạn vật hữu thần? chắc phải có lý của họ.
    Tôi cũng đã đi một vòng thế giới, đã trở lại Hải Vân. Gần đây tôi đi máy bay từ Huế vào Thành phố Hồ Chí Minh. Đến giờ bay, kế hoạch bay phải thay đổi, chúng tôi được đưa vào Đà Nẵng để đáp máy bay từ đó. Sau một giây bực dọc vì bất ngờ, tôi bỗng nhận ra lòng mình rộn rã được đi lại đèo Hải Vân. Ôi những đoạn đường đèo dễ thương này đã từng làm tôi sợ hãi! Những đám ?omây? bềnh bồng trên sườn núi chẳng qua là sương mù do khí núi ẩm ướt toát ra, chúng một thời đã làm tôi hãnh diện tưởng mình lên cao hơn mây. Thế nhưng, khi đi qua am miếu tôi vẫn thành kính cúi đầu. Và cũng như ngày xưa, tôi vẫn liếc nhìn xem bên trong có gì. Thời thế đã đổi thay! Nếu ngày xưa bên trong am miếu thường có nải chuối hay nén hương thì ngày nay chúng trống hoác, đầy đất đá bụi bặm, bị nguệch ngoạc vẽ hình, viết chữ. Trên đường xuống đèo, tôi nhận thấy một điều bất ngờ. Đó là những ?ođoạn đường cứu hộ? chạy dốc ngược do một hãng bảo hiểm xây, chúng phòng hờ cho những chiếc xe đứt thắng có chỗ để dừng lại thoát hiểm. Chiếc xe Citroen nát hông bên trái ngày xưa của tôi bỗng hiện về rõ mồn một.
    Bốn mươi năm đã trôi qua kể từ ngày đó. Đèo Hải Vân đã mở rộng, đường cứu hộ đã được xây, nhưng hình ảnh hoang tàng đổ nát của các am miếu làm tâm tôi vướng bận. Người ta lo cho người sống trước, người chết sau, tôi tự nhủ. Cũng sau một thời gian bốn mươi năm, khi đã đi nhiều nơi trên thế giới, tôi nhận ra rằng đèo Hải Vân có một sắc đẹp vô song, nó sánh vai với các cảnh quan trên thế giới, nó phải là chỗ đẹp thứ nhì của Việt Nam, sau vịnh Hạ Long.
    Ngày nay người ta đang xây một đường hầm chạy dưới Hải Vân để tiết kiệm thời gian di chuyển. Con đường hầm này sẽ dài khoảng hơn 6 km, thời gian đi chỉ còn năm phút thay vì một tiếng rưỡi nếu đi trên đèo. Tôi đã từng đi đường hầm Gotthard dài 16 km tại Thụy Sĩ, xuyên qua lòng núi Alp để về xứ Ý. Cho hệ thống giao thông cả nước, xây đường hầm là phải, nhưng tôi từng biết cái cảm giác khó chịu của người đi xe trong hầm.
    Vì thế ngày nào đường hầm Hải Vân hoàn thành, tôi sẽ nhường nó cho những ai có công việc vội vã. Còn tôi, tôi sẽ đi lại con đường ngoằn ngoèo trên núi để nhớ lại đời mình, để thưởng ngoạn núi rừng và biển cả. Đối với tôi, Hải Vân là chỗ kết hợp hiếm hoi của núi và biển, của thần và vật, nó là chốn trở về của những cuộc hành trình.
    (10.11.2000)
  5. lyenson

    lyenson Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/03/2006
    Bài viết:
    3.005
    Đã được thích:
    0
    Hương sen
    Hoa sen ?otròn mà nhọn?. Đó là một câu của thời xa xưa, khi tôi mới vỡ lòng tập đọc. Mới nghe câu này người ta dễ thấy có gì vô lý. Thế nhưng nếu từng ngắm hoa sen, người ta thấy quả thật nó ?otròn mà nhọn?. Hoa sen lúc còn ?obúp? cũng thế mà mỗi cánh hoa lúc đã nở cũng ?otròn mà nhọn? như thế. Hình dáng giản đơn đó của hoa sen - ngờ đâu - là cách tôi dùng để phân biệt hoa sen với các thứ hoa cùng loại, ngày sau khi lớn lên.
    Hoa sen không phải chỉ mọc ở châu Á như nhiều người vẫn tưởng. Ở các nước khác như tại Bắc Phi, châu Âu và châu Mỹ, hoa sen vẫn nở đầy trong sông hồ. Thế nhưng, chúng không phải là sen, nếu nói một cách chính xác. Các loại ?osen? đó mà tiếng Anh gọi là Water Lilies thuộc về một họ thực vật tên gọi là ?oNymphaea?. Loại hoa này dĩ nhiên cũng có tại Việt Nam mà tên của nó bị gọi một cách rẻ rúng là ?ohoa súng?. Hoa súng chỉ là một trong khoảng 50 loại của họ ?oNymphaea?, chúng rất khác nhau về màu sắc và hình dáng. Các loại ?oNymphaea? thật ra cũng rất được người trồng cây quí trọng, màu sắc của chúng rất đáng yêu, từ trắng tinh đến hồng nhạt, đỏ thắm và cả màu thiên thanh. Có thứ ?oNymphaea? sinh hoa và lá cực lớn, hoa có thể có đường kính đến 40cm, lá lớn cả mét. Nhưng cái ?ođáng trách? của loài hoa nước này là hoa lá của chúng thường chỉ nổi trên mặt nước, không mấy thứ vươn cao lên khỏi nước, ta cứ nhìn hoa súng thì biết. Ngoài ra hoa và cánh hoa của chúng dù có thể to nhỏ và đủ màu sắc, hình dáng khác nhau, nhưng thường hình thuôn dài, không thể ?otròn mà nhọn?. Và đó là tiêu chuẩn giản đơn của tôi khi phân biệt đâu là hoa sen, đâu là hoa súng.
    Hoa sen ?otròn mà nhọn? của tôi thuộc về một họ khác, đó là họ ?oNelumbo?. Phần lớn người phương Tây không biết phân biệt hai họ đó, cứ gọi chung là ?oLotus?. Người biết rõ loại hoa này gọi nó là ?oPadma?, tiếng Sanskrit, chỉ một loài hoa độc nhất vô nhị trên thế giới. Hoa, cánh hoa và lá của nó hình tròn. Chúng nằm trên một thân thẳng đứng có gai nhỏ, vượt cao lên mặt nước khoảng từ 20 đến 40cm. Và từ nhiều ngàn năm nay, con người phương Đông ngắm hoa sen, trong lòng nẩy sinh bao điều cảm khái.
    Hoa sen là một loài hoa mọc từ ao hồ, đầm lầy. Từ lòng đất ẩn mật và dường như ?odơ bẩn? đó, loài sen đã thu nhận cát bùn và chuyển hóa thành một cánh hoa đều đặn, hài hòa, tinh khiết và đầy hương thơm cao quí. Gốc của nó thì trong bùn đất, nhưng ngọn của nó đón nắng và gió, tỏa hương sắc cho đời. Vì những lẽ đó mà từ nhiều ngàn năm nay, hoa sen là biểu tượng của sự chuyển hóa, của sự thành tựu. Và Đạo là gì nếu không phải là con đường của sự chuyển hóa. Vì thế nên hoa sen là biểu tượng của Đạo. Nhiều bậc trí giả còn đi xa hơn, họ nghiệm rằng hoa sen là thứ mọc trong đất, lớn lên trong nước, thở cùng với gió và đón lửa của mặt trời để cho rằng trong hoa sen cả bốn yếu tố đất nước gió lửa đều hội tụ, cho nên hoa sen là thành tựu cụ thể và bé nhỏ của vũ trụ. Và hành giả Đại thừa Phật giáo, nếu không quên được câu ?oSinh tử là Niết bàn?, thì có lẽ các vị đều thấy hoa sen chính là biểu tượng của sự nhất thể đó vì gốc và ngọn của hoa tuy khác nhau một trời một vực nhưng chúng không thể lìa nhau, cái này là điều kiện tồn tại của cái kia.
    Hoa sen lại còn một điều bất ngờ khác mà con người mới phát hiện gần đây. Khoảng trong những năm 90, một giáo sư ngành thực vật người Đức tên là W.Barthlott khám phá ra một điều mà ông gọi là ?ohiệu ứng Lotus?. Ông thấy một điều mà ai cũng biết là những hạt nước nằm trên lá sen đều cuốn tròn lại như những hạt ngọc trai và lăn đi rất nhanh, chúng cuốn theo cát bụi và không để lại chút dấu vết trên lá. Thế nhưng Barthlott giỏi hơn người thường ở chỗ, ông xác định được cấu trúc của mặt lá sen và thấy chúng không hề bằng phẳng mà gồm những hạt rất tròn và đều. Thế là nhà khoa học đó bắt chước thiên nhiên để đưa ra một nguyên lý nhằm chế tạo bề mặt các sản phẩm có khả năng ?otự làm sạch?. Nguyên lý đó ngày nay được áp dụng khắp nơi, nhất là trong ngành vật liệu xây dựng và Barthlott được lãnh giải thưởng bảo vệ môi trường năm 1999. Điều đáng nói nơi đây là tính chất đặc biệt này của lá sen ?" không để cho bị cát bụi làm nhiễm ô - hẳn phải gây cảm kích và kính sợ trong tâm thức tôn giáo của người đời. Lý do gì mà hoa sen vốn đã là biểu tượng của sự giác ngộ - nay còn có thêm một đặc tính hết sức phù hợp nữa, đó là tính chất bất cấu nhiễm, không dính mắc nơi cát bụi thế gian, không có chỗ cho sự ràng buộc? Đây, chính là biểu tượng của sự giải thoát. Mà thật ra thì giác ngộ hay giải thoát cũng chỉ là một.
    Hoa sen huyền diệu như thế nên cách đây hơn 2500 năm, đức Phật đã ví chúng sinh như những đóa sen: ?o?Ta nhìn quanh thế giới. Này các Tỳ-kheo, với Phật nhãn, ta thấy? như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng hay hồ sen trắng có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, không vượt lên khỏi mặt nước, được nuôi dưỡng dưới nước. Có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, sống vươn lên tới mặt nước. Có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, vươn lên khỏi mặt nước, không bị nước đẫm ướt. Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, với Phật nhãn, ta thấy có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, độn căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy, khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và sự nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm?. Tuy thấy chúng sinh đủ hạng người như thế, nhưng vị giác ngộ - như một đóa sen thuần khiết - vẫn quyết định giáo hóa cho tất cả và tuyên bố: ?oCửa bất tử rộng mở, cho những ai chịu nghe?.
    Tôi là một trong những người ?ochịu nghe?, chủ yếu vì lòng từ bi của Ngài, kẻ không cần phân biệt hoa sen hay hoa súng. Thậm chí tôi lên đường tìm theo những bước chân của Ngài tại Ấn Độ. Đối với tôi, hoa sen là biểu tượng của đạo Phật nên trong những bước đường lữ hành đó, tôi hay nhớ đến hoa sen. Ấn Độ là xứ sở đầy những hoa sen, đúng thứ Padma ?otròn mà nhọn?. Bản thân cả nước Ấn Độ mà kinh sách gọi là ?oNam Thiệm bộ châu?, theo truyền thuyết của Ấn Độ giáo cũng là một đóa sen vĩ đại mọc từ thân của thần sáng tạo Vishnu.
    Tại Ấn Độ tôi tìm đến đỉnh Linh Thứu và nhớ rằng đây đã diễn ra cảnh ?oniêm hoa vi tiếu?, cảnh đức Phật đưa một đóa hoa lên cao và chỉ vị đại đệ tử Ca-diếp mới mỉm cười lĩnh hội động tác ?otâm truyền tâm?. Đó là đầu nguồn của Thiền tông mà ngàn năm sau mới truyền qua Trung Quốc. Kinh sách không nói là hoa gì, trong hành động này hẳn nó chỉ đóng vai trò phụ. Thế nhưng tôi tự hỏi, phải chăng đó là một đóa sen vì tìm thấy hình sau. Ngày nọ, tôi đến Ngũ Đài sơn (Trung Quốc) chiêm bái Bồ-tát Văn Thù. Ngài là vị Bồ-tát chủ trí huệ. Tranh tượng hay vẽ Ngài tay mặt cầm kiếm chém bóng tối của vô minh, từ tay trái bừng nở một đóa sen, trong đó là kinh Bát nhã. Hai tay nằm trong một thể thống nhất, vô minh bị đối trị thì trí huệ tự hiện ra, trí huệ không cần tìm cầu, đó là quan điểm của Đại thừa. Như đồ vật được dọn đi thì khoảng không tự có, không gian không cần ai mang lại. Vô minh và trí huệ cũng như sinh tử và Niết-bàn nằm trong một nhất thể như bùn lầy và hương thơm trong đóa sen không thể tách lìa.
    Có một vị được sinh ra từ hoa sen, đó là vị Liên Hoa Sinh (Padmasambhava), sống trong khoảng thế kỷ thứ 8 tại Tây Tạng. Tôi tìm đến tượng Ngài tại Lhasa (Tây Tạng) và thấy một khuôn mặt phẫn nộ với cặp mắt trợn tròn. Sự phẫn nộ của Ngài chính là lưỡi kiếm của Văn Thù. Cặp mắt dữ tợn của Ngài đang nhìn lũ ma quái mà truyền thống Tây Tạng kể lại Ngài phải đối trị lúc từ Ấn Độ qua Tây Tạng trong lần đầu tiên. Tôi nhìn Ngài, tôi muốn hỏi vị sinh ra từ đóa hoa giác ngộ: ?oSao Ngài không ra tay diệt giùm loại ma quái tân thời đang hoành hành nhiều nơi trên thế giới?. Dường như Ngài nhìn tôi, một kẻ đến từ phương Tây, mà bảo: ?oKhông phải sao, truyền thống các bạn vẫn hay nói, dân tộc nào xứng đáng với chính phủ đó?. Và dường như tâm thức giác ngộ đó thúc tôi hiểu thêm cho rõ rằng, chính cộng nghiệp của một dân tộc đã tạo tiền đề cho một nhóm người nhất định lên nắm chính quyền và cai trị lại chính mình.
    Trí huệ của đóa sen Kashmir nhắc tôi lại một điều mà tôi đã nghe nhưng chưa hiểu, đó là đừng đòi hỏi gì nơi ai khác cả, vấn đề chỉ nằm ở nơi mình. Khi con người chuyển hóa thì cả thế giới chuyển hóa. Một điều mới nghe thì phản khoa học nhưng toàn bộ sự thực dường như ở trong đó. Hoa sen có bao giờ than vãn về thời tiết bất thuận?
    Một ngày trong tháng năm, tôi về Huế tham dự lễ Festival 2002. Trong đêm khai mạc, vì biết trước sẽ chen chúc đông đúc, tôi bỏ xe đi bộ vào nội thành. Đi qua cửa Thượng tứ, giữa dòng người hối hả, tôi bỗng cảm nhận một mùi hoa sen thoang thoảng và thuần khiết. Trong bóng tối, nhìn xuống hào nước, tôi không thấy gì ngoài vài đốm trắng mờ mờ. Sen ngày càng ít trong các hào nước ở Huế, đó là điều tôi thấy trong chục năm qua. Hôm nay, trong mùi khói xe khét lẹt và dưới ánh sáng laser quét ngang dọc trên bầu trời đêm của một buổi hội diễn ồn ào đầy khích động, vài đóa sen vẫn thầm lặng tỏa hương cho đời. Trong dòng người hỗn loạn đó, có lẽ ít ai biết đến có một loài hoa vô song vẫn liên tục vươn lên khỏi mặt nước và cống hiến hương sắc cho những ai biết ngắm nhìn chúng.
    Tôi tựa tay vào bức tường thành còn nóng hổi của mặt trời ban chiều và cảm nhận được thời gian. Gần năm mươi năm đã trôi qua, từ ngày tôi biết hoa sen ?otròn mà nhọn? đến ngày nay, biết thêm tính nhất thể trong mọi mâu thuẫn và cuối cùng, hiểu ngộ ý nghĩa đích thực của sự chuyển hóa trong Đạo mà biểu hiện rõ nhất của nó nằm trong hoa sen.
  6. lyenson

    lyenson Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/03/2006
    Bài viết:
    3.005
    Đã được thích:
    0
    Rồi mùa thu xôn xao lá úa...
    Khác với mùa hè, mùa thu châu Âu thường đến lặng lẽ. Chỉ khi nhìn thấy bóng mình trải dài trên mặt đất, người ta mới sực nhớ, bóng đã xế, mùa thu đã về, mùa đông sắp tới. Vào thu, ánh mặt trời chiếu nghiêng nghiêng, bầu trời thường xanh thẫm, sắc nắng vàng đậm và trong như mật.
    Mặc dù đất hẳn còn ấm nhưng dường như tuân theo một tiếng gọi thì thầm bí ẩn của trời đất, lá cây bắt đầu đổi màu. Chúng diêm dúa mang sắc đỏ vàng rực rỡ, hầu như muốn bày tỏ cái già giặn của mình với sắc trời và màu nắng. Mùa này mà đi dạo rừng mới thấy thiên nhiên xa xỉ với sắc màu và mới cảm nhận tính tuần hoàn của tự nhiên. Trong mùa hè hào phóng ánh nắng con người vốn hay quên bốn mùa sớm thay đổi thì nay cùng với gió thu con người giật mình thấy mùa đông sắp đến và cảm nhận sự vận động miên viễn của vũ trụ.
    Rừng thu không những chỉ hiến dâng cho con người sắc màu và cảm hứng tâm linh, nó còn ban phát loại nho làm rượu mà đây là mùa thu hoạch. Thời này là mùa nho chín, là mùa thử rượu vang mà người sành điệu có thể nếm đất trời, màu sắc, hơi thở của rừng núi trong những giọt nồng mà người Âu phong cho cái khả năng ?onối phần hồn và phần xác lại với nhau?. Cũng như có vô vàn khác nhau giữa các loại trà, rượu không hề giống rượu, chúng mang chứa trong mình mùi đất, mùi hoa của mỗi vùng canh tác, chúng còn "nhớ" cả năm nay mưa nắng ra sao, chúng là quà tặng rộng lượng của thiên nhiên mỗi năm mỗi khác cho con người. Thế nên không ai uống rượu một cách suồng sã mà người ta lắng nghe mùi đất và màu nắng. Cũng như uống trà, người ta uống rượu bằng tâm.
    Thế nhưng thiên nhiên không phải hoàn toàn rộng lượng, thiên nhiên cũng còn khe khắt. Ánh nắng chiếu nghiêng chỉ làm trời chóng lạnh. Bầu trời càng xanh thì khí trời càng lạnh. Trên bầu trời xanh thẫm đó, những đàn chim trốn lạnh vỗ cánh bay về phương Nam, chúng phải vượt qua Địa Trung Hải để đến Bắc Phi và sẽ ở đó suốt mấy tháng mùa đông. Chim chóc mà cũng bay về phương Nam, con người cần hơi ấm quê hương chỉ biết nhìn theo chim bay ngó trời xa:
     Quê nhà xa lắc xa lơ đó
     Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay
    Người Âu cũng ngán lạnh, họ rút vào nhà đốt lò. Trên mái ngói bây giờ đã làm tấm băng giá màu nhũ bạc, khói đốt lò sưởi bay vẩn vơ trong gió. Đây là lúc con người ẩn nhẩn tìm nguồn vui trong bóng tối mùa đông. Tháng 11 là tháng bắt đầu của lễ hội mùa đông carnival, trong đó người ta hóa trang thành những khuôn mặt khác. Những ngày cuối năm đầy hơi lạnh và bóng tối này là thời kỳ để ma quái trà trộn vào xã hội của con người chí thiện, dụ dỗ người theo chúng thỏa mãn niềm vui dục lạc. Thời kỳ đen tối đó kéo dài suốt một mùa đông, đó là thời mạt pháp thánh phàm đồng cư, trong đó ma quái hiện hình thánh thiện, con người hóa trang thành ác quỉ. Thời kỳ thiện ác lẫn lộn đó bắt đầu với lễ hội hóa trang Cologne (Đức) trong tháng 11, lên cao điểm tại Venise (Ý) trong tháng giêng năm sau và trở thành hiểm họa cho loài người trong tháng hại, lúc mà phù thủy và ma quái cười nói nghiêng ngả đi từng đoàn ngoài đường. Đến lúc đó thì Chúa hết có thể ngồi yên, Ngài búng tay đốt chúng thành tro bụi. Đó là một ngày thứ tư trong tuần, ngày được mệnh danh là ?othứ tư đầy tro tàn?, cũng là ngày trong khoảng Tết Nguyên Đán của chúng ta.
    Thời kỳ tưởng chừng là u ám đó thật ra là tâm lý cận nhân tình nhất vì ai cũng biết trong vũng lầy đen tối nhất của tội lỗi vẫn ngầm chứa mầm thánh thiện và con người chỉ là sự tổng hòa của mọi khuynh hướng thiện ác tiềm ẩn. Một thiên tài như Goethe (1749-1832), nhà thơ và là nhà khoa học của Đức đã từng nói: "Tất cả những người tôi gặp đều là những kẻ mà tội lỗi của họ bản thân tôi đều có thể phạm". Khoáng đạt thay và cũng nhân hậu thay, hỡi nhà thơ lớn. Điều này làm cho ta nhớ đến Nguyễn Du (1766 - 1820), người sinh sau mà lại chết trước Goethe. Trong thời phong kiến khe khắt của phương Đông, Nguyễn Du là người hiếm hoi biết cảm thương số phận của Thúy Kiều, Đạm Tiên, những người đẹp truân chuyên mang phận "nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương", với những hoàn cảnh lưu lạc đáng thương mà có lẽ ngày nay vẫn còn nhiều người không ngại gọi là "ma quái".
    Thiên nhiên tuy khe khắt nhưng nhân hậu hơn người. Thế nên trong những cành cây đen đủi của tháng chạp đều chứa mầm xanh cho mùa xuân tới. Những chồi xanh đó kham nhẫn biết đợi, chúng biết rõ khí hậu chưa ấm, thời khắc của chúng chưa đến. Trong những ngày tuyết bay lất phất này, người ta thèm hơi nóng thuần hậu của một lò sưởi củi thông. Bên "bếp lửa reo vui" đó với ly rượu vang trong tay, người ta sẽ thấy mình được sống trong vòng tay kỳ diệu và hào phóng của thiên nhiên. Với củi lửa thiên nhiên cho ta hơi ấm, với rượu trà nó cho ta hương vị của đất trời và đang thì thầm nói với loài người rằng cuộc đời đang vận động theo chu kỳ, hết đông tới xuân, hết ác tới thiện.
    Mặc dù tâm tư cuối năm thường chộn rộn nhưng con người cũng biết nghe. Do đó tại châu Âu, những ngày năm cùng tháng tận cũng là dịp để người ta lắng lòng nghe những tiếng thì thầm đó, là những ngày mà các trăn trở tâm linh của con người như thời gian, không gian, sự hiện hữu, tính vô thường, nhịp tuần hoàn... thường trở lại. Chúng làm con người thường ngỡ ngàng giật mình thấy những hoạt động đầy bụi bặm của thế gian cách trước đó mới hơn một tuần nay đã trở thành tầm thường xa lạ. Bóng tối của những ngày mùa đông trong dịp Giáng Sinh đâu phải chỉ đồng lõa với ma quái, đối với nhiều người, đó là những ngày hết sức tĩnh lặng để đi vào một mùa xuân mới, già dặn và minh triết hơn.
    Thế rồi, con người phải chịu cái lạnh căm gan của tháng giêng vài tuần nữa mới tới ngày phán quyết "thứ tư đầy tro tàn". Đó là ngày mà người ta sẽ đốt bỏ một hình nộm đại điện cho mùa đông và bóng tối, ngày mà lòng thiện trong mỗi chúng ta mà có người gọi tên bằng "Chúa" ở phương Tây hay "Phật" ở phương Đông đã chinh phục được cái xấu, ngày mà bên ta xem là thiêng liêng của Nguyên Đán.
    Nguyên Đán là ngày đầy hy vọng của con người, dù đó là hy vọng nở đầy tính thế gian như "đạp thằng bần ra khỏi cổng" hay niềm cảm khái tâm linh đang được đứng trước thời khắc tinh khôi của đất trời đang đổi mới. Ở phương Đông cũng như phương Tây, đó là ngày giã từ cái rủi ro, cái xấu ác, chúng đã trở thành "tro tàn" của năm cũ. Đó là ngày thành tâm nhất của mọi loài, kể cả ma quái. Vì Đông cũng như Tây, người cũng như quỉ, tất cả chúng ta đều là những kẻ lên đường chân thành đi tìm hạnh phúc.
    Thiên nhiên chẳng có gì để tìm vì nó biết đủ và minh triết, do đó hào phóng và biết chờ đợi. Sau Nguyên Đán chỉ vài tuần, tức khí trời còn lạnh, đất còn đóng băng thì không biết tiếng nói thì thầm nào mách bảo mà cây cối đã nứt mầm xanh, đâm ra vô số đọt non nhọn như cây kim, xanh mướt như niềm tin. Qua tháng ba, lúc ngày đêm dài bằng nhau, mặt trời chưa hề sưởi ấm được bao nhiêu mà "xuân đến khắp trời hoa rượu nở", sắc màu đến đây thì không còn biết dè sẻn. Trong mùa này, cành mai trầm mặc bên ta hay hoa lê trắng rực chiếm toàn cây bên trời Âu đều là sự thể hiện của cái thiện mỹ thâm hậu trong trời đất, cái luôn luôn sẵn sàng cống hiến cho người.
     11.1998
  7. lyenson

    lyenson Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/03/2006
    Bài viết:
    3.005
    Đã được thích:
    0
    Nhìn số view có thể thấy truyện này không hợp khẩu vị của đa số thành viên TTVNOL. Thôi không post nữa.
    Bạn nào muốn xem tiếp tác phẩm này có thể vào đây:
    http://blog.360.yahoo.com/blog-XE68oQ49YqMEaT2UtusyNXI-;_ylt=AuCu.tp8EiftIu.Wn09TEsG0AOJ3?cq=1
  8. yesterday_once_more

    yesterday_once_more Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/10/2003
    Bài viết:
    54
    Đã được thích:
    0
    Cám ơn lyenson nhiều nhiều. Tuỳ bút rất hay. Hình như người Huế sinh ra đề viết tuỳ bút hay sao hỉ ?!!
  9. cuonphong

    cuonphong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/06/2006
    Bài viết:
    571
    Đã được thích:
    0
    Màu phượng thắm
    Sắc màu trong thiên nhiên thường rất thắm. Màu mây, màu núi, màu biển, màu lông chim cánh **** thường làm ta kinh ngạc bằng sắc thắm của chúng, làm ta bâng khuâng tự hỏi phải chăng tạo hóa siêu việt hơn con người còn ở chỗ biết "chế tạo" ra những sắc màu vượt xa tất cả những chất liệu nhân tạo. Ngay cả máy vi tính với khả năng sinh ra hàng triệu màu cũng không bao giờ cho được một gam màu đủ đậm đà để được ta gọi là "thắm". Tôi nghiệm rằng sức thắm của sắc màu có lẽ nhờ ánh sáng mặt trời và cấu trúc của vật thể. Phải chăng đá núi, nước biển, lông chim, cánh **** có những cấu trúc bề mặt đặc biệt mà khi chiếu vào, tia sáng mặt trời bị khúc xạ, phản chiếu một cách nhất định để ta thấy chúng phải ra một sức sáng, sức sâu, sức thắm đượm. Nhưng đó là cách giải thích duy vật, tia sáng mặt trời thực chất là gì thì cũng không mấy ai rõ. Hay ánh sáng là tâm đang hiện hành? Và sắc màu thiên nhiên đang khoe sắc thắm dưới ánh mặt trời phải chăng là tâm đang tươi cười nhìn ngược lại chúng ta?
    Nói đến sắc màu trong thiên nhiên thì tất nhiên ta không thể quên hoa. Hoa lá thì dường như loài nào cũng có sắc đậm đà nhưng đối với tôi, hầu như hễ nói đến "màu hoa thắm" thì chỉ có thể là phượng vĩ. Cây phượng dáng mỹ thuật, lá kép lông chim xanh bóng. Giữa những tán lá màu xanh khỏe mạnh là những cụm hoa lớn đỏ rực. Và chỉ rực một màu đỏ thắm. Phượng vĩ lại thường nở rộ vào những ngày hè chói chang nên hoa phượng càng sáng, càng tươi, càng thắm, càng rực rỡ. Hoa càng thắm thì dường như lá càng xanh ngắt. Phượng vĩ thắm rực trong nắng hè do đó là kỷ niệm đời học sinh của mỗi chúng ta, của thời kỳ chơi đùa nhưng cũng là mùa thi cử nhọc nhằn, của niềm vui tươi xanh nhưng cũng đánh dấu những buổi chia tay đầu đời.
    Thế nên người ta hay gắn phượng vĩ với sân trường, với tiếng hò reo của tuổi thiếu niên, với lưu bút học trò có khi đẫm đầy lệ. Theo tôi thật ra, đó không phải là chỗ đắc địa của phượng vĩ. Nếu đi lần vào những con đường hẻo lánh hơn của thành nội ở xứ Huế quê tôi, ta sẽ khám phá phượng vĩ dưới một "ánh sáng" khác. Bên cạnh những chùm hoa đỏ rực là những bức tường thành cổ đen sì, có nơi loang loáng chút rêu xanh. Những bức tường thành này có bề dày cả thước, có tuổi gần hai trăm năm, thầm lặng làm chỗ dựa cho những cây phượng sung mãn và trẻ trung. Hoa phượng hồn nhiên khoe sắc, thân cành rung rinh trong gió, dường như đang rì rầm chuyện trò với đám rêu xanh bám tường. Rêu cũng là một loài thực vật hẳn hoi, cũng có sắc màu của nó và nhất là cũng biết óng lên một thứ sắc xanh lục thắm đượm. Phượng vĩ bên thành cổ! Sức sống thanh niên và sắc màu rực rỡ đối diện với bề dày của quá khứ, với đất đá vô sinh, với cái đã chết, với sự ngậm ngùi câm lặng. Thành cổ đã chứng kiến những gì Thành cổ đã thuộc về lịch sử, cái đang tràn trề sức sống là hoa phượng này đây. Thế nhưng, dưới gốc phượng cũng đã rải rác vài đốm hoa màu xác pháo. Hoa sẽ chóng tàn và thành cổ sẽ trường tồn với thời gian.
    Cái sống và cái chết, cái tĩnh và cái động, cái hữu cơ và cái vô sinh đang nằm hài hòa bên nhau. Và nhất là sự tĩnh mịch! Trong sự tĩnh mịch này, vắng mọi thứ tiếng của thế gian, phượng vĩ và thành cổ như giao hòa trong một giai điệu chung của thời gian. Chỉ trong sự tĩnh mịch này, thần thức của thiên nhiên bỗng nhiên lộ rõ.
    Cũng là thiên nhiên cả nhưng châu Âu không có phượng vĩ. Dường như loài hoa này chỉ sống tại miền Nam châu Á và nhất định chỉ nở hoa vào những tháng nóng nực nhất. Thật ra, nhiều loại cây vốn của miền nhiệt đới nay đã được chiết giống để chịu được băng tuyết mùa đông. Đó là các loại tre, trúc, hoa trà mi, hoa dâm bụt... mà ngày nay ta đã thấy khắp mọi nẻo đường ở châu Âu. Loài phượng vĩ thuộc giống rất dễ tính, trồng bằng hạt, ươm gieo trong vườn không khó và cứ cao hơn một thước là ta có thể "đánh" ra trồng chỗ cố định. Thế nhưng dường như nó cự tuyệt mùa đông châu Âu. Nghe ra cũng dễ thông cảm và thấy gần giống với tâm tính người Việt mình.
    Khí lạnh châu Âu không hể làm màu hoa kém tươi. Trái lại, hãy đến thăm châu Âu vào tháng tư để biết thế nào là sắc màu và lòng hào phóng của thiên nhiên. Mùa xuân, cành lê cành táo nhiều hoa hơn lá. Loài hoa tu-1íp có nhiều màu mà màu nào cũng thắm đậm ngọt ngào. Hoa đào Nhật Bản mang một sắc hồng trinh nguyên làm người xem phải biết trân trọng. Thế nhưng chưa có một màu hoa nào được ta gọi là "thắm", để tôi phải nhớ đến màu phượng vĩ. Cho đến một ngày...
    Cho đến một ngày hè châu Âu tôi khám phá một loài hoa, cây thấp chưa đầy ba tấc, thân mềm, mọc ở bờ rừng bờ ruộng. Hoa mọc hoang ven đường, cành lá run rẩy dữ dội khi xe chạy qua. Hoa mang một màu đỏ đậm nhưng lá hoa quá mỏng nên sắc luôn luôn sáng trong. Màu này thì mới đáng được gọi là "thắm". Đó là một sắc màu làm say lòng người. Tôi bỗng nhớ màu phượng, cả hai đều thắm. Chúng mang một sức thắm đậm làm ta ngỡ thiên nhiên phải là một đại họa sư, có biệt tài pha chế màu sắc. Nhưng chúng cũng khác nhau. Nếu phượng vĩ cũng có sắc đỏ nhưng pha chút gam màu cam thì loài hoa lạc loài này cũng một màu đỏ nhưng vừa trong vừa đậm như rượu vang, có khả năng mê hoặc con người. Tôi bỗng nhân cách hóa màu hoa phượng, cho nó là một chàng thiếu niên đầy niềm vui và sức sống. Như thế thì sắc màu của loài hoa không tên này phải là một phụ nữ kiều diễm và sang trọng.
    Loài hoa không tên đó về sau tôi nghe người Đức gọi là Mohnblumen, "hoa thuốc phiện". Thứ hoa mọc hoang này, dù trông ra mỏng manh nhưng sống rất lâu không chịu tàn trong những tháng mùa hè. Thì ra cây đó thuộc cùng một giống với các loại cây nha phiến chết người. Cho nên loại cây này tha hồ mọc hoang nhưng không ai được đem về trồng trong nhà. Hoa bị con người phân biệt đối xử, chẳng phải vì hoa kém đẹp kém thơm mà chỉ vì lòng người sợ hãi niềm đam mê của chính mình. Nhưng nếu con người không còn đam mê thì điều gì mới làm ra tính người?
    Phải chăng màu sắc đầy tính chất mê hoặc của hoa thuốc phiện cũng đã nói lên tính chất của nhựa hoa đối với con người, tôi bâng khuâng tự hỏi. Tôi là một phần của thiên nhiên hay thiên nhiên là một phần của tôi mà nhìn hoa biết tính? Không, sự đam mê nằm ở người chứ không ở hoa. Tôi không hài lòng lắm với tên "hoa thuốc phiện", một cái tên đầy sự sợ hãi và khinh miệt. Về sau hỏi lại bạn bè người Việt, tôi mới biết đó là hoa anh túc. Ôi, thì ra hoa anh túc là đây, một loài hoa mà danh xưng của nó tôi đã nghe từ lâu.
    May thay tôi biết đến cái tên văn học này để thay thế cho một tên trần trụi kia, một cái tên không thể xứng hợp với sắc màu siêu nhiên của nó. Phượng vĩ hay anh túc, dù hai thứ dường như không bao giờ gặp nhau, nhưng cả hai đều đỏ thắm, đều làm say lòng người, cũng đều chịu một kiếp hoa, nhưng cũng đều là tác phẩm của tâm đang vận hành.
    Ngày nọ, bước đường lữ khách dẫn tôi đến Aswan, một thành phố nằm trên bờ sông Nile, thuộc xứ Ai-cập ở miền Bắc châu Phi. Sông Nile, với chiều dài hơn 6600 km, là giòng sông dài nhất trên thế giới. Theo người Ai-cập, Nile là khởi thủy của thế giới, là nguồn gốc của tất cả mọi đời sống. Trong một vùng đất sa mạc của Bắc Phi, quả thực sông Nile là nguồn suối của mọi loài sinh vật, động vật cũng như thực vật. Chỉ xung quanh sông Nile mới có màu xanh, có ốc đảo, có cư dân. Đến Ai-cập mới biết đất nước Việt Nam là một ốc đảo xanh tươi vĩ đại. Nhưng Ai-cập khác tất cả các nước khác vì hoa trái đích thực nở ra trên vùng đất khô cằn này là một nền văn minh vô song, đó là nền văn minh cổ nhất của nhân loại còn giữ lại được tới ngày hôm nay.
    Aswan có thể được xem là viên ngọc nằm trên sông Nile, một trong những thành phố đẹp nhất trên thế giới. Tại Aswan ta có thể cùng một lúc chiêm ngưỡng vẻ đẹp duyên dáng của sa mạc, màu vàng rực rỡ và trần trụi của cát và đá, màu xanh thẫm của nước sông Nile mà ở đây lặng lờ như mặt hồ. Aswan là một thiên đường của sắc màu và sự tĩnh lặng. Lác đác trên sông là những chiếc thuyền buồm đặc biệt mà người địa phương gọi là falucca với những cánh buồn trắng thật cao, trông như những cánh **** chập chờn. Khi hoàng hôn xuống, sắc đỏ của ánh dương chen với sắc vàng của sa mạc lẫn trong tiếng nhạc của dân Nubian cho ta cảm tưởng ở đây dường như không phải là trần thế. Có lẽ vì thế là Francois Mitterand, vị tổng thống Pháp, khi biết 1996 mình không còn sống được lâu, năm 1995 đã đến đây sống một thời gian, nói trước lời vĩnh biệt.
    Aswan là một trong những ốc đảo của sông Nile, là nơi sinh ra không biết bao nhiêu hoa lá nhiệt đới, nhất là loại cây chà-là cùng họ với loài dừa của ta. Và bất ngờ thay, tôi gặp phượng vĩ tại Aswan. Thì ra châu Phi mà cũng có phượng, tôi ngẩn người tự nhủ. Dưới ánh nắng thiêu đốt của mặt trời, phượng vĩ châu Phi cũng không khác gì của chúng ta, cũng thân cành mỹ thuật, cũng lá kép lông chim xanh bóng, cũng những cụm hoa màu đỏ rực pha chút gam màu cam. Và sức thắm của sắc màu! Màu phượng vĩ ở đâu cũng thắm đượm như nhau.
    Phượng vĩ dễ gieo dễ trồng thật nhưng ai đã đem phượng qua xứ Phi châu xa xôi này? Nhưng không phải chỉ phượng vĩ, trên những nẻo đường Ai-cập tôi khám phá cả những cây bồ-đề với đuôi lá dài nhọn, cả ao sen trắng với cành lá vươn cao trên mặt nước. Thiên nhiên là ai, là nhiều hay chỉ một? Tâm là gì, là chỉ một hay nhiều? Hoa lá bên ngoài và niềm say bên trong là một hay khác? Bất ngờ thay, về sau tôi tìm thấy trong một cuốn sách chuyên môn, cho hay phượng vĩ xuất phát từ Madagascar, một hòn đảo thuộc châu Phi. Nếu thật như thế thì châu Phi mới chính là quê hương của phượng vĩ. Những hàng phượng tại các con đường tại Hải Phòng, Nha Trang hay bên thành cổ xứ Huế chỉ là hậu duệ của một loại hoa có sức thắm rực rỡ của một mặt trời châu Phi.
    Cũng trên đất Ai-cập này, tôi nhớ lại tường thành đen sì xứ Huế mà ngày xưa tôi tưởng rất cổ. Thành quách của nền văn minh Ai-cập để lại không phải được tính bằng vài trăm năm mà bằng thiên niên kỷ, của những thời đại mù khơi trước công nguyên. Từ Aswan dòng sông Nile chảy lên phía Bắc và đổ ra Địa Trung Hải tại thành phố biển Alexandria. Đoạn sông dài một ngàn cây số đó là chứng tích của một nền văn minh sâu thẳm không ai dò tới đáy. Được truyền tụng nhiều nhất là những kim tự tháp đầy huyền thoại nằm ở hạ lưu sông Nile mà niên đại của chúng được ghi là khoảng thế kỷ thứ 27 trước công nguyên. Đó là những năm tháng nghe lạ tai, vì tính sơ thì chúng được xây dựng từ 4700 năm trước. Đó là những thời đại hầu như thần thoại vì khoảng cách từ đó đến đầu công nguyên còn xa hơn từ đầu công nguyên đến bây giờ.
    Kim tự tháp là những công trình nguyên sơ còn lại tới ngày nay. Ngoài ra, những đền đài ta thấy tại Ai-cập đều cũng là những phế tích rất xưa, nhưng thật ra chúng liên tiếp bị phá hủy và tái thiết trong những thời đại hoàn toàn khác nhau, cách nhau vài trăm năm là thường. Đứng trước những công trình đó tôi không sao cảm nhận được sự khác biệt về thời gian của chúng. Tôi đã nhiều lần cố ngẫm nghĩ về thời gian và thấy mình không bao giờ hiểu được chiều sâu của nó. Chúng ta có thể hình dung một khoảnh thời gian một tuần, một tháng, một năm, nhiều nhất là hai, ba mươi năm. Nhưng chúng ta không thề hình dung một khoảnh thời gian vượt quá một đời người. Hai trăm năm của tường thành xứ Huế đã là quá lâu, nói chi đến phế tích vài ngàn năm. Sức tư duy và cảm nhận của chúng ta về không gian lớn hay nhỏ, về thời gian dài hay ngắn, về thiên nhiên là một hay nhiều, tất cả đều bị đời làm người qui định, bị giới hạn trong mức độ "trung bình" đó.
    Điều mà chúng ta cảm nhận được và mang lại vô số cảm khái là sự tương phản. Thiên nhiên rực thắm tương phản với màu xám của tri thức. Cánh hoa trẻ trung bên cạnh tường thành uy nghi và xưa cũ. Tại Ai-cập sự tương phản đó hẳn đạt đến mức tuyệt đối. Dọc hai bờ đông tây của sông Nile từ Aswan đến biển, bên cạnh phượng vĩ, sen trắng, chà-là xanh là vô số thành quách, đền đài, lăng mộ của các nhà vua, hoàng hậu, thái tử, công nương của các triều đại. Trong số các đền đài đó có một công trình mang tên đền Karnak, thờ thần Amun. Đề Karnak lưu giữ những chứng tích của một nền văn hóa tôn giáo và kiến trúc của thế kỷ 13 trước công nguyên, tức là cách đây khoảng 3300 năm. Ngày nay đến phế tích đó không ai không khỏi kinh ngạc trước khả năng kỳ diệu của người xưa mà công trình nổi bật nhất hẳn phải là một tòa lâu đài nay đã mất mái gồm 134 trụ đá có trụ đường kính hơn ba mét và cao 21 mét. Trên những trụ đá đó là vô số hoa văn, vốn là chữ viết của một thời xưa cũ. Thứ chữ Hieroglyphs này, một trong những chữ viết cổ nhất của nhân loại, được xem là quà tặng của thần thánh, gần đây, mãi thế kỷ thứ 19 mới được một người Pháp tên là Champollion giải mã.
    Tại các phế tích của thời cổ đại Ai-cập, người ta hay tổ chức những buổi Sound & Light vào đêm, diễn lại nguồn gốc tôn giáo và văn hóa của các đền đài. Trong bóng đêm, tôi cùng đoàn người men theo những con đường lát đá hoa cương, trở lại những trụ đá khổng lồ với chút lòng run sợ mình đang phá rối giấc ngủ của các vị thần. Bỗng nhiên giữa các hàng cột đá một vầng trăng đỏ ối xuất hiện như một ngọn đèn hồng. Tôi rùng mình. Thiên nhiên hiện ra vô cùng bất ngờ và vĩ đại. Một nguồn cảm khái tràn ngập tim tôi. Thời gian là gì? Vầng trăng hẳn phải xưa cũ hơn các hàng trụ đá nhưng vẫn ánh trăng sinh động, trẻ trung, đang hiện hữu trong từng bước chân tôi, có thực như tâm tôi đang kính sợ. Thiên nhiên thực là tâm đang hiện hành hay thiên nhiên đang soi bóng trong tâm? Hay cả hai cách nói chỉ là một? Tôi bỗng nhớ những lời thơ trong bài Đạo ý của Nguyễn Du:
    Minh nguyệt chiếu cổ tĩnh
    Tĩnh thủy vô ba đào
    Bất bị nhân khiên xả
    Thử tâm chung bất giao
    Túng bị nhân khiển xả
    Nhất dao hoàn phục chỉ
    Trạm trạm nhất phiến tâm
    Minh nguyệt cổ tĩnh thủy

    Trăng sáng lòng giếng cổ
    Nước giếng không ba đào
    Không bị người khuấy động
    Lòng này không chút xao
    Đã bị người khuấy động
    Xao rồi trở yên lặng
    Vằng vặc một mảnh lòng
    Gióng trong trăng gọi bóng.

    ?oTrạm trạm nhất phiến tâm", lạ thay! Ánh sáng chính là tâm, vầng trăng là "một mảnh lòng". Một mảnh lòng nhớ thời thơ ấu có phượng vĩ, có cổ thành, có trăng thanh, có vần thơ... hiện lên giữa những hàng cột đá thờ thần Amun tại Ai-cập. Một mảnh lòng kính sợ trước sự bí nhiệm của thiên nhiên và tài năng của người xưa. Phế tích vài ngàn năm này không hề "câm lặng" như nhiều người hay nói mà cái thần của nó đang quyện vào lòng người, hiện lên làm tôi choáng ngợp. Không cần thiên nhiên phải tĩnh mịch, cũng không phải vì bóng đêm huyền bí, mà nói như Nguyễn Du, nhờ "nước giếng không ba đào".
    Khi tâm tĩnh lặng thì quá khứ ngàn năm và thiên nhiên vô tận chỉ nằm trong một màu hoa thắm.
    7.2005
    Sunday October 15, 2006 - 09:10am (PDT) Permanent Link | 0 Comments
  10. cuonphong

    cuonphong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/06/2006
    Bài viết:
    571
    Đã được thích:
    0
    Còn đâu áo vải cờ đào
    Giữa Địa Trung Hải, nghiêng về phía Đông, có một hòn đảo tên gọi Crete. Đảo Crete nằm ngang vĩ độ của các nước Tunesia, Algeria...thuộc Bắc Phi, quanh năm nắng ấm. Thế nhưng, Crete vẫn thuộc về châu Âu vì Crete là lãnh thổ của Hy Lạp, là hòn đảo cực Nam trong vô số đảo của Hy Lạp, quê hương của triết học và khoa học cổ đại phương Tây.
    Nước Hy Lạp vốn đã có nhiều rừng ô-liu thì nắng ấm của Crete càng nuôi dưỡng thêm ô-liu trên các vùng núi non của đảo. Thế nên Crete được phủ bằng một màu xanh bạt ngàn với những cây ô-liu dáng vẻ cổ điển với thân cành khúc khuỷu mang đầy tính mỹ thuật của đất trời. Thiên nhiên thật đầy tính sáng tạo, nó sản sinh ra một thứ cây ô-liu mà khi già vỏ cây của chúng khô khốc nứt nẻ như sắp chết, nhưng cây vẫn mang trên mình những chiếc lá xanh tươi nhọn hoắt và nhất là mang đầy những trái. Hàng tỉ trái ô-liu nhỏ xíu đó cho một thứ dầu chứa đầy tinh lực, rất tốt cho sức khỏe và có khả năng chống bệnh tật, là nguồn thực phẩm bao đời cho các hiền nhân thời xa xưa đến các nông dân vẫn còn ngồi trên lưng lừa của thời đại ngày nay.
    Là hòn đảo cực nam, Crete còn là một miền thiên nhiên của thứ cây trái nhiệt đới như chanh, cam, chà-là? Thế nhưng, điều làm dân Crete hãnh diện nhất là họ bắt đầu có rừng dừa, dù đó chỉ là một vùng nhỏ của cực đông hòn đảo, tại một vùng bờ biển mang tên Vaj. Khách đi đường đèo vài chục cây số đến đó sẽ chỉ thấy một bãi biền với cát mịn và rừng dừa. Tại Vaj, khách ngỡ ngàng vì không thấy những thứ quen thuộc như khách sạn, nhà hàng? được xây dựng vì Crete chỉ muốn nơi đây chỉ có cát trắng, nước xanh và rừng dừa. Nước biển màu nhung thẫm vì Crete ở đâu cũng sẵn nhưng cát trắng và mịn thì vắng bóng trên những bờ biển nhiều đá của đảo. Còn dừa thì chỉ một miền cực đông này mới có. Có ai từ phía Đông, từ châu Á từng mang dừa đến đây trồng trên đất nước Hy Lạp, hay gió phương Đông đã thổi đến đây?
    Trên hòn đảo cực nam Crete có một thị trấn nằm phía cực Nam: Ierapetra. Do đo, Ierapetra được xem là thành phố cực Nam của châu Âu. Người châu Âu có óc hóm hỉnh và chút tò mò về lãnh thổ, họ lấy làm thú vị khi thấy điểm cực Nam của châu Âu còn "thấp" hơn cả Tehran của Iran hay Bắc Kinh của Trung Quốc. Thực thế, Ierapetra gần như một thành phố nhiệt đới. Giữa tháng 10 mà khách vẫn cảm được hơi nóng hừng hực của mặt trời và chờ đợi gió mát từ biển thổi vào. Thành phố Ierapetra ngày nay chỉ trên mười ngàn dân nhưng đón nhiều du khách vì có kẻ muốn đi ngủ xa để trốn lạnh khỏi những kinh thành đầy sương mù và tuyết giá như London, Berlin, nhưng vẫn còn trong địa phận châu Âu.
    Với vị trí đặc biệt của mình, Ierapetra còn ghi dấu chân một nhân vật đặc biệt, một thiên tài quân sự: đại đế Napoleon Bonaparte (1769-1821). Chàng sĩ quan trẻ tuổi Napoleon vốn là dân đảo Corse, xuất thân từ một dòng họ bình thường. Được theo học một trường quân sự, chàng sớm trở thành nhà lãnh đạo tài ba. Mới 24 tuổi Napoleon đã mang hàm cấp tướng. Những năm cuối thế kỷ thứ 18, Napoleon đem quân đánh thắng Hà Lan, Áo trên chiến trường Bắc Ý. Thời đó Pháp muốn xâm chiếm cả nước Anh nhưng cuối cùng họ đánh chiếm Ai Cập để hạn chế ảnh hưởng của đế quốc Anh tại phương Đông, sau đó tiến chiếm Ấn Độ, vốn là thuộc địa của Anh.
    Napoleon, lúc đó mới 29 tuổi, được cử làm lãnh đạo cuộc viễn chinh. Ngày 19-5-1798, Napoleon huy động khoảng 30.000 quân và hàng trăm tàu chiến, lên đường vượt Địa Trung Hải. Quân Anh biết lực lượng hải quân Pháp ra trận nhưng không biết họ sẽ đánh vào đâu. Ngày 26-6, Napoleon bí mật đến Ierapetra và ngủ một đêm tại đó. Ngày hôm sau người ta khám phá tiền bạc và một lá thư"xác nhận" nằm dưới gối, lúc đó người khách lạ đã lênh đênh trên biển, hướng về thành phố Alexandria, cực Bắc của Ai Cập. Ngôi nhà mà Napoleon đã tá túc về sau được gọi là "Ngôi nhà Napoleon", ngày nay vẫn còn được giữ gìn cẩn thận.
    Thời đại của Napoleon cũng là thời hoàng kim của một thiên tài quân sự khác ở phương Đông. Đó là một người Việt Nam mang tên Nguyễn Huệ.
    Như nhiều lãnh tụ kiệt xuất trong lịch sử thế giới, Nguyễn Huệ cũng xuất thân từ một dòng dõi bình thường. Tổ tiên ông bị di dân từ Nghệ An vào Quy Nhơn khai hoang, đến một huyện có tên Tây Sơn. Nguyễn Huệ sinh năm 1753, lớn lên trong không khí sôi động của những tháng ngày khởi nghĩa chống cường quyền. Năm 1771 Tây Sơn vùng dậy, chàng trai 18 tuổi Nguyễn Huệ bắt đầu phát huy tài năng quân sự của mình. Năm 1777, Nguyễn Huệ đem quân vào Nam tiêu diệt quân chúa Nguyễn. Tám năm sau, Nguyễn Huệ lại vào Nam chặn đứng đạo quân Chămpa, giữ gìn toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam.
    Mùa thu năm 1788, dưới triều vua Càn Long, quân Thanh tiến chiếm kinh thành Thăng Long, đe dọa nền độc lập của đất nước. Ngày 22-12-1788, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu Quang Trung. Ông tập hợp binh sĩ, làm lễ tế trời đất tại núi Bân ở Phú Xuân và xuất quân đánh quân Thanh. Khoảng 10 ngày sau, Quang Trung Nguyễn Huệ giải phóng Thăng Long, đó là ngày mùng 5 Tết Kỷ Dậu. Đây là một chiến thắng thần tốc nhất và cũng rực rỡ nhất trong lịch sử Việt Nam. Đời sau cho rằng Quang Trung là "anh hùng dân tộc vĩ đại nhất của thế kỷ thứ 18".
    Không chỉ xuất sắc trong binh nghiệp, Nguyễn Huệ cũng biết chiêu hiền đãi sĩ, xây dựng đất nước. Công chúa Ngọc Hân có thơ ca ngợi ông:
    Mà nay áo vải cờ đào
    Giúp dân dựng nước xiết bao công trình.
    Di tích để lại đáng chú ý là núi Bân, nơi xuất phát sự nghiệp quân sự lừng lẫy của Nguyễn Huệ. Hơn hai trăm năm sau, một đứa cháu chắt lạc loài của Nguyễn Huệ bỗng nhớ đến núi Bân khi đứng trước ngôi nhà Napoleon tại Ierapetra, vốn cũng là chốn dừng chân cuối cùng của vị danh tướng người Pháp trước khi lên đường đi đánh Ai Cập. Hai thiên tài quân sự cùng sống trong một thời đại, cùng phát huy tài năng của mình trong độ tuổi còn rất trẻ, nhưng cuộc đời của họ hoàn toàn khác nhau.
    Sau đêm nọ tại Ierapetra, Napoleon theo đường biển đi Ai Cập và chuốc lấy đại bại đầu tiên trong cuộc đời phi thường của mình. Đó là trận thủy chiến nổi tiếng Abukir, nơi mà Napoleon mất khoảng 5.000 binh sĩ. Tháng 8-1799, ông lên tàu về Pháp và chỉ ba tháng sau ông đảo chính, thiết lập một chế độ quân phiệt, giành quyền lực về tay mình. Năm 1804, Napoleon trở thành đại đế của nước Pháp, bành trướng quyền lực khắp châu Âu, kể cả vùng Đông Âu. Lên tới cực điểm, ngôi sao của Napoleon bắt đầu lu mờ với chiến bại khi đánh vào nước Nga năm 1812. Năm 1814, Napoleon bị buộc phải từ bỏ quyền lực nhưng tham vọng đế vương của ông vẫn còn bùng lên lần cuối. Cuối cùng, năm 1815, với trận chiến nổi tiếng Waterloo, Napoleon bị bắt lưu đày trên một hòn đảo và mất vào năm 1821. Thế nhưng, dân tộc Pháp vẫn kính trọng người con ưu tú của mình và năm 1840 thi hài của ông được đưa về đền thờ trang trọng nhất tại Pháp, Les Invalides.
    Đời sau thừa nhận Napoleon là một nhân vật lịch sử xuất chúng mà tài năng và sự nghiệp của ông hậu thế không mấy người sánh nổi. Do đó, ngôi nhà nhỏ bé trên đảo Iarepetra mà Napoleon chỉ tá túc một đêm vẫn được nhiều người thăm viếng. Nhiều nhà khảo cứu lịch sử vẫn lấy làm tiếc vì không tìm thấy chiếc giường của đêm hôm đó, một đêm mà hẳn Napoleon không thể ngủ được trước khi ra trận.
    Còn ở phương Đông, lăng mộ của Nguyễn Huệ ở đâu, núi Bân bây giờ ra sao? Năm 1792, chỉ bốn năm sau khi đại thắng quân Thanh và thiết lập vương triều, Nguyễn Huệ bất ngờ chết sớm ở tuổi 39. Sau cái chết của Nguyễn Huệ thì triều đại của ba anh em họ Nguyễn bắt đầu suy tàn.Và một nhân vật họ Nguyễn khác bắt đầu xây dựng cơ đồ, đó là Nguyễn Ánh. Năm 1802, Nguyễn Ánh đạt thành công lớn, chiếm lĩnh toàn bộ giang sơn, thành lập nhà Nguyễn. Sau khi "thống nhất sơn hà" từ Nam chí Bắc, hẳn Nguyễn Ánh đã quên sự nghiệp giải phóng Thăng Long của nhà Tây Sơn mà vẫn còn nhớ tổ tiên mình bị Nguyễn Huệ giết hại nên nghiền nát lăng mộ và đem đầu lâu Nguyễn Huệ đi? cầm tù. Đó là tâm lượng và cách hành xử của một nhà vua Việt Nam đối với kẻ tử thù, một người lớn hơn mình chín tuổi và đã chết từ mười năm trước.
    Ngày nay người ta biết rõ, nếu Quang Trung Nguyễn Huệ không giải phóng Thăng Long năm 1789 thì bản đồ Việt Nam sẽ khác hẳn. Thế nhưng núi Bân, một thời là nơi xuất phát một chiến tích hiển hách và vô cùng hệ trọng cho số mệnh của cả dân tộc, của cả 13 đời vua triều Nguyễn và của các thế hệ ngày nay, bây giờ cũng đã rơi vào quên lãng. Núi Bân chỉ cách trung tâm thành phố Huế vỏn vẹn ba cây số nhưng người dân sống tại Huế lẫn du khách đến Huế không mấy ai biết đến ngọn núi này. Núi Bân bây giờ được gọi là "cồn mồ", chỉ chơ vơ một tấm bia. Trong vài năm gần đây người ta có đến đó, nhưng không phải để tìm hiểu một thời đại huy hoàng của dân tộc mà để giành đất xây mồ mả.
    Khách đi xa về, từ miền Địa Trung Hải, đến đọc tấm bia ghi vài hàng chữ nói về chiến công hiển hách của người xưa, rồi nhìn quanh, bỗng thấy lòng tê tái.

Chia sẻ trang này