1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Một số bài viết sưu tầm được về phong tục thờ phụng tổ tiên của người Việt.

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi madeinviet, 25/08/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. madeinviet

    madeinviet Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/06/2007
    Bài viết:
    1.983
    Đã được thích:
    0
    Một số bài viết sưu tầm được về phong tục thờ phụng tổ tiên của người Việt.

    THỜ PHỤNG TỔ TIÊN.
    (Gia lễ xưa và nay ?" Phạm Côn Sơn ?" NXB Thanh Niên 2005)​

    Thờ ông bà là một bổn phận và nhiệm vụ trọng đại đặc thù của người Việt Nam. Trong quảng đại quần chúng xưa và nay, người ta thường nói "đạo thờ ông bà" là tín ngưỡng sâu sắc, nhưng không là một tôn giáo, "đạo" nói ở đây phải hiểu là đường lối. (madeinviet: Qua thảo luận ở một số diễn đàn, tôi đã tìm một từ trong tiếng Anh phù hợp để dịch chữ đạo " chính xác ở đa số trường hợp. Đó là từ discipline).

    Thờ ông bà là một trách nhiệm có tính cách luân lý, sự phát lộ tình cảm và lòng tin huyết thống được thể hiện trong môi trường gia tộc, không có tính cách thần thánh hóa, nhất là không có tu sở như là chùa hay nhà thờ và cũng không cần có người giảng thuyết làm gạch nối liền giữa đạo và đời. Thờ ông bà xuất phát từ tâm thành của người sống, thế hệ sau đối với người chết, thế hệ trước. Thờ phải có lễ và cúng bái, hành động biểu tỏ lòng tôn kính và nhớ thương. Dân tộc Việt Nam chủ trương thờ ông bà là vì đã từ lâu hiểu "cây có cội, nước có nguồn", ai ai cũng tưởng nhớ đến nguồn gốc sinh thành ra mình.

    Tinh thần "uống nước nhớ nguồn" là một trong những bài học đầu tiên về "học làm người", mở đầu cho những bài giáo khoa luân lý và công dân giáo dục, được các học trò nhỏ đọc ở lớp vỡ lòng dưới các mái trường xưa:

    "Cây có gốc mới nở nhành xanh ngọn,
    Nước có nguồn mới bể rộng sông sâu,
    Người ta nguồn gốc từ đâu?
    Có cha mẹ rồi sau có mình."
  2. madeinviet

    madeinviet Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/06/2007
    Bài viết:
    1.983
    Đã được thích:
    0
    THỜ CÚNG TỔ TIÊN MỘT CÁCH HỆ THỐNG ĐÃ DẦN DẦN TRỞ THÀNH MỘT QUỐC ĐẠO(nguồn: http://www3.tuoitre.com.vn/TetOnline/Index.aspx?ArticleID=120679&ChannelID=212 . Lưu ý: Có Video clip hướng dẫn dựng nêu và nghi thức lễ bái tổ tiên). ​
    Thờ cúng tổ tiên là một nghi thức văn hóa rất quan trọng cho đời sống con người
    Văn hóa phương Tây khác với văn hóa phương Đông ở nhiều điểm, trong đó phương Tây không thờ cúng tổ tiên, không để bàn thờ tổ tiên trong nhà; trong khi đó các dân tộc phương Đông đều có nhiều hình thức thờ cúng, tưởng nhớ đến người chết như người Ai Cập trong các ngôi mộ cổ, hay bàn thờ Tổ tiên trong các dân tộc Á Đông như Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên.
    Song độc đáo nhất ở VN, thờ cúng tổ tiên trở thành hệ thống và có ý nghĩa riêng của nó, rất quan trọng cho đời sống con người VN. Khởi đầu những ngôi mộ trong hang động ở vùng Trung du Bắc bộ có những vật dụng đem theo cho người chết với sự tin tưởng người chết vẫn sống ở thế giới vĩnh hằng. Con người, ông bà, tổ tiên mình có thể thành Tiên, thành thần, thành thánh, thành Phật chứ không phải người nhà trời mới linh thiêng.
    Chính vì vậy, người ta lập bàn thờ, nhà thờ họ một cách trang trọng, cũng nhiều nhà thờ họ đủ đồ thờ trang trọng như thờ Thần thờ Thánh. Và khi cúng tế, người ta luôn cầu âm đức, tổ tiên phù hộ độ trì cho con cháu. Không chỉ ngày giỗ, ngày Tết mà còn có những dịp trong đại của con người như đám cưới, đám ma hay khi gặp hoạn nạn, hay khi đi thi, làm ăn, đều khấn vái, kính cáo Tổ tiên. Việc hiện nay hầu hết các cặp cô dâu chú rể mới đều làm lễ vu quy hay nghinh hôn, trước bàn thờ gia tiên cũng là một điểm rất độc đáo của văn hóa VN.
    Không những thế, hệ thống thờ tổ tiên của vũ trụ, tức Ông tạo hóa hay Ông trời, thời phong kiến chỉ có vua mới được thờ cúng ở đàn Nam Giao, giống như bên Trung Hoa, thì nay ở Trung và nhất ở Nam Bộ nhiều nhà có bàn Thiên ở ngoài trờ để thờ trời. Tổ tiên của dân tộc là vua Hùng cũng được thờ, và nay trở thành quốc lễ. Ngoài ra, còn thờ các tiền nhân anh hùng dân tộc như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung...
    Các nhà nho trước đây cho rằng thờ cúng tổ tiên chỉ để thể hiện chữ hiếu, với tinh thần chim có tổ, người có tông, uống nước nhớ nguồn, chứ không phải là đạo. Song chữ đạo của phương Đông là con đường, chứ không phải theo nghĩa tôn giáo, chủ nghĩa (ism) như phương Tây quan niệm.
    Ngày nay, nhất là sau Cộng đồng Vatincan II, thiên chúa giáo vốn rất nghiêm khắc với việc thờ tổ tiên, bây giờ đã rộng rãi, các giáo dân vận có thể lập bàn thờ gia tiên. Mọi người VN hiện nay đều thờ tổ tiên và hầu hết đều có bàn thờ gia tiên, đó chính là quốc đạo, lấy con người làm chủ vạn vật, coi trọng âm đức, cái đức vô hình thiêng của con người.
    Xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, không thể không coi trọng thờ tổ tiên với truyền thống lâu đời và đã trở thành hệ thống. Đó cũng là nét riêng của dân tộc VN vậy! Thờ tổ tiên chính là quốc đạo của người VN vậy!
    TS NGUYỄN NHÃ
    Được madeinviet sửa chữa / chuyển vào 19:14 ngày 27/08/2007
  3. madeinviet

    madeinviet Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/06/2007
    Bài viết:
    1.983
    Đã được thích:
    0
    QUAN NIỆM THỜ PHỤNG TỔ TIÊN
    (Gia lễ xưa và nay ?" Phạm Côn Sơn ?" NXB Thanh Niên 2005)​
    Toan Ánh viết ?oDân Việt Nam, rất trọng lễ và trọng lễ thì ân nghĩa giữ phần quan trọng?
    Tổ tiên sinh ra ông bà, ông bà sinh ra cha mẹ, cha mẹ sinh ra mình. Người con hiếu thảo phải biết ơn nghĩa sinh thành của bố mẹ, và đã hiếu với cha mẹ phải hiếu với ông bà tổ tiên tức là nguồn gốc của mình. Lúc ông bà, cha me còn sống, con cháu phải phụng dưỡng, phải tuân theo các lời dạy bảo của các người, cũng như thờ các tổ tiên về trước.
    Lúc ông bà, cha mẹ còn sống, con cháu phải phụng dưỡng, phải tuân theo những lời dạy bảo củ người, phải lựa ý chiều chuộng ăn ở sao để cho người được hài lòng.
    Khi người trăm tuổi, ngoài việc lo ma chay chôn cất, con cháu phải thờ cúng người, cũng như thờ cúng các tổ tiên về trước.
    Thờ cúng tổ tiên nghĩa là lập bàn thờ tại nhà và cúng bái trong những ngày sóc vọng giỗ tết. Người Việt Nam thường ngoài tôn giáo của mình đều có thờ phụng tổ tiên, kể cả những người theo Thiên Chúa giáo. Thực ra thờ phụng tổ tiên không phải là một tôn giáo, do đó không thể gọi là đạo ông bà được. Là một đạo phải có giáo chủ, giáo điều và việc hành đạo phải qua trung gian tu sĩ. Thờ phụng tổ tiên do lòng thành kính và biết ơn của con cháu đối với cha mẹ, ông bà cụ kỵ đã khuất.
    Phan Kế Bính trong VIỆT NAM PHONG TỤC đã viết:
    ?oXét cái phong tục phụng sự tổ tiên của ta rất là thành kính, ấy cũng là một lòng bất vong bản, ấy cũng là nghĩa cữ của con người?.
    Cây có gốc mới nở nhành xanh ngọn, nước có nguồn mới bể rộng sông sâu, con người phải có tổ tiên mới có thể có mình được. Bỏ tổ tiên không thờ phụng tức là quên nguồn gốc, huống chi ông bà đã là những người sinh dưỡng cha mẹ và cha mẹ đã là những người sinh dưỡng mình. Những người theo Thiên Chúa giáo, tuy không lập bàn thờ tổ tiên, nhưng không phải là không thờ phụng tổ tiên. Những ngày giỗ chạp họ vẫn làm cỗ và cầu nguyện cho người đã khuất và việc không có bàn thờ tổ tiên là việc chuyển đổi bàn thờ tổ tiên đến bàn thờ Chúa, vậy nghĩa là vẫn có sự thờ phụng tổ tiên thông qua bàn thờ của Chúa.
    Qua việc thờ phụng tổ tiên tại Việt Nam, người khuất và người sống luôn luôn có một sự liên hệ mật thiết. Sự thờ cúng chính là sự gặp gỡ của thế giới hữu hình và vũ trụ linh thiêng. Đối với người Việt Nam, chết không có nghĩa là chết hẳn, thể xác tuy chết nhưng linh hồn vẫn còn và vẫn còn lui tới với gia đình. Thể xác tiêu tan, nhưng linh hồn thì bất diệt.
    Tin như vậy, việc cúng lễ là cần thiết, và việc thờ phụng tổ tiên không thể không có được.
    Cổ tục cũng lại còn tin vong hồn người khuất thương luôn ngự trên bàn thờ để gần gũi con cháu, theo dõi con cháu trong công việc hàng ngằy và giúp đỡ con cháu trong những trường hợp cần thiết.
    Sự tin tưởng vong hồn ông bà cha mẹ ngự trên bà thờ có ảnh hưởng nhiều đến hành động của người sống. Nhiều người vì sợ vong hồn cha mẹ buồn đã tránh những hành vi xấu xa, và đôi khi định làm một công việc gì cũng suy tính kỹ lưỡng, xem công việc đó lúc sinh thời cha mẹ có chấp nhận hay không. Người ta sợ mang tội bất hiếu nếu làm cho vong hồn cha mẹ phải tủi hổ qua hành động của mình.
    NHÂT THANH VŨ VĂN KHIẾU trong ĐẤT LỀ QUÊ THÓI nhận định
    ?oĐã nói tín ngưỡng thì tự nhiên có vấn đề tin và không tin.
    Đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên là sự hiển nhiên, không thể có nghi vấn hay không tin."
    Hiển nhiên, cho nên người ta vẫn cảm thông trong việc thờ cúng, mà luôn luôn tâm niệm: ?oSự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn? (Thờ lúc đã chết cũng như thờ lúc còn sống. Thờ lúc đã khuất cũng như thờ lúc hãy còn). Trên nhiều bàn thờ tổ tiên ta thường thấy bức hoành hai chữ ?oNhư tại?. (madeinviet: ,onhư có ở đây) là để nói lên cái nghĩa ấy.
    Kỳ đại hội tháng 10 năm 1682 ở Hội An (Trung Phần) quy tụ hai vị giám mục và gần một trăm giáo sĩ, thầy giảng các dòng đạo Ky-tô, đã thảo luận sôi nổi về việc có nên hay không nên cấm tín đồ Ky-tô thiết lập bàn thờ gia tiên trong nhà, thay đổi và hạn chế những lễ nghi trong đám tang ông bà cha mẹ và trong việc thờ cúng tổ tiên, nhận thấy rằng thờ cúng tổ tiên không phải là mê tín dị đoan. Hơn một trăm năm sau, chính một nhà truyền giáo Ky-tô, ông Bá - Đa - Lộc, cũng thắc mắc về điểm trên. Theo ông thì việc thờ cúng tổ tiên phải được coi như là việc tỏ tình kính mến đối với người đã khuất. Nếu ông kịp đi La Mã trước khi mất, như ông đã dự định, thì có lẽ ông đã trần thuyết được với tòa thánh chấp nhận ý kiến của ông.
    Cử nhân Hán học, Tây Hồ Bùi Tấn Niên nhận định:
    ?oCổ lễ quan niệm việc sinh tử là điều quan hệ nhất trong đời người ta. Sinh là khởi thuỷ, tử là chung cuộc của đời người, vì vậy thuỷ chung đều phải trọn vẹn.
    Người quân tử phải thuỷ chung như một. Nếu chỉ biết trung hậu với người còn sống mà bạc bẽo với người đã chết, đều không phải đạo. Chính vì thế, cỗ lễ dành rất nhiều nghi thức trang trọng cho việc tế tự. Đức Khổng tử đã nói: ?oTế như tại, thế thần như thần tại? (ý nói tuy không thấy thần linh hiện ra nhưng khi tế cúng coi như thần linh tại đó, phải để tâm hồn tôn kính?)
    Sinh hoạt xã hội Việt Nam trong hàng ngàn năm qua cũng rất chú trọng đến việc tế tư. Tại triều đình có tế Giao Miếu, tế xã tắc, các tỉnh có tế Thánh, mỗi làng có tế Thần, tư gia có cúng Tổ tiên.
    Riêng việc cúng Tổ tiên đã thành ra một tục lệ có tính cách dân tộc văn hóa và đi ra khỏi phạm vi tôn giáo."

    Được madeinviet sửa chữa / chuyển vào 13:10 ngày 26/08/2007
  4. madeinviet

    madeinviet Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/06/2007
    Bài viết:
    1.983
    Đã được thích:
    0
    CÁCH THỜ PHỤNG THỜI XƯA.
    (Gia lễ xưa và nay ?" Phạm Côn Sơn ?" NXB Thanh Niên 2005)​
    Thông thường nhà thờ của một tộc họ gồm ba gian hai chái. Ba gian dùng để thờ, gồm bàn thờ Tổ ở gian giữa và hàng kế tiếp ở hai bên. Ba gian này thường ngày đóng cửa. Hai chái dùng để con cháu ở, dùng để tiếp khách thường cùng bà con thân thuộc hoặ là dùng làm tiệc, chuẩn bị cúng giố. Sau ba giàn còn có gian phòng hay một nhà phụ dùng cho người thừa tự trú ngụ.
    Nhà thờ đại tông nhiều nơi kiến trúc như đền miếu thờ thành hoàng đàng trước có nhà đại bái để cả họ làm lễ tế tổ trong những ngày giỗ, ngày tết, cũng đúng như nghi tức tế thần cũng nội tán, ngoại tán, cũng có văn tế với ba tuần rượu, áo xiêm hia mũ trọng thể, nếu trong gia tộc trước đây có người làm quan.
    Thần chủ, cũng còn gọi là ?obài vị? có ghi đầy đủ tên huý, tên thuỵ và phẩm tước nếu có của thuỷ tổ, với ngày sinh, ngày chết, thường đặt trong một cỗ khám hay một cố ỷ, cỗ ngai, trên bàn thừo nơi tỏng cùng gian giữa.
    Ở đàng trước là sập tôn và hương án với những đồ thờ.
    Ở hai gian bên, trên bàn thờ có đặt bài vị của các vị tổ phân chi.
    Tổ phân chi có thể là con cháu của thuỷ tổ.
    Trên bàn thờ của hai gian, có thể có bài vị của một tổ phân chi cho một gian. thế nhưng nếu là một dòng họ lớn có nhiều tổ phân chi thì hoặc là nhiều bài vị của nhiều tổ phân chi được đặt chung trên một bàn thờ, hoặc là còn được đặt thêm trên bàn thờ ở gian hậu phía sau, nếu có.
    Trong trường hợp này, nhà thờ tộc họ còn được gọi là Tổ miếu.
    Nếu tổ họ là một bậc công thần hoặc khoa giáp phẩm tước cao, đồ thờ cũng có đủ cả cờ biển, bát bửu ló bộ, tán tía tàn vàng để chứng tỏ nhà thờ của thế gia vọng tộc.
    Ngoài ra còn có nhà thờ tư chi. Cũng như nhà thờ đại tông những họ thịnh vượng thường cho kiến trúc nhà thờ này rất ngiêm trang và chắc chắn với những gỗ quý. Bài vị của tổ tư chi thờ ở gian giữa, bài vị của những con trai của tổ tư chi được thờ ở hai gian bên.
    Những bài vị, hay là thần chủ thờ trong nhà thờ đại tông và nhà thờ tư chi có tính cách vĩnh cữu, không được di dời(bách thế bất giao chi chủ). Bài vị luôn luôn được làm bằng gỗ bạch đàn, có mùi thơm rất quý có màu trắng được viết chữ rõ ràng, phù hợp với việc thờ phụng. Trong trường hợp không tìm được gỗ bạch đàn, người ta dùng gỗ cây táo hay cây đại, những gỗ này không đắt không quý mà cũng chẳng bền hơn gỗ mít, gỗ vàng tâm vốn là hai thứ gỗ chuyên dùng làm đồ thờ như tượng Phật (bao giờ cũng được tạc bằng gỗ cây mít hay vàng tâm, bền hơn tất cả các thứ gỗ khác để sơn.)
    Tại các nhà thờ tư gia hay các bàn thờ mỗi gia đình ít khi có thờ thần chủ (bài vị). Chỉ có những nhà có quan tước, những nhà nề nếp hay những nhà hào trưởng giàu có mới thờ thần chủ. Thờ thần chủ phải qua thủ tục lễ nghi phiền phức, mời quan đề và phải lập các trạm bên cạnh huyệt hay ở giữa đường đưa đám như chương trước đã mô tả.
    Lễ đề thần chủ, tuy công việc chỉ trong một hai giây đồng hồ, rất tốn kém nhưng nghi thức rườm rà quan cách, là một hủ tục, người thường không dễ gì thực hiện được.
    Chính nhà thơ Nguyễn Khuyến (1835- 1910), đã đỗ hoàng giáp, làm quan đến tổng đốc, muốn thực hiện không phải khó khăn cho lắm nhưng đã chủ trương bài bác một cách gián tiếp khi để lại trong di chúc cho con về tang lễ của ông với hai câu:
    "Minh tinh con cũng bỏ đi,
    Mời quan đề chủ con thì chớ nên."

    Về các thờ thần chủ và bày biện trên bàn thờ ngày xưa. Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu trong Đất Lề Quê thói có mô tả: "Tất cả những thần chủ đủ bốn đời, kể từ thế hệ cuối cùng trong nhà trở lên, đều đặt trong khám gian (thờ khám gian để có chỗ bày được nhiều thần chủ), mỗi khi có giỗ một vị nào thì rước thần chủ vị ấy ra đặt đàng trước khám làm lễ xong lại rước để vào nguyên vị.
    Thần chủ để thờ cho đến khi vị tổ có tên đề ở đấy lên bậc năm đời (kể từ thế hệ cuối cùng trở lên) thì làm lễ chôn ở trong cùng nhà thờ, theo tục "Ngũ đại mai thần chủ" (năm đời thì chôn thần chủ). Những vị tổ kế tiếp có bài vị trong khám đương nhiên lên bậc theo thế thứ.
    Từ năm đời trở lên, nếu có thờ thần chủ thì không cúng giỗ nữa, trừ ông bà thủy tổ và ông bà tổ phân chi, những vị tổ năm , sáu, bảy, ... đời và trên nữa, tuy không cúng giỗ, nhưng được phối hưởng ở nhà thờ đại tông và nhà thờ tư chi nghĩa là được hưởng lễ cúng với thủy tổ, với tổ phân chi những ngày có cúng giỗ.
    Phần nhiều nhà thờ gia tiên có cỗ ỷ để trong cùng. Ỷ là cái ghế ngồi là ý tượng trưng cho sự hiện diện của người đã khuất. Ỷ và khám, nhà thường dân cũng như các đồ thờ khác không được chọn vẽ rồng hay tứ linh, chỉ chạm vẽ hình tượng của các con vật ấy. Bàn thờ kê ỷ và bài cỗ cúng cũng không được sơn son, chỉ sơn thăng hay cách gián thếp chỉ bạc, trừ hương án cao ở mặt tiền được sơn son thếp bạc thếp vàng.
    Những gia đình sang trọng giàu có đồ thờ bày choán hết gian giữa, trong cùng là bàn cao chừng một thước hai mươi phân trên để khám gian, không thờ thần chủ thì trong khám có để một cỗ ỷ, trên bệ khám phía cánh cửa khám để bao đựng bằng sắc của tiền nhân. Phía trước kê một sập tôn cao chừng 75 phân (cao hơn sập ngồi thường), trên mặt sập phía trong để một cái khay lớn chân cao với ba đài rượu, gọi là khay đài, phía trước để hai mâm xà mặt (80 x 60 phân), một mâm để bày cỗ(đồ mặn) một mâm để xôi chè (đồ ngọt). Trên mặt sập hai góc ngoài để hai bình sứ cao 60, 70 phân, cắm hoa. Bên ngoài cùng là chiếc hương án cao gần ngang vai, ngắn hơn sập, đứng ngoài trông thấy rõ cả hai bình sứ. Trên giữa hương án là bát hương công đồng, phía sau là chiếc mâm đồng để bày ngũ quả hoặc chiếc tam sơn để nước và hoa. Hai bên bát hương là hai chiếc đài lớn để cơi trầu và mân rượu.
    Phía ngoài đàng trước để bộ đồ tam sự hay ngũ sự, hay thất sự bằng đồng. Tam sự là một cái đỉnh và hai cây cắm nến. Ngũ sự thêm hai cây để dĩa dầu thắp đèn. Thất sự thêm một ống hạp hương để đựng trầm với một ống cắm đôi đũa và một dụng cụ bằng đồng để đốt trầm. Hai cây đèn bộ đồ thất sự để hai góc trong và trên hương án. Mấy người ở tỉnh thành gần gũi người Trung Hoa cũng dùng ngũ sự bằng thiếc của "các chú" khác hẳn đồ thờ của ta. Hai ống cắm hương không còn chỗ trên hương án, được đặt trên mặt sập tôn hai bên khay đài.
    Nhà bình thường không giàu có không có sập tôn, chẫn hương án sơn thếp lộng lẫy, chỉ một bàn thờ ở trong trên để cỗ ỷ, bên ngoài là chiếc án sơ sài cao hơn, với bát hương như thường lệ, với đài rượu, cây đèn, cây nến, ống hương, đều bằng gỗ tiện và sơn son. Những đồ thờ lặt vặt này cũng bằng gỗ mít do thợ tiện làm ra bán. Ỷ khám, bao sắc, khay đài, mâm xà, sập tôn, hương án, hoành phi, câu đối đều làm bằng gỗ vàng tâm. Hai thứ gỗ mít và vàng tâm thích hợp với sơn ta, một thứ nhựa được trồng nhiều ở miền đồi núi Phú Thọ, Hưng Hóa, Tuyên Quang đất Bắc. Gỗ mít được cây lớn mấy cũng không đủ cho việc bề dài, vì thường cong queo, cho nên chỉ dùng làm đồ tiện và tạc tượng bằng nhiều mảnh chắp lại.
    Nhà nghèo không thể sắm được chiếc bàn bằng gỗ để thờ, cũng đóng một cái chõng lớn bằng tre cao ngay ngực, trên mặt là ngăn tre kên, trải chiếu, bình dân quen gọi là giường thờ. Bát hương đặt trên một cái khay mộc mạc với ba chiếc chén mỏng để cúng rượu, khá hơn có một cái mâm xà sơn then hay để mộc không sơn, đôn cao bát hương có vẻ tôn kính hơn, với ba chiếc đài rượu để phía trước bát hương. Trên giường thờ bao giờ cũng có một cây đèn bằng sành để dĩa đựng dầu thắp nếu chẳng sắm được đôi đèn cây bằng gỗ tiện sơn phết chiếu lệ. Ống hương hoặc có hoặc không. Tuy vậy, mọi người trong gia đình nghèo khổ mấy sớm tối ra vào cũng thường suy tư, không bao giờ xao lãng việc thờ cúng.
    Bàn thờ xưa thường nổi bật với hoành phi, câu đối. Những thứ này vừa có tính cách trang trí vừa nói lên lòng tôn kính, sự tri ân của con cháu đối với tiền nhân, cũng có thể nói lên công đức của người được thờ phụng. Những thứ này thường được làm bằng gỗ hay bằng giấy viết chữ đẹp dễ đọc.
    Những nhà giàu có thường dùng gỗ danh mộc để thờ mãi mãi (Ngày nay, người ta làm với mỹ thuật sơn mài và cẩn ốc xà cừ). Nhà nghèo túng có thể mua ở các vỉa hè phố chợ những bản in hay viết tay trên giấy hồng đơn. Sau đây là những câu thường dùng có ý nghĩa trên các bức hoành của nhiều nhà xưa:
    Đức lưu quan (đức để lại sáng)
    Đức duy thinh (đức dày, truyền có tiếng thơm)
    Ẩm hà tư nguyên (uống nước sông, nhớ nguồn)
    Khắc xương quyết hậu (để tốt lành về sau)
    Sơn cao hải tuấn (núi cao bể sâu.)

    Về đối liễn, thường có những câu đại loại như sau:
    "Tổ công tông đức thiên niên thịnh
    Tử hiếu tôn hiền vạn đại xương".
    (Công đức tổ tông ngàn năm thịnh
    Hiếu hiền con cháu vạn đời ngay).
    "Sơn cao mặc trận sinh thành đức,
    Hải khoát nan thù cú dục ân."
    (Núi cao khó ví với đức sinh thành,
    bề rộng khôn bì với ân bồng bế nuôi nấng).
    "Tô tích bồi cơ, công đành sơn cao thiên cổ ngưỡng,
    Vũ kim diễn phái, trạch đồng hải tuấn ức niên tư".
    (Nhớ xưa bồi đắp tảng nền, công đọ non cao, ngửa
    trông muôn thuở,
    Đến nay nảy nở dòng giống, ơn tày bể rộng nhuần
    thấm ngàn năm).

    Được madeinviet sửa chữa / chuyển vào 13:02 ngày 26/08/2007
  5. madeinviet

    madeinviet Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/06/2007
    Bài viết:
    1.983
    Đã được thích:
    0

    LÒNG HIẾU THẢO VÀ VIỆC PHỤNG DƯỠNG.
    (Gia lễ xưa và nay ?" Phạm Côn Sơn ?" NXB Thanh Niên 2005)​
    Hiếu thảo là đặc tính luân lý của người Việt Nam. Mọi người đều bày tỏ lòng hiếu thảo của mình hằng ngày qua hành vi và tưởng nghĩ. Những người con cháu có hiếu thảo với ông bà cha mẹ đều chú tâm phụng dưỡng lúc còn sống, trong tuổi già và nhớ chừng lo cúng giỗ khi các người đã lần lượt qua đời. Lòng hiếu thảo không căn cứ nơi giá trị của vật chất hay số lượng của thức uống miếng ăn mà đặt trên nền tảng của lòng tưởng nhớ hàng ngày, sự chăm lo chăm sóc hằng bữa nơi con cháu.
    Phan Kế Bính trong Việt Nam Phong Tục đã viết: "Ta đọc sách Thánh hiền, lấy sự hiếu với cha mẹ là mối luân thường rất lớn, làm đầu trăm nết hay của người. Mà nhất là ta hay lấy chuyện Nhị Thập Tứ Hiếu làm phương châm cho đạo làm con".
    Hiếu là biết kính trọng thương mến cha mẹ, biết vâng lời cha mẹ, biết phụng dưỡng cha mẹ. Tục thường cho khi cha mẹ còn không nên đi xa, sợ không được thừa hoan ở dưới gối cha mẹ. Cho nên nhiều người phải bỏ đi làm quan xa, hoặc phải đi làm ăn xa xôi, thường hay từ rằng ở nhà còn chút cha già hay mẹ già. Nhà nào cha mẹ mạnh khỏe, giàu có thường ở riêng một mình. Người nào già yếu hoặc không có của mới ở với con. Con có thì của ngon vật lạ, cơm dâng nước tiến, nhà nghèo cũng biết lưng cơm lành bát canh ngon để phụng dưỡng cha mẹ. Cũng nhiều người ăn riêng ở riêng, cứ tháng đưa tiền cung dưỡng. Hoặc ở xa xôi cách biệt đôi khi gởi đồng quà tấm bánh về dâng cha mẹ...
    Nết hiếu vẫn là nết đầu trong luân lý của người ta, nếu cha mẹ là người rất thân, cư xử đã chẳng ra gì, ra đến xã hội còn tử tế với ai được nữa. Tuy vậy, hiếu với cha mẹ, chỉ cốt giữ được lòng kính mến là đủ, tưởng không cần phải giữ lễ phép tỉ mỉ nhỏ nhặt từng tí làm gì. Quý hồ phụng dưỡng đâu có đấy đừng để cho cha mẹ phiền lòng. Mình mong cho cha mẹ vẻ vang mình lại càng phải nghĩ cách mà lập thân mình. Hoặc học được khoa gì, hoặc làm được một sự nghiệp gì, để có ích cho xã hội mới là làm cho cha mẹ được vẻ vang.
    Trong cách lối phụng dưỡng cha mẹ già ngày xưa có việc mừng sinh nhật và ăn mừng thượng thọ. Việc mừng sinh nhật và thượng thọ cho cha mẹ chỉ thể hiện trong những gia đình lớn khá giả. Trong ngày sinh nhật của cha hoặc mẹ, con cái làm tế lễ cha mẹ, rồi bày ra một tiệc ăn mừng có mời những người thân thích đến tham dự. Những gia đình nào có cha mẹ già đến bảy, tám mươi tuổi, nhà sung túc về tiền của lẫn con cháu, thì làm lễ mừng thọ cho cha mẹ gọi là lễ "Thượng thọ". Lễ thượng thọ có thể bắt đầu từ:
    - Lúc 60 tuổi, gọi thượng thọ lục tuần.
    - Lúc 70 tuổi, gọi thượng thọ thất tuần.
    - Lúc 80 tuổi, gọi thượng thọ bát tuần.
    - Lúc 90 tuổi, gọi thượng thọ cửu tuần.
    - Lúc 100 tuổi, ăn mừng lớn: bách tuế hay bách niên chi lão.
    Hôm ăn mừng, trước hết người ta làm lễ gà xôi, hoặc tam sinh, hoặc heo bò, đem ra đình lễ thần, gọi là bái tạ thần hưu, có nghĩa tạ ơn thánh thần đã phù hộ cho cha mẹ sống lâu. Đến lúc lễ, cha hoặc mẹ ăn mặc đẹp ngồi trên ghế đặt chính gian giữa cho con cháu theo thứ tự lễ bái lạy. Con cháu mỗi người dâng chén rượu mừng thọ, hoặc dâng quả đào, gọi là bàn đào chúc thọ việc này do điển tích bà Tây Vương Mẫu ngày xưa hiến vua Hán Vũ Đế mấy quả đào tiên, có nói ăn quả đào ấy được trường thọ.
    Ngày nay, những gia đình khá giả cũng có con cháu tổ chức mừng thượng thọ cho cha mẹ. Hình thức có thay đổi ít nhiều, nhưng thường con cháu mua nhiều tặng vật mừng cha mẹ, gọi là đồ dưỡng già như là mền, áo ấm v.v... và tổ chức tiệc ăn mừng trọng thể tại nhà hàng hoặc tại nhà có mời đông đảo những thân bằng quyến thuộc của gia đình đến dự.
    Ngày xưa, sau khi con cháu làm lễ bái xong, tiệc ăn mừng có mời làng nước đến dự, có nhà ăn mừng đôi ba ngày, cũng có trường hợp tiệc kéo dài đến năm bảy ngày. Khách khứa đem đồ lễ vật đến mừng thọ, cũng như mọi việc ăn mừng khác.
    Phan Kế Bính có quan điểm như sau:
    "Mừng thọ và mừng sinh nhật của cha mẹ cũng là một việc để tỏ lòng kính yêu cha mẹ là việc rất hay, người không có chẳng kể gì, nhưng giàu có thì nên lắm, có lẽ hơn là làm giỗ ngày húy nhật. Ta không mấy nhà theo lễ ấy mà chỉ phù hoa sau khi cha mẹ đã mất rồi, thực là một việc sai lầm."[/i]
    Được madeinviet sửa chữa / chuyển vào 13:11 ngày 26/08/2007
  6. madeinviet

    madeinviet Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/06/2007
    Bài viết:
    1.983
    Đã được thích:
    0
    CÚNG GIA TIÊN.
    (Gia lễ xưa và nay ?" Phạm Côn Sơn ?" NXB Thanh Niên 2005)
    Ngoài những ngày giỗ kỵ, còn gọi là "Húy nhật", trong một năm có nhiều lễ, theo thời tiết, gọi là "lễ tiết" áp dụng chung cho mọi nhà như:
    - Ba ngày Tết Nguyên Đán.
    - Lễ Thanh Minh hay còn gọi lễ mộ, lễ dẫy mả (thường ở tháng ba).
    - Đoan Ngọ (mồng 5 tháng 5).
    - Trung Nguyên, còn gọi Lễ Vu lan, mùa Vu lan, mùa báo hiếu (vào ngày rằm tháng 7). Ngày nay, người ta coi suốt tháng 7 là "mùa" để thể hiện việc báo hiếu qua các nghi thức cúng kiến lễ bái, đi chùa...
    - Trung Thu (rằm tháng 8).
    - Gạo mới (tùy theo đồng chiêm tháng tư, đầu mùa tháng 8).
    - Đầu mùa bánh trái.
    - Việc hiếu hỉ (trong các lễ hỏi, cưới).
    - Cuối năm còn có chạp ông bà và lễ Tất niên (vào ngày 12 tháng chạp và Tất niên vào ngày 25 tháng chạp, gọi là lễ đưa ông bà).
    Ngày xưa, ngoài những nhà nghèo khổ quá phải đành, những nhà đủ ăn hay tạm đủ ăn trở lên cũng luôn luôn giữ một mực nền nếp cúng ông bà, đủ mọi lễ trong bốn mùa một năm. Thông thường, người xưa cúng lễ vật như sau:
    1. Dâng cúng nhân dịp đầu mùa: Bánh trôi nước, bánh chay, dưa hấu, vải, nhãn, mãng cầu (na), cốm, hồng, cơm gạo mới với chim ngói...
    2. Ngày rằm mỗi tháng: Tùy theo gia đình, hoặc thắp nhang không thôi, chẳng có lễ vật, hoặc dâng cúng bánh trái, hoặc trà, trầu, rượu.
    3. Những trường hợp bất thường như:
    - Nhà có việc vui mừng như sinh con, cưới gả, mừng thọ, thi đậu, khao vọng (Ngày nay, kể cả việc trúng số hay làm ăn thành đạt lớn, được lợi nhuận vào không lường trước).
    - Gia đình có tang ma cùng với những giai đoạn làm ăn khó khăn, gặp lúc hoạn nạn, thất bại, vấp ngã trên đường đời và tạo dựng sự nghiệp.
    - Đi công vụ hay đi xa, đi thi cử hay từ xa mới trở về. Ngày nay có thêm việc mở cửa hàng kinh doanh... Trong những trường hợp này, người ta thường làm lễ cáo yết ông bà để tạ ơn hay cầu xin ông bà phù hộ che chở.
    Ngày xưa, người xưa thường cúng đầu heo, gà luộc, đĩa xôi hoặc hoa trái, và đơn giản hơn nửa là trầu rượu. Trong bất cứ lễ mặn hay lễ chay gì cũng có trầu rượu.
    Ngày nay, làm lớn có tiệc cúng kiếng, đơn giản thì thường bánh trái. Cúng lễ trọng thể nhất vào ba ngày Tết và ngày giỗ. Ngày nay có nhiều nhà thêm ngày Vu lan, mùa báo hiếu.
    Được madeinviet sửa chữa / chuyển vào 13:14 ngày 26/08/2007
  7. Chitto

    Chitto Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/01/2002
    Bài viết:
    5.198
    Đã được thích:
    13
    Đoạn này không chính xác.
    Các cụ xưa, 50 tuổi đã gọi là thọ, lên Lão. Từ 50 tuổi trở lên mà mất được gọi là Hưởng thọ, dưới 50 tuổi là Hưởng dương.
    Cách gọi mừng thọ cũng có quy tắc rõ ràng:
    - 50 tuổi, gọi là Thọ
    - 60 tuổi, gọi là Trung thọ
    - 70 tuổi, gọi là Trọng thọ
    - 80 tuổi, gọi là Thượng thọ
    - 90 tuổi, gọi là Đại thọ
    - 100 tuổi, gọi là Trường thọ
    Tác giả bài viết trên hình như không biết đến điều này, nên mới gọi là Thượng thọ tuốt.
    Trong dân gian, có thể người ta không biết, nhưng trong một bài viết có tính nghiên cứu thì thế là chưa đúng.
    Thêm một vài điều nữa của lễ thọ trong hoàng gia
    - Mừng thọ Vua gọi là Khánh thọ hay Vạn thọ
    - Mừng thọ Thái thượng hoàng gọi là Vạn thọ
    - Mừng thọ Thái hậu gọi là Thánh thọ
    - Mừng thọ Thái hoàng thái hậu là Tiên thọ
  8. madeinviet

    madeinviet Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/06/2007
    Bài viết:
    1.983
    Đã được thích:
    0
    CÁCH THỨC LẠY.
    (Gia lễ xưa và nay ?" Phạm Côn Sơn ?" NXB Thanh Niên 2005)​
    Ngày nay, cách lạy cũng đã được giản lược, hoặc vì không hiểu đúng phép người ta hành lễ một cách lấy có với những động tác vô nghĩa. Đã có xu hướng thay thế lạy bằng những cái "xá", nhất là những người ăn mặc Âu phục. Rồi đây, có thể tục lạy sẽ bị bỏ dần và mất hẳn trong mọi lễ nghi trong gia đình cùng ngay cả ở các đền chùa. Thiết tưởng cũng cần ghi lại một vài nét về tác động của cách lạy với hoài mong lưu lại một chút cơ sở về sau.
    Người lạy đứng thẳng, chắp tay lên cao ngang trán, cong mình xuống, đặt hai tay vẫn chắp xuống chiếu, cúi rạp đầu xuống gần bàn tay đang chắp (đây là thế phủ phục), cất đầu vào mình thẳng lên đồng thời co hai tay vẫn lên chắp trước ngực và co đầu gối bên phải lên, đặt bàn chân phải lên chiếu để sửa soạn đứng dậy, đem hai bàn tay vẫn chắp xuống tì vào đầu gối bên phải để đứng lên, chân trái đang quỳ tự nhiên theo cử động chót này cùng đứng thẳng lên. Người lạy, trước khi khấn đã lễ bốn lạy, và sau khi khấn từ tư thế quỳ đứng lên, đã qua như lễ được một nữa lạy, cho nên người ta thường nói lạy "bốn lạy rưỡi" là vậy.
    Văn Tế, Văn Khấn
    Văn tế, văn khấn thật ra chỉ là những lời nói sửa soạn trước cho được nghiêm chỉnh với việc dùng từ ngữ cẩn thận và cách thức kính cẩn trình bày lên các đấng thần thánh, với tổ tiên trong các lễ tế hay cúng giỗ. Cũng có một số bài đã trở thành những áng văn chương tuyệt tác, ý nghĩa thâm trầm được làm ra do những văn tài xuất chúng. Chẳng hạn như bài văn tế tiểu tường do thi sĩ Tản Đà làm giúp cho một vị tri huyện tế mẹ đã được dẫn ở đoạn trước. Thông thường văn tế, văn khấn chia làm ba đoạn chính:
    1. Đoạn thứ nhất gồm có ngày tháng, tên của người đứng ra chủ động việc cúng tế và nói về lễ vật.
    2. Đoạn thứ nhì gồm tên tuổi, hiệu, thụy các vị được cúng tế.
    3. Đoạn thứ sau cùng nói rõ mục đích của tế lễ, nhân dịp nào.
    Văn tế thường theo một thể riêng như thể phú. Văn khấn có thể viết theo văn vần, gồm một đoạn theo thể phú, hoặc bằng văn xuôi. Văn khấn cũng như văn tế, khi người hay giỏi chữ Nho thường dùng Hán văn, về sau người ta chuyển sang Việt văn. Cần nhất là hay, có ý nghĩa và được đọc một cách trang trọng. Điều cần lưu ý trong các lễ giỗ kỵ, văn khấn nên viết sẵn ra giấy. Người chủ lễ đứng trước bàn thờ, vái bốn vái rồi cầm giấy đưa ra trước mặt để đọc. Đọc xong vái năm cái. Tiếp theo, thân nhân trong gia đình vào lễ theo thứ tự.
    Sau đây là một bài văn khấn Nôm bằng thơ nhằm mục đích giúp đàn bà, trẻ con có thể học và dễ nhớ theo một thức giả xưa làm ra, dùng vào việc cúng lễ gia tiên:
    Ngày ... tháng ... năm, tín chủ là ... tuổi ... sinh quán tại ... trú quán tại ... cùng toàn gia.
    Cúc cung bái trước bàn thờ,
    Kính dâng lễ bạc hương hoa rượu trầu.
    Cùng là phẩm vật trước sau,
    Lòng thành tâm nguyện thỉnh cầu gia tiên.
    Cao tằng tổ khảo đôi bên,
    Cao tằng tổ kỷ dưới trên người người.
    Cô dì chú bác kính mời,
    Đệ huynh đồng thỉnh tới nơi từ đường.
    Cúi xin hưởng chút lễ thường,
    Và xin phù hộ khang cường toàn gia.
    Cẩn cáo

    Được madeinviet sửa chữa / chuyển vào 13:21 ngày 26/08/2007
  9. Chitto

    Chitto Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/01/2002
    Bài viết:
    5.198
    Đã được thích:
    13
    Trước có lần đi lễ mừng thọ một cụ 90 tuổi, tôi có nói là : "Mừng cụ thượng thọ 90".
    Thì một số người bắt nói lại là: Mừng cụ Đại thọ 90.
    Vì nếu nói Thượng thọ 90 là sai, là làm giảm sự tôn kính, không đúng lẽ.
  10. madeinviet

    madeinviet Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/06/2007
    Bài viết:
    1.983
    Đã được thích:
    0
    Cám ơn bác Chitto đã quan tâm và tham gia phản biện.
    Tôi kiểm tra lại trong quyển "Cơ sở Văn hóa Việt Nam" (Nhà Xuất bản Giáo Dục - 1999).
    Trang 93:
    ...Vinh dự tối cao của thành viên hàng giáp là lên lão. Thông thường tuổi lên lão là 60. Tuy nhiên, nhiều làng có lệ riêng quy định tuổi lên lão là 55 hoặc 50. Thậm chí có làng còn hạ tuổi lên lão xuống 49 (bởi lẽ 49 thường là tuổi hạn, tổ chức lên lão sớm cho chắc chắn). Lên lão là lên ngồi chiếu trên, được cả giáp cả làng trọng vọng. Cách tổ chức nông thôn theo "giáp" ra đời muộn, nhưng nó lại xây dựng trên nguyên tắc "trọng tuổi già"...
    Bác có thể tham khảo thêm ở đây:
    http://vi.wikipedia.org/wiki/N%C3%B4ng_th%C3%B4n_Vi%E1%BB%87t_Nam
    Cám ơn bác đã tham gia đóng góp phần của Hoàng Gia.
    Chúc bác một ngày vui!
    Mời bác tiếp.
    Được madeinviet sửa chữa / chuyển vào 13:46 ngày 26/08/2007

Chia sẻ trang này