1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Một số bài viết sưu tầm được về phong tục thờ phụng tổ tiên của người Việt.

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi madeinviet, 25/08/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. madeinviet

    madeinviet Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/06/2007
    Bài viết:
    1.983
    Đã được thích:
    0
    TỤC ĐỐT HƯƠNG.​
    http://www.vhdn.com.vn/news_detail.asp?catid=126&msgid=1838
    (VHDN) - Có ai trong đời mà không thắp lên một nén hương?
    Hồi còn bé, mỗi khi đứng trước ban thờ, bên mẹ tôi, trong những ngày giỗ, tôi không khỏi run run ngước nhìn làn khói tỏa ra từ cây hương, cảm thấy như có gì thần bí, màu nhiệm đang vây quanh mình. Dường như ông bà tổ tiên trên ban thờ đang dần hiển linh, dạy bảo, dặn dò và răn đe bên tai tôi. Khi hương tắt bao giờ cũng đem lại cho chúng tôi niềm vui phấn khích nhưng có lẽ không một ai dám nói ra, bởi đây là lúc hạ mâm và chúng tôi được ăn uống thoả thuê. Rồi khi những ngày trời đông rét mướt tầm tã mưa đi qua nơi chùa chiền, trong tiếng mõ đều đều và mùi hương thoang thoảng, tôi thường co mình lại bước thật nhanh hơn. Lại những đêm hè không trăng sao nơi bãi tha ma đồng không mông quạnh, ai đó đặt nén hương le lói làm lũ chúng tôi quáng quàng ôm nhau vừa chạy vừa la hét mà mùi hương thoang thoảng đuổi theo mỗi bước chân càng thấy rợn hơn.
    Tôi lớn lên, mùi hương theo tuổi, linh thiêng ám ảnh lạ lùng...
    Tục thắp hương xuất phát từ Tây Vực và đi vào đời sống con người Việt Nam không biết tự bao giờ. Người ta thắp hương ở Chùa, Đình, Đền, Phủ, Miếu, Tháp, Am... để cầu mong Thần Linh, Thánh, Trời, Phật, Mẫu phù hộ độ trì và mang đến điều tốt lành. Trong mỗi gia đình xưa thường có câu đối: "Tiên tổ anh linh, con cháu nhà cửa thịnh vượng; Tuế thời tưởng niệm, khói hương nghi ngút dài lâu". Mỗi khi mùi hương lan toả là lúc con người ta như trầm tĩnh lại, hồi tưởng về quá khứ xa xăm phảng phất mơ hồ. Mùi hương làm cho hồn người có cảm giác đang giao hòa với quá khứ, nhất là trong những ngày Lễ, Tết. Từ chiều tối 30, ngày củ mật, hương nhang đã lan khắp không gian. Thường khi mưa xuân lất phất, khí trời ẩm ướt, muốn cho hương khỏi tắt, người ta thường dùng hương sào, hương vòng. Hương lộc là hương những người đi lễ đầu năm lấy ở các đình chùa về thắp tại bàn thờ tổ tiên hoặc bàn thờ thổ công ở nhà, thay vì hái lộc cành cây. Người ta tin rằng hương lộc của Thánh, Phật mang lại sự no ấm, phát đạt. Đang lúc thắp hương mà gặp cơn gió, cả cây hương sẽ cháy bùng lên thành ngọn lửa, và người ta tin rằng ấy là điềm tốt, báo trước sự may mắn quanh năm. Nhìn những vị chân tu ngồi gõ mõ, miệng tụng kinh, mắt lim dim trong khói hương trầm nhẹ tỏa, có cảm tưởng như vị sư nọ đã hòa nhập cõi bồng lai. Những người giàu lòng nhân đức, thấy những nấm mộ vô chủ ven đường không khỏi mủi lòng cắm nén hương. Hương khói sẽ làm ấm lòng vong hồn người nơi cõi âm, như một câu Kiều đầy trắc ẩn:
    Rằng: Sao trong tiết thanh minh
    Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?
    Những ngôi mộ thường xuyên được hương khói là những ngôi mộ có chủ, vong hồn người quá cố luôn luôn được gần gũi với dương gian. Người Việt Nam coi việc thắp hương là để vong hồn của những người thân đã mất hiện về, lẩn quất đâu đây bên mình. Như trong lễ xá tội vong nhân, giữa trời đất một mâm cỗ cúng được bầy lên, hương khói nghi ngút dành cho những vong hồn không nơi nương tựa. Cũng lúc ấy, mỗi người dường như cảm nhận được sai sót của mình trong cuộc sống và mong muốn được ăn năn. Những nhà khá giả thường cầu kỳ thắp hương trong lư đồng. Những người nghèo, những kẻ lang thang, trú mình nơi đầu đường xó chợ, cũng dùng ống bơ đổ đầy gạo để cắm hương, khấn bái.
    Cõi linh không của riêng ai là vậy.
    Trong cuộc sống, thông thường người ta cũng hay dùng hương khói để nói về những điều thiêng liêng, bí ẩn, khó có thể tâm sự cùng ai. "Lòng thành thắp một nén hương". Chuyện kể rằng có một ông tướng về hưu lập một ban thờ ngay tại nhà mình và lấy ngày 27/07 hằng năm để hương khói cho các chiến sĩ đã tử trận. Một phụ nữ miền Nam tình nguyện đi tìm hài cốt của đồng đội mà hành trang đem theo chỉ là nửa ba lô hương. Nhờ có ?okhói hương báo mộng? mà người phụ nữ đó đã tìm được rất nhiều hài cốt đồng đội của mình. Rồi là chuyện của vài ba kẻ lầm đường lỡ bước, dùng nén nhang để quyết với lòng mình trở về cõi thiện? Với cuộc đời, hương khói là như thế, giản dị, gần gụi nhưng lại vô cùng thiêng liêng. Hà Nội từ xưa đã có hẳn một con phố làm và bán hương: phố Hàng Hương. Trong nghệ thuật, nhà văn Nguyễn Tuân có tác phẩm rất nổi tiếng của mình "Chiếc lư đồng mắt cua". "Đốt lò hương cũ so tơ phím này" là câu thơ của Nguyễn Du nói về sự linh thiêng của khói hương.
    Giờ đây, hương khói đã có phần không giữ được hồn xưa. Khắp nơi khắp chốn người ta mượn hương mượn khói làm điều mê tín dị đoan. Ở những ngôi đền, chùa, nơi mà người người nối nhau đến cầu tài cầu lộc, mùi hương nồng nặc cay mắt, hoà quyện với mùi vị toả ra từ những mâm thức ăn đầy tú ụ, làm cho người ta có cảm giác những thói tục hiện hữu đang lấn át hết cả sự linh thiêng. Lại những ông đồng bà cốt thường bầy biện ban thờ rắm rối, rồi đốt hương nhang mờ mịt tạo bầu không khí hư ảo, huyền bí để dễ bề "xuất thần?!? Bước chân vào những cửa hàng cửa hiệu ?okhông đúng lúc", chủ hàng vo mẩu giấy đốt vía kèm theo nén hương thắp lên ban thờ thổ công, khách hàng cũng nên biết điều mau mau rời khỏi, nếu không muốn bị lườm bị nguýt. Rồi người ta lấy hương khói đặt nơi đất lưu không để biến thành "đất thánh" của mình. Hương khói tràn lan như thể, có lẽ khói xe máy chưa chắc đã làm con người ta văn minh hơn khói hương(!).
    Nhưng dầu sao mặc lòng, việc dâng hương tự ngàn xưa vẫn là một nghĩa cử văn hoá, thuộc về đạo lý tín ngưỡng, giàu bản sắc dân tộc Việt Nam. Những gì nhất thời rồi sẽ qua đi. Tục đốt hương sẽ còn đó như phép màu nhiệm linh thiêng để kết nối, giao hòa tâm hồn của con người muôn đời, như một nét văn hoá tâm linh trong cuộc sống cộng đồng.
    An Thư

    http://forum.quancoconline.com/forum_posts.asp?TID=490
    Tra sách Vân Ðài Loại Ngữ của Lê Quý Ðôn (trang 184), ta đọc một đoạn biên khảo rất kỹ về nguồn gốc của sự đốt hương. Ðại khái thì ta biết rằng thuở xa xưa, người Tàu lấy lửa đốt củi thui các con vật gọi là vật hy sinh, rồi sau thì bắt chước phong tục đốt hương từ Tây phương tức là Ấn Ðộ. Việt Nam là một nơi mà tục đốt hương có rất sớm với sự du nhập của Phật giáo. Lê Quý Ðôn viết:
    Sách Vân Lộc Mạn sao chém: "Sách Lễ Ký nói: "Khi tế trời phải đốt củi ở trên giao đàn (gọi là thái đàn). Sách Chu Lễ nói: "Ðốt củi thui trâu" nghĩa là để cầu thần. Ðời sau không đốt củi, lại đốt hương. Hương là do phương Tây sản xuất. Nhà Phật khi hành lễ cũng đốt hương cho được thanh tịnh, nên khi làm phép thì đốt hương niệm chú. Các đạo sĩ cũng đốt hương tẩy uế. Nho giáo thì trái lại.
    Nay tế thánh Khổng tử và tế thần xã tắc thì rước thần xong, trước khi dâng lụa, phải dâng hương ba lần. Lễ gia không làm thế, hoặc chỉ nơi đô ấp mới làm mà thôi.
    Sách Minh Chí chép: Vua Thái Tổ xuống lệnh hàng tháng cứ mồng một và ngày rằm, từ quan tế tửu trở xuống đều phải làm lễ thích thái, từ các quan quận huyện trở xuống phải đến nhà học làm lễ dâng hương.
    Nay xét, danh nho đời Minh là Tống Liêm có nói: "Ngày xưa cầu thần, khi đã dâng lễ vật rồi là đốt cỏ tiêu cùng mỡ chiên và cơm (chiên hương), nhưng nay thì thắp hương cho giản tiện.
    Khâu Tuấn nói: "Tế lễ để tỏ lòng thành kính, chứ không cối ở lễ vật. Lễ phải tùy nghi, sao đúng nghĩa là được; đừng câu nệ lấy lễ vật ngày nay để cúng thần đời trước".
    Kinh Thi có câu: "Thủ tiêu tế chi" (lấy cỏ tiêu và mỡ dê tế). Sách Lễ Ký nói: "Rót rượu xuống đất để giáng thần thì dùng rượu nghệ cho thơm" chớ không đốt hương. Lưu Hướng làm bài minh nói cái hỏa lò Bắc Sơn chỉ để đốt hương, chớ không dùng để tế".
    Ðời Hán Vũ Ðế, vua nước Hồn Da (Hung Nô) đầu hàng, bắt được pho tượng bằng vàng ở cung Cam Tuyền, khi tế không dùng trâu bò, chỉ đốt hương lễ bái. Tục đốt hương bắt đầu từ đấy.
    Sau đây là bằng chứng đất Việt (Giao Châu) đã du nhập trực tiếp đốt hương từ Ấn Ðộ, chứ không phải qua ngõ Trung Hoa và ở Trung Hoa thì chỉ có vua và các quan mới có quyền làm việc tế lễ, còn ở đất Giao Châu thì "nhà tư" người dân đã bắt đầu cúng tế từ lâu:
    "Trương Tân làm thứ sử Giao Châu, đốt hương và đọc những sách tà ma Vu Sát thì làm tịnh xá (nhà tư) để đốt hương. Ðó đều là các nhà tư dùng hương đốt, chớ không phải của cả nước dùng hương thờ thần".

    VH sưu tầm

    Được madeinviet sửa chữa / chuyển vào 22:25 ngày 05/09/2007
  2. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Trong Kinh Thánh Cựu Ước, tức là những cuốn kinh đầu tiên
    của các đạo DoThái, Công giáo (Giêsu), Tin lành (Giêsu), và
    đạo Hồi, thì đã có đốt động vật làm của Tế Thần (Chúa) và
    xông hương .
    Không biết so với Ấn độ và Do thái thì ai học ai ?
  3. maybavi

    maybavi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2005
    Bài viết:
    4
    Đã được thích:
    0
    Bạn ơi ! cho mình hỏi 1 chút . Có bạn nào hiểu về ý nghĩa của việc thắp hương ví dụ như tại sao người ta thắp một nén, ba nén .. chín nén. Giúp tôi nhé
  4. madeinviet

    madeinviet Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/06/2007
    Bài viết:
    1.983
    Đã được thích:
    0
    Tôi sẽ thử tìm kiếm thông tin và gom lại trong một bài viết. Nói chung số hương thắp phải là số lẻ vì đây là số mở (số dương). Còn lạy người quá cố thì số lạy là chẵn.
    Thông thường không có sự giải thích cụ thể chung.
    Vả lại có giải thích cũng sẽ có sự khác biệt giữa các vùng miền.
    Theo tôi nghĩ, thông thường chỉ cần một cây thôi là đủ. Ngoài ra nếu cần, tại chỗ thắp hương sẽ có người hướng dẫn cụ thể.
    Riêng trong lễ của Phật giáo có nói đến ý nghĩa của 3 cây hương như tôi đã trích ở trên.
  5. madeinviet

    madeinviet Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/06/2007
    Bài viết:
    1.983
    Đã được thích:
    0
    Câu bác hỏi em chưa tìm được câu trả lời thích đáng. Nhưng người Việt Nam và Trung Quốc bắt chước phong tục thắp hương của người Ấn Độ.
    Còn vụ xông hương thì hình như khác thì phải.
    Theo em biết Việt nam mình nổi tiếng với loại trầm Kỳ nam, thị trường tiêu thụ lớn nhất của loại này là vùng Trung Đông. Nghe nói hỗn hợp giữa Trầm và Long Diên hương là loại thuốc kích thích của họ. Khác nhau giữa nam và nữ là tỷ lệ dùng.
  6. madeinviet

    madeinviet Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/06/2007
    Bài viết:
    1.983
    Đã được thích:
    0
    CÁT KỴ.​
    Kể từ năm thứ ba trở đi, là ngày giỗ thường, còn gọi là cát kỵ, hoặc ngày giỗ lành. Qua hai năm với tiểu tường và đại twòng, người chết còn nằm dưới huyệt hung táng, nghĩa là táng lúc đầu tiên. Sau ngày Đại từong, con cháu làm lễ cát táng, tức là lễ bốc một, nhặt hài cốt của người chết sang vào tiểu nhỏ để táng ở một nơi khác. Việc táng này gọi là cát táng. (note: phong tục này chỉ có ở miền Bắc, không có ở miền Nam)
    Những ngày giỗ sau lễ cát táng gọi là cát kỵ; vì sự tụ họp của con cháu để tưởng niệm người đã khuất chính là một điều tốt đẹp. ngoài ra, trong thời gian hung tán, chon cháu còn lo sợ vong hồn người khuất bị trùng quý quấy nhiễu, còn khi đã cát táng, không còn trùng quỷ nào có quyền hành tới người chết nữa.
    (Tục thờ cúng của người Việt - Bùi Xuân Mỹ - NXB VHTT).
  7. madeinviet

    madeinviet Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/06/2007
    Bài viết:
    1.983
    Đã được thích:
    0
    Tục thờ cúng tổ tiên: Chén nước trong soi lòng trinh bạch ​
    Thứ ba, 6/11/2007, 07:00 GMT+7
    Khi tiến hành bài nghiên cứu này, Kate Jellema đang học tiến sĩ tại khoa nhân loại học và lịch sử trường Đại học Michigan. Bài nghiên cứu đầy đủ và cũng là luận văn của bà là ?osự tưởng nhớ, lịch sử và đạo đức trong thời Đổi mới ở Việt Nam?. Để hoàn thành nó, bà phải mất hơn hai năm tiến hành nghiên cứu ở miền Bắc Việt Nam, bao gồm sáu tháng sống với một gia đình thuộc làng Đình Bảng, tỉnh Bắc Ninh. Hiện tại, Kate đang sống ở Bắc Vermont, Hoa Kỳ, nơi bà đang là giảng viên khoa Nhân loại học và Nghiên cứu về các nước Asean - trường Đại Học Marlboro.
    [​IMG]
    Những đóa hoa là thứ không thể thiếu trong mâm lễ thờ cúng... ​
    Dâng hương cũng là hành động cơ bản nhất, thường được xem là một trong những việc làm ý nghĩa đối với việc thờ cúng của người Việt Nam. Cụm từ ?ovới tấm lòng thành kính, tôi xin dâng nén hương này ?? từ lâu đã trở thành một nhân tố tự nhiên trong đời sống tôn giáo Việt Nam, tác giả của ?oDâng hương?(i), vốn là tín đồ Phật giáo, viết: ?oMặc dù đơn giản nhưng cụm từ ngắn này chứa đựng tất cả những ý nghĩa văn hóa và đạo đức giúp chúng ta trở thành một con người có đạo đức ở Việt Nam?.
    Mỗi ngày, khói hương được dâng cho Đức Phật, Thánh Mẫu, Bà Chúa Kho và Vua Hùng thơm ngát thoảng đưa trong những ngôi chùa cho thấy sự phục hưng tôn giáo của thời kỳ ?ođổi mới? ở Việt Nam đang diễn ra mạnh mẽ, không những trên những bàn thờ của các gia đình mà còn ở các nhà thờ họ. Khoa học và chính quyền cũng đã nỗ lực rất nhiều để phân loại ?oviệc thờ cúng tổ tiên? ở Việt Nam. Đó là một tôn giáo, một tín ngưỡng, sự mê tín hay là một đạo lý?
    Trong bài này, tôi đi sâu khám phá việc thờ cúng tổ tiên của những người dân sống ở vùng châu thổ sông Hồng. Đây cũng là một bài nghiên cứu có ý nghĩa về đạo đức, xã hội và tôn giáo. Tôi đã tiếp xúc và mô tả chi tiết hai trường hợp được xem là điển hình của việc ?othờ cúng tổ tiên?, hay ?onhớ ơn ông bà?. Tôi quen với hai trường hợp này trong suốt thời gian làm luận án tiến sĩ ở khu làng giàu truyền thống có tên làng Đình Bảng (thuộc Bắc Ninh). Tại đây, tôi sống với một gia đình dòng họ Nguyễn Thạc suốt sáu tháng trong năm 2001. Và khi sống tại ngôi làng này, tôi có dịp chứng kiến những hành động thể hiện việc ?othờ cúng tổ tiên? - một phần trong đời sống hàng ngày của người địa phương.
    Những người làng Đình Bảng xem việc thờ cúng tổ tiên là một ?otruyền thống? và nhấn mạnh mối liên hệ với ?ongày xưa?. Họ công nhận truyền thống không bao giờ giữ nguyên hoàn toàn mà luôn có sự đổi mới, thậm chí được tái tạo bởi các thế hệ kế tục nó. ?oNhững người lớn tuổi ủng hộ thế hệ trẻ phát huy truyền thống ông cha để lưu giữ truyền thống ấy đến muôn đời.
    Trong phần thứ hai của bản nghiên cứu này, sau khi tôi mô tả về việc thờ cúng tổ tiên ở làng Đình Bảng ngày nay thì tôi sẽ quay lại, đặt nó vào hoàn cảnh lịch sử, phân tích chiến tranh, cách mạng và công cuộc cải cách đã tạo nên cách nhớ ơn tổ tiên còn tồn tại đến ngày nay qua các thế hệ ở làng Đình Bảng như thế nào.
    Tôi đã chọn hai trường hợp, trong cùng một ngôi làng để nghiên cứu những thói quen trong việc thờ cúng tổ tiên của người dân. Sự thành tâm và tận tụy của một người đàn bà cô đơn trong chính ngôi nhà mình là một ví dụ cho thấy sự công phu của một tôn giáo tập trung chủ yếu vào sự tu dưỡng đạo đức, sự tưởng nhớ người đã khuất và những mối liên hệ riêng tư, thân thiết của một cá nhân với thế giới tâm linh.
    Ngược lại, sự tập hợp lại các cá nhân của dòng họ Nguyễn Thạc và một vài dòng họ khác cho thấy các tổ chức xã hội đang đóng một vai trò tích cực trong đời sống cộng đồng. Thường các buổi lễ có liên quan đến cả dòng họ thì tất cả những người cùng dòng họ này đều tập trung ở nhà thờ họ, còn nếu những buổi lễ chỉ thuộc phạm vi của một gia tộc thì sẽ tiến hành dưới hình thức những đám giỗ, tại các gia đình.
    Thờ cúng tổ tiên và sự thành tâm của từng cá nhân
    Mỗi buổi sáng, người phụ nữ tên Thúy thắp 3 nén hương, đứng trước bàn thờ đặt trên một cái tủ gỗ cao, được xem là bàn thờ tổ tiên. Người đàn bà khoẻ mạnh, tóc hoa râm này cắm hương vào bát hương bằng gốm màu trắng với những hoa văn xanh và đặt hoa quả vào một cái đĩa nhựa. Bao giờ bà cũng hài lòng với sự sắp xếp của mình. Bà lùi lại, chắp tay trước ngực, nhắm mắt và cúi đầu. Bà chậm rãi vái ba lần trước bàn thờ, rồi đứng im vài phút với đôi mắt khép, tay vẫn chắp trước ngực và khấn thầm những điều mình cầu xin.
    Thông thường, mỗi ngày bà Thúy thường tiến hành những việc này đều đặn một mình. Nhưng một buổi sáng tôi đến thăm bà sớm, và bà nói rằng bà không để ý đến việc tôi có chứng kiến những việc bà đã làm hay không.
    Bà im lặng chờ đợi trong khi những cây hương cháy. Đây là khoảng thời gian được xem là lúc tổ tiên thưởng thức đồ thờ cúng. Một vài người phụ nữ, như bà Hoàng, bà chủ nhà của tôi ở làng Đình Bảng, một người luôn luôn bận rộn và mệt mỏi, rời bàn thờ trong suốt thời gian chờ đợi để trở về làm nốt một vài việc nhà, và bà chỉ quay trở lại khi biết hương đã tàn. Nhưng bà Thúy lại thích ngồi gần đó, như một sự hiện diện với cha mẹ mình. Hương cháy từ trên xuống dưới, những nén hương tỏa thơm ngát, khói hương cuộn thành vòng tròn cho đến khi chúng cháy hết và tàn rơi xuống đống tro màu xám trong bát hương. Khi hương đã hoàn toàn tắt, bà Thúy quay lại đứng trước bàn thờ, chân khép lại, lưng thẳng, đầu hơi cúi, khuỷu tay nâng lên và hai tay chắp trước ngực, bà từ từ nhắm mắt lại và khuôn mặt lúc này ánh lên sự điềm tĩnh tự bên trong.
    Bà Thúy vái trước bàn thờ 3 vái, sau đó yên lặng một lát trước khi mở mắt và thả tay xuống. Đồ cúng bây giờ có thể được chuyển từ bàn thờ xuống và chia cho mọi người.
    [​IMG]
    Mùa về trên Đình Bảng​
    Bà Thúy sinh ra năm 1941 ở Đình Bảng. Trước cách mạng, cha bà phục vụ cho Pháp, nhưng những gì ông kiếm được không đủ để bảo đảm cuộc sống gia đình trong thời điểm lộn xộn đó. Cuộc sống của họ trở nên gieo neo trong suốt thời kỳ đói kém giữa những năm 1940, sau đó càng trở nên túng bấn trong suốt cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946-1954), khi quân đội Pháp đóng quân ở Đình Bảng để chiếm lợi thế gần Hà Nội.
    Quân đội Pháp đã san bằng ngôi làng bằng xe ủi và đóng quân ở các vùng lân cận, bắt dân địa phương nhập vào những ngôi nhà còn sót lại. Bà Thúy vẫn còn nhớ cha bà đã tham gia phong trào chống thực dân như thế nào, ông dành thời gian cho các buổi họp chính trị và phiên họp chiến lược, trong khi bà ở nhà và giúp mẹ chăm sóc những người ở cùng trong ngôi nhà chật hẹp, ngôi nhà đã nuôi ba đứa em trai và hai em gái của bà. Mặc dù mẹ bà rất ít khi được gần chồng trong những năm ấy nhưng bà vẫn luôn nghĩ đến ông, và trìu mến gọi ông mỗi buổi tối khi ông trở về nhà ăn cơm, và khi ấy bà sẽ chuẩn bị những món ăn ông thích.
    Khi chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất đã chuyển sang cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, bà Thúy đã hoàn thành một khóa học sư phạm và rốt cuộc đã chuyển sang làng khác cách nhà khoảng 20km để dạy học. Bà đem lòng yêu một thầy giáo trẻ trong trường, và họ phải kết hôn nhanh chóng trước khi ông gia nhập quân đội.
    Buồn thay, ông đã bị giết trong năm đầu tiên sau khi gia nhập quân ngũ. Đau buồn nhưng quyết tâm đấu tranh vì độc lập tự do, bà Thúy đã kết hợp công việc ở trường với sự ủng hộ cho cuộc kháng chiến từ địa phương và giúp đỡ mẹ mình chăm sóc người cha đã rất ốm yếu. Vào các buổi tối, bà thường đi xe đạp 20km về làng Đình Bảng, và quay lại trường khi bình minh lên. Một lần, một quả bom của một máy bay Mỹ rơi xuống gần bà đến nỗi bà bị bật tung khỏi chiếc xe đạp và bay xuống hào, thoát chết. Trong suốt những năm đó, mệt mỏi liên tục và không đủ thức ăn để ăn, bà trở nên hốc hác và mệt mỏi. ?oTôi đã từng là một đứa con gái đầy đặn và cuốn hút với đôi má hồng hào?, bà nói với tôi như vậy, ?onhưng sau đó trong chiến tranh tôi đã đánh mất đi vẻ đẹp của mình. Tôi trở nên quá gầy gò! Cuộc sống lúc đó hết sức khó khăn. Và khi chiến tranh kết thúc thì tôi đã quá già?. Sau chiến tranh, bà Thúy không bao giờ kết hôn nữa và cũng không có con. Bà dành thời gian cho việc dạy học ở trường và cho ngôi nhà của mình, tiếp tục chăm sóc mẹ già cho đến khi bà mất năm 1993.
    Khi tôi gặp bà Thúy, thì bà đã bước vào một thời kỳ mới, hạnh phúc hơn, và đã tìm thấy rất nhiều cách không để cho mình rơi vào cảm giác cô độc. Bà nghỉ hưu và trở thành một thành viên tích cực tham gia vào các hoạt động tôn giáo và xã hội của làng. Bà giúp họ tổ chức các buổi lễ đặc biệt, bà dạy các bài học thể dục cho những người già và một năm bà tiến hành một kỳ nghỉ với một nhóm bạn bè phụ nữ. Trước khi mẹ bà mất, bà và anh chị em ruột của mình góp tiền để xây cho mẹ một ngôi nhà mới trong làng. Bây giờ bà Thúy sống trong một ngôi nhà nhỏ, hai tầng rất thoải mái, sống một mình nhưng luôn có sự hiện diện của bố mẹ bà trên bàn thờ. Bây giờ và mai sau bà vẫn có những người bạn luôn ?oquấy nhiễu?, đó là các cháu trai và cháu gái của mình.
    Việt Nam có một hệ thống quan hệ họ hàng đối ngẫu. Hình mẫu phụ hệ (theo họ cha) hay ?otrọng nam? cùng tồn tại song song với hình mẫu ?onam nữ bình quyền?, là hình mẫu trong đó người phụ nữ có được sự tôn trọng từ xã hội và có quyền đưa ra những quyết định quan trọng như nam giới. Việc thờ cúng tổ tiên, đặc biệt khi nó diễn ra ở nhà thờ họ, thường gắn với hình mẫu ?otrọng nam? và đánh dấu sự phục tùng của đứa con trai đối với cha và của cá nhân người đàn ông với dòng họ. Ở phương diện này, người phụ nữ phải ?oxuất giá tòng phu, phu tử tòng tử?. Chúng ta có thể hiểu sự cống hiến cho tổ tiên của những người đàn bà như bà Thúy và những người phụ nữ ở độ tuổi của bà, cả có chồng và không chồng ở làng này như thế nào? Đối với nhiều người, họ làm thế để thể hiện đạo làm con và lòng yêu thương của mình với các bậc cha mẹ, những người đi trước và mong muốn để duy trì mối quan hệ với cha mẹ mình thậm chí khi họ đã chết.
    Đối với bà Thúy, việc thờ cúng ở bàn thờ mỗi buổi sáng là một mối quan hệ không tương ứng nhưng hết sức thân mật. Từ thời điểm bố mẹ bà bắt đầu sinh ra bà, chịu đựng nỗi đau thai nghén, sinh đẻ, nuôi dưỡng, giáo dục bà, họ đã ban cho bà một món quà vô giá, đó là ?oơn sinh thành?, nuôi dưỡng và giáo dục. Suốt cuộc đời, bà Thúy biết ơn cha mẹ, bà yêu kính và đền đáp công ơn bằng sự quan tâm, chăm sóc của bà đối với cha mẹ mình khi họ ốm đau và thậm chí khi hai người đã sang thế giới bên kia.
    Mặc dù thời nay, đồ cúng đã bị thay đổi đi nhiều nhưng những người làng đã nói với tôi rằng nội dung của đồ cúng không quan trọng lắm, cái quan trọng nhất là ?otấm lòng thành? nhớ ơn tổ tiên. Nhiều người làng cũng cho tôi biết thắp hương chỉ là một trong những hành động thể hiện việc ?onhớ ơn tổ tiên?. Bà Thúy giải thích với tôi: ?oNếu bạn nghèo, thì bạn có thể chỉ thắp hương. Trái cây, xôi, cơm và tất cả những thứ đồ cúng khác là những đồ được thêm vào?. Những người khác cũng nói, nếu một gia đình quá nghèo, một cốc nước và một nén hương là đã đủ để tưởng nhớ những người đã mất...
    ----------------------------------------------
    (i) Tác giả Thích Thanh Duệ, Quảng Tuệ và Tuệ Nhã, Dâng hương: Tập tục và nghi lễ (Hà Nội, NXB Văn hóa - Thông tin, 1995), trang 5.
    Tác giả: Kate Jellema
    Hạ Anh (VieTimes) dịch
    (Còn nữa)
    (Nguồn VieTimes)
    Được madeinviet sửa chữa / chuyển vào 18:51 ngày 07/11/2007
  8. madeinviet

    madeinviet Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/06/2007
    Bài viết:
    1.983
    Đã được thích:
    0
    Tục thờ cúng tổ tiên: Chén nước trong soi lòng trinh bạch (Phần II) ​
    Thứ năm, 8/11/2007, 07:00 GMT+7
    ... "Việc thờ cúng tổ tiên có phải để biểu hiện lòng hiếu thảo của đạo làm con hay chỉ là một niềm tin vào ?onăng lực huyền bí? của người chết? Tất cả những người tin đều cho rằng việc thờ cúng tổ tiên là một hệ thống đạo đức, và 2/3 trong số đó nói rằng họ cũng tin ông bà có khả năng siêu nhiên để tác động vào cuộc sống thường ngày, đi theo, bảo vệ con cháu, những người thân yêu của họ..."

    Ông bà luôn luôn đi theo và bảo vệ con cháu...


    [​IMG]
    Nguồn ảnh: Viettribune​
    Khi tôi hỏi bà Thúy về mối quan hệ của người sống và người chết, bà Thuý giải thích rằng khi ông bà còn sống, họ sống khôn; Sau khi chết, họ trở nên thiêng, ?osống khôn chết thiêng?: Ông bà luôn ủng hộ cho con cháu mình và khi con cháu thỉnh cầu một điều gì đó thì tất nhiên ông bà sẽ giúp đỡ.
    Bà Thúy tin rằng ông bà có thể bảo vệ được con cháu tại những thời điểm họ gặp nguy hiểm. Trong suốt cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, không lâu sau khi bố bà Thúy mất, một trong những người anh trai của bà đã nhập ngũ và sau đó mất liên lạc với gia đình. Bà Thúy nói rằng đó là khoảng thời gian khó khăn nhất, nhưng bố bà đã đóng một vai trò chủ chốt, không chỉ bảo vệ người anh đã nhập ngũ mà còn là cầu nối cho các thành viên của gia đình có thể liên lạc với nhau.
    Bà Thúy nhìn tôi với một cái nhìn sâu sắc và nhắc lại câu nói mà trước đây tôi đã từng được nghe: ?oDù con cái có đi đến bất cứ nơi nào thì bố mẹ luôn theo đến đấy?. Bà gật gù: ?oĐúng, ông bà luôn luôn đi theo, bảo vệ và giám sát con cháu mình. Họ luôn che chở cho con cháu mình?. Bà Thúy nói với tôi rằng bà thường nói chuyện với bố mẹ ở ngoài mộ và ngay trên chính bàn thờ trong nhà mình. Bà thường kể cho họ nghe những sự kiện của gia đình và xin họ những lời khuyên.
    Vậy, việc thờ cúng tổ tiên có phải để biểu hiện lòng hiếu thảo của đạo làm con hay chỉ là một niềm tin vào ?onăng lực huyền bí? của người chết? Tất cả những người tin đều cho rằng việc thờ cúng tổ tiên là một hệ thống đạo đức, và 2/3 trong số đó nói rằng họ cũng tin ông bà có khả năng siêu nhiên để tác động vào cuộc sống thường ngày, đi theo, bảo vệ con cháu, những người thân yêu của họ.
    Khi tôi đến làng Đình Bảng, bà Thúy và các anh em mình đã góp tiền để xây cho cha mẹ một ngôi mộ đẹp và rất khang trang. Khi đã khá thân nhau, bà rủ tôi đi thăm mộ và cho phép tôi chụp ảnh. Chúng tôi đi xe đạp đến khu nghĩa trang, một vùng đất có rất nhiều ngôi mộ được xây bằng xi măng ở cạnh những cánh đồng lúa, được sắp xếp theo logic của môn bói đất (bói bằng những hình vẽ trên mặt đất).
    Mặc dù có nhiều ngôi mộ mới được tu sửa, nhưng ngôi mộ của bố mẹ bà Thúy là một công trình xây dựng lớn nhất, đẹp nhất ở khu nghĩa trang. Sự giản dị, kiểu kiến trúc có sự kết hợp đá cẩm thạch đen giống với lăng chủ tịch Hồ Chí Minh ở Hà Nội. Bà Thúy nói với tôi: Ngôi mộ màu đen vì đó là màu của sự tang tóc, chết chóc và thương tiếc. Nếu dùng màu khác sẽ không đẹp và không phù hợp.
    Để chuẩn bị chụp ảnh, bà Thúy bỏ dép và leo lên trên ngôi mộ, đánh xi cho đến khi bề mặt nền đá hoa sáng lên, tiếp theo, bà dọn sạch cỏ dại mọc xung quanh, sắp xếp lại mọi thứ gọn gàng, ngăn nắp. Sau đó bà búi lại tóc, đứng thẳng người, thắp hương và bảo tôi chụp ảnh khi bà đang cúi đầu khấn.
    Ngay sau khi lấy ảnh về, bà Thúy chọn một cái, phóng to, treo trong phòng khách với mục đích cho khách khứa hoặc cho bố mẹ mỗi buổi sáng đến thăm bàn thờ, qua khói hương sẽ nhìn thấy bức ảnh ngôi mộ rộng rãi của mình và để họ biết rằng họ có một đứa con gái vẫn luôn quan tâm đến họ.
    ?oRất nhiều người tự hào vì ?onó? là ngôi mộ đẹp nhất làng?, bà Thúy nói. Và ngôi mộ của bố mẹ bà Thúy còn chứa đựng một vài thông điệp:
    Đầu tiên, nó cho thấy sự mẫu mực, trách nhiệm của một người con đối với bố mẹ mình, đó là bản chất tốt đẹp của con người.
    Thứ hai, để xây dựng ngôi mộ này bà đã phải bỏ ra một số tiền không ít, chứng tỏ sự thành công về kinh tế và bản chất hiếu thảo quên mình vì người khác của bà.
    Thứ ba, cứ cho rằng hiện tại bà chỉ sống với một số tiền trợ cấp hàng tháng của chính phủ và một số công việc lặt vặt thì ngôi mộ lớn kia cũng chứng tỏ với mọi người rằng bà có một mối quan hệ xã hội rất tốt, một gia đình sống có tình nghĩa và hào phóng.
    [​IMG]
    Cuối cùng, ngôi mộ cũng cho thấy bà có một mối quan hệ tốt đẹp với những người đã khuất. Ngôi mộ chính là nơi trao đổi tình yêu giữa bố mẹ và bà.
    Gần cả cuộc đời bố mẹ bà Thúy đã phải sống trong nghèo đói và chiến tranh, đặc biệt bố bà chết trẻ và xa rời thế giới mà không một lần được nhìn thấy cuộc sống hòa bình. Bây giờ các anh em bà đều có cuộc sống khá sung túc, bà Thúy có một ngôi nhà mới, khang trang, ăn no, mặc đẹp và hàng năm còn tổ chức đi nghỉ mát cùng bạn bè. Bà cũng như những người sống sót sau cuộc cách mạng nhận thức được rằng, nền hòa bình mà họ đang được hưởng là nền hòa bình được xây dựng trên nước mắt và xương máu của cha mẹ, của những người đi trước. Do vậy, bà tìm mọi cách để bù đắp cho bố mẹ bằng cách cố gắng ?onâng cao cuộc sống của họ dưới suối vàng?, bà chắc chắn rằng đời sống vật chất của bố mẹ không lạc hậu hơn so với đời sống trên dương thế của bà.
    Sau buổi thăm mộ hai ngày, tôi ngồi với bà Thúy trong phòng khách để hỏi bà về những nghề truyền thống tổ tiên để lại trong làng. Bà Thúy làm thêm cho một công ty sản xuất thuốc lá địa phương để bổ sung vào số tiền trợ cấp ít ỏi của chính phủ. Trên nền nhà lát đá hoa bóng loáng, bà trải một cái chiếu để ngồi, trên chiếu đặt một cái giỏ đầy những mẩu thuốc lá đã dùng còn sót lại. Bà vừa làm việc vừa nói chuyện với tôi. Tôi hỏi bà, liệu có quy định gì khi xây mộ cho người Việt không? ?oCái đó phụ thuộc vào khả năng của mỗi người?, bà bắt đầu:
    Nếu nhà bạn giàu, thì làm mộ đẹp và to. Nếu nghèo thì làm nhỏ. Nếu gia đình nhiều con và có điều kiện góp nhiều tiền thì làm mộ to, nếu ít con, và chỉ có thể góp ít thì làm nhỏ. Không có luật nào quy định về cái này.
    Nếu một người rất nghèo và chỉ có thể xây dựng một ngôi mộ rất đơn giản thì liệu mọi người có buộc tội người đó bất hiếu? ?" tôi hỏi.
    Không, đó không phải là bất hiếu. Đó là do hoàn cảnh kinh tế. Ngày nay có rất nhiều người có cuộc sống khó khăn, không đủ ăn, thậm chí họ không thể xây cho bố mẹ mình một ngôi mộ bằng xi măng nhưng cũng không ai gọi họ là bất hiếu. Chỉ có những người có của ăn của để, sống một cách thoải mái nhưng mộ của bố mẹ lại quá tồi tàn thì sẽ bị coi là bất hiếu. Ngôi mộ chính là một ngôi nhà cho người chết, và quả thật không tốt nếu một ai đó xây một ngôi nhà mới khang trang để ở trước khi xây một nơi an nghỉ thoải mái cho bố mẹ, ông bà.
    Với sự phát triển kinh tế, sự giàu lên của các tầng lớp xã hội và sự phát triển của công nghệ đã giúp cho con cháu có điều kiện ?ochăm sóc? những người thân đã mất của mình hơn. Những người nông dân nghèo ở các làng quê ngày xưa sau khi chết được con cháu ?ocúng? cho những bộ quần áo xa xỉ của các quan chức thời phong kiến. Công nghệ xử lý ảnh cho phép làm lại những tấm ảnh chân dung đã trở nên rất phổ biến: Hình ảnh người đàn ông mặc những bộ quần áo lộng lẫy, đầy uy quyền, giống với vua chúa, quan lại ngày xưa. Những người phụ nữ giàu có, mặc những bộ quần áo lụa rộng và ngồi trên những cái ngai gỗ được chạm trổ tinh vi, hoặc người phụ nữ trẻ, yểu điệu trong trang phục áo dài thướt tha ? đã không còn xa lạ nữa.
    Bàn thờ của nhà bà Thúy có hai bức ảnh chân dung. Bên trái là tấm ảnh màu của mẹ bà, được chụp không lâu trước khi mất. Bên phải, một bức ảnh đen trắng có vết ố là bố bà, ông đứng một mình, dáng đầy tự hào và lịch lãm trong bộ áo dài bằng lụa đen của quan và các chức sắc ngày xưa. Một lần, khi tôi đến, bà Thúy lấy cho tôi xem bức ảnh gốc của bố bà. Và tôi đã rất ngạc nhiên thấy rằng nó hơi khác so với bức ảnh bà treo trên bàn thờ. Bức ảnh gốc là ảnh đen trắng, chụp cả gia đình bà đứng thành một nhóm và được chú thích phía sau là ?oBố, mẹ và chị Thúy, 1951?. Bố bà, đứng thoải mái nhưng không phải mặc đồ lụa mà là một bộ đồ nông dân bằng vải thô. Bà Thúy giải thích rằng bà đã thuê một kĩ thuật viên máy tính ở Hà Nội để tạo ra một bức ảnh mới, họ cắt mặt ông từ bức ảnh gốc của gia đình và dùng công nghệ để xử lý và tạo ra bức ảnh người đàn ông mặc áo lụa đang có trên bàn thờ.
    (Còn nữa)
    (Nguồn VieTimes)
    Được madeinviet sửa chữa / chuyển vào 20:19 ngày 09/11/2007
  9. madeinviet

    madeinviet Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/06/2007
    Bài viết:
    1.983
    Đã được thích:
    0
    Tục thờ cúng tổ tiên: Chén nước trong soi lòng trinh bạch (Phần III) ​
    Thứ sáu, 9/11/2007, 07:00 GMT+7
    Vào ngày 20 tháng 3 âm lịch năm 2001, tại nhà của ông Nguyễn Thạc Sung, nằm trên đường đi vào nhà bà Thúy, rất đông người. Ông Sung là một thầy giáo dạy toán đã về hưu, thuộc chi cao nhất trong dòng họ Nguyễn Thạc, còn gọi là trưởng họ. Đó là vị trí mà ông sẽ nắm giữ cho đến lúc chết, sau đó con trai lớn của ông sẽ kế tục. Ông mặc một cái áo vét màu xám, quỳ trên một cái chiếu trước bàn thờ và cầu khấn.
    [​IMG]
    Những người họ hàng nam đến từ tỉnh Nghệ An đứng xung quanh mép chiếu, im lặng với vẻ tôn kính, và muốn tìm hiểu những nghi thức hoàn toàn xa lạ với họ. Ngày 20 tháng 3 âm lịch là ngày giỗ tổ của dòng họ Nguyễn Thạc và hôm nay là có một sự kiện lớn lôi cuốn hơn 200 khách, đó là khôi phục dòng họ...
    Sau khi ông Sung hoàn thành các lễ nghi đầu tiên, ba người đàn ông trong bộ áo thêu bước vào giữa chiếu. Họ dường như rất xấu hổ và ngập ngừng với vai trò của mình. Một người cầm một mảnh giấy được xé ra từ quyển vở học sinh, và đọc lầm bầm những gì đã được chuẩn bị trong đó. Những người đàn ông hội ý với nhau và thỉnh thoảng liếc qua ông Sung, bây giờ đang ở ngoài chiếu, để kiếm tìm một sự tán đồng.
    Mỗi lần có một hành động sơ suất, thì ông Sung từ đám đông hô to ?okhông được?, một cuộc hội ý nhanh chóng lại diễn ra để giải quyết vấn đề và các nghi thức lại tiếp tục. Ngay sau khi công việc của ba người đàn ông kết thúc thì những nghi lễ cũng kết thúc và tâm trạng ai nấy đều nhẹ đi chút ít. Ngoài sân, một đám đông tụ tập xung quanh một người đàn ông mảnh khảnh nắm trong tay một bản copy là bản gia phả mới nhất của gia phả dòng họ. Bản gia phả đầu tiên của dòng họ Nguyễn Thạc được viết bằng chữ Hán từ năm 1733. Nó được cập nhật định kì và có sự bổ sung trong những năm 1905, 1933 và 1998 thế kỉ 20. Năm 1999, nó được Viện Hán Nôm dịch sang tiếng Việt
    Cuối cùng những người tham dự buổi thờ cúng bắt đầu ngồi vào các mâm cỗ. Bữa cỗ thịnh soạn có thịt và rượu trắng. Ông Sung cầm cái micro và nói một vài lời, nói đến tổ tiên trước, rồi đến Thành hoàng làng, sau đó đến những người bà con đang sống. Tiếp theo, ông giới thiệu ba người đàn ông đã thực hiện những thủ tục nghi lễ buổi sáng, bây giờ mặc quần áo bình thường, giải thích rằng họ là những người đến từ Nghệ An, đã đi 5 tiếng đồng hồ bằng ô tô đến đây xin được gia nhập lại vào dòng họ.
    Chuyện kể rằng năm 1750, một thành viên của dòng họ Nguyễn Thạc đã được phong một chức quan trong đội quân cẩm vệ và đóng ở làng Sơn Lâm thuộc tỉnh Nghệ An. Vị quan này đã cưới một người con gái địa phương làm vợ và họ ở lại Nghệ An, sinh con đẻ cái, hầu hết đều là những người nông dân nghèo nhưng trung thực. Cuối cùng, họ mất liên lạc với quê gốc là làng Đình Bảng. Cho mãi đến khi thời kì đổi mới bắt đầu những người mang họ Nguyễn Thạc ở Sơn Lâm mới biết rằng họ còn có những người anh em xa ở tỉnh Bắc Ninh. Ông Ngà, một trong những người khách đến từ Nghệ An kể với mọi người:
    Qua các thế hệ, dòng họ Nguyễn Thạc ở Sơn Lâm là dòng họ có uy quyền nhất, luôn giữ gìn nề nếp gia đình và phong tục của ông bà. Nhưng nhờ giới truyền thông và các phương tiện hiện đại mà dòng họ Nguyễn Thạc chúng tôi ở Sơn Lâm biết rằng vẫn có một dòng họ Nguyễn Thạc khác ở làng Đình Bảng, đấy là dòng họ gốc, lớn hơn ở Sơn Lâm chúng tôi nhiều. Cũng cần nói thêm, dòng họ Nguyễn Thạc ở làng Đình Bảng có xấp xỉ 1000 thành viên, chiếm 1/10 tổng số dân trong làng.
    Năm 1990, một nhóm người từ Sơn Lâm đến Đình Bảng và nhận họ. Đến năm 1997, dòng họ Nguyễn Thạc đã tổ chức một cuộc họp ở Hà Nội với sự tham gia của nhiều chi khác nữa, và năm 1999, một nhóm người dòng họ này từ Đình Bảng đến Sơn Lâm. Cuối cùng, vào ngày 20 tháng 3 âm lịch năm 2001, những người già thuộc 3 trong 4 chi của dòng họ Nguyễn Thạc ở Sơn Lâm gặp nhau ở Đình Bảng để tham gia một buổi lễ tưởng nhớ tổ tiên gốc gác của mình.
    Ông Ngà nói với các vị khách: ?oCuối cùng hôm nay, chúng ta cũng có cơ hội gặp nhau, trao đổi ý kiến và làm cho mối quan hệ trong dòng họ thêm thân thiết?. Ông cũng nói lên niềm hi vọng vào thế hệ tương lai của con cháu ở cả hai nơi sẽ cùng gìn giữ và phát huy truyền thống của ông cha để lại.
    [​IMG]
    Theo bản gia phả gốc của dòng họ Nguyễn Thạc được viết năm 1733 thì người sáng lập ra dòng họ là một người đàn ông thanh liêm chính trực, giàu tình cảm, Nguyễn Thạc Bác. Ông có hai người con, một con gái tên là Nguyễn Thị Ngọc Long và một con trai tên là Nguyễn Thạc Căn. Người con gái trở thành vợ lẽ của chúa Trịnh Kiểm và người con trai trở thành quận công phục vụ cho chúa Trịnh, và họ là những công thần trong triều Lê cai trị miền Bắc Việt Nam thế kỉ 16. Kể từ sau đó, trong dòng họ có rất nhiều người đỗ đạt cao và được nắm giữ các chức vụ quan trong triều, được thăng tiến và họ được xem là những người ngay thẳng và chính trực.
    Nguyễn Thạc Bác là tổ tiên của dòng họ Nguyễn Thạc nhưng ông lại chỉ là một hình ảnh không quan trọng trong việc phát triển dòng họ. Trái lại, con gái ông, vương phi Ngọc Long mới là người đóng vai trò chủ đạo trong sự lớn mạnh của gia đình. Trong câu chuyện đầu tiên mà trưởng họ Nguyễn Thạc Sung kể với tôi về gia đình ông là câu chuyện về vương phi Ngọc Long.
    Chuyện kể rằng vào năm 1559, khi Trịnh Kiểm, lúc đó là một vị quan có quyền lực nhất trong triều đình nhà Lê đi qua khu vực đồng bằng sông Hồng với đoàn tùy tùng của mình thì bất chợt gặp một cô gái đang cắt cỏ, vừa làm vừa hát
    Trịnh Kiềm nhìn thấy một cảnh tượng rất lạ: Bất kể cô gái đi đến đâu thì những đám mây cũng đi theo trên đầu cô. Thấy những điều kì lạ như vậy, chúa Trịnh Kiểm đã gọi cô gái lại. Lúc này ông mới thấy gương mặt người con gái rất đẹp và cô đối đáp hết sức thông minh, do vậy ông đã đặt cô lên ngựa và mang về kinh đô Thăng Long.
    Trong lúc ấy, người em trai của cô đang cày bừa ngoài đồng, nghe dân làng nói rằng có một đoàn quân binh đã đến bắtchị gái mình! Ngay lập tức anh vác cày đuổi theo. Chúa Trịnh Kiểm thấy người thanh niên này thật dũng cảm, và phong cho anh một chức quan trong quân đội. Càng ngày người thanh niên càng bộc lộ mình là một người thông minh, tài giỏi. Ông được thăng chứcquận công và trở thành người có quyền lực lớn thứ hai trong triều.
    Một buổi tối hội làng, trước ngày diễn ra cuộc họp của dòng họ Nguyễn Thạc 20 tháng 3 âm lịch một ngày, bà chủ nhà nắm lấy tay tôi và kéo ra cửa: ?oChúng ta đến đền vương phi đi!?. Khi tôi hỏi tại sao, bà chỉ trả lời ?oĐây là dịp để các con gái và con dâu dòng họ Nguyễn Thạc gặp nhau!? rồi bà đưa cho tôi cầm một túi nho đầy. Buổi tối hơi lạnh và ẩm ướt, những người phụ nữ quấn khăn quàng cổ, áo cộc tay sẫm màu đứng đầy sân đền. Bên trong, một vài người đàn ông lớn tuổi ngồi bên cạnh bàn, uống trà và nhận tiền ?ocông đức? từ những người hảo tâm rồi lại ghi chép vào sổ.
    Ánh sáng ấm áp của các cây nến tràn ngập cả 3 bàn thờ, trên mỗi bàn có một bức tượng vương phi quét sơn bóng. Hoa quả đủ màu sắc, những nắm cơm được bọc trong giấy đỏ, những gói bánh quy dừa, đồ cúng được sắp xếp đầy xung quanh bàn thờ. Khi tôi quan sát mọi thứ thì bà Hoàng, chủ nhà tôi sắp nho lên bàn thờ và thắp hương. Sau đó, chúng tôi ra ngoài sân gia nhập với nhóm những người phụ nữ khác và một nhóm đàn ông đang ngồi trên chiếu, tham gia vào những chuyện tầm phào cho đến khi hương tàn và đồ cúng của ai người nấy lại nhận về như lộc của tổ tiên.
    Các nghi lễ buổi tối là để tưởng nhớ công ơn của những người phụ nữ trong dòng họ. ?oTối nay, con gái và con dâu dòng họ Nguyễn Thạc đều phải làm đồ cúng ở đây?, một người đàn ông lớn tuổi nói với tôi như vậy. Khi tôi hỏi tại sao, ông nói ?ovì con gái và những người vợ của dòng họ Nguyễn Thạc có rất nhiều công lao với dòng họ?. Ông Sung giải thích thêm: ?oTổ tiên cho rằng đàn ông và phụ nữ trong dòng họ phải bình đẳng do vậy, con gái và con dâu cũng phải bình đẳng?.
    Vương phi Ngọc Long là người góp phần làm nên sự thành công trên đường công danh của em trai bà, và đây cũng chính là mốc son đầu tiên đánh dấu sự phát triển của dòng họ. ?oVương phi đã đưa anh vào triều nên anh mới có thể phát triển tài năng và trở thành quận công. Cho dù anh ta có tài và may mắn đến đâu đi chăng nữa nhưng nếu không có vương phi thì anh ta cũng không thể có cơ hội được phong quận công?, ông Sung lập luận. Và những người phụ nữ trong dòng họ tiếp tục đóng góp công lao làm nên danh tiếng của dòng họ ngày nay. Cho đến bây giờ, ai cũng phải thừa nhận rằng con gái của dòng họ Nguyễn Thạc thật thông minh và khéo léo. Rất nhiều các biệt thự cao tầng ở đây đều thuộc quyền sở hữu của những người phụ nữ mang dòng họ Nguyễn Thạc.
    Cũng nhờ những câu chuyện mà mọi người kể tối hôm đó tôi được biết vương phi Ngọc Long đã xây dựng ngôi đền này, dân làng vẫn gọi là đền" vương phi? để tưởng nhớ bố mẹ và ông bà của bà.
    (VieTimes dịch)
    (Còn nữa)
  10. madeinviet

    madeinviet Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/06/2007
    Bài viết:
    1.983
    Đã được thích:
    0
    Một vài mẫu hoành phi ở đình miếu và nhà thờ tổ​
    萬古
    VẠN CỔ ANH LINH (Muôn thuở linh thiêng)
    追念?恩
    TRUY NIỆM TIỀN ÂN (Tưởng nhớ ơn xưa)
    .T福.T恩
    LƯU PHÚC LƯU ÂN (Lưu giữ mãi ơn đức)
    海德山"
    HẢI ĐỨC SƠN CÔNG (Công đức như biển rộng núi cao)
    祭,o
    TẾ NHƯ TẠI (Thờ như đang sống)
    <,"Y
    SỰ NHƯ SINH (Thờ như đang sống)
    德.T.?
    ĐỨC LƯU QUANG (Đức độ tỏa sáng)
    福?^
    PHÚC LAI THÀNH (Phúc sẽ tạo nên)
    福滿,
    PHÚC MÃN ĐƯỜNG (Phúc đầy nhà: để mừng nhà mới)
    oo水源
    MỘC BẢN THUỶ NGUYÊN (Cây có cội, nước có nguồn)
    飲河?源
    ẨM HÀ TƯ NGUYÊN (Uống nước nhớ nguồn)
    o?-<..^
    Hữu khai tất tiên (Có mở mang hiển đạt là nhờ phúc ấm đời trước)
    Lưu ý: Những mẫu trên được viết theo thứ tự từ trái sang.
    Nếu viết theo kiểu truyền thống thì từ phải sang.
    (Nguồn: Mẫu câu đối, hoành phi thường dùng - NXB Văn hoá dân tộc - Hà Nội 1994)
    Được madeinviet sửa chữa / chuyển vào 22:13 ngày 09/11/2007

Chia sẻ trang này