1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Một số năm Dậu trong lịch sử của Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi a_ma_to, 16/03/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. a_ma_to

    a_ma_to Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/05/2004
    Bài viết:
    58
    Đã được thích:
    0
    Một số năm Dậu trong lịch sử của Việt Nam

    Xin ghi lại một số năm Dậu trong lịch sử của Việt Nam trải qua gần 1500 năm nay, mời các Pác bình luận thêm cho:

    Tân Dậu (541): Lý Bôn (còn có tên gọi là Lý Bí), người Giao Chỉ khởi binh đánh Tiêu Tư là Thứ Sử của nhà Lương, tuyên bố độc lập. Sử Việt ta gọi ông là Lý Nam Đế (lập ra nhà Tiền Lý).

    Quý Dậu (973): Vua Tống sai sứ sang nước ta phong cho Đinh Bộ Lĩnh làm Giao Chỉ Quận Vương và Thái tử Đinh Liễn làm Kiểm Hiệu Thái Sư Tĩnh Hải quân Tiết Độ Sứ An Nam đô hộ. Đây là lần đầu tiên nước Tàu phong cho nước ta chức "Vương". Ngô Quyền chỉ được phong làm Tiết Độ Sứ mà thôi. Từ thời Đinh Bộ Lĩnh trở về trước cả ngàn năm, chưa có người nào ở nước ta được vua Tàu phong vương.

    Ất Dậu (985): Thái Hậu nhà Đinh là Dương Vân Nga ủng hộ Lê Hoàn lên làm vua (tức Lê Đại Hành) để thay thế nhà Đinh. Năm Tân Tỵ (981). Nhà Tống đem quân qua đánh, Lê Hoàn thắng được quân Tống trên sông Bạch Đằng. Qua năm Ất Dậu (985), vua Lê Đại Hành cho sứ mang lễ vật gồm vàng, ngà voi qua nộp cống phẩm và xin cầu phong. Năm Quý Tỵ (993) nhà Tống phong cho Lê Hoàn làm Giao Chỉ Quận Vương.

    Đinh Dậu (997): Vua Lê Đại Hành đích thân đem quân đánh Chiêm Thành.

    Kỷ Dậu (1069): Lý Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành bắt được vua Chiêm là Chế Củ đem về.

    Ất Dậu (1105): Lý Thường Kiệt qua đời. Ông là một tướng tài, tinh thông thao lược, làm quan trải ba đời vua, có công "phá Tống, bình Chiêm", là anh hùng của dân tộc chúng ta, được nhà vua cưng yêu vào bậc nhất thời bấy giờ.

    Ất Dậu (1525): Mạc Đăng Dung nắm giữ quyền lực trong triều đình, bức hiếp vua. Các quan trung thành với nhà Lê bị Mạc Đăng Dung giết hại hơn 10 người. Đến năm 1527, Mạc Đăng Dung tự xưng làm vua, lập ra nhà Mạc. (sử ít nói về cái Ông này )

    Đinh Dậu (1537): Tướng nhà Minh là Mao Bá Ôn đem quân đánh Mạc Đăng Dung. Năm sau, Mạc Đăng Dung sai Nguyễn Phi Thái mang thư của vua Mạc sang nhà Minh xin hàng và dâng đất chuộc tội.

    Nguyễn Kim đã lập con cháu nhà Lê lên ngôi tại Lào (đất Sầm Châu) và đánh chiếm được Thanh Hóa để chống nhà Mạc.

    Tân Dậu (1561): dưới đời Lê Anh Tông (1556-1573): Vua Lê Trung Tông mất, không có con nối dòng. Trịnh Kiểm muốn tự lập làm vua, nhưng ngại lòng người còn theo nhà Lê, bèn cho người ra Hải Dương hỏi ý kiến Trạng Trình (Nguyễn Bỉnh Khiêm). Trạng Trình khuyên Trịnh Kiểm: "giữ chùa thờ Phật thì sẽ được ăn oản". Trịnh Kiểm hiểu ý bèn về tìm được người cháu ông Lê Trừ (anh vua Lê Lợi) tên là Lê Duy Bang lập lên làm vua tức Lê Anh Tông.

    Ất Dậu (1573): Vua Lê Anh Tông thấy Trịnh Tùng nắm hết mọi quyền hành nên âm mưu loại trừ Trịnh Tùng, việc thất bại, vua bỏ trốn vào Nghệ An. Trước hết, Trinh Tùng lập Hoàng tử thứ năm là Lê Duy Đàm, mới bảy tuổi, lên làm vua tức Lê Thế Tông. Sau đó cho người đi bắt vua Lê Anh Tông về giết đi. Từ đó, Trịnh Tùng nắm hết mọi quyền hành và tự phong cho mình chức "Thái Phó, Tổng Quốc Chính, Thượng Phụ, Bình An Vương".

    Từ năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hóa đến nay, đã có ý hùng cứ một phương nên ra sức vỗ về dân chúng, huấn luyện quân sĩ, tăng cường sức mạnh để chống lại họ Trịnh. Trịnh Tùng xin vua Lê phong cho Nguyễn Hoàng làm Thái Phó, hàng năm phải nộp 400 cân bạc và 500 tấm lụa, ra lệnh cho Nguyễn Hoàng phải tích trữ thóc lúa để phòng giữ biên giới phía Nam. Quân Mạc vào đánh Thanh Hóa, Trịnh Tùng phá được.

    Đinh Dậu (1597): Trịnh Tùng diệt được nhà Mạc, đưa vua Lê Thế Tông về Thăng Long. Trước đây, sau khi giết được Mạc Mậu Hợp (1592), vua cho Đỗ Uông đem hai tượng người bằng vàng, bằng bạc và lễ vật qua nhà Minh trình bày tình hình... Phái đoàn qua đến Lạng Sơn phải chờ đợi mãi mà quan nhà Minh không cho đến Bắc Kinh. Đoàn hộ tống Đỗ Uông bị dư đảng nhà Mạc phục kích, may mà Đỗ Uông thoát được. Đinh Dậu (1597), quan nhà Minh là Vương Kiến Lập đến xem xét vùng biên giới, Hoàng Đình Ái đem 5 vạn quân hộ tống vua đến ải Nam Quan hội họp với quan nhà Minh để phân định biên giới. Sau khi trở về kinh thành, vua sai Phùng Khắc Khoan làm Chánh sứ, Nguyễn Nhân Thiệm làm Phó sứ mang cống phẩm như lệ các vua thời trước để mừng lễ vạn thọ vua nhà Minh và xin phong vương. Phùng Khắc Khoan dâng 30 bài thơ chúc mừng được vua nhà Minh khen ngợi.

    Quý Dậu (1633): Người con thứ ba của chúa Nguyễn Phúc Nguyên tên là Anh làm phản, viết mật thư hẹn với Trịnh Tráng đem quân vào thì y sẽ làm nội ứng. Sau khi thành công, y sẽ được vua Lê chúa Trịnh cho trấn thủ xứ Đàng Trong và nộp thuế như thời Nguyễn Hoàng. Trịnh Tráng rước vua Lê, đem đại quân vào đến phía Bắc cửa Nhật Lệ, đợi mười ngày mà không thấy dấu hiệu gì, sinh nghi bèn rút quân. Trong lúc đó, tướng của Nguyễn là Nguyễn Hữu Dật giữ cửa biên giới rất kiên cố, thừa cơ đem quân tấn công rất hăng say, quân Trịnh tan vỡ, bỏ chạy, chết quá nửa.

    Đinh Dậu (1657): Được tin Trịnh Tráng mất. Trịnh Tạc được lên làm chúa ở Bắc Hà, Hiền Vương (Nguyễn Phúc Tần) liền gửi mật thư cho Phạm Hữu Lễ ở Sơn Tây đi vận động hào kiệt các nơi làm nội ứng. Chúa lại đích thân đem quân ra tới Quảng Bình. Phạm Hữu Lễ sai con là Phượng cùng bọn gián điệp của chúa Nguyễn ở Bắc là Văn Tường, Hoàng Sinh đích thân vào Quảng Bình gặp chúa Nguyễn báo cáo tình hình. Lúc bấy giờ quân Nguyễn đã chiếm được 7 huyện phía Bắc sông Lam nên danh tướng của Nguyễn là Nguyễn Hữu Dật đề nghị cử đại binh đánh ra Bắc. Nhưng không hiểu sao chúa Hiền Vương lại trở về Thuận Hóa. Chúa giải thích với các tướng rằng: "Không nên nhân lúc nhà người ta có tang mà đem quân đến đánh. Vả lại, khi chúa Tiên (Nguyễn Hoàng) mất thì Trịnh Tùng cũng cho người vào phúng điếu, thăm hỏi. Nay ta cũng phải đáp lễ để khỏi mang tiếng ?Tbất nhân?T". Sau đó, Hiền Vương cho người mang thư và lễ vật ra kinh đô Thăng Long để phân ưu với họ Trịnh và sai đắp lũy từ phía Nam sông Lam đến cửa biển để phòng ngự.

    Kỷ Dậu (1669): Năm 1592, Trịnh Tùng thu phục được kinh đô Thăng Long, giết được Mạc Mậu Hợp nhưng con cháu nhà Mạc vẫn còn hoạt động và chiếm giữ một vùng ở đất Cao Bằng và nhờ nhà Thanh đã can thiệp buộc vua Lê phải cắt đất bốn châu ở Cao Bằng cho con cháu nhà Mạc.

    Quý Dậu (1693): Nguyễn Hữu Cảnh (Kính), tướng của chúa Nguyễn đánh bại Chiêm Thành, bắt được Bà Tranh. Chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) đổi tên nước Chiêm Thành làm trấn Thuận Thành. Chúa tự xưng tôn hiệu là Quốc Chúa. Tháng 7 năm đó, Nguyễn Hữu Cảnh dẫn vua Chiêm là Bà Tranh về kinh đô Thuận Hóa trình diện chúa Nguyễn. Bà Tranh bị giam ở núi Ngọc Trản (thường gọi là Điện Hòn Chén) và cấp cho tiền gạo vải vóc đủ dùng. Tháng 8, đổi trấn Thuận Thành làm phủ Bình Thuận, cho các quan người Chiêm bị bắt (bọn Kế Bà Tử) được trở về làm quan tại địa phương và bắt mặc quần áo theo người kinh.

    Tại Chân Lạp, Nặc Thâm và Nặc Yêm tranh quyền. Thâm cầu viện quân Xiêm (Thái Lan), Yêm cầu viện quân Việt ở Gia Định. Chúa Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Cửu Vân đem quân giúp Nặc Yêm, đánh thắng quân Xiêm.

    Quý Dậu (1753): Chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát sai Nguyễn Cư Trinh điều động tướng sĩ 5 dinh Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn và Long Hồ sang đánh Chân Lạp (nay là Kamphuchia).

    Ất Dậu (1765): chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát mất, ở ngôi 27 năm (1738-1765), Khi còn sống, Võ Vương chọn Hoàng Tử thứ 9 là Nguyễn Phúc Hiệu nối ngôi. Nhưng Hiệu mất sớm, con của Hiệu là Nguyễn Phúc Dương còn nhỏ. Hoàng Trưởng Tử là Chương cũng đã chết, nên Nguyễn Phúc Luân (cha của vua Gia Long) là con thứ hai, được chọn nối ngôi, thường được tham dự triều chính. Chúa Võ Vương cũng cho quan Nội Hữu Trương Văn Hạnh làm thầy dạy cho Nguyễn Phúc Luân. Nhưng khi Võ Vương mất thì Trương Phúc Loan tự ý thay đổi di chiếu, bắt giam Nguyễn Phúc Luân, Trương Văn Hạnh và Lê Cao Kỷ (quan thị giảng, dạy Thái Tử Luân) đều bị giết. Nguyễn Phúc Luân buồn rầu sinh bệnh, mất. Trương Phúc Loan đưa con thứ 16 của Võ Vương là Nguyễn Phúc Thuần lên ngôi tức chúa Duệ Tông.
    (còn nữa)
  2. a_ma_to

    a_ma_to Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/05/2004
    Bài viết:
    58
    Đã được thích:
    0
    Đinh Dậu (1777): quân Trịnh chiếm Thuận Hóa từ đầu năm 1775, ra lệnh cho Lê Quý Đôn vào Thuận Hóa xét định các khoản thuế của binh và dân. Trịnh Sâm cho Nguyễn Nhạc làm Trấn Thủ Tuyên Úy Đại Sứ ở Quảng Nam. Được rảnh tay mặt Bắc, Nguyễn Nhạc lo củng cố mặt Nam, thế lực Tây Sơn càng ngày càng mạnh lên. Tướng họ Trịnh là Nguyễn Lệnh Tân mật trình cho Trịnh Sâm biết tình hình và đề nghị thay thế Phạm Ngô Cầu ở Thuận Hóa vì sợ Phạm Ngô Cầu không đủ sức đối phó với Nguyễn Nhạc, có ngày Thuận Hóa sẽ bị mất vào tay Tây Sơn. Nhưng Trịnh Sâm không nghe và cho Nguyễn Lệnh Tân về Bắc. Tháng 9 năm đó, Trịnh Sâm cho Hoàng Đình Thể vào thay Phạm Ngô Cầu ở Thuận Hóa.
    Tại Gia Định, Đỗ Thanh Nhân ủng hộ chúa Nguyễn Phúc Thuần. Lý Tài ủng hộ Nguyễn Phúc Dương. Chúa Nguyễn phải đặt Nguyễn Phúc Dương lên làm Tân Chính Vương. Hai bên chống nhau. Nguyễn Phúc Ánh đứng ra giải hòa. Biết tin đó, Nguyễn Nhạc cho em là Nguyễn Huệ đem quân thủy bộ vào đánh Gia Định. Lý Tài đánh nhau với Tây Sơn bị thua, kéo về Tam Phụ, bị quân Đông Sơn của Đỗ Thanh Nhân giết. Chúa Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Dương chạy về Định Tường rồi về Vĩnh Long. Các tướng của chúa Nguyễn người thì chết, kẻ bị bắt, người thì tự tử. Tháng 8 năm Đinh Dậu (1777) Nguyễn Phúc Dương bị Nguyễn Huệ bắt và giết di.
    Chúa Nguyễn Phúc Thuần chạy về Long Xuyên cũng bị Tây Sơn giết, ở ngôi 12 năm, thọ 24 tuổi, không có con nối dòng. Năm sau, 1778, Nguyễn Phúc Ánh được các tướng tôn lên làm Nhiếp Chính Vương để chống lại Tây Sơn.
    Kỷ Dậu (1789): Nguyễn Huệ đại thắng quân Thanh: Nguyễn Hữu Chỉnh trốn vào Quy Nhơn theo Tây Sơn và khuyên Tây Sơn đánh lấy Phú Xuân. Nguyễn Huệ chiếm được Phú Xuân rồi thừa thắng kéo quân ra Thăng Long diệt họ Trịnh, trả ngai vàng lại cho vua Lê Hiển Tông (1740- 1786). Vua Lê gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ. Mấy hôm sau, vua Lê Hiển Tông mất, cháu nội vua là Lê Duy Kỳ nối ngôi tức Lê Chiêu Thống. Nguyễn Nhạc liền từ Quy Nhơn ra Phú Xuân nhưng Nguyễn Huệ đã ra Bắc, Nhạc liền đuổi theo Nguyễn Huệ ra Thăng Long gặp vua Lê. Sau đó, anh em Tây Sơn bỏ Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại và bí mật rút về, đem theo 60 thuyền của cải vơ vét được từ các kho tàng của vua Lê chúa Trịnh. Vì tranh chấp quyền lực và của cải, anh em Tây Sơn bất hòa, Nguyễn Huệ đem quân vào Quy Nhơn đánh Nguyễn Nhạc.
    Nguyễn Hữu Chỉnh ở Bắc, cậy công lộng quyền. Sau khi giải quyết xong vấn đề nội bộ anh em Tây Sơn, Nguyễn Huệ cho Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh. Vua Lê Chiêu Thống trốn ra khỏi kinh thành Thăng Long, ẩn náu trong nhân gian. Mẹ vua cùng một số thân thích, cận thần chạy qua Trung Quốc cầu cứu nhà Thanh.
    Vua Càn Long cho Tổng Đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị đem quân qua nước ta, vua Lê Chiêu Thống trở về Thăng Long. Quân Thanh tha hồ cướp bóc, hà hiếp dân.
    Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế tại Phú Xuân (1788) niên hiệu Quang Trung và kéo quân ra Bắc. Trận Đống Đa, ngày 5 Tết Kỷ Dậu (1789), đại thắng quân Thanh. Lê Chiêu Thống theo Tôn Sĩ Nghị chạy về Tàu, nhà Lê chấm dứt. Nguyễn Huệ cho sứ qua nhà Thanh xin phong vương.
    Trong lúc Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc thì Nguyễn Phúc Ánh đã chiếm lại toàn bộ đất Gia Định. Tháng 6 năm Kỷ Dậu (1789), Hoàng Tử Nguyễn Phúc Cảnh cùng Giám Mục Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) đi cầu viện nước Pháp, đã trở về Gia Định, mang theo một số tàu chiến, súng ống và mấy người Pháp chuyên về hàng hải như Chaigneau, Vanier, Manuel, Dayot.... để giúp chúa Nguyễn. Tất cả người và tàu bè, súng ống này là do Giám Mục Bá Đa Lộc tự mình xoay xở lấy, không phải do vua nước Pháp giúp. Chúa Nguyễn cho lập xưởng đóng chiến thuyền lớn, bọc đồng được sáu chiếc tàu lớn và 100 chiếc thuyền đi biển. Ngoài ra còn lập xưởng chế diêm, lưu huỳnh... để làm thuốc súng. Tháng 11 năm đó, vua tổ chức thao diễn chiến trận, dạy cho lính biết trận pháp để chuẩn bị đi đánh Tây Sơn.
    Tân Dậu (1801): Võ Tánh bị vây trong thành Bình Định. Đông Cung Nguyễn Phúc Cảnh bị bệnh mất tại Gia Định. Trận thủy chiến lớn nhất trong lịch sử, quân chúa Nguyễn đáng thắng Tây Sơn tại cửa biển Thị Nại (Quy Nhơn). Bị Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng bao vây, hết lương thực, Võ Tánh tự tử, lính đầu hàng, thành Bình Định bị Tây Sơn chiếm. Ngày 1 tháng 5 (âm lịch) năm Tân Dậu (1801), quân Nguyễn vào cửa Tư Dung (nay là cửa Tư Hiền). Nghe tin đại binh của Nguyễn đến, vua Quang Toản của Tây Sơn đem hết quân ra cửa Eo (tức cửa Thuận An) chống giữ. Ngày 3 tháng 5 (âm lịch), quân Nguyễn tiến vào cửa Eo, chưa giao chiến mà Nguyễn Quang Toản đã bỏ chạy. Quân Tây Sơn xin hàng. Đại binh thẳng tới Phú Xuân. Quang Toản bỏ thành chạy ra Bắc. Chúa Nguyễn trở về nước cũ, cho niêm phong kho tàng, tuyên cáo cho dân biết. Từ đầu năm 1775, khi quân chúa Trịnh vào Phú Xuân, Nguyễn Phúc Ánh theo chúa Nguyễn Phúc Thuần chạy vào Gia Định đến tháng ngày 3 tháng 5 Tân Dậu (6-1801), hơn 26 năm xa cách nay Nguyễn Phúc Ánh mới trở về quê hương.
    Ất Dậu (1825): Sau khi Đông Cung Nguyễn Phúc Cảnh chết, Mỹ Đường là cháu đích tôn của Vua Gia Long (con của Đông Cung), không được chọn để nối ngôi mà Hoàng Tử thứ là Nguyễn Phúc Đảm được chọn tức là vua Minh Mạng. Về sau Mỹ Đường bị vua Minh Mạng buộc tội "loạn luân" và bị giam lỏng ở trong nhà riêng. Ông thường đến thăm con ở An Hòa (gần kinh thành Huế). Có người tâu lên vua là Mỹ Đường có ý bỏ trốn. Vua bảo rằng: "Hành vi của nó hơn là chó lợn, trẫm nghĩ cái tình Anh Duệ Hoàng Thái Tử (tức Đông Cung Nguyễn Phúc Cảnh) nên không nỡ làm tội, nay lại nghe kẻ bậy bạ xui khiến, muốn làm gì chăng?" liền sai thị vệ bắt về, cho lính canh giữ, rồi lại tha. Nhân việc con cháu nhà Lê là Lê Duy Hoán, Lê Duy Lương nổi loạn ở Bắc, sau khi dẹp yên, vua ra lệnh cho tất cả trai tráng thuộc con cháu nhà Lê, đều phải đày đi nơi khác, từ Quảng Nam trở vào, mỗi huyện trên dưới 15 người...
    Kỷ Dậu (1849): Dưới thời vua Tự Đức, từ năm 1848 đến năm 1851, vua đã hai lần ban hành dụ cấm đạo Thiên Chúa (thời đó gọi là đạo Gia Tô ngày nay là Công Giáo), lần sau còn nghiêm nhặt hơn lần trước: "Những người ngoại quốc vào giảng đạo thì phải tội chết, những người đạo trưởng ấy ở trong nước mà không chịu bỏ đạo, thì phải khắc chữ vào mặt, rồi phải đày đi ở chỗ nước độc. Còn những ngu dân thì các quan phải ngăn cấm, đừng để cho đi theo đạo mà bỏ sự thờ cúng cha ông, chứ đừng có giết hại v.v...". Năm Kỷ Dậu (1849) là thời gian người theo đạo Thiên Chúa phải trốn tránh và bị đàn áp.
    Sứ thần nhà Thanh là Lao Sùng Quang đến Huế phong vương cho vua Tự Đức.
    Thấy trong nước xảy ra nhiều thiên tai loạn lạc, các đại thần dâng sớ xin vua Tự Đức:
    a. Cho con cháu của Đông Cung Nguyễn Phúc Cảnh được ghi tên vào hệ tôn thất vì trước đây Mỹ Đường là con của Đông Cung bị tội nên con cháu bị đổi họ...
    b. Cho phép con cháu của các công thần bị tội là Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt và Lê Chất được sửa sang lại phần mộ của các vị ấy. Và cất bỏ hai tấm bia đá khắc chữ "Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ" và "gian thần Lê Chất phục pháp xứ ".
    c. Miễn cho con cháu nhà Lê phải đày đi xa quê hương nhân vụ Lê Duy Lương nổi loạn từ thời vua Minh Mạng. Và cho sửa sang lại các miếu thờ, đồ thờ của nhà Lê, giao cho quan tỉnh Thanh Hóa chịu trách nhiệm chăm sóc. Mục đích của những việc làm này để giải oan cho những người bị tội và tránh tai họa cho dân. Vua Tự Đức đều nghe theo.
    Tân Dậu (1861): Quân Pháp do Trung Tướng Charner chỉ huy, đánh chiếm Gia Định, đồn Kỳ Hòa (Chí Hòa) tại Sài Gòn thất thủ, Nguyễn Duy (em Nguyễn Tri Phương) và Tôn Thất Trĩ tử trận, Nguyễn Tri Phương bị thương. Phạm Thế Hiển (bị thương) cùng Nguyễn Tri Phương rút lui, được mấy hôm, Phạm Thế Hiển chết. Vì tội rút quân lui, Nguyễn Tri Phương và các tướng bị cách chức, cho lập công chuộc tội. Người Miên ở Nam Kỳ nghe quân Pháp đến liền nhân cơ hội đó chạy theo Pháp, quấy phá tại các địa phương để trả thù người Việt. Tháng 2, quân Pháp đến đánh chiếm tỉnh Định Tường (Mỹ Tho), hỏa lực của ta và Pháp quá chênh lệch, không chống cự nổi, phải kéo nhau chạy về Vĩnh Long. Vua Tự Đức cho Nguyễn Bá Nghi làm Khâm Mạng Đại Thần, vào Nam Kỳ để đối phó với Pháp. Thấy tình hình khó khăn nên Nguyễn Bá Nghi đề nghị gửi thư cho Pháp xin giảng hòa để làm kế hoãn binh. Trước tình hình như thế, vua Tự Đức không vận động toàn dân đoàn kết chống xâm lăng, trái lại, vua còn ra lệnh bách hại người theo đạo Thiên Chúa, triệt để áp dụng lệnh "phân tháp"... Thực Lục Chính Biên, đệ tứ kỷ, quyển XXIV, bản dịch Hà Nội, tr.227 chép: "Sức nhắc lại các địa phương phải nghiêm ngặt chia ghép bọn dân đạo. Trước đây, chia ghép các dân đạo, còn nhiều sót lậu. Đến bây giờ, nghiêm bắt phủ huyện, các địa phương; phàm những dân đạo trai gái già trẻ, không cứ đã bỏ đạo hay chưa, đều thích chữ vào mặt, chia ghé đến ở vào xã thôn không có đạo, mà phải quản thúc cho nghiêm. Những tên đầu mục hung ác vẫn nghiêm giam như cũ. Nếu người Tây dương đến nơi, thì đem bọn dân đạo ấy giết cho hết. Phủ huyện nào lại còn nhu nhơ dong kẻ gian, để đến nỗi sinh ra việc gì lo ngại, tất phải chiếu theo quân luật trị tội".
    Vua phục chức cho Nguyễn Tri Phương làm Binh Bộ Thượng Thư kiêm quân vụ Biên Hòa, trước đã ban cho kiếm báu và áo chiến, nay cấp thêm ấn quan phòng và 5 lá cờ lệnh, 5 chiếc tín bài để chỉ huy; Tôn Thất Cáp làm Binh Bộ Thị Lang sung chức Phụ tế Biên Hòa quân vụ; Nguyễn Công Nhàn làm quản cơ kiêm đốc binh cùng Nguyễn Tri Phương bàn tính kế hoạch đối phó với Pháp tại Nam Kỳ. Vua ra lệnh cho trong nước phòng thủ và kiểm soát các cửa bể nghiêm ngặt. (Qua năm sau, 1862, Thiếu Tướng Bonard đem quân chiếm Biên Hòa và Vĩnh Long, triều đình phải ký hòa ước Nhâm Tuất (1862) nhường 3 tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường cho Pháp, Nguyễn Tri Phương được trở về Huế rồi ra Bắc dẹp loạn).
    Quý Dậu (1873): Jean Dupuis (Đồ Phổ Nghĩa) là một thương gia Pháp cho tàu thủy đi dọc sông Hồng Hà, bán súng đạn cho bọn giặc cướp Cờ Vàng của Hoàng Sùng Anh và chở muối qua Trung Quốc, gây rắc rối cho quan quân ta. Đại Úy Francis Garnier ra Hà Nội giải quyết vụ đó, nhưng lại tỏ thái độ che chở cho Jean Dupuis và đòi mở mang buôn bán... Quan ta không chịu và yêu cầu đợi hỏi ý kiến của triều đình đã. Ngày 01 tháng 10 năm Quý Dậu (1873), Francis Garnier bất thình lình tấn công thành Hà Nội, Nguyễn Tri Phương bị thương, nhịn ăn mà chết. Phò mã Nguyễn Lâm, con của Nguyễn Tri Phương tử trận. Các quan đều bỏ chạy. Thừa thắng, quân Pháp chiếm luôn Nam Định, Ninh Bình, Hải Dương, Hưng Yên. Pháp đến đâu, quân ta bỏ chạy không kháng cự. Francis Garnier tự ý bổ nhiệm quan lại cai trị các nơi mới chiếm được. Triều đình cho Trần Đình Túc ra Hà Nội thương lượng với Francis Garnier. Đồng thời sai Lê Tuấn và Nguyễn Văn Tường vào Sài Gòn thương lượng với súy phủ Pháp về việc rắc rối ở Bắc Kỳ. Trong khi Trần Đình Túc đang nói chuyện với Francis Garnier thì nghe tin Quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc đến, Francis Garnier đem quân đuổi, bị quân cờ đen phục kích giết chết ở Cầu Giấy gần Hà Nội. Triều đình cho Lê Tuấn và Nguyễn Văn Tường vào Sài Gòn thương lượng với Pháp. Sau đó, Việt Nam (Lê Tuấn và Nguyễn Văn Tường) và Pháp (Philastre) ký hòa ước Giáp Tuất (6-2-1874) công nhận chủ quyền của Pháp tại 6 tỉnh Nam Kỳ mà Pháp đã chiếm trước đây. Pháp trả lại Hà Nội và các tỉnh đã chiếm ở Bắc Kỳ cho ta.
    (còn nữa)
  3. a_ma_to

    a_ma_to Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/05/2004
    Bài viết:
    58
    Đã được thích:
    0
    Ất Dậu (1885): Vua Kiến Phước chết bất ngờ sau một cơn bệnh vào tuổi 16 tuổi. Ngày 02 tháng 8, 1884, hai vị Phụ Chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đưa người em của Kiến Phước là Ưng Lịch mới 12 tuổi lên ngôi, niên hiệu Hàm Nghi. Việc tôn phong đã được tổ chức một cách vội vàng và bí mật, không cho người Pháp biết. Trước đó, hai ông cũng đã bí mật tổ chức một chiến khu tại Tân Sở (vùng núi phía Tây tỉnh Quảng Trị) và tăng cường bố trí quân đội tại kinh thành Huế để chống Pháp. Khâm Sứ Pháp ở Huế là Rheinart phản đối và bắt phải xin phép nước Pháp trước khi lập vua mới. Nguyễn Văn Tường phải thay mặt triều đình qua gặp Rheinart để thương lượng và làm đơn xin lập vua Hàm Nghi. Nghe tin Tướng De Courcy từ Hà Nội đến với 1500 quân, Bà Từ Dũ (Thái Hoàng Thái Hậu) gởi quà tặng để chào mừng (có tính cách ngoại giao), Pháp cũng từ chối không nhận...
    Do sự can thiệp của Pháp vào nội bộ triều đình Huế và trước những sự nhục nhã mà triều đình phải chịu nên vào tối 22 rạng ngày 23 tháng 5 Ất Dậu (đêm 4 qua ngày 5 tháng 7, 1885), quân ta bất thình lình tấn công quân Pháp tại đồn Mang Cá (trong thành nội Huế) và tòa Khâm Sứ Huế (phía Nam sông Hương). Lúc đầu, vì bất ngờ không kịp phòng bị nên quân Pháp có bị thiệt hại ít nhiều. Nhưng sau đó, quân Pháp phản công, gây tổn thất nhân mạng, nhà cửa cho ta rất nhiều. Tôn Thất Thuyết và Trần Xuân Soạn đích thân chỉ huy đánh đồn Mang Cá thất bại, liền trở vào cung thúc giục vua và Hoàng Gia thu xếp nhanh để chạy trốn vì quân Pháp sắp tới nơi rồi. Thuyết trao cho Trần Xuân Soạn và Tôn Thất Liệt đi hộ tống vua Hàm Nghi và Hoàng Gia cùng các quan đại thần trong đó có Nguyễn Văn Tường, tất cả khoảng 1.000 người. Trong lúc đi đường, Nguyễn Văn Tường bàn với bà Từ Dũ trở về đầu thú Pháp để bảo vệ lăng miếu, cung điện khỏi bị Pháp đốt phá. Bà Từ Dũ đồng ý và ủy thác cho Nguyễn Văn Tường đi lo vụ đó. Lợi dụng lúc tình thế lộn xộn, không ai để ý, Tường chạy đến nhà thờ Kim Long, xin gặp Giám Mục Caspar, nhờ ông này làm trung gian cho Tường ra đầu thú với Pháp.
    Sáng 23 tháng 5, Ất Dậu (5-07-1885) quân Pháp chiếm thành nội, tịch thu toàn bộ kho tàng, châu báu của quốc gia.
    Tôn Thất Thuyết đưa vua lên Tân Sở (miền núi phía Tây Bắc, cách thị xã Quảng Trị chừng 20 cây số). Nhận thấy để vua ở lại Tân Sở không tiện, ra Bắc thì bị quân Pháp chặn đường trên quốc lộ số 1, nên Tôn Thất Thuyết đưa vua vượt sông Tchépône, qua Lào ra vùng núi Tuyên Hóa (giữa Quảng Bình và Hà Tĩnh). Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi truyền hịch "Cần Vương" chủ trương "bình Tây sát Tả" (đánh giặc Pháp và giết người theo đạo Thiên Chúa), nho sĩ khắp nơi hô hào dân chúng cùng với quân lính đi đốt phá giết hại người theo đạo Công Giáo vô tội. Hàng chục ngàn người bị chết oan. Vua ở lại trong rừng với Tôn Thất Thiệp và Tôn Thất Đạm còn Tôn ThấtThuyết ra Bắc, qua Trung Quốc cầu viện nhà Thanh.
    Sau hai tháng không tìm được vua Hàm Nghi trở về, Nguyễn Văn Tường bị Pháp đày qua đảo Tahiti và ông đã chết ở đó.
    Lúc đầu Pháp đưa Thọ Xuân Vương (Miên Định), chú vua Tự Đức, lên làm Giám Quốc, và đưa Nguyễn Hữu Độ, Khâm Sai Kinh Lược Bắc Kỳ vào làm Phụ Chính, thay thế Nguyễn Văn Tường. Ngày 6 tháng 8, Hoàng Tử Ưng Kỵ (Ưng Đường) con nuôi thứ hai của vua Tự Đức được rước vào cung và đã chính thức lên ngôi vào ngày 9-09 Ất Dậu (1885), niên hiệu Đồng Khánh. Nước Việt Nam hoàn toàn thuộc quyền cai trị của Pháp
    Đinh Dậu (1897): Toàn Quyền Paul Doumer tại Hà Nội bãi bỏ Nha Kinh Lược ở Bắc Kỳ vào giao quyền lại cho Quan Thống Sứ người Pháp cai trị, các quan Việt Nam trực tiếp với Thống Sứ. Paul Doumer cho xây trường học, mở đường xe lửa, khai thác mỏ than, mở các nhà máy dệt, xi măng, ấn định các thứ thuế, phát triển nông nghiệp, kỹ nghệ, thương mãi, vay vốn của ngân hàng Pháp để đầu tư v.v... để tăng ngân sách cho nhà nước thuộc địa.
    Kỷ Dậu (1909): Từ năm 1908, Phong Trào kháng thuế bùng nổ lớn ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định rồi lan dần ra các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Các Nho sĩ trí thức trong nước, nhất là tại miền Trung hô hào duy tân, cắt tóc ngắn, học chữ quốc ngữ (chữ Việt ngày nay), thanh niên trốn sang Tàu, sang Nhật du học... Năm 1909 (Kỷ Dậu), Pháp đàn áp mạnh, một số bị xử tử, bị bắt giam, đày đi Côn Đảo trong đó có Phan Chu Trinh. Nhân chuyện nghĩa quân của Hoàng Hoa Thám âm mưu đầu độc lính Pháp ở Hà Nội (1908) thất bại nên Pháp lùng bắt những người yêu nước, nên từ 1908 đến 1909 (Kỷ Dậu) Pháp ra tay đàn áp, bắt giam, xử tử nhiều thành phần tranh đấu chống Pháp khiến cho tình hình dân trong nước rất khốn khổ.
    Tân Dậu (1921): Sau khi qua Trung Hoa, Thái Lan và các nước Âu Châu (Đức và Anh) để hoạt động, thấy tình hình tạm lắng dịu, Cường Để bèn trở lại Nhật. Năm Tân Dậu (1921) ông sống tại Nhật và vẫn liên lạc với các đồng chí của mình. Riêng Phan Bội Châu, sau khi cách mạng Tân Hợi (1911) do Tôn Dật Tiên lãnh đạo thành công tại Quảng Châu... nhờ quen biết nhiều nhân vật trong Quốc Dân Đảng Trung Hoa nên Phan Bội Châu cùng nhóm thanh niên Việt Nam trở lại Trung Quốc để hoạt động. Năm 1925, ông bị Phan Quang Ngọc phản bội, chỉ điểm cho Pháp bắt tại tô giới Pháp ở Quảng Châu và đưa về giam tại Hà Nội.
    Quý Dậu (1933): Tổ chức Việt Nam Phục Quốc đã cử Trần Phúc An (Tức Trần Hy Thánh) là Ủy Viên Ngoại Vụ qua Nhật dự Đại Hội Thanh Niên Thế Giới (họp ngày 29-11-1933). Sau khi khởi nghĩa thất bại vào năm 1930 tại Yên Báy, một số đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng trốn qua Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam... Năm Quý Dậu (1933), những người này đã thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng Trung Ương Ủy Viên Hải Ngoại Biện Sự Xứ: Vi Chính Nam (tức Vi Đăng Tường) được cử làm Chủ Nhiệm. Về sau Vũ Hồng Khanh lên thay thế Vi Chính Nam để lãnh đạo tổ chức này.
    Ất Dậu (1945): Năm này, nước Việt Nam ta có nhiều biến cố quan trọng:
    Nạn đói lớn nhất tại Việt Nam, từ Quảng Bình trở ra Bắc mất mùa, hơn hai triệu người miền Bắc chết đói. Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương, vua Bảo Đại tuyên bố độc lập: chính phủ Trần Trọng Kim ra đời. Mỹ thả bom nguyên tử xuống hai thành phố Hiroshima và Nagazaki của Nhật. Vua Nhật tuyên bố đầu hàng. ********* cướp chính quyền tại Hà Nội. Vua Bảo Đại thoái vị. Ngày 2 tháng 9, 1945, Hồ Chí Minh ra mắt chính phủ tại Hà Nội, đọc tuyên ngôn độc lập. Theo quy định của Đồng Minh: vấn đề giải giới quân Nhật, từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc do quân Tàu và từ vĩ tuyến 16 trở vô Nam do quân Anh. Tại miền Bắc, Đại Tướng Lư Hán đem quân đến Hà Nội, lực lượng võ trang của Nguyễn Hải Thần (Việt Cách) và Vũ Hồng Khanh (Việt Quốc) theo chân quân Tàu về nước. Tranh chấp giữa phe Quốc Gia và ********* (Cộng Sản). Hồ Chí Minh thành lập Chính Phủ Liên Hiệp, dành cho phe Quốc Gia 70 ghế trong Quốc Hội (Việt Cách: 20 và Việt Quốc: 50). Tại Miền Nam, quân Pháp đến Sài Gòn thay quân Anh và đổ bộ tái chiếm các tỉnh miền Nam và Cao Nguyên. Kháng chiến chống Pháp tại Nam Bộ bùng nổ. ********* bắt tay với Pháp để loại trừ các đảng phái quốc gia đối lập với Cộng Sản. Quân Tàu rút về nước và Pháp thay thế. Phe Quốc Gia bị cả Pháp và ********* tấn công....
    Đinh Dậu (1957): Tại Miền Bắc, Đảng ta thực hiện chủ trương cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ. Cũng vào năm này, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Lê Duẫn đi thăm Liên Xô (Nga), Nam Tư. Thủ tường Phạm Văn Đồng gởi thư cho TT Ngô Đình Diệm đề nghị hiệp thương. Cũng thời điểm này, phong trào văn hoá, văn nghệ đã phát triển mạnh mẽ với nhiều trào lưu mới, lý luận, phê bình theo tư tưởng cộng sản có, theo tư tưởng ********* cũng không hiếm, tiêu biểu cho các dòng này là các ông Phan Khôi, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Tuân, Trần Dần, Phùng Quán, Hữu Loan, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang v.v...
    Tại miền Nam, Ngày 22-02, 1957, Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị ám sát "trượt" trong khi đến khánh thành Hội Chợ Ban Mê Thuột. Ngày 1-3-1957, Bộ Giáo Dục VNCH ban hành Sắc Lệnh 45/GD thành lập Viện Đại Học Huế.
    Kỷ Dậu (1969): Chủ tịch HCM qua đời
    Cũng vào năm này bắt đấu cuộc hội đàm gữa Mỹ và Hà Nội. Phía Việt Nam Cộng Hòa do Đại Sứ Phạm Đăng Lâm làm Trưởng Phái Đoàn và các ông Nguyễn Xuân Phong là Phó Trưởng Phái Đoàn. Phía ta do Lê Đức Thọ kà trưởng phái đoàn và Bà Nguyễn Thị Bình, đại diện cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
    Tân Dậu (1981): Đất nước tuy ổn định, nhung cơ chế quan niêu bao cấp đang bộc lộ những nhựoc đuểm làm cản trở sự phát triển. Bác nào sống ở thời kỳ này thì biết là "cuộc sống của dân ta thế nào..."
    Quý Dậu (1993): Ta tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, thực hiện có hiệu quả "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH" và "Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000"
    Ất Dậu (2005): Nhớ lại hai lần Ất Dậu trước đây: 1885 và 1945, đã có nhiều biến cố lịch sử làm thay đổi vận mệnh dân tộc Việt Nam chúng ta. Năm nay, 2005 chính những thành tựu đã đạt được tiếp tục làm tăng thêm thế và lực của đất nước, đặt nền móng và tạo điều kiện thuận lợi cơ bản để chúng ta phấn đấu thực hiện thắng lợi toàn diện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng.

Chia sẻ trang này