1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Một số vấn đề xung quanh lịch sử rút gọn tiếng Việt.

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi madeinviet, 17/06/2007.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. madeinviet

    madeinviet Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/06/2007
    Bài viết:
    1.983
    Đã được thích:
    0
    Một số vấn đề xung quanh lịch sử rút gọn tiếng Việt.

    HƯ TỰ TRONG TRUYỆN KIỀU
    (Phan Khôi 1951)

    Sách ngữ pháp Trung Hoa có sách chia hết thảy những chữ trong các từ loại ra làm hai loại lớn: Một là thực tự, một là hư tự. Thực tự là những chữ thuộc về các loại như danh từ, động từ, hình dung từ, những chữ có hình thể thực tại hay là không có hình thể thực tại mà ta có thể gẫm thấy cái đối tượng của nó, như: bay, ta gẫm thấy đối tượng là con chim trên không; chạy, là con ngựa trên đường; lạnh là da đồng; nóng là hơi lửa. Còn hư tự là những chữ không cứ thuộc về từ loại nào mà đã không có hình thể lại không có đối tượng, như những chữ nếu, bèn, mà, ư... trong đầu ta không thể tìm cái gì để hình dung ra nó được cả. Vì lẽ đó, đem hai loại so sánh nhau, thực tự có ý nghĩa chắc chắn rõ ràng làm ta dễ hiểu hơn, hư tự có ý nghĩa bấp bênh mập mờ làm ta khó hiểu hơn.

    Đã thế mà tiếng ta, khi nói thành lời, viết thành văn, những hư tự lại choán một phần công dụng lớn. Tiếng Pháp, danh từ có chia ra giống và số, động từ có chia ra cách và thì, gánh hết một phần nhiệm vụ quan trọng; nhưng tiếng ta không có thế, bao nhiêu nhiệm vụ ấy đều đổ trên đầu hư tự cả. Cho nên trong khi nói hay viết câu, mặc dầu những danh từ động từ trong đó dùng đúng cả, chỉ hư tự dùng sai đi một cái là cả câu hỏng hết.

    Hư tự ở một địa vị trọng yếu trong tiếng ta như vậy, mà xưa nay bao nhiêu sách tự vị, tự điển giải nghĩa không được rạch ròi cặn kẽ, thành thử người ta có thể dùng lầm hay mỗi người dùng một cách, như "thà" và "chẳng thà" "biết đâu" và "biết đâu không", sự ứng dụng hầu như không một loạt in nhau. Một thứ tiếng nếu còn bừa bãi như thế, hẳn là khó mà tiến đến bậc hoàn mỹ được.

    Dùng hư tự, theo tôi thấy, Truyện Kiều của Nguyễn Du dùng đúng hơn hết, ta nên lấy đó làm gương mẫu. Tôi bèn đọc hết cả cuốn truyện, gặp mỗi một hư tự thì lục riêng từng chữ ra với nhau, có chữ dùng năm ba lần hay mươi, mười lăm lần, có chữ dùng đến năm bảy chục lần. Xong rồi, tôi soát đi soát lại từng chữ, quy nạp nó vào một nghĩa hay mấy nghĩa và tìm thấy cái quy luật ứng dụng nó, lần lượt đem viết ra đây. Không dám nói mười phần đúng cả, đủ cả, nhưng ít nữa cũng dám nói mình làm một việc có căn cứ, không phải võ đoán hay ước chừng theo ý riêng. Trong bài này, bắt đầu đưa ra một ít chữ.

    Bao, bây, bấy - Ai đã ở Nam Bộ, chắc có nghe người trong đó nói hai tiếng "bây dai". Khi mình hỏi họ về một vật gì dài bao nhiêu, họ vừa đưa hai tay lên để cách nhau một quãng nhất định, vừa nói rằng: "nó bây dai". Tôi khi mới nghe hơi ngờ ngợ, rồi cũng hiểu ngay vì nhờ có ra bộ. Nhưng hai tiếng ấy ở Trung Bắc không hề nghe thấy, làm mình phải ngẫm nghĩ tại sao họ lại nói như thế.

    Ngẫm nghĩ một dạo lâu, tôi hơi thấy mối manh, bụng bảo dạ rằng: Người ta đã nói "bây dai" chắc còn có nói "bao dai" nữa.

    Thì một lần khác, ở Hóc Môn, nghe một người đàn bà trong khi cầm một xấp vải ra cửa, ngoảnh lại hỏi chồng rằng: "Áo cắt bao dai?" Người đàn ông trả lời: "Dài bằng áo cũ". Tôi hiểu toạc cả và lấy làm đắc ý vì mình dè chừng mà đã quả trúng.

    Không có gì lạ, "bao dai" nghĩa là dài chừng nào; "bây dai" nghĩa là dài chừng này.

    Nhưng sao chữ "dài" trong hai câu vấn đáp ấy lại biến thành chữ "dai"? Lại phải ngẫm nghĩ một dạo lâu nữa mới nhận thấy rằng nó cũng như chữ "nhiều" biến thành chữ "nhiêu" trong khi nói "bao nhiêu" nghĩa là nhiều chừng nào, "bây nhiêu" nghĩa là nhiều chừng này. Chỉ biết được như thế, chứ còn tại sao nó phải biến, cái lý sở dĩ nhiên ấy đến bây giờ tôi vẫn chưa tìm thấy.

    Hiểu đại khái như thế cũng chắc là đúng rồi, nhưng chưa thật đúng. Cuối cùng nhờ nghiên cứu những chữ "bao" "bấy" dùng độc chiếc trong Truyện Kiều mà tôi cắt nghĩa nó ra được một cách thỏa mãn.

    Nói thật nhanh hay là nói theo lối phiên thiết thì "bằng nào" thành ra "bao", "bằng này" thành ra "bây", "bằng ấy" thành ra "bấy". Vậy thì "bao dai", "bây dai" tức là dài bằng nào, dài bằng này mà nói tắt đi; cũng như "bao nhiêu", "bây nhiêu" tức là nhiều bằng nào, nhiều bằng này mà nói tắt đi.

    So sánh với tiếng ngoại quốc thì cái thuyết ấy in được lắm. Chữ Hán: "hà tất" thành ra "hạt", "bất khả" thành ra "phạ", "chi ư" thành ra "chư"; chữ Pháp: "du" thay cho "de le", "aux" thay cho "à les", "des" thay cho "de les", "au" thay cho "à le", thì tiếng ta có quyền làm "bằng nào" ra "bao", "bằng này" ra "bây", "bằng ấy" ra "bấy" lắm; và hà tiện cho ngôn ngữ như thế cũng là sự rất chính đáng ấy.

    Đến đây xin cử ra những chữ ấy đã dùng trong Truyện Kiều: Chữ "bao" dùng độc chiếc, như:
    1. Trải bao thỏ lặn ác tà;
    2. Quản bao tháng đợi năm chờ;
    3. Trời Liêu non nước bao xa;
    4. Biết bao duyên nợ thề bồi;
    5. Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao.

    Năm chữ "bao" đều dùng chữ "bằng nào" mà cắt nghĩa được cả. Câu 1, trải bằng nào ngày đêm; câu 2, đợi chờ đến bằng nào năm tháng; ba câu 3, 4, 5, xa bằng nào, thề bồi bằng nào, đội trên đầu bằng nào, đều có ý hỏi (interrogatif) để tỏ ra nghĩa là nhiều, không phải ít.

    Phàm những chữ có ý hỏi như nào, đâu, bao (nhớ nó là bằng nào đấy nhé)... khi đi với một chữ nào có sức làm cho cái ý hỏi của nó càng mạnh lên thì nó thành ra cái ý "không" (négatif) hay là phủ định. Trong năm câu đó, câu 2, bao đi với "quản", có ý đợi chờ bằng nào cũng không quản; câu 5, bao đi với "xiết", có ý đội trên đầu bằng nào cũng không xiết: thành ra hai câu có ý phủ định. Vả lại, những chữ phủ định như thế có thể đảo ngược lại mà không đổi nghĩa. Xiết bao có thể là đảo là bao xiết, nhưng trong Truyện Kiều không có dùng; quản bao có thể đảo là bao quản, thì Truyện Kiều có câu "Búa rìu bao quản thân tàn", ý là không quản, cũng vẫn là phủ định.

    Chữ "bây" dùng độc chiếc, như:
    1. Khéo vô duyên bấy là mình ta;
    2. Phũ phàng chi bấy hóa công;
    3. Trời làm chi cực bấy trời;
    4. Thân sao **** chán ong chường bấy thân;
    5. Hoa sao hoa khéo đọa đày bấy hoa;

    Năm chữ "bấy" ấy đều dùng "bằng ấy" mà cắt nghĩa được cả: vô duyên bằng ấy, phũ phàng bằng ấy, cực bằng ấy, chán chường bằng ấy, đọa đày bằng ấy. Bấy = bằng ấy ở đây tỏ ý thương tiếc hoặc trách móc, chẳng khác nào nói "đến nỗi thiếu ư", đều có thể cho một dấu chấm than.

    Chỉ có chữ "bây" không hề dùng độc chiếc. Trong Truyện Kiều có một câu chữ bây: "Lão kia có giở bài bây", nhưng nghĩa khác.

    Rồi đến đặt sau bao, bây, bấy một chữ làm thành liên tự để chỉ thời gian, như bao giờ, bây giờ, bấy giờ, bấy chầy, bấy lâu, bấy nay, trong Truyện Kiều dùng những liên tự ấy nhiều lần lắm. Tựu trung, bao giờ, bấy giờ, nghĩa nó có đại đồng, tiểu dị.

    Bao giờ = bằng nào thì giờ, nói chung, nghĩa cũng như khi nào, lúc nào, nhưng khác nhau ở chỗ khi thi chỉ quá khứ, khi thì chỉ vị lai.
    1. Chỉ quá khứ như: Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ; Nhớ lời nói nhẫn bao giờ hay không.
    2. Chỉ vị lai như: Biết bao giờ lại nối lời nước non; Bao giờ mười vạn tinh binh.
    3. Dùng y nguyên cái nghĩa như khi nào, lúc nào, chứ không chỉ quá khứ hay vị lai, như: Mai sau dù có bao giờ; Nỗi nàng nhớ đến bao giờ. Làm chắc thêm sự nhận định này có câu Tưởng bây giờ là bao giờ, chữ bao giờ này không chỉ quá khứ vị lai, hay là muốn chỉ quá khứ, chỉ vị lai đều được cả.

    Bấy giờ = bằng ấy thì giờ, nói chung nghĩa cũng như khi ấy, lúc ấy, nhưng cũng có đại đồng tiểu dị ở chỗ khi chỉ quá khứ khi chỉ vị lại như chữ bao giờ trên kia.

    Bấy giờ, chỉ quá khứ được, như ta nói: "Bấy giờ tôi chưa để", nhưng trong Truyện Kiều không có dùng như thế lần nào. Truyện Kiều dùng nó trong ba trường hợp này:
    1. Chỉ vị lai, như: Bấy giờ ai lại biết ai, bấy giờ vượt biển ra khơi quản gì.
    2. Dùng y nguyên cái nghĩa như khi ấy, lúc ấy, không chỉ quá khứ vị lai gì cả, như: Thúc sinh trông mặt bấy giờ.
    3. Dùng đi theo "bao giờ" để hô ứng nhau, như: Bao giờ mười vạn tinh binh, tiếng loa dậy đất bóng sinh lợp đường, làm cho tỏ mặt phi thường, bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia, tuy chỉ vị lai, nhưng đã ứng với "bao giờ", chẳng khác nào nói "khi nào... khi ấy".

    Bây giờ = bằng này thì giờ, Truyện Kiều có nhiều lần dùng, độc chỉ về hiện tại, không có gì khác, không cần cử lệ.

    Bấy chầy = bằng ấy chầy, cũng như bấy lâu = bằng ấy lâu, nghĩa giống nhau; bấy nay - bằng ấy (thì giờ đến) nay: cả ba, trong Truyện Kiều đều có dùng nhiều lần, và không có gì lạ, cũng không cần cử lệ. Duy có điều này: hai chữ "bao", "bây" chỉ ghép được với chữ "giờ" để chỉ thời gian trong Truyện Kiều không có dùng "bao lâu" lần nào tuy nó cũng chỉ thời gian); mà chữ "bấy" ngoài với chữ "giờ" ra, còn ghép được với ba chữ nữa là "chầy", "lâu" và "nay", là điều đáng ghi lấy để tìm thấy cái lẽ sở dĩ.

    Cuối cùng còn có hai liên tự "bao nhiêu", "bấy nhiêu", đã nát nghĩa nó ở trên rồi, thì Truyện Kiều dùng nó trong ba trường hợp:
    1. Sinh nghi xin dạy bao nhiêu cho tường; bao nhiêu của, mấy ngày đường; dùng độc chiếc, không đi với bấy nhiêu.
    2. Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên; gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình: dùng độc chiếc, không đi với bao nhiêu.
    3. Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi: bao nhiêu đi đôi với bấy nhiêu, càng tỏ ra đúng với nghĩa đã nát: nhiều bằng nào, nhiều bằng ấy. (Bây nhiêu, ta thường nói, nhất là Nam bộ, nhưng Truyện Kiều không có dùng).

    Đâu - Chữ "đâu", Truyện Kiều dùng đến năm sáu chục lần. Nhiều câu lục bát trong mỗi câu dùng đến hai chữ. Nó có thể chia làm mấy nghĩa khác nhau như dưới.

    Đâu, chính nghĩa nó là ở chỗ nào, trong câu có nó thường cho được dấu hỏi. Truyện Kiều dùng nó theo nghĩa ấy như những câu này:
    1. Lòng đâu sẵn mối thương tâm;
    2. Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần;
    3. Sự đâu chưa kịp đôi hồi, duyên đâu chưa kịp một lời trao tơ;
    4. Kiệu hoa đâu đã đến ngoài, quản huyền đâu đã giục người sinh ly;
    5. Duyên đâu ai dứt tơ đào, nợ đâu ai đã dắt vào tận tay.
  2. madeinviet

    madeinviet Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/06/2007
    Bài viết:
    1.983
    Đã được thích:
    0
    Năm câu đó, chữ "đâu" đi với danh từ lòng, nhạc vàng, sự, duyên, kiệu hoa, quản huyền, duyên, nợ thì nghĩa nó là thế. Nhưng nó là chữ có ý hỏi, cho nên khi nó đi với một động từ, phó từ, hình dung từ nào có sức làm cho cái ý hỏi của nó càng mạnh lên thì nó thành ra có ý "không" hay là phủ định như trên đã nói về chữ "bao". Xem đây:
    1. Dạy rằng mộng triệu cứ đâu;
    2. Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi;
    3. Nghe thôi kinh hãi xiết đâu;
    4. Nguyên người quanh quất đâu xa,
    5. Hẳn ba trăm lạng kém đâu.
    Năm câu đó, chữ "đâu" đi với động từ cứ, nghĩ, với phó từ xiết, với hình dung từ xa, kém, làm mỗi câu thành ra có ý phủ định: không cứ, không nghĩ, không xiết, không xa, không kém. Nhưng chỉ có ý thôi. Khi chữ "đâu" đi với một chữ có ý hỏi khác nữa, như chữ "gì", chữ "nào", lại càng làm bật lên cái ý phủ định rõ ràng, những câu ấy thành hẳn câu phủ định. Như:
    1. Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu;
    2. Trông theo nào thấy đâu nào;
    3. Cơ duyên nào đã hết đâu, vội gì.
    Xem đó, chữ "đâu" đã do có ý hỏi dần dần thành ra có ý phủ định. Thật thế, ta đã dùng nó đi theo một chữ phủ định khác để làm cho cái ý phủ định càng gắt hơn. Như nói "không ăn đâu" thì ý phủ định gắt hơn "không ăn", "chẳng chịu đâu" thì gắt hơn "chẳng chịu", "chưa đi ngủ đâu" thì ý gắt hơn "chưa đi ngủ". Truyện Kiều cũng có vài lần dùng như thế.
    1. Lạ tai nghe chử biết đâu.
    2. Năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy.
    Đến trình độ ấy, chữ "đâu" không còn có ý hỏi nữa, mà chỉ có ý phủ định, nó là "chữ phủ định".
    Theo phổ ngữ pháp, trong câu dùng hai chữ phủ định thì ý câu thành ra khẳng định (positif) bất kỳ ngôn ngữ nước nào cũng thế.
    Ở đây, ta có thể lập ra một cái luật được rồi: Chữ đâu phú định, khi nó đi theo sau một chữ phủ định khác thì nó làm cho ý phủ định của câu càng gắt hơn; nhưng khi nó đứng trước một chữ phủ định khác thì mới kể là hai phủ định làm thành ra kháng định để chỉ cái khả năng tính.
    Cái luật đó, phân nửa trên đã thực hiện trong mấy ví dụ vừa kể; phần nửa dưới thì có căn cứ rành rành ở hai câu này:
    1. Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao.
    2. Đi đâu chẳng biết con người Sở Khanh.
    Biết đâu chẳng là chiêm bao: là chiêm bao; đi đâu chẳng biết Sở Khanh: là biết. Hai câu đều là câu khẳng định để chỉ khả năng tính, rõ ràng lắm.
    Thế mà thỉnh thoảng thấy trên báo hay sách có những câu đặt cách ấy để tỏ ý khẳng định mà chỉ dùng "biết đâu'''' chứ không có "không" hay "chẳng" theo sau. Như ông Trần Trọng Kim trong cuộc bút chiến về Nho giáo, có viết rằng: Khổng Tử học với Lão Tử, biết đâu cũng theo cái chủ trương "vô" của Lão tử (không đúng hẳn nguyên văn, nhưng cái chỗ hỏng của nó thì đúng hơn). Hơn hai mươi năm nay hôm nay tôi mới dám thò bút chữa lại cho ông thế này: Khổng Tử học với Lão Tử, biết đâu không theo cái chủ trương "vô" của Lão Tử: chữa chỉ một chữ thôi.
    Dùng "biết đâu" mà không có "không" hay "chẳng" theo sau thì nó vẫn là câu phủ định, như:
    1. Biết đâu Hợp Phố mà mong Châu về;
    2. Biết đâu địa ngục thiên đường là đâu;
    Có làm sao cắt nghĩa được là biết Hợp Phố, biết địa ngục thiên đường?
    Dầu, dẫu, mặc dầu - Theo chữ Nôm "dầu" viết bằng chữ "du" (chữ Hán) nghĩa là "dầu" (một chất lỏng), nơi thì đọc là dầu, nơi thì đọc là dù, nhưng hoàn toàn đồng nghĩa; còn chữ "dẫu" cũng đồng nghĩa với dầu, dù chỉ khác là khi nói "mặc dầu" thì chỉ nói được mặc dầu chứ không nói được "mặc dẫu".
    Xét theo Truyện Kiều đã dùng thì dầu và dẫu là như vậy. Khác nhau một thanh bình một thanh trắc là chỉ để tiện cho khi làm vận văn cũng như đà, đã, chưa, chửa mà thôi; ngoài sự mặc dầu không nói mặc dẫu được thì hai chữ ấy vẫn đồng nghĩa.
    Cũng xét theo Truyện Kiều, dầu hay dẫu cũng trong hai trường hợp khác nhau, mỗi trường hợp một nghĩa khác.
    Một là dùng trong câu giả thiết:
    Trước hết phải lấy làm lạ rằng trong Truyện Kiều không hề có chữ "nếu" một lần nào. Thì ra, bao nhiêu chỗ theo chúng ta bây giờ đáng nói "nếu" thì Truyện Kiều đều nói dầu hay dẫu cả. Hình như về thời đại Nguyễn Du, trong tiếng ta chưa có chữ "nếu" hay là có rồi mà chưa được thông dụng. Xem đây:
    1. Dẫu chăng xét tấm tình si;
    2. Lượng trên dầu chẳng dứt tình;
    3. Sau dầu sinh sự thế nào;
    4. Thế trong dầu lớn hơn ngoài;
    5. Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha.
    Những câu như thế đều là câu giả thiết. Nghĩa là một sự, chưa biết nó có xảy ra hay không xảy ra, nhưng mình thử đặt ra một cảnh ngộ hoặc nó sẽ xảy ra, hoặc nó sẽ không xảy ra. Như câu 1, tấm tình si chưa biết có xét đến chăng, hẵng đặt ra một cảnh ngộ chẳng xét; câu 4, thế trong chưa biết có lớn hơn ngoài chăng, hẵng đặt ra một cảnh ngộ lớn hơn. Những câu giả thiết như thế tiếng Việt Nam ngày nay đều dùng chữ "nếu": nếu chẳng xét... nếu lớn hơn... nhưng Truyện Kiều đều dùng dẫu hay dầu. Vậy biết rằng cái nghĩa của dẫu hay dầu dùng trong trường hợp ấy tức là "nếu".
    Một là dùng trong câu nhượng bộ, như những câu:
    1. Dẫu thay mái tóc dám dời lòng tơ;
    2. Chị dầu thịt nát xương mòn;
    3. Dẫu bằng xương trắng quê người quản đâu;
    4. Dẫu sao bình đã vỡ rồi;
    5. Dẫu trong nguy hiểm dám dời ước xưa.
    Những câu như thế này đều là câu nhượng bộ. Một sự, chưa biết nó xảy ra như thế nào, nhưng mình cho đi rằng nó sẽ xảy ra thế nọ hoặc thế kia và định trước cách đối phó. Như câu 1, cho đi rằng mái tóc có thay đi nữa, lòng tơ cũng không dời; câu 3, cho đi rằng xương trắng quê người cũng không quản. Nhượng bộ ở đây có nghĩa là: trong khi nói, cái ý mình lùi lại một bước, nhường cho cái sự đi quá một bước.
    Trong tản văn, khi ta dùng chữ dầu hay dẫu ở trước thì thường có chữ cũng theo sau. Vận văn vì số chữ và âm điệu trói buộc nên có khi không đưa chữ cũng vào được, nhưng câu nào đã có dầu hay dẫu theo nghĩa nhượng bộ thì đằng sau nó đều hàm có ý chữ cũng cả. Như hai câu trên mới vừa nát ra thành tản văn, câu nào cũng phải có chữ cũng thì nghĩa mới đầy đủ.
    Tuy vậy, Truyện Kiều không phải là toàn những câu không có chữ cũng đi theo dầu hay dẫu đâu, có nhiều câu có, như những câu này:
    1. Dầu khi lá thắm chỉ hồng, nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha;
    2. Dẫu là đá cũng nát gan lọ người;
    3. Dẫu sao cũng ở tay người biết sao;
    4. Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên;
    5. Dẫu rằng sông cạn đá mòn, con tằm đến chết cũng còn vương tơ;
    Trong tản văn, ta hay nói "dầu muốn dầu không cũng...", "dầu sớm dầu muộn cũng...", trong một câu dùng chữ dầu hai lần và có chữ cũng theo sau, Truyện Kiều cũng có khi dùng như vậy: Phận hèn dầu rủi dầu may tại người, ta có thể thêm chữ cũng vào đó lắm: dầu rủi dầu may cũng tại người.
    Nhân đó ta có thể nhận định rằng: chữ dầu hay dẫu ở trường hợp câu giả thiết với ở trường hợp câu nhượng bộ có sự phân biệt nhau tại chỗ này: trường hợp thứ hai thì có chữ cũng đi theo hoặc tỏ hoặc ngầm, mà trường hợp thứ nhất thì không có.
    Đến chữ "mặc dầu". Nó cũng dùng trong câu nhượng bộ nhưng có ý khác một chút. Nó là bởi "dầu thế nào cũng mặc" mà nói tắt đi, chính trong nó đã có chữ cũng rồi, và có ý là "bất luận", không nói tới. Truyện Kiều có hai câu, nghĩa rõ ràng như thế:
    1. Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa;
    2. Chiều con mới dạy mặc dầu ra tay.
    "Mặc dầu" dùng như thế gần giống như "mặc kệ". Lại cũng có khi dùng độc một chữ dầu thì nghĩa lại giống như chữ "mặc".
    1. Phận dầu dầu vậy cũng dầu;
    2. Dầu lòng biển rộng sông dài thênh thênh.
    Câu 1, chữ dầu thứ nhất có ý nhượng bộ nhưng không nói hết ý, chữ dầu thứ hai lắp lại chữ thứ nhất và chữ "vậy" để chỉ cái ý còn hàm súc đó, chữ dầu thứ ba, nghĩa như chữ mặc. Theo phép viết cho đúng thì phải viết: "Phận dầu... dầu vậy cũng dầu", nghĩa là dầu cái phận có như vậy nữa cũng mặc. Câu 2, dầu lòng tức là mặc lòng.
    Theo như trên, trong chữ "mặc dầu" vốn đã có ý chữ cũng; nhưng trong tản văn hiện thời, mặc dầu ở trên ta đã có dùng chữ "mặc dầu" rồi, ở dưới cũng dùng được chữ "cũng" nữa, như nói: mặc dầu trời mưa, tôi cũng cứ đi. Khi nói như thế, chữ "mặc dầu" cũng chỉ như một chữ "dầu" mà thôi.
    Tóm lại, chữ dầu hay dù hay dẫu ở trường hợp thứ nhất giống như chữ "si" trong tiếng Pháp, ở trường hợp thứ hai giống như bien que hay quoi que, còn mặc dầu giống như quoi qu''''il en soit.
    Viết thêm về sau
    Về chữ bao chữ bấy:
    Trong bài này, về chữ bao, chữ bấy, tôi cho là bởi bằng nào, bằng ấy, mà nói tắt đi. Khi viết ra, tôi chỉ lấy lý mà đoán như thế. Không ngờ đến sau gặp được một cái chứng cứ rất sống, rất sốt dẻo.
    Ngày 9-6-1950, là ngày thứ bảy, tôi đi có việc đến Dốc Điệp, chỗ cách Đại Từ ba cây số về phía Nam, không có chỗ nghỉ, gặp một ông già người Thổ (Tầy) đưa vào trong làng. Đến nơi, là nhà ông, nghe ông nói chuyện với người khác, có câu thế này: "Anh ta (chỉ người nào đó) tưởng bằng ấy lâu tôi tiêu số tiền đã hết rồi". Ấy là dùng bằng ấy lâu thay cho bấy lâu.
    Lại ngày 5-3-1951, nghe ông Thuyền, chủ nhà tôi trọ tại Cảm Nhân, hỏi một anh thanh niên câu thế này: "Anh bắn nỏ bằng nào xa?". Ấy là dùng bằng nào xa thay cho bao xa.
    Hầu hết người Thổ nói tiếng Kinh đều trôi chảy, chỉ có một vài giọng hơi khác. Có người nói tiếng Kinh, lại còn sành hơn người Kinh chúng ta. Nhưng theo tôi thấy đại khái thì họ nói tiếng Việt xưa, còn từ ngữ nào đã đổi mới thì họ chưa biết mà dùng đến. Ấy là nói về tiếng dùng thông thường, chứ những danh từ mới về chính trị v.v... thì họ có học có nghe diễn thuyết nên biết mà dùng được cả.
    Bằng nào, bằng ấy là tiếng Việt xưa sau, đã đổi ra bao, bấy rồi, mà người Thổ còn cứ nói bằng nào, bằng ấy.
    Gần nay tôi lại còn thấy ra chữ đâu, để thay cho đằng nào, chữ đây thay cho đằng này, chữ đấy thay cho đằng ấy, tuy chưa có chứng cớ, nhưng cũng chắc không sai. Nó cũng theo một công lệ "nói tắt" như bao, bây, bấy.
    Hai việc trên, khi gặp được, tôi ghi lập tức. Về sau mới viết thêm vào đây.
    (Tại Hán Đà, ngày 2-12-1951)
    (Nguồn: Việt Ngữ Nghiên Cứu - NXB Đà Nẵng 2005)
    Được madeinviet sửa chữa / chuyển vào 10:43 ngày 17/06/2007
  3. LHX_NDD

    LHX_NDD Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/06/2004
    Bài viết:
    2.991
    Đã được thích:
    0
    Bài này quả thật hay thật đấy, cảm ơn madeinviet nhiều nhé!
    Chẳng hay bài này là do bạn tự nghiên cứu hay do nghiên cứu từ nguồn nào vậy?
  4. cuonglhvt

    cuonglhvt Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/10/2003
    Bài viết:
    5.262
    Đã được thích:
    0
    Người Miền Nam thường nói "Bi nhiêu" "Bi giờ" "Bi dai" dịch ra là "nhiều bằng ni" "bằng ni giờ" "dài bằng ni" .
    Còn "đấy" (đằng ấy) thường được thay bằng "đó" (đằng nó???).
    @LHX_NDD: Nguồn bài viết nằm ngay trên đầu của bác đấy (tức là "đằng ấy")
    Được cuonglhvt sửa chữa / chuyển vào 14:34 ngày 18/06/2007
  5. vovinamvn

    vovinamvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    08/10/2007
    Bài viết:
    988
    Đã được thích:
    1
    bạn muốn biết nhiều về âm địa phương, thổ ngữ hay từ lóng của từng vùng thì mỗi vùng phải lăn lộn từ 3-4 năm sẽ biết ngay !
    Có nhiều từ lóng cũng ít dùng huặc tuyệt chủng theo thời đại
    Ví dụ : có lần gặp một bác (hơn tôi vài tuổi) hỏi vài câu có từ lóng miền Tây, bác này cứng ngắc...thế mà cũng bảo quê ở miền Tây gốc !
    Ở HN nhiều từ lóng bây giờ mà nói thì bọn trẻ con cũng chả hiểu, cũng chỉ là từ lóng của một thời

Chia sẻ trang này