1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

MỘT THÁI ĐỘ ĐÚNG ĐẮN ĐỐI VỚI NHO GIÁO

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi schmeichel, 18/02/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. schmeichel

    schmeichel Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/02/2006
    Bài viết:
    14
    Đã được thích:
    0
    MỘT THÁI ĐỘ ĐÚNG ĐẮN ĐỐI VỚI NHO GIÁO

    Tạp chí Văn hoá - Nghệ thuật, Hà Nội, năm 2004, đăng bài ?oMỘT THÁI ĐỘ ĐÚNG ĐẮN ĐỐI VỚI NHO GIÁO
    ? (các bài có liên quan : http://www.vanhoanghethuat.org.vn/2003.02/nguyenkimson.htm , http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=1153&rb=0305, http://vanhoanghethuat.org.vn/2005.01/kimson.htm, http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=5189&rb=0104) của tác giả Nguyễn Kim Sơn. Giáo sư tiến sĩ Hán Nôm Nguyễn Kim Sơn là một nhà giáo, một nhà trí thức, một nhà tư tưởng thuộc thế hệ mới (sinh năm 1966), học trò của nhà giáo trứ danh Phan Đình Hượu, hiện là trưởng phòng đào tạo Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. Dưới đậy là bài viết, mong các bậc bề trên và các anh chị em trong diễn đàn cho ý kiến.

    MỘT THÁI ĐỘ ĐÚNG ĐẮN ĐỐI VỚI NHO GIÁO
    NGUYỄN KIM SƠN
    Trong xu hướng tổng kết thế kỷ XX, đánh giá lại, định vị những công trình nghiên cứu có ý nghĩa lớn như Khổng giáo phê bình tiểu luận (Quan hải tùng thư, Huế, 1938) là việc làm rất cần thiết. Đã đủ độ lùi cần thiết của thời gian để chúng ta định vị được Khổng giáo phê bình tiểu luận trong dòng vận động của tư tưởng và học thuật, trong lịch trình triển khai áp dụng, vận dụng và thể nghiệm các phương pháp luận nghiên cứu, các quan điểm nghiên cứu. Đồng thời cũng đặt tác phẩm trong dòng vận động của tư tưởng Việt Nam, tâm thái của các tầng lớp xã hội trong buổi Âu Á giao thời, trong buổi chọn đường phát triển của văn hóa Việt Nam, đặt nó trong lịch sử nghiên cứu Nho giáo thế kỷ XX nói chung, với cái nhìn toàn cục các diễn tiến ở các quốc gia châu á và trên thế giới.
    Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, diễn ra bước chuyển mạnh mẽ từ học thuật truyền thống của Nho gia sang nghiên cứu Nho gia với tư cách là một lĩnh vực học thuật lấy tư tưởng Nho gia làm đối tượng nghiên cứu. Trong quá khứ, suốt nhiều thế kỷ, các quốc gia Đông Á ( Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam) tình hình chung là, có số lượng rất lớn những người cả đời nghiên cứu, suy ngẫm về kinh điển của Nho gia. Học thuật của họ, bao gồm huấn giải, khảo chứng, chú sớ, truyện chú cho kinh điển. Đối với thiên kinh địa nghĩa, học là để lĩnh hội, tiếp thu và biến giáo nghĩa thành thực tiễn đạo đức sinh động ở bản thân mình. Học thuật của họ là xiển phát nghĩa lý và tìm hiểu tư tưởng với tư cách của giáo đồ. Công việc được tiến hành với tinh thần sùng kính tôn vinh. Các hoạt động đó gọi chung là kinh học. Bước chuyển biến lớn của học thuật đầu thế kỷ XX là từ kinh học Nho gia sang khoa học nghiên cứu Nho gia hiện đại với đối tượng và phương pháp nghiên cứu rõ ràng. Công việc này được nhiều học giả Trung Quốc đầu thế kỷ XX tiến hành với quy mô lớn, những tên tuổi thường được nhắc đến như Lương Khải Siêu, Trần Độc Tú, Lý Đại Chiêu, Hồ Thích?
    Tại Việt Nam, quá trình giải thể của nền giáo dục khoa cử Nho học những năm 1918-1919, quá trình Âu hóa diễn ra mạnh mẽ và sâu sắc trong xã hội Việt Nam cũng đã tạo ra những chuyển biến quan trọng trong lĩnh vực nghiên cứu và thảo luận Nho học. Phan Bội Châu với Khổng học đăng và Kinh Dịch có thể coi là những hoạt động cuối cùng theo cách xiển phát kinh điển, cổ vũ cho tư tưởng Nho gia. Nho giáo, một cuốn sách giới thiệu về Nho giáo khá hệ thống và sâu sắc của Trần Trọng Kim, cũng ra mắt độc giả vào giữa thập kỷ 30. Tuy đầy tâm huyết và trong cách nhìn có nhiều nét mới mẻ, nhưng cả Phan Bội Châu và Trần Trọng Kim về căn bản vẫn chưa vượt ra ngoài phên dậu học thuật của nhà nho, tức cái học chú sớ, giảng nghĩa quen thuộc của nhà Nho.
    Những bài phê phán Nho giáo của Phan Khôi trên báo Thần Chung và những bài phê phán Nho giáo trên báo Nam phong và các tờ báo khác thập kỷ 20 đầu thập kỷ 30 tuy gay gắt và quyết liệt nhưng phần nhiều là những đoạn thảo luận có tính khen chê hơn là phân tích mổ xẻ có bài bản có phương pháp, đúng nghĩa là một lĩnh vực khoa học lấy tư tưởng Nho gia làm đối tượng nghiên cứu. Việc nghiên cứu Nho giáo một cách đúng nghĩa, chỉ thực sự bắt đầu từ 1938 với Khổng giáo phê bình tiểu luận của Đào Duy Anh. Ông đã nghiên cứu Nho giáo với phương pháp luận mới mẻ, khoa học, có hệ thống, có phương pháp. Ông đã có cái nhìn khách quan khoa học hơn những thế hệ trước trong việc đánh giá nghiên cứu về Khổng giáo. Tuy chỉ là một công trình có số lượng trang chữ khiêm tốn với cái tên tiểu luận, nhưng công trình thực sự đã đánh dấu mốc quan trọng trong lịch sử nghiên cứu Nho giáo ở Việt Nam thế kỷ XX, cũng như lịch sử tư tưởng Việt Nam hiện đại nói chung. Với ý nghĩa đó, Đào Duy Anh là người khai mở cho lĩnh vực nghiên cứu Nho giáo ở Việt Nam thời kỳ hiện đại.
    Đào Duy Anh là người đầu tiên áp dụng phương pháp luận nghiên cứu của chủ nghĩa Mác vào nghiên cứu Nho giáo ở Việt Nam. Theo hướng này, Đào Duy Anh đặc biệt chú ý tới những nguyên nhân, những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của thời điểm Nho giáo ra đời cũng như những nhân tố tạo ra những biến thiên của nó trong lịch sử, và cuối cùng luận bàn về lẽ tồn vong tất yếu của nó trong lịch sử. Sự tồn tại của một loại tư tưởng, học thuyết theo ông đều có tính lịch sử cụ thể, trong đó điều kiện kinh tế có ý nghĩa quyết định. Ông viết: ?oPhàm một chế độ thành lập hay biến thiên, tất do nhiều nguyên nhân, như tư tưởng, tập quán tôn giáo, mỹ thuật, chủng tộc, địa lý?, nhưng cái nguyên nhân trọng yếu nhất là điều kiện kinh tế. Chế độ nô lệ thành lập ở trên nền kinh tế nô lệ, chế độ phongkiến thành lập ở trên nền kinh tế phong kiến, chế độ tư bản thành lập trên nền kinh tế tư bản, nói tóm lại thì chế độ tức phản ánh của kinh tế. Vậy thì chế độ biến thiên, tất vì nền tảng kinh tế biến thiên...?(1).
    Rõ ràng, Đào Duy Anh đã vận dụng một cách khá triệt để và sâu sắc phương pháp luận Mác xít, quan điểm kinh tế luận Mác xít để nghiên cứu các vấn đề tư tưởng phương Đông. Phương pháp mà Đào Duy Anh tiến hành để thao tác, luận giải chính là phương pháp xã hội học lịch sử mà nhiều học giả Mác xít áp dụng. Cách làm này chưa từng thấy ở các học giả Việt Nam, mà ở Trung Quốc cũng mới bắt đâù được triển khai.
    Theo hướng này, Đào Duy Anh đã lý giải, mô tả kỹ lưỡng tình hình nền sản xuất nông nghiệp, công thương nghiệp, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Vấn đề công cụ sản xuất, tổ chức sản xuất. Trong đó ông coi việc tìm ra và xử dụng công cụ bằng sắt có tính chất quyết định tới các chuyển biến kinh tế, xã hội thời Chu. Quan điểm này có phần giống quan điểm của Hồ Thích, Quách Mạt Nhược, Hầu Ngoại Lư ở Trung Quốc. Đào Duy Anh cũng chú ý phân tích tới những chuyển biến xã hội, những biến chuyển trong tầng lớp dân cư, sự xuất hiện của những giai tầng xã hội mới?Khi phân tích các vấn đề xã hội, ông tỏ ra quán triệt các quan điểm duy vật lịch sử của Mác, các vấn đề lý luận của học thuyết Mác về phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp. Ông nói:
    "Khổng tử chính là nhà triết học đại biểu cho tư tưởng của giai cấp tân địa chủ và sĩ phiệt, mà Khổng giáo là học thuyết đại biểu cho tư tưởng thống trị và trọng nông của giai cấp ấy?(2). Chính Đào Duy Anh đã mở đầu việc nghiên cứu các vấn đề của tư tưởng, văn hóa, chính trrị, xã hội phương Đông trên cơ sở phân tích các quan hệ giai cấp, những xung đột và đấu tranh giai cấp để đánh giá các vấn đề tư tưởng. Rất nhiều vấn đề tư tưởng phức tạp của Khổng tử, của tầng lớp sĩ đương thời, những hạn chế, tính bảo thủ, tính cải lương của tư tưởng Khổng tử đều được Đào Duy Anh tố nguyên về vị trí, lợi ích và đặc điểm của giai cấp tân địa chủ.
    Quan điểm kinh tế luận và học thuyết phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp được Đào Duy Anh vận dụng quán xuyết toàn bộ Tiểu luận. Nó mở đầu cho xu hướng luận giải về các hiện tượng tư tưởng lấy phương pháp luận Mác xít làm cơ sở, làm kim chỉ nam. Công việc nghiên cứu theo hướng đó đã đạt được những ưu điểm mà trước đó chưa từng có. Nó cho phép lý giải được những nguyên nhân khá xác đáng và thuyết phục của các hiện tượng tư tưởng, xã hội. Tuy nhiên công việc của Đào Duy Anh đồng thời cũng mở đầu cho một hướng nghiên cứu còn có phần cứng nhắc, khiên cưỡng, do quá trình vận dụng phương pháp luận Mác xít chưa thực nhuần nhuyễn gây ra.
    Những ưu thế mà phương pháp luận Mác xít đem lại cho giới nghiên cứu là hiển nhiên, không thể phủ định được. Ở đây chúng tôi chỉ bàn tới một vài điểm liên quan tới việc áp dụng cụ thể phương pháp luận đó của một học giả cụ thể cho một đối tượng nghiên cứu cụ thể là Nho giáo ở một thời điểm cụ thể là nửa đầu thế kỷ XX.
    Đào Duy Anh thuộc thế hệ những người đầu tiên áp dụng phương pháp luận Mác xit vào nghiên cứu văn hóa phương Đông, cụ thể là ở Việt Nam. Tác giả đã áp dụng phương pháp luận này cho một đối tượng nghiên cứu khá rộng lớn, từ triết học, lịch sử, địa lý, văn học, phong tục tập quán... Trong đó các công trình nghiên cứu có tính chất đại cương về lịch sủ Việt Nam, lịch sử văn hóa và tư tưởng Việt Nam là tiêu biểu hơn cả. Phương pháp mà Đào Duy Anh vận dụng chính là phương pháp xã hội học lịch sử. Việc lần đầu áp dụng loại phương pháp luận có nhiều ưu thế này đã tạo cho tác giả những năng lực giải quyết mạnh mẽ các vấn đề khoa học. Quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã khiến cho nhiều vấn đề chính trị, xã hội, lịch sử vốn rất phức tạp được nhìn nhận một cách sáng rõ. Nó thực sự tạo ra một bước phát triển có tính cách mạng về mặt phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu. Tuy nhiên chính vì là những người đầu tiên áp dụng loại phương pháp luận này nên việc áp dụng nó không tránh khỏi nhiều chỗ còn khiên cưỡng, thô sơ, chưa đạt tới độ tinh tường nhuần nhuyễn sâu sắc, tinh tế. Mặt khác do đối tượng nghiên cứu có nhiều nét đặc thù mà những phân định rạch ròi về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, việc phân chia giai cấp ở phương Đông gặp phải những khó khăn cản trở. Tức tính đặc thù của phương thức sản xuất châu Á là rất lớn, điều đó có cản trở việc triển khai phương pháp luận nghiên cứu loại này.
    Khi phân tích những vấn đề mà theo Đào Duy Anh là cốt lõi, là nội dung cơ bản của học thuyết Khổng tử, tác giả chú ý tới các vấn đề như biến hóa tùy theo, chính danh, trung ương tập quyền, nhân, hiếu, tam tòng, trung dung, quân tử, lễ nhạc, tuy nhiên tác giả mới chỉ luận giải ở mức sơ giản. Tác giả chưa chú ý làm rõ hàm nghĩa của từng phạm trù, lý giải tỷ mỷ từng quan niệm. Điều này khó có thể đòi hỏi hơn vì chính tác giả đã nói từ đầu rằng tiểu luận này chỉ có tính chất đề cương cho một công trình quy mô lớn hơn. Điều đáng nói ở đây là tác giả đã quá thiên về lý giải những nguồn gốc giai cấp, đặc tính giai cấp của các tư tưởng đó. Giai cấp tân địa chủ - sĩ phiệt được ông cho là chủ thể tư tưởng của mọi quan niệm của Khổng tử. Ông viết: ?oTa có thể nói rằng phương pháp dung hoà hai cái khuynh hướng đả đảo địa vị của giai cấp quý tộc cũ và củng cố địa vị của giai cấp tân địa chủ, chính là đạo trung dung vậy?(3).
    Khi phân tích các điều kiện tồn tại ở thời Xuân Thu, Chiến Quốc ở Trung Quốc, do quá chú ý, mải miết theo đuổi những vấn đề thuộc hoàn cảnh kinh tế, cơ cấu giai cấp, những mâu thuẫn giai cấp... tác giả đã không chú ý đúng mức tới những nhân tố phát triển nội tại của chính văn hóa, học thuật, tư tưởng của Trung Quốc cũng như những biến thiên của nó trong hoàn cảnh kinh tế, xã hội có những thay đổi to lớn. Những nhân tố đó chẳng hạn như truyền thống lễ nhạc, vu giáo, cấu trúc gia tộc và văn hóa gia tộc, thể chế tông pháp... Chính Khổng tử là người đứng ở tâm điểm của mọi sự biến chuyển văn hóa và học thuật, là người đóng vai trò tổng kết văn hóa, là người hội tụ những truyền thống lớn của văn hóa Trung Quốc cổ đại. Đi lướt qua những vấn đề hệ trọng của truyền thống văn hóa Trung Quốc, Đào Duy Anh đã chưa làm rõ được, luận giải được những điểm có thể coi là cốt tủy của tư tưởng Khổng tử, cùng những đặc điểm tư duy, phương pháp tu dưỡng, cơ chế tâm lý của sự tu thân nội tỉnh. Tác giả mới thiên về lý giải phương diện chính trị xã hội của học thuyết. Đào Duy Anh nhắc tới cả lễ, nhạc,nhân, chính danh, thời, những không chỉ ra mối liên hệ nội tại của chúng, cơ chế tương tác, phối hợp của chúng tạo thành một chỉnh thể của học thuyết Khổng phu tử. Việc nhìn nhận và chỉ ra sự vận động nội tại của văn hóa, tư tưởng Trung Quốc cũng cần thiết một cái nhìn lịch sử, quan điểm biện chứng, tuy nhiên do quá chú ý tới thân phận xã hội, thành phần giai cấp của Khổng tử và tầng lớp sĩ nên tác giả đã chưa chú ý tới các phương diện này.
    Sự thiếu hụt này không chỉ thấy ở Đào Duy Anh mà ở Việt Nam đầu thế kỷ XX và suốt nhiều thập kỷ giữa thế kỷ XX, người ta vẫn ngại nói tới những nhân tố phát triển nội tại của tư tưởng và học thuật, sự chuyển hóa và ngưng tụ của các hiện tượng văn hóa vì sợ quy là duy tâm. Đó chính là một hạn chế trong sự vận dụng phương pháp luận mác xít nghiên cứu các vấn đề của tư tưởng và văn hóa Việt Nam.
    Mặt khác, Đào Duy Anh cũng đã không thấy được rằng tư tưởng Khổng tử không phải nhất thành bất biến, mà có sự vận động trong các chặng khác nhau của đời sống, ở từng chặng khác nhau trong đời Khổng tử. Đòi hỏi như vậy là có phần quá đối với các học giả thập kỷ 30. Những đóng góp khoa học của Đào Duy Anh không vì những lẽ đó mà giảm phần ý nghĩa quan trọng, tuy nhiên nếu đặt vấn đề cần định vị tác phẩm Khổng giáo phê bình tiểu luận trong lịch sử nghiên cứu Nho giáo ở Việt Nam thế kỷ XX thì nhìn nhận nhiều chiều, chỉ ra các hạn chế của việc áp dụng các quan điểm nghiên cứu là không thể lảng tránh. Những hạn chế đó là những hạn chế mang tính lịch sử.




  2. khatsi

    khatsi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/11/2005
    Bài viết:
    40
    Đã được thích:
    0
    Xin được đính chính mấy chữ với bạn
    - Anh Nguyễn Kim Son là Phó Giáo sư Tiến sĩ chứ không phải là Giáo sư Tiến sĩ
    - Anh Nguyễn Kim Sơn là học trò của Giáo sư Trần Đình Hượu chứ không phải Giáo sư Phan Đình Hượu
    - Anh Nguyễn Kim Sơn có phải là nhà tư tưởng hay không là chuyện còn phải bàn. Tớ rất kính trọng anh Sơn, nhưng bảo anh ấy là nhà tư tưởng thì tớ chưa đồng ý.

Chia sẻ trang này