1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Một thời để mất - Bùi Ngọc Tấn

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi U_r_bullshit, 26/05/2007.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. U_r_bullshit

    U_r_bullshit Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/10/2006
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    0
    Không thể tự mình tỏ ra là những phần tử cá nhân chủ nghĩa. Cũng không thể chống lại nghị quyết chi bộ. Việc thảo luận trong toàn cơ quan chỉ để chính thức hoá nó, pháp chế hoá nó. Vũ Bão dạo ấy đang nổi tiếng với tiểu thuyết Sắp cưới và bị đánh tơi tả, hay qua lại chỗ chúng tôi, biết chuyện cấm viết văn ở báo Tiền Phong, nói với điệu hài hước rất quen thuộc của anh:
    - Tiểu đoàn 2 phải rút về cánh đồng Chum thôi.
    Thời đó tiểu đoàn 2 của ông hoàng Xu-pha-nu-vông xây dựng cơ sở ở cánh đồng Chum để tiến hành cuộc chiến tranh giữa ba anh em cùng là Hoàng thân nước Lào. Chúng tôi không có cánh đồng Chum của mình. Mà văn chương chỉ những ai đã mắc vào mới rõ: Không thể nào dứt ra cho được. Nó như ma tuý. Nó lại ngọt ngào, cay đắng, sung sướng, thất vọng, đam mê, hệt như tình yêu. Thế là bảo nhau: ?oCăn bản là phải làm báo tốt. Ít nhất phải bằng hoặc hơn những anh em chỉ viết báo, không viết văn?. Việc này không khó lắm. Vì cái máu văn chương làm chúng tôi lăn lộn với cuộc sống. Lấy tài liệu kỹ. Ghi cả ngôn ngữ. Cả cảnh. Cả những chi tiết không phục vụ cho việc viết báo. Nguyễn Trí Tình suốt đêm đi làm với các anh các chị đổ thùng. Đón giao thừa với các anh lái xe lửa trên chuyến tầu Hà Nội - Lạng Sơn. Tôi thì lang thang ở vùng quê Ninh Bình, Hà Nam, tìm ra một anh Nguyễn Tê nào đó là cán bộ đoàn mà không chịu vào hợp tác xã. Báo Tiền Phong tổ chức thảo luận trên báo về trường hợp anh Nguyễn Tê. Bài vở, ý kiến tới tấp gửi về. Đóng góp của tôi cũng gọi là tàm tạm.
    Đó là chưa kể những chuyến đi về các mũi nhọn của nông thôn đầy gian khổ nhưng biết bao hào hứng khác.
    Để viết bài phản ảnh. Như chuyến về Lâm Động (Thuỷ Nguyên) lấy tài liệu ngày giỗ trận, cùng chi đoàn tát ao, bắt cá liên hoan. Rồi chuyến đi lên Ngũ Kiên (Phúc Yên) nơi đi đầu trong phong trào cấy song long quá hải, nuôi lợn bằng biện pháp cho lợn ăn *** trâu, cắt đuôi, cắt tai, cắt tuyến giáp trạng...
    Lại như chuyến về Thanh Hoá, đạp xe tới nhà anh hùng lao động Trịnh Xuân Bái, người tôi đã quen ở đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc tại Hà Nội. Vừa từ Liên xô về, ấn tượng về Liên xô, thiên đường trên trái đất, tương lai của Việt Nam, thủ đô của cách mạng thế giới còn đầy ắp trong đầu, anh hùng Trịnh Xuân Bái hào hứng đọc cho tôi nghe bài thơ mới sáng tác của ông về Liên xô:
    Liên bang xô viết Thú tự do ao ước bấy lâu nay Kìa hồng quân thuyền thợ với dân cày Đệ nhất sướng hỏi rằng đây có phải Rồi:
    Này trường Lô-mô-nô- xốp Này điện Cẩm Linh Ngước trông lên ai khéo hoạ hình Cờ liềm búa long lanh như gấm dệt Các Mác tinh thần bất diệt Lê-nin sự nghiệp rất cao siêu Càng nhìn chủ nghĩa càng yêu.
    Tôi ghi lại bài thơ mà không dám nói với nhà thơ Trịnh Xuân Bái rằng thi phẩm của ông bị ảnh hưởng Chu Mạnh Trinh quá rõ. Tuy nhiên giá trị phổ biến của nó thật ghê gớm. Khi tôi về toà soạn, ngay lập tức bài thơ đã nhập tâm nhiều người, từ Lê Thị Tuý, Nguyễn Trí Tình, Tất Vinh tới anh bạn nhiếp ảnh Mai Nam. Ngay cả đồng chí Tổng biên tập, những lúc cầm bát đũa xuống nhà ăn tập thể cũng ngâm nga:
    Ngước trông lên ai khéo hoạ hình Cờ liềm búa long lanh như gấm dệt Ngoài chuyện viết báo, mọi chuyện khác cũng phải nghiêm túc. Ví như làm bích báo. Chúng tôi đều có bài. Nguyễn Trí Tình thuật lại chuyến đi phỏng vấn một chị dân lao động ở khu lao động Lương Yên cho số báo mồng 1 tháng 5. Nguyễn Trí Tình vừa ngồi một lúc thì chị chủ nhà đi chợ về. Chị thả từ cái ***g ra một con chó con mới mua ở chợ. Con chó từ ngoài sân ngoe nguẩy cái đuôi ngắn ngủn, ngỏng đầu hít hít và chạy thẳng vào trong nhà, tới chỗ Nguyễn Trí Tình ngồi, rồi cứ quấn quýt lấy hai bàn chân đi bít tất của anh lúc ấy đã rút ra khỏi đôi giầy ba ta. Anh hẩy nó ra. Nó lại sán đến, cái đuôi quay tít mừng rỡ. Tình khẳng định giữa anh và con chó chưa có sự quen biết nào. Vì sao lại có tình bạn tuyệt vời này. Rồi anh chợt hiểu nguyên nhân của mối tình tiền kiếp đó: Chân anh, bít tất anh đi giầy vải lâu ngày không giặt, có mùi quá nặng. Chính anh cũng ngửi thấy cái mùi đặc trưng ấy.
    Tất Vinh cũng góp những bài độc đáo. Anh viết về những nỗi khổ của tổ văn nghệ (Tất Vinh ở tổ văn nghệ) trong việc sử dụng thơ bạn đọc, có trích những câu thơ đại loại như những câu ca ngợi sự phát triển của ngành đường sắt, vừa khôi phục xong đường Hà Nội ?" Nam Quan đã lại thông đường Hà Nội - Lào Cai:
    Phe ta càng mạnh càng to Xịt ta, Mao Trạch, Bác Hồ vinh quang.
    Miền Bắc kiên thiết vững vàng Nam Quan tầu chạy lại càng Lào Cai.
  2. U_r_bullshit

    U_r_bullshit Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/10/2006
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    0
    (Tôi muốn mở ngoặc đơn ở đây rằng Bút Tre không phải là người chế tạo ra trường phái Bút Tre. Trường phái này có từ trước khi Bút Tre làm thơ, Bút Tre chỉ là người đại diện ưu tú, tiêu biểu nhất mà thôi. Tất Vinh có kể cho tôi nghe hồi chống Pháp, khi còn trong bộ đội, anh đi các tiểu đoàn mở lớp huấn luyện làm ca dao, thơ lục bát, câu sáu vần với câu tám ra làm sao. Tất Vinh đọc trước một câu sáu:
    Con mèo là con mèo đen Một chiến sĩ giơ tay đọc ngay câu tám như sau:
    Cớ sao mày ở trong đèn mày ra?
    Vần thì vần đấy nhưng thật chẳng ra làm sao cả).
    Cũng có số báo Tất Vinh chỉ cho đăng một mẩu quảng cáo: ?oNếu bạn và người yêu bạn cùng hơi bị vổ thì hôn nhau như thế nào? Trong số báo sau bạn TD vui lòng giải đáp?.
    Bạn TD là đồng chí tổng biên tập báo Tiền Phong của chúng tôi, hai vợ chồng đồng chí đều có hàm răng hơi hô. Tất nhiên độc giả TD xem báo của chúng tôi chỉ có thể cười. Cười vô tư, thán phục một trò chơi tinh nghịch, ?otrẻ không tha, già không thương? mà không để bụng. Tôi nghĩ nếu bây giờ có nhân viên nào đùa thủ trưởng như vậy thì sau tiếng cười miễn cưỡng, hậu quả hẳn là sẽ khác. Thời ấy chúng tôi vừa cùng ở rừng về với nhau...
    Thực hiện tốt những biện pháp giữ mình như vậy, chúng tôi cảm thấy yên tâm, khi nào không nhịn được viết văn, chúng tôi... cứ viết.
    Tôi viết, ký tên Lôi Động, quê mẹ tôi và gửi dự thi ở tạp chí Văn Nghệ. Cái tên ấy chỉ xuất hiện một lần. Có lẽ cũng vì vậy mà mới đây khi báo Văn Nghệ làm thống kê về những cuộc thi truyện ngắn của báo, những truyện và những người được giải (kể cả giải khuyến khích) của báo không có truyện Sao cũng không có tên Lôi Động. Cái anh chàng Lôi Động đúng là không có thực.
    Ngay lập tức tất cả mọi người trong cơ quan báo Tiền Phong đều biết Lôi Động là ai. Anh em viết văn thì chúc mừng, các đồng chí lãnh đạo cũng không quở trách. Chắc các đồng chí ấy nghĩ rằng chỉ nguyên việc tôi đổi bút danh (thời ấy khi viết báo, tôi ký tên Tân Sắc) cũng chứng tỏ tôi biết sợ, biết chấp hành nghị quyết. Tôi được mời đi dự tổng kết, trao giải thưởng, ăn tiệc. Tôi có trông thấy Xuân Diệu trong lễ trao giải. Nghe anh báo cáo về việc chấm thi tôi mới biết chính anh đã đọc lại truyện Sao từ đống truyện ngắn đã loại ra...
    Ít lâu sau tôi được mời đi dự hội nghị những người viết văn trẻ lần thứ nhất. Không thể bỏ cơ quan xuống ấp Thái Hà họp hai ngày. Cũng không thể xin phép đồng chí tổng biên tập. Như vậy là bắt đồng chí ấy chính thức công nhận việc viết văn. Tôi rất cảm ơn anh Đỗ Văn Thoan, người tổ trưởng nông thôn, sếp trực tiếp của tôi, khi anh nói:
    - Coi như tôi phân công ông đi nông thôn công tác. Ông cứ đi đi. Đừng nói gì với ai cả.
    Ở hội nghị hình như tôi không thu hoạch được gì về mặt viết lách. Còn đọng trong tôi là cách phát âm cố làm ra nhà quê những tiếng nước ngoài như Alếch xít Tôn-tôi-y, Đôt-xì-tô-ép-xì-ki của Nguyễn Huy Tưởng và ấn tượng về rất đông những anh em viết văn trẻ cùng lứa tuổi tôi. Chúng tôi hăm hở. Chúng tôi quyết tâm. Chúng tôi tràn trề sức sống. Chúng tôi tự đặt cho mình những nhiệm vụ hết sức nặng nề. Bây giờ nghĩ lại trong lớp đông nhộn nhạo ấy, lớp tuổi tôi máu mê ngày ấy, hình như sự cay đắng vất vả nhiều hơn. Thành đạt cũng có (thành đạt khác thành tựu). Nhưng ít thôi. Trong số này phải kể đến Bùi Đức Ái (Anh Đức), Nguyễn Quang Sáng, Vũ Thị Thường, cả Nguyễn Kiên, rồi Nguyễn Quang Thân. Có thể đánh cái đấu chấm lửng ở đây.
    Cùng một lứa bên trời. lận đận. Những kẻ lận đận thật nhiều. Bùi Minh Quốc, chồng Dương Thị Xuân Quý, cô thông tin viên xinh xẻo của chúng tôi khi tôi còn ờ báo Tiền Phong. Vũ Thư Hiên đêm đêm mất ngủ* (* tên một truyện của Vũ Thư Hiên), Phù Thăng, thằng Phu, chiến de vie, vie de chien* (* trong một sáng tác của Phù Thăng, một nhân vật kêu ca cuộc đời con chó, và Phù Thăng bị phê là con chó cuộc đời). Châu Diên xin ra biên chế, về nhà máy xi măng làm công nhân, rồi chuyển hẳn sang làm hợp đồng cho ngành giáo dục. Tôi bị tù 5 năm. Vũ Bão sau bao năm lao đao vì Sắp cưới*, gượng lại được với phương châm chiến lược ?omãi cũng tới bờ?* (*Sau Sắp cưới, không nơi nào in cho Vũ Bão nữa. Rất nhiều năm sau Nhà xuất bản Phụ nữ đã mở đầu, in cho anh tập truyện Mãi cũng tới bờ, Vũ Bão kêu lên sung sướng: ?oMãi cũng tới bờ?), Nguyễn Trí Tình chuyển sang ngành thông tin, Tất Vinh phải đổi tên là Hồng Dương từ phương án ba bông hồng* (* tên một tác phẩm của Tất Vinh) định đi lên bỗng chết đột tử. Cũng có thể đánh vài dấu chấm lửng ở đây.
    Tôi về Hải Phòng, chuyển hẳn từ Hà Nội về Hải Phòng. Lẽ ra tôi không nên làm như vậy. Lẽ ra ở thủ đô rồi hãy cứ sống mãi với thủ đô* (* tên một tác phẩm của Nguyên Huy Tưởng) thì cuộc đời tôi đã đổi khác rồi. Tôi đã tin như vậy và ngày càng tin như vậy.
    Nhưng tránh không khỏi số. Bè bạn tôi nói thế. Tôi cũng tin như thế. Để có thể có một niềm an ủi. Hơn nữa chẳng phải một mình tôi. Nghĩ đến những bất hạnh của bè bạn, mình cũng thấy vơi đi nỗi khổ của mình, dễ sống hơn.
    Tôi về Hải Phòng vì đấy là quê tôi, vì Hải Phòng là một thành phố công nghiệp, đầu mối giao thông vận tải lớn nhất miền Bắc, thành phố của giai cấp công nhân với truyền thống đấu tranh và đau khổ, thành phố xi măng, thành phố cảng nhìn ra biển. Sinh ra tôi đã có Hải Phòng (thơ văn Cao). Đảng kêu gọi chúng tôi hãy thâm nhập cuộc sống để viết. Cuộc sống anh hùng, sáng tạo, thay da đổi thịt từng giờ, ở đó những con người mới xuất hiện đang chờ chúng tôi miêu tả. Sô-lô-khốp sống cả đời ở một làng ven sông Đông. Glát-cốp viết Xi măng. Triệu Thụ Lý hẳn là một nông dân thực thụ. Đó là những vòm trời của tôi và của thế hệ tôi.
  3. U_r_bullshit

    U_r_bullshit Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/10/2006
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    0
    (Tôi muốn mở ngoặc đơn ở đây rằng Bút Tre không phải là người chế tạo ra trường phái Bút Tre. Trường phái này có từ trước khi Bút Tre làm thơ, Bút Tre chỉ là người đại diện ưu tú, tiêu biểu nhất mà thôi. Tất Vinh có kể cho tôi nghe hồi chống Pháp, khi còn trong bộ đội, anh đi các tiểu đoàn mở lớp huấn luyện làm ca dao, thơ lục bát, câu sáu vần với câu tám ra làm sao. Tất Vinh đọc trước một câu sáu:
    Con mèo là con mèo đen Một chiến sĩ giơ tay đọc ngay câu tám như sau:
    Cớ sao mày ở trong đèn mày ra?
    Vần thì vần đấy nhưng thật chẳng ra làm sao cả).
    Cũng có số báo Tất Vinh chỉ cho đăng một mẩu quảng cáo: ?oNếu bạn và người yêu bạn cùng hơi bị vổ thì hôn nhau như thế nào? Trong số báo sau bạn TD vui lòng giải đáp?.
    Bạn TD là đồng chí tổng biên tập báo Tiền Phong của chúng tôi, hai vợ chồng đồng chí đều có hàm răng hơi hô. Tất nhiên độc giả TD xem báo của chúng tôi chỉ có thể cười. Cười vô tư, thán phục một trò chơi tinh nghịch, ?otrẻ không tha, già không thương? mà không để bụng. Tôi nghĩ nếu bây giờ có nhân viên nào đùa thủ trưởng như vậy thì sau tiếng cười miễn cưỡng, hậu quả hẳn là sẽ khác. Thời ấy chúng tôi vừa cùng ở rừng về với nhau...
    Thực hiện tốt những biện pháp giữ mình như vậy, chúng tôi cảm thấy yên tâm, khi nào không nhịn được viết văn, chúng tôi... cứ viết.
    Tôi viết, ký tên Lôi Động, quê mẹ tôi và gửi dự thi ở tạp chí Văn Nghệ. Cái tên ấy chỉ xuất hiện một lần. Có lẽ cũng vì vậy mà mới đây khi báo Văn Nghệ làm thống kê về những cuộc thi truyện ngắn của báo, những truyện và những người được giải (kể cả giải khuyến khích) của báo không có truyện Sao cũng không có tên Lôi Động. Cái anh chàng Lôi Động đúng là không có thực.
    Ngay lập tức tất cả mọi người trong cơ quan báo Tiền Phong đều biết Lôi Động là ai. Anh em viết văn thì chúc mừng, các đồng chí lãnh đạo cũng không quở trách. Chắc các đồng chí ấy nghĩ rằng chỉ nguyên việc tôi đổi bút danh (thời ấy khi viết báo, tôi ký tên Tân Sắc) cũng chứng tỏ tôi biết sợ, biết chấp hành nghị quyết. Tôi được mời đi dự tổng kết, trao giải thưởng, ăn tiệc. Tôi có trông thấy Xuân Diệu trong lễ trao giải. Nghe anh báo cáo về việc chấm thi tôi mới biết chính anh đã đọc lại truyện Sao từ đống truyện ngắn đã loại ra...
    Ít lâu sau tôi được mời đi dự hội nghị những người viết văn trẻ lần thứ nhất. Không thể bỏ cơ quan xuống ấp Thái Hà họp hai ngày. Cũng không thể xin phép đồng chí tổng biên tập. Như vậy là bắt đồng chí ấy chính thức công nhận việc viết văn. Tôi rất cảm ơn anh Đỗ Văn Thoan, người tổ trưởng nông thôn, sếp trực tiếp của tôi, khi anh nói:
    - Coi như tôi phân công ông đi nông thôn công tác. Ông cứ đi đi. Đừng nói gì với ai cả.
    Ở hội nghị hình như tôi không thu hoạch được gì về mặt viết lách. Còn đọng trong tôi là cách phát âm cố làm ra nhà quê những tiếng nước ngoài như Alếch xít Tôn-tôi-y, Đôt-xì-tô-ép-xì-ki của Nguyễn Huy Tưởng và ấn tượng về rất đông những anh em viết văn trẻ cùng lứa tuổi tôi. Chúng tôi hăm hở. Chúng tôi quyết tâm. Chúng tôi tràn trề sức sống. Chúng tôi tự đặt cho mình những nhiệm vụ hết sức nặng nề. Bây giờ nghĩ lại trong lớp đông nhộn nhạo ấy, lớp tuổi tôi máu mê ngày ấy, hình như sự cay đắng vất vả nhiều hơn. Thành đạt cũng có (thành đạt khác thành tựu). Nhưng ít thôi. Trong số này phải kể đến Bùi Đức Ái (Anh Đức), Nguyễn Quang Sáng, Vũ Thị Thường, cả Nguyễn Kiên, rồi Nguyễn Quang Thân. Có thể đánh cái đấu chấm lửng ở đây.
    Cùng một lứa bên trời. lận đận. Những kẻ lận đận thật nhiều. Bùi Minh Quốc, chồng Dương Thị Xuân Quý, cô thông tin viên xinh xẻo của chúng tôi khi tôi còn ờ báo Tiền Phong. Vũ Thư Hiên đêm đêm mất ngủ* (* tên một truyện của Vũ Thư Hiên), Phù Thăng, thằng Phu, chiến de vie, vie de chien* (* trong một sáng tác của Phù Thăng, một nhân vật kêu ca cuộc đời con chó, và Phù Thăng bị phê là con chó cuộc đời). Châu Diên xin ra biên chế, về nhà máy xi măng làm công nhân, rồi chuyển hẳn sang làm hợp đồng cho ngành giáo dục. Tôi bị tù 5 năm. Vũ Bão sau bao năm lao đao vì Sắp cưới*, gượng lại được với phương châm chiến lược ?omãi cũng tới bờ?* (*Sau Sắp cưới, không nơi nào in cho Vũ Bão nữa. Rất nhiều năm sau Nhà xuất bản Phụ nữ đã mở đầu, in cho anh tập truyện Mãi cũng tới bờ, Vũ Bão kêu lên sung sướng: ?oMãi cũng tới bờ?), Nguyễn Trí Tình chuyển sang ngành thông tin, Tất Vinh phải đổi tên là Hồng Dương từ phương án ba bông hồng* (* tên một tác phẩm của Tất Vinh) định đi lên bỗng chết đột tử. Cũng có thể đánh vài dấu chấm lửng ở đây.
    Tôi về Hải Phòng, chuyển hẳn từ Hà Nội về Hải Phòng. Lẽ ra tôi không nên làm như vậy. Lẽ ra ở thủ đô rồi hãy cứ sống mãi với thủ đô* (* tên một tác phẩm của Nguyên Huy Tưởng) thì cuộc đời tôi đã đổi khác rồi. Tôi đã tin như vậy và ngày càng tin như vậy.
    Nhưng tránh không khỏi số. Bè bạn tôi nói thế. Tôi cũng tin như thế. Để có thể có một niềm an ủi. Hơn nữa chẳng phải một mình tôi. Nghĩ đến những bất hạnh của bè bạn, mình cũng thấy vơi đi nỗi khổ của mình, dễ sống hơn.
    Tôi về Hải Phòng vì đấy là quê tôi, vì Hải Phòng là một thành phố công nghiệp, đầu mối giao thông vận tải lớn nhất miền Bắc, thành phố của giai cấp công nhân với truyền thống đấu tranh và đau khổ, thành phố xi măng, thành phố cảng nhìn ra biển. Sinh ra tôi đã có Hải Phòng (thơ văn Cao). Đảng kêu gọi chúng tôi hãy thâm nhập cuộc sống để viết. Cuộc sống anh hùng, sáng tạo, thay da đổi thịt từng giờ, ở đó những con người mới xuất hiện đang chờ chúng tôi miêu tả. Sô-lô-khốp sống cả đời ở một làng ven sông Đông. Glát-cốp viết Xi măng. Triệu Thụ Lý hẳn là một nông dân thực thụ. Đó là những vòm trời của tôi và của thế hệ tôi.
  4. U_r_bullshit

    U_r_bullshit Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/10/2006
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    0
    Từ biệt báo Tiền Phong, từ biệt Hà Nội, tôi về báo Hải Phòng. Châu Diên còn hăng hái hơn tôi. Anh xin ra biên chế, đi khỏi Hà Nội, xa vợ xa con, về Hải Phòng làm công nhân lò nung nhà máy xi măng. Khát vọng hẳn là lớn lắm.
    Tôi đã sang xi măng nhiều lần. Nhà máy nằm trong phạm vi tôi theo dõi, đưa tin viết bài. Tôi đã tới lò nung, nơi Châu Diên làm việc. Những chiếc lò đang vận hành. Những chiếc lò tớp để sửa chữa. Gạch chịu lửa. Từng đống dây xích đang được anh em công nhân mắc vào ruột lò. Nhìn qua tấm kính xanh vào trong lò đang quay, lưỡi lửa phun dài cuồn cuộn. Cơ lanh ke từng đống, rắn như đá nhỏ và sắc cạnh. Bao trùm lên tất cả là hơi nóng. Cái nóng ngàn độ từ các lò toả ra. Không ai có mồ hôi. Mồ hôi bốc hơi ngay khi vừa rịn trên da. Mặt ai nấy khô cong và quần áo thì dòn như bánh đa.
    Tôi cố giấu vẻ ái ngại nhìn Châu Diên. Vóc người anh loẻo khoẻo. Da mặt xám. Môi khô và như hơi tim tím. Tôi kính phục quyết tâm của Toàn (tên thường gọi của Châu Diên). Hơn ai hết, tôi mong, tôi hy vọng Châu Diên sẽ có một tác phẩm lớn về xi măng, không hơn thì cũng phải bằng Glat-cốp. Tôi sợ rằng Châu Diên không chịu đựng được lâu hơn nữa. Nom anh càng gầy. Hình như anh buồn. Anh lại hay uống rượu.
    Cho đến bây giờ tôi vẫn chưa thấy Châu Diên viết gì về xi măng. Có lẽ muốn viết phải đứng xa xa một chút chăng. Châu Diên thì lại ở gần quá. Ngay trong đó. Ngụp lặn. Phải télé-amour cơ (tình yêu từ xa - chữ do Vũ Thư Hiên sáng tạo ra. Có thể dịch là viễn ái). Télé-amour thì mới lãng mạn có cánh bay được. Tôi về Hải Phòng và với cương vị một người làm báo, tôi đi nhiều nơi. Tôi không bị trói và cái lò nung nóng trên ngàn độ như Châu Diên. Tôi télé-amour. Tôi lãng mạn có cánh bay. Tôi không hiện thực nghiêm khắc. Càng không hiện thực trần truồng.
    Và tôi càng yêu thành phố Hải Phòng, tình yêu ấy sẽ không bao giờ phai nhạt. Nó chỉ chín chắn hơn lên, trầm tĩnh hơn lên, thực tế hơn lên, nhiều mặt, nhiều vẻ, nhiều màu hơn lên, cho dù đời tôi có nổi chìm thế nào chăng nữa.
    Ở Hải Phòng tôi đã gặp Nguyên Hồng, gặp biển. Và tôi đều quên cuộc gặp gỡ đấu tiên với cả hai. Nói cho đúng ra, về Hải Phòng tôi mới được gặp biển, còn với Nguyên Hồng tôi đã gặp từ lâu, một cách nói: trước đó tôi đã đọc Những ngày thơ ấu. Thật ra ngày ấy quyển truyện không để lại trong tôi ấn tượng gì sâu sắc lắm. Nhưng không hiểu sao cái câu ?oHồng, mày lên đây!? cứ vang mãi bên tai tôi. Sau này khi ngoài ba mươi tuổi, bị bắt giam trong xà lim, nhớ đến Nguyên Hồng, tôi lại thấy vang lên câu nói ấy. Nó gắn liền với những ngày thơ ấu của tôi, thời vòm trời cũng khác, gió thổi cũng khác, cánh đồng trước cửa cũng khác. Trời xanh hơn bây giờ. Trăng đẹp hơn bây giờ. Mảnh vườn nhỏ là mênh mông. Cây chay, cây nhãn rợp tán lá như những cây cổ thụ.
    Chúng tôi vào bếp, nung dùi đỏ, dùi lỗ những thanh tre khói bốc ngùn ngụt để đóng những cái chuồng chim to rất đẹp rồi vặt những bông hoa dâm bụt đỏ chói bỏ vào ***g. Cửa ***g có gài bẫy. Chúng tôi treo ***g lên đỉnh cây khế, nơi lá khế thưa hơn, chim dễ nhận thấy những chùm hoa đỏ của chúng tôi hơn, và chờ chim vành khuyên bay tới. Chim vành khuyên hay đi đàn và bao giờ tiếng hót của chúng cũng bay tới trước.
    Chúng tôi chúm môi huýt, bắt chước tiếng hót chim khuyên. Bùi Đức Hạnh bắt chước như hệt: Đàn chim nghe tiếng hót gọi, lại nhìn thấy những bông hoa đỏ, sà xuống ngay. Chúng sa bẫy. Thật là những giờ phút tưng bừng. Nấp ở những cây gần đấy, chúng tôi tụt xuống, chạy tới gốc khế, leo lên... Những con chim vành khuyên nhỏ nhoi, bóng mượt, màu vàng ngả màu lá mạ, có những tròng mắt rất đẹp được chúng tôi vô cùng yêu quý và chăm nom hết sức mình. Mặc dầu vậy, chúng đều có một kết cục bi thảm giống nhau: cái chết. Chúng tôi lại giăng bẫy một mẻ khác. Rồi chúng tôi chơi chu chi chu chít, đi trốn đi tìm, chui nấp cả trong cây hương mà anh tôi cả quyết đã có lần trông thấy hai vợ chồng con rắn có mào. Chúng tôi mồ hôi nhễ nhại đá bóng bằng quả bòng rụng trong sân. Và chúng tôi đọc sách.
    Tủ sách còm cõi của chúng tôi. Bố tôi có công việc sang Phòng(Hải Phòng, cách gọi của những người dân ngoại thành) thường không quên mua cho chúng tôi quyển sách. Những chuyến đi hiếm hoi nên những quyển sách cũng hiếm hoi. Tôi còn nhớ tên từng quyển sách. Loại sách Hồng như Lên cung trăng, Hạt ngọc. Rồi Con chó hai đầu, Những thảm kịch bên kia dãy núi Trường Sơn, Chuyện ngụ ngôn của La-phông-ten. Chuyện kể của Pe-rôn. Chúng tôi ngốn cả sách trinh thám, kiếm hiệp. Đôi mắt thần, Lệ Hằng phục thù, Long hình quái khách.
    Riêng quyển Long hình quái khách chúng tôi đọc tập thể. Cứ đến đoạn Long hình quái khách xuất hiện, tất cả cùng rên lên: ?oLong hình quái khách xuất hiển ư ư ư?. Dễ hiểu rằng Những ngày thơ âú chẳng gây được một ấn tượng gì đặc biệt trong đầu óc quá non nớt của một cậu bé con còn ham chạy nhẩy nghịch ngợm như tôi. Thế mà cái câu Hồng, mày lên đây! mà tôi vẫn đinh ninh là Hồng - Lên đây tao bảo! lại cứ còn mãi trong tôi.
    Đó là sự thật.
    Khi tôi ở báo Tiền Phong, Bỉ vỏ được tái bản. Rồi tôi được đọc lại Những ngày thơ ấu. Những tên sách tôi được nghe nói đến rất nhiều. Những quyển truyện, những sáng tác đã trở thành một bộ phận khăng khít của nền văn học Việt Nam. Không thể hình dung nền văn học nước ta lại không có nó.
    Vẫn cùng một quyển sách nhưng mỗi thời gian ta đọc ta lại cảm thấy nó khác nhau. Những ngày thơ ấu khi tôi đọc ở báo Tiền Phong đã hoàn toàn chinh phục tôi. Cho đến bây giờ tôi vẫn giữ ý kiến cho rằng đấy là tác phẩm hay nhất của Nguyên Hồng. Một tác phẩm như Thạch Lam đã nói: ?oghi lại những rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại?. Và Vũ Ngọc Phan thì cho rằng khi viết quyển truyện này, Nguyên Hồng đã ?otrút bỏ hết những thành kiến?, ?ođặt mình lên trên tất cả dư luận?.
    Còn một nhà phê bình thì nói rằng với Những ngày thơ ấu Nguyên Hồng ?ođã đạt tới cái tầm chân thực mà thường chỉ các nhà văn Anh hay nhà văn Nga mới đạt tới. Làm sao các đồng nghiệp đương thời khỏi sửng sốt về cái khả năng chân thực ghê gớm mà cũng là cái gan góc tự do kiểu ấy? Các thế hệ sau còn sửng sốt nữa!?. Nhân đây cũng xin phép được nói lạc đề một suy nghĩ của tôi. Hình như ?ocái khả năng chân thực ghê gớm?, ?ocái gan góc tự do kiểu ấy? của Nguyên Hồng về cuối đời ít dần đi, cả trong con người lẫn trong tác phẩm.
    Tôi đọc Bỉ vỏ lần đầu cũng vào thời gian ấy. Quyển truyện làm tôi sững sờ. Cuộc sống thật khốc liệt. Đáng thương biết bao những kẻ ăn cắp, những tên ạnh chị, đâm chém người không ghê tay. Nhân chi sơ tính bản thiện. Nhưng vì hoàn cảnh xô đẩy, nó có thể trở thành dã thú. Tôi sững sờ vì tập tiểu thuyết đó được viết khi Nguyên Hồng mới mười sáu tuổi. Đó thực sự là nhà văn của những người đau khổ. Mười sáu tuổi, Nguyên Hồng đã có cái nhìn thấu đáo vào nguyên nhân tội ác, là trạng sư bào chữa cho lớp người cặn bã, bị khinh bỉ, bị lên án, làm đảo ngược những nhận định của xã hội về họ, những nhận định đã thành quy tắc, thành luân lý. Nguyên Hồng quả là nhà văn của những người dưới đáy. ?oĐóng góp có ý nghĩa của tác phẩm trước hết là đã vạch ra được một cách đúng đắn những nguyên nhân xã hội đã đẩy những người dân nghèo ngày trước vào con đường lưu manh hoá. Tám Bính, một cô gái quê trong sạch, hồn nhiên, sở dĩ trở thành một gái điếm, một Bỉ vỏ là do tính chất lang sói đểu giả của bọn cường hào ở thôn quê, bọn nhà giầu thành thị, do chế độ cảnh sát bất công vô lý liên kết với nạn buôn thịt bán người được dung túng khắp nơi trong xã hội cũ. Nhưng chủ đề Bỉ vỏ không chỉ có thế. Tư tưởng nhân đạo sâu sắc của tác giả còn thể hiện ở chỗ qua nhân vật Tám Bính, khẳng định những phẩm chất tinh thần cao quý của người phụ nữ lao động cho dù thể xác có bị đầy đoạ vào giữa bùn lầy, rác rưởi?. Tổng tập Văn học Việt Nam đã nhận định như vậy.
  5. U_r_bullshit

    U_r_bullshit Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/10/2006
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    0
    Từ biệt báo Tiền Phong, từ biệt Hà Nội, tôi về báo Hải Phòng. Châu Diên còn hăng hái hơn tôi. Anh xin ra biên chế, đi khỏi Hà Nội, xa vợ xa con, về Hải Phòng làm công nhân lò nung nhà máy xi măng. Khát vọng hẳn là lớn lắm.
    Tôi đã sang xi măng nhiều lần. Nhà máy nằm trong phạm vi tôi theo dõi, đưa tin viết bài. Tôi đã tới lò nung, nơi Châu Diên làm việc. Những chiếc lò đang vận hành. Những chiếc lò tớp để sửa chữa. Gạch chịu lửa. Từng đống dây xích đang được anh em công nhân mắc vào ruột lò. Nhìn qua tấm kính xanh vào trong lò đang quay, lưỡi lửa phun dài cuồn cuộn. Cơ lanh ke từng đống, rắn như đá nhỏ và sắc cạnh. Bao trùm lên tất cả là hơi nóng. Cái nóng ngàn độ từ các lò toả ra. Không ai có mồ hôi. Mồ hôi bốc hơi ngay khi vừa rịn trên da. Mặt ai nấy khô cong và quần áo thì dòn như bánh đa.
    Tôi cố giấu vẻ ái ngại nhìn Châu Diên. Vóc người anh loẻo khoẻo. Da mặt xám. Môi khô và như hơi tim tím. Tôi kính phục quyết tâm của Toàn (tên thường gọi của Châu Diên). Hơn ai hết, tôi mong, tôi hy vọng Châu Diên sẽ có một tác phẩm lớn về xi măng, không hơn thì cũng phải bằng Glat-cốp. Tôi sợ rằng Châu Diên không chịu đựng được lâu hơn nữa. Nom anh càng gầy. Hình như anh buồn. Anh lại hay uống rượu.
    Cho đến bây giờ tôi vẫn chưa thấy Châu Diên viết gì về xi măng. Có lẽ muốn viết phải đứng xa xa một chút chăng. Châu Diên thì lại ở gần quá. Ngay trong đó. Ngụp lặn. Phải télé-amour cơ (tình yêu từ xa - chữ do Vũ Thư Hiên sáng tạo ra. Có thể dịch là viễn ái). Télé-amour thì mới lãng mạn có cánh bay được. Tôi về Hải Phòng và với cương vị một người làm báo, tôi đi nhiều nơi. Tôi không bị trói và cái lò nung nóng trên ngàn độ như Châu Diên. Tôi télé-amour. Tôi lãng mạn có cánh bay. Tôi không hiện thực nghiêm khắc. Càng không hiện thực trần truồng.
    Và tôi càng yêu thành phố Hải Phòng, tình yêu ấy sẽ không bao giờ phai nhạt. Nó chỉ chín chắn hơn lên, trầm tĩnh hơn lên, thực tế hơn lên, nhiều mặt, nhiều vẻ, nhiều màu hơn lên, cho dù đời tôi có nổi chìm thế nào chăng nữa.
    Ở Hải Phòng tôi đã gặp Nguyên Hồng, gặp biển. Và tôi đều quên cuộc gặp gỡ đấu tiên với cả hai. Nói cho đúng ra, về Hải Phòng tôi mới được gặp biển, còn với Nguyên Hồng tôi đã gặp từ lâu, một cách nói: trước đó tôi đã đọc Những ngày thơ ấu. Thật ra ngày ấy quyển truyện không để lại trong tôi ấn tượng gì sâu sắc lắm. Nhưng không hiểu sao cái câu ?oHồng, mày lên đây!? cứ vang mãi bên tai tôi. Sau này khi ngoài ba mươi tuổi, bị bắt giam trong xà lim, nhớ đến Nguyên Hồng, tôi lại thấy vang lên câu nói ấy. Nó gắn liền với những ngày thơ ấu của tôi, thời vòm trời cũng khác, gió thổi cũng khác, cánh đồng trước cửa cũng khác. Trời xanh hơn bây giờ. Trăng đẹp hơn bây giờ. Mảnh vườn nhỏ là mênh mông. Cây chay, cây nhãn rợp tán lá như những cây cổ thụ.
    Chúng tôi vào bếp, nung dùi đỏ, dùi lỗ những thanh tre khói bốc ngùn ngụt để đóng những cái chuồng chim to rất đẹp rồi vặt những bông hoa dâm bụt đỏ chói bỏ vào ***g. Cửa ***g có gài bẫy. Chúng tôi treo ***g lên đỉnh cây khế, nơi lá khế thưa hơn, chim dễ nhận thấy những chùm hoa đỏ của chúng tôi hơn, và chờ chim vành khuyên bay tới. Chim vành khuyên hay đi đàn và bao giờ tiếng hót của chúng cũng bay tới trước.
    Chúng tôi chúm môi huýt, bắt chước tiếng hót chim khuyên. Bùi Đức Hạnh bắt chước như hệt: Đàn chim nghe tiếng hót gọi, lại nhìn thấy những bông hoa đỏ, sà xuống ngay. Chúng sa bẫy. Thật là những giờ phút tưng bừng. Nấp ở những cây gần đấy, chúng tôi tụt xuống, chạy tới gốc khế, leo lên... Những con chim vành khuyên nhỏ nhoi, bóng mượt, màu vàng ngả màu lá mạ, có những tròng mắt rất đẹp được chúng tôi vô cùng yêu quý và chăm nom hết sức mình. Mặc dầu vậy, chúng đều có một kết cục bi thảm giống nhau: cái chết. Chúng tôi lại giăng bẫy một mẻ khác. Rồi chúng tôi chơi chu chi chu chít, đi trốn đi tìm, chui nấp cả trong cây hương mà anh tôi cả quyết đã có lần trông thấy hai vợ chồng con rắn có mào. Chúng tôi mồ hôi nhễ nhại đá bóng bằng quả bòng rụng trong sân. Và chúng tôi đọc sách.
    Tủ sách còm cõi của chúng tôi. Bố tôi có công việc sang Phòng(Hải Phòng, cách gọi của những người dân ngoại thành) thường không quên mua cho chúng tôi quyển sách. Những chuyến đi hiếm hoi nên những quyển sách cũng hiếm hoi. Tôi còn nhớ tên từng quyển sách. Loại sách Hồng như Lên cung trăng, Hạt ngọc. Rồi Con chó hai đầu, Những thảm kịch bên kia dãy núi Trường Sơn, Chuyện ngụ ngôn của La-phông-ten. Chuyện kể của Pe-rôn. Chúng tôi ngốn cả sách trinh thám, kiếm hiệp. Đôi mắt thần, Lệ Hằng phục thù, Long hình quái khách.
    Riêng quyển Long hình quái khách chúng tôi đọc tập thể. Cứ đến đoạn Long hình quái khách xuất hiện, tất cả cùng rên lên: ?oLong hình quái khách xuất hiển ư ư ư?. Dễ hiểu rằng Những ngày thơ âú chẳng gây được một ấn tượng gì đặc biệt trong đầu óc quá non nớt của một cậu bé con còn ham chạy nhẩy nghịch ngợm như tôi. Thế mà cái câu Hồng, mày lên đây! mà tôi vẫn đinh ninh là Hồng - Lên đây tao bảo! lại cứ còn mãi trong tôi.
    Đó là sự thật.
    Khi tôi ở báo Tiền Phong, Bỉ vỏ được tái bản. Rồi tôi được đọc lại Những ngày thơ ấu. Những tên sách tôi được nghe nói đến rất nhiều. Những quyển truyện, những sáng tác đã trở thành một bộ phận khăng khít của nền văn học Việt Nam. Không thể hình dung nền văn học nước ta lại không có nó.
    Vẫn cùng một quyển sách nhưng mỗi thời gian ta đọc ta lại cảm thấy nó khác nhau. Những ngày thơ ấu khi tôi đọc ở báo Tiền Phong đã hoàn toàn chinh phục tôi. Cho đến bây giờ tôi vẫn giữ ý kiến cho rằng đấy là tác phẩm hay nhất của Nguyên Hồng. Một tác phẩm như Thạch Lam đã nói: ?oghi lại những rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại?. Và Vũ Ngọc Phan thì cho rằng khi viết quyển truyện này, Nguyên Hồng đã ?otrút bỏ hết những thành kiến?, ?ođặt mình lên trên tất cả dư luận?.
    Còn một nhà phê bình thì nói rằng với Những ngày thơ ấu Nguyên Hồng ?ođã đạt tới cái tầm chân thực mà thường chỉ các nhà văn Anh hay nhà văn Nga mới đạt tới. Làm sao các đồng nghiệp đương thời khỏi sửng sốt về cái khả năng chân thực ghê gớm mà cũng là cái gan góc tự do kiểu ấy? Các thế hệ sau còn sửng sốt nữa!?. Nhân đây cũng xin phép được nói lạc đề một suy nghĩ của tôi. Hình như ?ocái khả năng chân thực ghê gớm?, ?ocái gan góc tự do kiểu ấy? của Nguyên Hồng về cuối đời ít dần đi, cả trong con người lẫn trong tác phẩm.
    Tôi đọc Bỉ vỏ lần đầu cũng vào thời gian ấy. Quyển truyện làm tôi sững sờ. Cuộc sống thật khốc liệt. Đáng thương biết bao những kẻ ăn cắp, những tên ạnh chị, đâm chém người không ghê tay. Nhân chi sơ tính bản thiện. Nhưng vì hoàn cảnh xô đẩy, nó có thể trở thành dã thú. Tôi sững sờ vì tập tiểu thuyết đó được viết khi Nguyên Hồng mới mười sáu tuổi. Đó thực sự là nhà văn của những người đau khổ. Mười sáu tuổi, Nguyên Hồng đã có cái nhìn thấu đáo vào nguyên nhân tội ác, là trạng sư bào chữa cho lớp người cặn bã, bị khinh bỉ, bị lên án, làm đảo ngược những nhận định của xã hội về họ, những nhận định đã thành quy tắc, thành luân lý. Nguyên Hồng quả là nhà văn của những người dưới đáy. ?oĐóng góp có ý nghĩa của tác phẩm trước hết là đã vạch ra được một cách đúng đắn những nguyên nhân xã hội đã đẩy những người dân nghèo ngày trước vào con đường lưu manh hoá. Tám Bính, một cô gái quê trong sạch, hồn nhiên, sở dĩ trở thành một gái điếm, một Bỉ vỏ là do tính chất lang sói đểu giả của bọn cường hào ở thôn quê, bọn nhà giầu thành thị, do chế độ cảnh sát bất công vô lý liên kết với nạn buôn thịt bán người được dung túng khắp nơi trong xã hội cũ. Nhưng chủ đề Bỉ vỏ không chỉ có thế. Tư tưởng nhân đạo sâu sắc của tác giả còn thể hiện ở chỗ qua nhân vật Tám Bính, khẳng định những phẩm chất tinh thần cao quý của người phụ nữ lao động cho dù thể xác có bị đầy đoạ vào giữa bùn lầy, rác rưởi?. Tổng tập Văn học Việt Nam đã nhận định như vậy.
  6. U_r_bullshit

    U_r_bullshit Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/10/2006
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    0
    Tôi nghĩ có lẽ cần bổ sung: Những bài học của Bỉ vỏ vẫn còn nguyên giá trị thời sự. Nguyên Hồng vẫn là nhà văn của hôm nay. Nguyên Hồng còn là nhà văn của ngày mai nữa. Nguyên Hồng hôm nay vẫn đang nói cùng ta, ?ocái văn Nguyên Hồng vẫn còn rên rỉ? (Xuân Diệu). Mà không chỉ cái văn, trái tim Nguyên Hồng vẫn còn rên rỉ. Vậy là tôi có Nguyên Hồng, một Nguyên Hồng mà trong lần gặp đầu tiên, Pi-e A-bra-ham, chủ nhiệm tạp chí Châu Âu đã gọi là Người của đất. Nguyên Hồng trở thành một phần cuộc sống của tôi. Tôi quen với Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu, tôi quen với tác giả của nó, một người xuề xoà, da nâu, đầm đậm, cặp mắt tinh anh, nheo lại mỗi khi có một ý tinh nghịch, hóm hỉnh nào đó mới nẩy sinh và sắp nói cùng tôi.
    Vậy là tôi có biển, biển làm tôi mê hoặc bởi sự vô cùng, bởi màu xanh đậm đặc, bởi công việc vĩ đại mà biển làm hàng triệu năm không mỏi mệt, không ngừng nghỉ: Nổi sóng. Về Hải Phòng, tôi đi biển nhiều lần. Với tôi đó thực sự là những ngày hội cho dù có lần đã gặp cả bão tố. Đỗ An Bình, người có tên An Bình mà chẳng mấy an bình trong đời tư cũng như trong công tác, ngày ấy vừa tốt nghiệp trường kỹ thuật giao thông, về làm bí thư đoàn ty Hải đăng, sau này đổi tên thành ty Bảo đảm hàng hải, từ một cộng tác viên đã nhanh chóng trở thành người bạn thân thiết của tôi.
    Tôi cứ đắc ý mãi về việc tôi chuyển hẳn về Hải Phòng chính là ở điểm này. Hải Phòng là miền Bắc thu nhỏ. Hải Phòng có nông thôn, có công nghiệp nàng mà tiêu biểu là nhà máy xi măng nổi tiếng và duy nhất trên miền Bắc, Hải Phòng có cảng, có biển, có tàu, có những cây đèn biển...
    Không như khi còn làm phóng viên báo Tiền Phong ở Hà Nội, hàng năm trời mới trở lại địa bàn công tác cũ, tại đây tôi duy trì thường xuyên sự liên hệ với các cơ sở, tôi xây dựng một tình bạn thực sự với những người đang lăn lộn ở các cơ sở. Tình bạn giữa tôi với Đỗ An Bình trải qua bao sóng gió, ngày càng bền vững. Khi tôi bị bắt, anh cũng bị gọi hỏi nhiều lần.
    Trong việc trả lời cơ quan an ninh, anh luôn trung thực. Nhà tôi lúc đó ai cũng sợ hãi xa lánh, nhưng khi vợ tôi đẻ, anh vẫn mang thịt đến cho. Một ki lô thịt lợn ba chỉ giờ đây chẳng ai mang cho bà đẻ, nhưng ngày ấy là nguồn động viên tinh thần, là sự bồi dưỡng sức sống. Thịt ăn hết đã lâu, nhưng tình còn đó cho đến tận bây giờ. Ngày ấy Bình đã hiểu ngay lực hấp dẫn của biển đối với tôi lớn như thế nào. Anh bố trí cho tôi đi ra các nhà đèn luồng Nam Triệu. Tôi đã ở nhà đèn A-ray-ô, tôi ra đèn A-van. Tôi nhìn về cây đèn Cút. Phùng Văn Bằng bắt cáy làm mồi câu cá song, cá tráp. Đúng là thời ấy con cá cũng sẵn. Chúng hóng mồi chỗ nước quẩn ngay cạnh đống đá hộc đổ dưới chân nhà đèn. Chỉ một loáng đã được dăm con cá to quật mình trên sàn bê tông. Bằng hỏi tôi: ?oĐủ bữa rồi đấy nhỉ?? Và đi mổ cá. Chiều chiều chúng tôi nhìn về phía biển khơi. Chờ những ánh đèn loé ra từ tít chân trời xa ấy, từ chỗ mù mịt trời, biển gặp nhau ấy. Đó là ánh sáng Long Châu, cây đèn xa nhất. Lúc ấy biển xám dần. Chân trời hoàng hôn đỏ Những con sóng phía tây gợn gợn mầu vàng yếu ớt kia gợi nhớ một cánh đồng chiều, khói lam quyện cùng sương, một bữa cơm lên đèn xum họp...
    Bằng ngồi bên tôi. Anh nhìn về phía chân trời. Vẻ mặt anh khắc khổ. Ngôi sao hôm hiện trên bầu trời. Anh không nhìn những cánh buồm đang rong ra khơi. Anh không nhìn những con sóng vẫn đều đều một nhịp quanh nhà đèn. Còn biển phía xa thì phẳng lại vì không nom rõ những gợn sóng nhấp nhô. Anh cũng không nhìn những ngôi sao nhỏ khác đã bắt đầu lấp lánh. Hình như anh đang tìm một cái gì không có ở đây. Một cái gì không có ở biển.
    Anh đang nghĩ gì? Tôi không dám hỏi. Cho đến khi ánh đèn Long Châu chớp loé, anh lẩm bẩm một mình như không có tôi ở đó: ?oLong Châu sáng rồi!? và anh vào nhà sắt nối dây điện vào hai cực ắc quy. Chúng tôi cùng ngửa mặt nhìn lên chiếc bóng đèn thuỷ tinh hình mang cá trên nóc nhà sắt đang toả ra những làn ánh sáng còn chưa rõ hình khối trong lúc nhập nhoạng. Chiều nào Bằng cũng đăm đăm nhìn về phía Long Châu bắt đầu toả sáng. Và tôi cũng nhìn về đấy. Nhìn về cây đèn cách bờ non trăm hải lý. Tôi hiểu rằng đối với những người gác đèn trong này, Long Châu luôn là nguồn động viên khích lệ. Những người gác đèn tìm về ánh sáng Long Châu như tìm về những điều tốt đẹp nhất của lòng mình.
    Thế rồi Đỗ An Bình lại tổ chức một chuyến đi tới Long Châu. Đã bao đêm tôi ngắm nhìn ánh sáng Long Châu xa vời vợi. Giờ đây được gặp. Con tầu thẳng hướng ra khơi. Biển chuyển mầu, tím sẫm. Vùng biển có độ mặn cao. Sóng dựng. Núi đá Long Châu uốn lượn như một chiếc khuyên vàng mà chỗ xuồng chúng tôi vừa mới vượt qua chính là cái kẽ hở bấm vào vành tai thiếu nữ. Một mặt hồ phẳng như gương hiện ra trước mắt tôi. Một mặt hồ phẳng như gương giữa vách đá dựng thành, chung quanh biển luôn cồn sóng. Viền quanh hồ là một dải cát trắng phau, nổi bật giữa mầu xanh tươi trẻ của nước biển và mầu xanh tuổi tác nghiêm nghị của đá rắn.
    Tôi đặt chân lên con đường dốc rải toàn san hô dẫn tới trụ đèn cao vời vợi, bụng nghĩ: Chính ở đây chứ không phải một nơi nào khác đã phát ra những tia chớp sáng mà ở trong kia mình đã bao chiều nhìn ngắm, chờ đợi. Và cũng lúc ấy, lúc đang leo dốc, ngước nhìn tháp đèn Long Châu sừng sững trước mặt, tôi nghĩ đến Nguyên Hồng. Cuộc gặp gỡ của tôi với Long Châu sau bao chiều từ Nam Triệu nhìn ánh sáng của nó cũng giống như tôi gặp Nguyên Hồng, sau khi đã đọc Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu, Buổi chiều xám, Người đàn bà Tầu, nay được gặp nhà văn bằng xương bằng thịt.
    hết: Lời tác giả:, xem tiếp: 1
  7. U_r_bullshit

    U_r_bullshit Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/10/2006
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    0
    Tôi nghĩ có lẽ cần bổ sung: Những bài học của Bỉ vỏ vẫn còn nguyên giá trị thời sự. Nguyên Hồng vẫn là nhà văn của hôm nay. Nguyên Hồng còn là nhà văn của ngày mai nữa. Nguyên Hồng hôm nay vẫn đang nói cùng ta, ?ocái văn Nguyên Hồng vẫn còn rên rỉ? (Xuân Diệu). Mà không chỉ cái văn, trái tim Nguyên Hồng vẫn còn rên rỉ. Vậy là tôi có Nguyên Hồng, một Nguyên Hồng mà trong lần gặp đầu tiên, Pi-e A-bra-ham, chủ nhiệm tạp chí Châu Âu đã gọi là Người của đất. Nguyên Hồng trở thành một phần cuộc sống của tôi. Tôi quen với Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu, tôi quen với tác giả của nó, một người xuề xoà, da nâu, đầm đậm, cặp mắt tinh anh, nheo lại mỗi khi có một ý tinh nghịch, hóm hỉnh nào đó mới nẩy sinh và sắp nói cùng tôi.
    Vậy là tôi có biển, biển làm tôi mê hoặc bởi sự vô cùng, bởi màu xanh đậm đặc, bởi công việc vĩ đại mà biển làm hàng triệu năm không mỏi mệt, không ngừng nghỉ: Nổi sóng. Về Hải Phòng, tôi đi biển nhiều lần. Với tôi đó thực sự là những ngày hội cho dù có lần đã gặp cả bão tố. Đỗ An Bình, người có tên An Bình mà chẳng mấy an bình trong đời tư cũng như trong công tác, ngày ấy vừa tốt nghiệp trường kỹ thuật giao thông, về làm bí thư đoàn ty Hải đăng, sau này đổi tên thành ty Bảo đảm hàng hải, từ một cộng tác viên đã nhanh chóng trở thành người bạn thân thiết của tôi.
    Tôi cứ đắc ý mãi về việc tôi chuyển hẳn về Hải Phòng chính là ở điểm này. Hải Phòng là miền Bắc thu nhỏ. Hải Phòng có nông thôn, có công nghiệp nàng mà tiêu biểu là nhà máy xi măng nổi tiếng và duy nhất trên miền Bắc, Hải Phòng có cảng, có biển, có tàu, có những cây đèn biển...
    Không như khi còn làm phóng viên báo Tiền Phong ở Hà Nội, hàng năm trời mới trở lại địa bàn công tác cũ, tại đây tôi duy trì thường xuyên sự liên hệ với các cơ sở, tôi xây dựng một tình bạn thực sự với những người đang lăn lộn ở các cơ sở. Tình bạn giữa tôi với Đỗ An Bình trải qua bao sóng gió, ngày càng bền vững. Khi tôi bị bắt, anh cũng bị gọi hỏi nhiều lần.
    Trong việc trả lời cơ quan an ninh, anh luôn trung thực. Nhà tôi lúc đó ai cũng sợ hãi xa lánh, nhưng khi vợ tôi đẻ, anh vẫn mang thịt đến cho. Một ki lô thịt lợn ba chỉ giờ đây chẳng ai mang cho bà đẻ, nhưng ngày ấy là nguồn động viên tinh thần, là sự bồi dưỡng sức sống. Thịt ăn hết đã lâu, nhưng tình còn đó cho đến tận bây giờ. Ngày ấy Bình đã hiểu ngay lực hấp dẫn của biển đối với tôi lớn như thế nào. Anh bố trí cho tôi đi ra các nhà đèn luồng Nam Triệu. Tôi đã ở nhà đèn A-ray-ô, tôi ra đèn A-van. Tôi nhìn về cây đèn Cút. Phùng Văn Bằng bắt cáy làm mồi câu cá song, cá tráp. Đúng là thời ấy con cá cũng sẵn. Chúng hóng mồi chỗ nước quẩn ngay cạnh đống đá hộc đổ dưới chân nhà đèn. Chỉ một loáng đã được dăm con cá to quật mình trên sàn bê tông. Bằng hỏi tôi: ?oĐủ bữa rồi đấy nhỉ?? Và đi mổ cá. Chiều chiều chúng tôi nhìn về phía biển khơi. Chờ những ánh đèn loé ra từ tít chân trời xa ấy, từ chỗ mù mịt trời, biển gặp nhau ấy. Đó là ánh sáng Long Châu, cây đèn xa nhất. Lúc ấy biển xám dần. Chân trời hoàng hôn đỏ Những con sóng phía tây gợn gợn mầu vàng yếu ớt kia gợi nhớ một cánh đồng chiều, khói lam quyện cùng sương, một bữa cơm lên đèn xum họp...
    Bằng ngồi bên tôi. Anh nhìn về phía chân trời. Vẻ mặt anh khắc khổ. Ngôi sao hôm hiện trên bầu trời. Anh không nhìn những cánh buồm đang rong ra khơi. Anh không nhìn những con sóng vẫn đều đều một nhịp quanh nhà đèn. Còn biển phía xa thì phẳng lại vì không nom rõ những gợn sóng nhấp nhô. Anh cũng không nhìn những ngôi sao nhỏ khác đã bắt đầu lấp lánh. Hình như anh đang tìm một cái gì không có ở đây. Một cái gì không có ở biển.
    Anh đang nghĩ gì? Tôi không dám hỏi. Cho đến khi ánh đèn Long Châu chớp loé, anh lẩm bẩm một mình như không có tôi ở đó: ?oLong Châu sáng rồi!? và anh vào nhà sắt nối dây điện vào hai cực ắc quy. Chúng tôi cùng ngửa mặt nhìn lên chiếc bóng đèn thuỷ tinh hình mang cá trên nóc nhà sắt đang toả ra những làn ánh sáng còn chưa rõ hình khối trong lúc nhập nhoạng. Chiều nào Bằng cũng đăm đăm nhìn về phía Long Châu bắt đầu toả sáng. Và tôi cũng nhìn về đấy. Nhìn về cây đèn cách bờ non trăm hải lý. Tôi hiểu rằng đối với những người gác đèn trong này, Long Châu luôn là nguồn động viên khích lệ. Những người gác đèn tìm về ánh sáng Long Châu như tìm về những điều tốt đẹp nhất của lòng mình.
    Thế rồi Đỗ An Bình lại tổ chức một chuyến đi tới Long Châu. Đã bao đêm tôi ngắm nhìn ánh sáng Long Châu xa vời vợi. Giờ đây được gặp. Con tầu thẳng hướng ra khơi. Biển chuyển mầu, tím sẫm. Vùng biển có độ mặn cao. Sóng dựng. Núi đá Long Châu uốn lượn như một chiếc khuyên vàng mà chỗ xuồng chúng tôi vừa mới vượt qua chính là cái kẽ hở bấm vào vành tai thiếu nữ. Một mặt hồ phẳng như gương hiện ra trước mắt tôi. Một mặt hồ phẳng như gương giữa vách đá dựng thành, chung quanh biển luôn cồn sóng. Viền quanh hồ là một dải cát trắng phau, nổi bật giữa mầu xanh tươi trẻ của nước biển và mầu xanh tuổi tác nghiêm nghị của đá rắn.
    Tôi đặt chân lên con đường dốc rải toàn san hô dẫn tới trụ đèn cao vời vợi, bụng nghĩ: Chính ở đây chứ không phải một nơi nào khác đã phát ra những tia chớp sáng mà ở trong kia mình đã bao chiều nhìn ngắm, chờ đợi. Và cũng lúc ấy, lúc đang leo dốc, ngước nhìn tháp đèn Long Châu sừng sững trước mặt, tôi nghĩ đến Nguyên Hồng. Cuộc gặp gỡ của tôi với Long Châu sau bao chiều từ Nam Triệu nhìn ánh sáng của nó cũng giống như tôi gặp Nguyên Hồng, sau khi đã đọc Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu, Buổi chiều xám, Người đàn bà Tầu, nay được gặp nhà văn bằng xương bằng thịt.
    hết: Lời tác giả:, xem tiếp: 1
  8. U_r_bullshit

    U_r_bullshit Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/10/2006
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    0
    2.

    Có lẽ Nguyên Hồng yêu mến tôi vì tôi và anh gặp nhau ít nhất ở một điểm: chúng tôi cùng tha thiết yêu thành phố Hải Phòng. Cùng sống chết với nó. Từ ngày đưa vợ con rời thủ đô về đây, mỗi ngày tình cảm của tôi với Hải Phòng một thêm sâu nặng. Tôi biết ở nhà máy xi măng kia có những ai đang làm việc. Tôi biết cần cẩu vàng đã thấm mồ hôi của những ai. Bởi vậy mỗi khi có việc lên Hà Nội trở về, ngồi trên tàu hoả, ngong ngóng thấy Sở Dầu là như đã bắt được tín hiệu của thành phố, và thật sự vui mừng, xúc động khi nhìn thấy làn khói nhà máy xi măng toả trắng. Khói nhà máy xi măng toả trắng. Câu ấy đẹp như thơ vậy. Đó là đầu đề bài bút ký đầu tiên của Nguyên Hồng khi anh rời báo Văn về nhà máy xi măng Hải Phòng. Bài bút ký ấy cũng giống như một bức thư gửi cho tất cả sau bước ngoặt của đời anh.
    Tôi cũng đã hiểu được ý nghĩa của chữ toả trắng Nguyên Hồng viết. Nhìn lên bầu trời xi măng, thấy khói trắng, nghĩa là các lò đang làm việc, nhà máy đang sản xuất ra của cải, những người thợ đang đứng máy một cách bình thường. Nếu nhìn thấy khói đen, nghĩa là có lò bị cháy. Nghĩa là sản xuất giảm, kế hoạch bị đe doạ, phải dừng lò, phải chờ lò nguội rồi lao vào sửa chữa... Nhìn những làn khói trắng bình thản toả trên trời thật yên tâm biết bao. Tôi cũng đã có cái nhìn của người thợ xi măng. Một lần về Thuỷ Nguyên thăm bố mẹ trở ra, vừa nhô khỏi Núi Đèo, thấy giữa những làn khói trắng có một ống khói nhả khói đen, tôi kêu lên với vợ tôi đang ngồi sau xe đạp: ?oLò 5 cháy rồi?. Tôi biết cả nhà máy đang xao động, các bạn tôi bên ấy đang vất vả lo lắng. Cũng như sau này khi ở tù ra, nhờ ông Hoàng Hữu Nhân, được vào làm ở một xí nghiệp đánh cá, kết bạn với những người vật lộn với biển cả, tôi có thói quen nghe bản tin thời tiết. Lúc đó các cháu phải im lặng. Đã nhiều lần chúng bị mắng vì một tiếng cười vô ý khi tiếng loa truyền thanh đầm ấm: ?oSau đây là dự báo thời tiết biển đêm nay và ngày mai...?. Như những gia đình đi biển, tôi cũng có cái nhìn hướng về biển cả và tôi thật sự trách móc chị phát thanh viên đài Tiếng nói Việt Nam khi chị đọc hai tiếng ?obiển động?. Tiếng ấy chị đọc tròn trặn ngọt ngào, lăn vào lòng người. Nhưng với những người bạn của tôi là tất cả sự vất vả, dằn vặt, suy nghĩ. Tiếng ấy lẽ ra phải ầm ầm như sóng biển, kêu lên như tiếng xích neo đập vào mũi tàu lao xuống nước ở vị trí trú gió, căng thẳng như da đầu những lúc nằm dài trong buồng nhìn sóng sôi ngay ngoài kính cửa húp lô và bẩy ngày không đi ra được ngoài boong vì đấy là nơi sóng đổ nước dập vùi. Tôi không dối trá đâu khi nói rằng cho dù cuộc đời biến đổi xoay vần, tình tôi với Hải Phòng không bao giờ nhạt phai. Và Nguyên Hồng cũng vậy.
    Nguyên Hồng thích thống kê các tên đất, tên nhà, tên phố Hải Phòng. Những tên Tây và những tên ta. Những Hôtel du Commerce, những ngõ Mộ Phu, Máy nước hai vòi, những Phọng Bớp, Trại lính Cát dem, Sở thầu Tây cụt, Vườn hoa đưa người. Các cụ mình cũng ác lắm chứ. Bến tầu Tây điếc, ở cái chỗ nhà Ngân hàng lên gần công ty Tầu cuốc bây giờ đấy. Mày cai trị tao, tao vẫn gọi mày là Tây điếc vì mày điếc. Mày điếc thật. Ngồi khoanh chân xếp bằng tròn giữa sàn nhà, Nguyên Hồng nghĩ ngợi và mỗi cái tên bật ra anh lại giơ ngón tay trỏ lên trời như bắn những phát đạn chỉ thiên.
    - Nhà thờ Tây đen!
    - Ngõ, ngõ ngõ - ông - Lý - Phình!
    - Ngõ ngõ - ông Đồng - Lùn!
    - Sở - Lục - lộ - Thuỷ! Đã lục lộ lại còn Thuỷ.
    - Ngõ - Cô - Ba - Chìa?
    - Phố - Kiến - ốc - Cục?
    Im lặng một lúc lâu. Chúng tôi đã tưởng hết. Hết những cái tên rất đặc biệt của Hải Phòng. Nhưng ngón tay trỏ của anh vẫn giơ lên khỏi đầu. Đôi mắt anh long lanh. Anh còn đang lục tìm trí nhớ. Và:
    - Ngõ - Sau - Nhà lốp!
    Cười. Cười dòn tan. Thế là đủ. Đủ cho tình yêu của chúng tôi đối với Hải Phòng. Đủ cho khát khao muốn viết một cái gì đó về Hải Phòng.
    Những cái tên đó đi thẳng vào trí nhớ của tôi và đọng lại ở đó. Chúng là những hạt vàng, vì như Pau-tốp-xki nói trí nhớ là cái rây thần chỉ để đọng lại những hạt vàng.
    Trong một buổi họp mặt anh chị em văn nghệ Hải Phòng, chuẩn bị cho việc thành lập chi hội Văn nghệ thành phố mà Nguyên Hồng sẽ là chủ tịch, có đông đủ anh chị em các ngành nghệ thuật, có cả đồng chí Hoàng Hữu Nhân, bí thư kiêm chủ tịch thành phố (đồng chí nói đùa rằng hãy coi đây là một hợp tác xã văn chương nghệ thuật), được giao nhiệm vụ phát biểu ý kiến, tôi chỉ việc sắp xếp lại các tên đất, tên nhà, tên phố Nguyên Hồng đã dạy cho tôi, thêm vào dăm ba ý kiến về sáng tác, thế là đã thành một bài phát biểu ?ođầy chất thơ? như có người đã nhận xét một cách nâng đỡ.
    Không chỉ các tên gọi, đường phố Hải Phòng luôn hấp dẫn Nguyên Hồng. Anh hay rủ tôi đi cùng anh. Một buổi sớm, tôi còn đang ngủ, anh đã khe khẽ:
    - Tấn dậy chưa?
    Tôi mở mắt. Nguyên Hồng ngồi nhỏm dậy thì thào:
    - Đi chơi phố đi.
    Chúng tôi khe khẽ mặc quần áo để khỏi làm thức vợ tôi lúc đó đang nuôi con mọn. Giấc ngủ với nàng thật quý báu. Lại tiếng thì thào:
    - Chốc về đánh răng rửa mặt?
  9. U_r_bullshit

    U_r_bullshit Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/10/2006
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    0
    2.

    Có lẽ Nguyên Hồng yêu mến tôi vì tôi và anh gặp nhau ít nhất ở một điểm: chúng tôi cùng tha thiết yêu thành phố Hải Phòng. Cùng sống chết với nó. Từ ngày đưa vợ con rời thủ đô về đây, mỗi ngày tình cảm của tôi với Hải Phòng một thêm sâu nặng. Tôi biết ở nhà máy xi măng kia có những ai đang làm việc. Tôi biết cần cẩu vàng đã thấm mồ hôi của những ai. Bởi vậy mỗi khi có việc lên Hà Nội trở về, ngồi trên tàu hoả, ngong ngóng thấy Sở Dầu là như đã bắt được tín hiệu của thành phố, và thật sự vui mừng, xúc động khi nhìn thấy làn khói nhà máy xi măng toả trắng. Khói nhà máy xi măng toả trắng. Câu ấy đẹp như thơ vậy. Đó là đầu đề bài bút ký đầu tiên của Nguyên Hồng khi anh rời báo Văn về nhà máy xi măng Hải Phòng. Bài bút ký ấy cũng giống như một bức thư gửi cho tất cả sau bước ngoặt của đời anh.
    Tôi cũng đã hiểu được ý nghĩa của chữ toả trắng Nguyên Hồng viết. Nhìn lên bầu trời xi măng, thấy khói trắng, nghĩa là các lò đang làm việc, nhà máy đang sản xuất ra của cải, những người thợ đang đứng máy một cách bình thường. Nếu nhìn thấy khói đen, nghĩa là có lò bị cháy. Nghĩa là sản xuất giảm, kế hoạch bị đe doạ, phải dừng lò, phải chờ lò nguội rồi lao vào sửa chữa... Nhìn những làn khói trắng bình thản toả trên trời thật yên tâm biết bao. Tôi cũng đã có cái nhìn của người thợ xi măng. Một lần về Thuỷ Nguyên thăm bố mẹ trở ra, vừa nhô khỏi Núi Đèo, thấy giữa những làn khói trắng có một ống khói nhả khói đen, tôi kêu lên với vợ tôi đang ngồi sau xe đạp: ?oLò 5 cháy rồi?. Tôi biết cả nhà máy đang xao động, các bạn tôi bên ấy đang vất vả lo lắng. Cũng như sau này khi ở tù ra, nhờ ông Hoàng Hữu Nhân, được vào làm ở một xí nghiệp đánh cá, kết bạn với những người vật lộn với biển cả, tôi có thói quen nghe bản tin thời tiết. Lúc đó các cháu phải im lặng. Đã nhiều lần chúng bị mắng vì một tiếng cười vô ý khi tiếng loa truyền thanh đầm ấm: ?oSau đây là dự báo thời tiết biển đêm nay và ngày mai...?. Như những gia đình đi biển, tôi cũng có cái nhìn hướng về biển cả và tôi thật sự trách móc chị phát thanh viên đài Tiếng nói Việt Nam khi chị đọc hai tiếng ?obiển động?. Tiếng ấy chị đọc tròn trặn ngọt ngào, lăn vào lòng người. Nhưng với những người bạn của tôi là tất cả sự vất vả, dằn vặt, suy nghĩ. Tiếng ấy lẽ ra phải ầm ầm như sóng biển, kêu lên như tiếng xích neo đập vào mũi tàu lao xuống nước ở vị trí trú gió, căng thẳng như da đầu những lúc nằm dài trong buồng nhìn sóng sôi ngay ngoài kính cửa húp lô và bẩy ngày không đi ra được ngoài boong vì đấy là nơi sóng đổ nước dập vùi. Tôi không dối trá đâu khi nói rằng cho dù cuộc đời biến đổi xoay vần, tình tôi với Hải Phòng không bao giờ nhạt phai. Và Nguyên Hồng cũng vậy.
    Nguyên Hồng thích thống kê các tên đất, tên nhà, tên phố Hải Phòng. Những tên Tây và những tên ta. Những Hôtel du Commerce, những ngõ Mộ Phu, Máy nước hai vòi, những Phọng Bớp, Trại lính Cát dem, Sở thầu Tây cụt, Vườn hoa đưa người. Các cụ mình cũng ác lắm chứ. Bến tầu Tây điếc, ở cái chỗ nhà Ngân hàng lên gần công ty Tầu cuốc bây giờ đấy. Mày cai trị tao, tao vẫn gọi mày là Tây điếc vì mày điếc. Mày điếc thật. Ngồi khoanh chân xếp bằng tròn giữa sàn nhà, Nguyên Hồng nghĩ ngợi và mỗi cái tên bật ra anh lại giơ ngón tay trỏ lên trời như bắn những phát đạn chỉ thiên.
    - Nhà thờ Tây đen!
    - Ngõ, ngõ ngõ - ông - Lý - Phình!
    - Ngõ ngõ - ông Đồng - Lùn!
    - Sở - Lục - lộ - Thuỷ! Đã lục lộ lại còn Thuỷ.
    - Ngõ - Cô - Ba - Chìa?
    - Phố - Kiến - ốc - Cục?
    Im lặng một lúc lâu. Chúng tôi đã tưởng hết. Hết những cái tên rất đặc biệt của Hải Phòng. Nhưng ngón tay trỏ của anh vẫn giơ lên khỏi đầu. Đôi mắt anh long lanh. Anh còn đang lục tìm trí nhớ. Và:
    - Ngõ - Sau - Nhà lốp!
    Cười. Cười dòn tan. Thế là đủ. Đủ cho tình yêu của chúng tôi đối với Hải Phòng. Đủ cho khát khao muốn viết một cái gì đó về Hải Phòng.
    Những cái tên đó đi thẳng vào trí nhớ của tôi và đọng lại ở đó. Chúng là những hạt vàng, vì như Pau-tốp-xki nói trí nhớ là cái rây thần chỉ để đọng lại những hạt vàng.
    Trong một buổi họp mặt anh chị em văn nghệ Hải Phòng, chuẩn bị cho việc thành lập chi hội Văn nghệ thành phố mà Nguyên Hồng sẽ là chủ tịch, có đông đủ anh chị em các ngành nghệ thuật, có cả đồng chí Hoàng Hữu Nhân, bí thư kiêm chủ tịch thành phố (đồng chí nói đùa rằng hãy coi đây là một hợp tác xã văn chương nghệ thuật), được giao nhiệm vụ phát biểu ý kiến, tôi chỉ việc sắp xếp lại các tên đất, tên nhà, tên phố Nguyên Hồng đã dạy cho tôi, thêm vào dăm ba ý kiến về sáng tác, thế là đã thành một bài phát biểu ?ođầy chất thơ? như có người đã nhận xét một cách nâng đỡ.
    Không chỉ các tên gọi, đường phố Hải Phòng luôn hấp dẫn Nguyên Hồng. Anh hay rủ tôi đi cùng anh. Một buổi sớm, tôi còn đang ngủ, anh đã khe khẽ:
    - Tấn dậy chưa?
    Tôi mở mắt. Nguyên Hồng ngồi nhỏm dậy thì thào:
    - Đi chơi phố đi.
    Chúng tôi khe khẽ mặc quần áo để khỏi làm thức vợ tôi lúc đó đang nuôi con mọn. Giấc ngủ với nàng thật quý báu. Lại tiếng thì thào:
    - Chốc về đánh răng rửa mặt?
  10. U_r_bullshit

    U_r_bullshit Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/10/2006
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    0
    Tôi ngoan ngoãn đạp xe đi theo anh, bởi vì tôi cũng rất yêu những buổi sáng như thế này. Những bóng đèn đường chưa tắt nhưng không toả sáng nữa. Chưa tách bạch được những cành cây phượng vĩ, chỉ thấy những tán lá. Không gian thoáng mát, mờ ảo như những đêm trắng phương Bắc mà tôi được đọc và tưởng tượng ra. Thỉnh thoảng một cửa sổ tỉnh dậy. Một bóng đèn tròn bật sáng. Thấp thoáng bóng người trong khuôn cửa. Thành phố của tôi đang thức dậy dần dần như thế đấy. Chúng tôi đạp xe đi và nhìn trời đất. Từ Ngã Sáu vòng qua phố Ga, rẽ xuống Cầu Đất. Trong ánh sáng trắng của đêm đang chảy đi, một thiếu nữ đang đứng lấy nước bên hè phố. Dáng người mảnh dẻ, nàng mặc quần áo ngủ nhàu nát. Tóc rối chưa chải. Như có mùi hương của căn phòng trinh nữ tươi mát đâu đây, trên hè phố Cầu Đất rộng và thoáng này.
    Nàng khoá vòi nước công cộng, gánh nước trên vai nhún nhẩy bước đi. Cả người con gái, cả gánh nước như không có trọng lượng trong không gian mờ sáng, biến vào một cánh cửa mở như trong mơ.
    Tôi im lặng, không dám nói những quan sát của tôi về người con gái dậy sớm ấy. Nhưng chẳng có gì lọt qua mắt anh. Hẳn anh cũng nhìn người con gái gánh nước ấy và nghĩ ngợi. Chỉ sau vài lần guồng pê-đan, Nguyên Hồng thở dài:
    - Vợ tôi gầy quá anh ạ.
    Không phải lần đầu tiên Nguyên Hồng nói với tôi điều ấy. Với tôi anh hay nói to ý nghĩ của mình. Một gia đình nhỏ mấy cũng cần ăn. Mai-a-kốp-xki đã dạy như vậy. Đó là chân lý. Mà các cụ lại nói: Hai vợ chồng son, đẻ một con thành bốn. Cũng lại là chân lý dù nó không đúng với phép tính cộng số học.
    Khi ở Hà Nội về Hải Phòng chúng tôi mới chỉ có một cháu trai. Thế nhưng mấy năm sau đã thêm cháu Giáng Hương, rồi lại cháu Hải Yến. Phải mượn một cô bé ở nông thôn ra trông cháu. Chẳng còn cách nào khác. Lương tôi cán ba, 64 đồng cộng thêm 2 đồng phụ cấp làm báo, vợ tôi 50 đồng cộng 5 đồng lương con. Tổng cộng hai đứa 121 đồng, trừ 6 đồng tiền nhà còn 115 đồng. Mà gia đình tôi lúc ấy đã 6 người, còn đâu là gia đình nhỏ nữa. Đó là chưa kể khoản bè bạn khách khứa, không phải ít. Bè bạn đi Quảng Ninh ngủ lại. Đi công tác Hải Dương xuôi xuống thăm. Nguyễn Kiên còn làm một cuốc xe đạp từ Hà Nội về thăm tôi. Khi Kiên dựng xe ở sân, tôi hoảng hốt gọi Kiên: Cái xe đạp của Kiên, moay-ơ lòi cả bi ra ngoài. Kiên xem và tươi cười giải thích cho tôi biết về cái moay ơ pê lít xi ê pơ luym có nắp đậy. Anh đạp xe đường trường, nắp bật ra nên trông như nó nhè bi ra chứ chẳng làm sao. Lại một lần Phạm Hồng, biên tập viên của cục điện ảnh dẫn một đoàn diễn viên, đạo diễn về nhà tôi. Sau khi làm nhiệm vụ giới thiệu bè bạn với nhau, Phạm Hồng xuống thang và biến mất. Câu chuyện giữa chủ khách ngay đơ ra vì thiếu thành phần kết dính. Chúng tôi cùng trông ngóng anh, cùng chờ đợi tiếng chân anh lên thang. Phải đến hai giờ sau tôi nghe thấy từ phía cầu thang tiếng quang quác trầm hùng của một con gà trống cỡ bự và cái đầu Phạm Hồng ló lên, cùng với cái đầu con gà trống hoa mơ mào nụ. Anh cười rất tươi, mặt mày rạng rỡ.
    - Lúc vào đây thấy mậu dịch ngoài Ngã Sáu bán gà, tranh thủ ra xếp lốt, đưa giấy công tác ra, nói khó với các cô ấy mua được một con.
    Con gà trống rất to, cựa dài, nhọn hoắt, chân bự, sù sì chân ấy phải đi giầy số 42 theo cách nói của Nguyên Bình. Chỉ tội hơi cao tuổi. Nhưng là tuyệt diệu. Cũng xin nói thêm ở đây là một lần Phạm Hồng từ Quảng Ninh về, ghé qua tôi vào buổi tối thì tôi đã bị bắt. Anh sững sờ. Vợ tôi đang học ở trường đại học. Các con tôi ở quê với ông bà. Cửa khoá. Vì tôi mới bị bắt nên chìa khoá còn do ông tổ trưởng dân phố giữ. Sau khi hỏi xóm láng, Phạm Hồng đến gặp ông tổ trưởng, xuất trình giấy tờ, trình bầy là bạn về chơi, không có chỗ ngủ. Mượn được chìa khoá, anh vào buồng tôi, căn buồng còn đọng chút hơi hướng của tôi, ở một đêm, sáng hôm sau về Hà Nội. Đêm hôm đó, giữa căn buồng còn nguyên dấu vết của cuộc khám xét ngổn ngang bừa bộn lúc tôi bị bắt ra đi, anh ngồi im lặng suốt đêm không ngủ. Rồi xuống nhà nhặt một mẩu gạch viết lên tường nhà tôi một bài thơ bốn câu. Năm năm sau tôi mới trở về. Bài thơ ấy không còn nữa.
    Mãi mấy chục năm sau, trong một lần trở lại Hải Phòng, Phạm Hồng mới kể cho tôi nghe chuyện đó. Anh đã về hưu từ lâu và lập một trang trại ở Gia Lâm. Anh vừa cho in truyện dài Ả Phù dung và cũng vừa kết thúc một chuyến đi tìm vàng, đầu óc còn đầy ắp những chuyện phiêu lưu, những suối lũ, những vách núi, những hang động với những bộ xương người và chai lọ...
    Con gái tôi làm một bữa cơm cá dĩa mời anh. Ngủ lại nhà tôi hôm ấy, anh cứ dằn dọc mãi. Rồi anh trở dậy lôi từ trong túi xách ra một cái quần trẻ con khai mù và cười khì khì:
    - Tớ đi đâu cũng phải mang theo cái này. Ngủ với cháu quen rồi. Không có mùi nước đái trẻ con là không ngủ được.
    Anh để cái quần khai ấy ngay cạnh gối. Chỉ một lúc đã thấy ngáy pho pho. Hoá ra anh là tộc trưởng một bộ tộc rất đông con cháu. Gần hai chục cháu nội ngoại, đứa nào cũng quấn lấy ông, ngủ với ông.
    Còn một kỷ niệm nữa về các bạn điện ảnh đến thăm tôi ấy là Trà Giang. Ăn cơm trưa xong Trà Giang rủ tôi đi bộ thăm thành phố. Đó là một sự tế nhị. Trà Giang muốn vợ con tôi đang nuôi con nhỏ được nghỉ ngơi sau bữa cơm trưa.

Chia sẻ trang này