1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Một thời để mất - Bùi Ngọc Tấn

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi U_r_bullshit, 26/05/2007.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. U_r_bullshit

    U_r_bullshit Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/10/2006
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    0
    Thế là đôi bạn hậu sinh bèo mây tan tác chúng tôi không ai bảo ai lại có mặt bên nhau, cùng tưởng nhớ đến bậc tiền bối đã khuất đang xum họp ?obên kia mộ?.
    Sinh thời Nguyên Hồng gọi tôi là Bùi Ngọc Tấn rất thương. Anh thương tôi vì những gì tôi đã nếm trải. Anh thương tôi vì những gì tôi sắp nếm trải, vì tôi không còn viết được nữa.
    Anh Hồng ơi!
    Hôm nay tôi lại được viết và viết được rồi.
    Hãy bớt đi chữ rất trong tên tôi. Hãy gọi tôi là Bùi Ngọc Tấn thương thôi, anh nhé.
    Tôi viết về anh trung thực, mong anh chứng giám.
    Trời còn cho sống, cho viết, tôi luôn cố gắng là người trung thực.
    17.10.1993 - 11.1.1994 ______________________ Phụ lục 1 Lại chuyện Nguyên Hồng - Một thời đã mất (Bài viết nhân dịp kỷ niệm 10 năm ngày mất Nguyên Hồng (1982-1992)- In trong tạp chí Cửa Biển).
    - Lại mở cửa hiệu bán buôn bán lẻ Nguyên Hồng đấy phải không?
    Một anh bạn hỏi tôi như vậy khi thấy tôi loay hoay với những trang bản thảo dập dập xoá xoá viết về Nguyên Hồng. Nguyên Hồng quả như một vùng tài nguyên chưa cạn vẫn còn đang được khai thác và chưa thấy đâu là vỉa quặng cuối cùng. Người ta đã viết và in nhiều về anh (tôi cũng có một bài). Năm nay kỷ niệm tròn mười năm anh từ biệt thế giới này, lại một loạt bài nữa về anh. Bài nào cũng có những thông tin mới, cũng đậm tình người viết. Đó là điều đặc biệt đời dành cho anh. Không một ai - kể cả Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng - được như vậy. Người ta viết về anh như viết về một nhà văn lớn. Như viết về một người bạn. Như viết về cuộc đời của chính họ. Cuộc đời ấy là một tập đại thành chữ của Nguyên Hồng) của khát vọng, của lao động khổ sai, của sảng khoái hưởng thụ, của sự nhọc nhằn lam lũ vất vả, của ý thức về sự cao sang nghề nghiệp, sự nhẹ dạ hồn nhiên trong cuộc sống, và vượt lên tất cả là lòng yêu đời, dù thế nào cũng cứ yêu tha thiết cuộc sống này. Anh là lương tâm văn học của lớp trẻ chúng tôi. Chưa bao giờ đời cám dỗ nổi anh, biến anh thành một công chức văn nghệ.
    Thế là đã mười năm Hải Phòng vắng bóng anh. Tôi nhớ lại mùa hè năm 1982 đó. Tôi đang làm ở xí nghiệp đánh cá. Một xí nghiệp có đối tượng lao động là biển cả. Người ta đi biển hàng tháng, hàng năm mới trở về. Người ta vật lộn với bão, với gió mùa, với biển động, với những sự cố và những tai nạn. Người ta làm việc không kể ngày đêm. Thèm một ngọn rau xanh. Nhớ vợ con. Nhớ người yêu Nhớ cây. Nhớ tiếng còi ô tô. Nhớ đất ẩm. Và uống rượu. Ai cũng uống. Uống nhiều cho quên đi tất cả. Bởi vậy người ta ít quan tâm đến mọi chuyện. Nhiều người còn lẫn lộn tên và chức vụ của những vị rường cột nhà nước. Nhưng tin Nguyên Hồng qua đời ai cũng biết. Ai cũng biết đất nước vừa mất đi một nhà văn lớn dù có người chưa đọc anh một dòng nào.
    Tin dữ đến với tôi quá bất ngờ. Tôi đã tưởng không còn chuyện gì là bất ngờ đối với tôi được nữa và đã tự bảo chuyện gì cũng có thể xẩy ra. Thế mà tôi vẫn choáng. Vẫn phải cố gắng lắm mới quen với ý nghĩ từ nay không được gặp anh nữa, anh đã đi vào hư vô. Ba năm sau cảm giác ấy lại đến với tôi khi cha tôi qua đời cũng đột ngột như vậy. Cũng như với Nguyên Hồng, tôi nghĩ cha tôi còn có thể sống khoẻ mạnh mươi năm nữa. Khi thế hệ cha anh mình mất đi, mình bỗng thấy trơ trọi. Không còn nữa cái tuyến một vẫn đứng chắn giữa mình với vô cùng, che chở cho mình bình yên sống. Mình không an toàn nữa. Mình bỗng biến thành tuyến đầu. Từ nay mình bị phơi ra trước họng súng bắn tỉa của Thần Chết.
    Bên cạnh nỗi xót thương, tôi quen dần những cuộc trò chuyện tay đôi với kết cục tất yếu sẽ đến cùng mỗi chúng ta và tôi hiểu rằng được chết như anh, như cha tôi là vô cùng sung sướng. Chết mà không biết rằng mình đã chết. Chết mà vẫn chuẩn bị cho những việc phải làm, vẫn bận bịu với công việc và hình như đến bây giờ vẫn tưởng mình còn đang làm việc. Tôi muốn lên Yên Thế - một vùng đất tôi sống nhiều năm trong thời chống Pháp - vĩnh biệt anh lần cuối. Nhưng với văn chương, tôi đã là người ngoài cuộc. Tôi đã bị văng ra ngoài quỹ đạo. Tôi đành ở lại thành phố Hải Phòng, nơi chính tôi đã cùng Nguyên Bình đưa mẹ anh từ Đông Khê ra ô tô để bà lên Yên Thế. Tôi nhớ đến căn nhà đơn sơ của bà ở Đông Khê, nơi anh viết Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu. Tôi nhớ đến bà, đến dáng người, vẻ mặt bà.
    Bà rất giống anh. Chẳng riêng ngoại hình mà còn ở những điều dễ nhận thấy trong tính cách: sự chịu đựng và lòng đôn hậu.
    *** Thực ra trong những năm cuối đời, Nguyên Hồng ít lại nhà tôi. Anh đến tôi chỉ để được yên tĩnh. Nằm trên giường, đọc, hoặc uống rượu.
    Trước đây nơi ở chính của anh khi anh về Hải Phòng là nhà tôi. Giờ đây anh đã có một chỗ trong trụ sở Hội văn nghệ Hải Phòng. Và hình như cả một căn buồng ở Cầu Tre thành phố phân cho anh.
    Anh đến nhà tôi và nằm xoài xuống sàn nhưng tôi vẫn tinh ý thấy anh nhìn rất nhanh vào đám chai lọ ở gầm giường.
    Tôi biết anh đang thèm rượu. Rất ít khi anh bị thất vọng. Tôi có thể moi ra ở đám chai lọ ấy khi nửa chai Lúa Mới, khi một xị rượu gừng hay một cút cuốc lủi. Lúc thì thứ rượu cà phê thẫm mầu. Sau vụ tai nạn của tôi, vợ tôi, một nữ sinh kháng chiến, rất chăm chỉ hương khói.
    Nguyên Hồng là người được hưởng lộc nhiều nhất. Anh không khắt khe chọn rượu. Anh đã uống cả rượu cà phê, thứ rượu trước đây anh cho là dã man, bởi vì theo anh, cà phê làm giã rượu. Uống rượu cà phê có nghĩa là được uống nhưng không bao giờ được thoả mãn. Đó chính là tra tấn. Vậy là anh đã quen với sự tra tấn ấy.
    Thời gian anh đi Liên xô về, tôi hỏi anh rượu bên ấy loại nào ngon. Anh thì thầm vào tai tôi như sợ có người nghe thấy điều bí mật phạm pháp, vì nó phủ nhận quốc doanh trên quy mô lớn:
    - Cũng như ta thôi. Ngon nhất là, là vốt-ca lậu!
    Rồi cười. Cười như một người khám phá công bố kết quả bất ngờ. Cười như một người táo tợn dám nói lên chân lý. Cười như đã tìm ra đặc điểm chung nhất của nhân loại. Cười như một trò tinh nghịch. Đó là lúc anh thật sự thơ trẻ lại.
    Nhìn Nguyên Hồng uống rượu bao giờ tôi cũng vui. Hơn thế, một cảm giác kính cẩn, gần như một nghi thức tôn giáo.
    Từ Cô Tô về, đen nhẻm, anh kể về bữa rượu ngoài đảo do chính quyền sở tại chiêu đãi anh em văn nghệ sĩ. Hải sản. Tất nhiên. Lại cả thịt dê. Và rượu. Và cũng tất nhiên là Nguyên Hồng ngồi cùng mâm với Nguyễn Tuân. Một thứ rượu tăm chính hiệu. Hai người tận hưởng ngọn lửa được thắp lên ở họng và lan vào cơ thể. Anh em văn nghệ sĩ trẻ ngồi cùng mâm và khác mâm ăn như đã bị bỏ đói mấy ngày. Vì không khí trên đảo. Vì sự chuyển dịch. Vì những món ăn ngon lạ miệng. Vì biển ngay bên cạnh. Vì chẳng mấy khi tụ họp đông vui thế... ?oHọ ăn hơi phũ?. Nguyên Hồng nói vậy. Thực ra họ ăn phũ. Ngon miệng, vô tâm, ồn ào, háu đói.
  2. U_r_bullshit

    U_r_bullshit Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/10/2006
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    0
    Mặc. Hai ông già cứ ?onâng lên đặt xuống?. Cứ đối ẩm. Cứ ngâm nga. Như chỉ có hai người. Khi hai ông ngừng uống để ăn cơm, các món ăn chỉ còn lại xương. Thấy mỗi người chỉ và một lưng cơm như kiểu ăn chiếu lệ, một bạn trẻ cùng đi lễ phép hỏi:
    - Hai bác ăn ít thế ạ?
    Nguyên Hồng im lặng vì biết thế nào Nguyễn Tuân cũng... trả lời. Anh không nhầm. Tác giả Sông Đà, Vang bóng một thời nhìn cái bụng căng tròn của anh bạn trẻ, đáp với giọng thương hại:
    - Sao anh chậm hiểu thế. Các anh ăn gạo. Còn chúng tôi ăn tinh của gạo.
    Lại cười dòn. Nguyên Hồng quả là người mau nước mắt. Khi cười cũng lấy khăn mùi soa lau mắt. Dịp quốc khánh năm ấy, anh thi đua xí nghiệp đánh cá (nơi tôi sẽ đến làm thi đua khi ở tù ra) mua cho tôi mười ki lô cá mực theo giá cung cấp. Nghĩa là ?obán như cho? và ?omua như vớ được?. Chưa bao giờ tôi có trong tay một khối lượng thực phẩm quý giá, khổng lồ như vậy. Khi đó tôi vẫn đang làm báo. Sau khi đã vợi bớt cho vài người bạn thân, chúng tôi giã chả. Hai vợ chồng thay phiên nhau giã, rán. Và phải gương mẫu ăn nữa vì cũng chỉ có hai chúng tôi. Các cháu đã về quê với bố mẹ tôi.
    Suốt một ngày ăn chả mực, tới tối vẫn còn một đĩa men đầy. Giống này rất chóng thiu. Đang lo vì sắp phải mở toà án lương tâm tự đưa mình ta xét xử về tội tham lam dẫn tới sự lãng phí không thể tha thứ được thì Nguyên Hồng đến. Thấy anh và cái làn ràng ràng lủng củng chai lọ hiện ra ở hành lang, chúng tôi cùng reo lên.
    Anh ngạc nhiên:
    - Có chuyện gì mà vui thế?
    Đó là một đêm thu. Trời đẹp. Gió tới tấp. Mà cửa sổ nhà tôi thì rộng, lại trông thẳng ra biển. Bóng điện tròn treo giữa nhà bị gió đánh đung đưa. Nguyên Hồng rút từ trong làn ra một gói chè Ba Đình và hai gói thuốc Tam Đảo tiêu chuẩn phân phối của anh. Quà anh mang từ Hà Nội về tặng tôi ngày Quốc khánh.
    Nhìn đĩa chả mực vàng ruộm vợ tôi vừa rán lại, Nguyên Hồng xuýt xoa. Chúng tôi ngồi uống rượu.
    Nguyên Hồng nói với vợ tôi:
    - Chị Bích ạ. Chả mực phải rán nhỏ nữa. Bằng ngón chân cái thôi. Rán ngập mỡ. Như mấy bà bán ở chợ ấy.
    Thế là anh kể về những hàng quà rong. Cái thú khi ngồi ăn ở vỉa hè, cổng chợ. Vừa ngon. Vừa rẻ. Vừa được nhìn, được nghe. Biết bao nhiêu chuyện. Như cái hôm anh ăn bên Hạ Lý. Giời rét đại hàn chi cực. Anh thanh niên ngồi cạnh anh quần áo phong phanh lại chỉ ăn bún chấm mắm tôm, vừa ăn vừa run lập cập khiến chính Nguyên Hồng cũng run lên. Lại như cái hôm anh ngồi uống rượu ở hàng bà bán bún ngoài cổng chợ Lạc Viên. Ngồi ghế đối diện với anh là một phụ nữ, chắc là làm bốc vác Cảng. Giầy vải, quần áo bảo hộ lao động xanh rộng thùng, lấm bẩn. Rõ ràng vừa tan ca về. Người ấy lẳng lặng ăn như anh lẳng lặng uống. Ăn xong khen bún ngon và lấy trong túi xách ra cái cặp ***g đựng một bát mua thêm. Lấy cả chanh ớt, chíu chương. Thêm một ít hành dúng. Đừng cho hành dúng vào bún. Cứ để ngăn trên chỗ chanh ớt. Rồi chỉ vào cái tỏi gà: Chặt cho tôi cái tỏi này. Con gà hôm nay béo, mềm. Gói riêng ra hộ tôi. Cả lá chanh nữa. Cho vào cặp ***g, cho gói thịt vào túi xách. Tưởng xong. Lại rút từ túi ra một con hươu. Cho tôi một cút vào đây. Lúc ấy mới trả tiền. Xách túi đứng lên còn quay lại giải thích với Nguyên Hồng đang cố làm ra không để ý gì đến mọi việc chung quanh:
    - Cho ông lão ở nhà.
    Và đon đả ra đi.
    Nguyên Hồng xuýt xoa không một chút hài hước:
    - Lấy được một người vợ như vậy thật đại hạnh phúc!
    Chúng tôi cùng cười. Hình như anh muốn tin đấy là Gái Đen, là mẹ La của anh. Anh muốn tin rằng đó là những người trong Cửa biển của anh đã đổi đời cũng với cách mạng, đang sống hạnh phúc trong cuộc sống mới.
    Chúng tôi uống lâu. Tới lúc đài phát thanh kết thúc bản tin và bắt đầu chương trình văn nghệ- tiết mục Tiếng thơ. Mười giờ đêm rồi. Cái loa nón Ngã Sáu vọng vào giọng ca thơ lanh lảnh của ai đó đang hát bài thơ chưa in (như giới thiệu của đài Tiếng nói Việt Nam) của Tố Hữu, bài Nhật ký đường về. Đúng là iné***e vì tới sáng hôm sau, mùng hai tháng chín báo Nhân Dân in bài thơ ấy mới phát hành.
    Hay tin giặc bắn Hòn Mê Đêm nằm nghe biển gọi về quê hương Sáng ra cất cánh lên đường Xôn xao sóng nước đại dương muốn trùng.
    Cu Ba chào bạn anh hùng Cũng giống tôi, Nguyên Hồng không thích ngâm thơ. Ghét nữa. Giọng véo von trầm bổng làm mất âm điệu của ngôn ngữ. Nó giết chết nhạc của thơ. Nó có thể tạo nên một lớp công chúng không biết gì về chất nhạc này. Nguyên Hồng không gọi là ngâm thơ. Anh gọi là hát thơ. Và anh cho biết thủ phạm của ngành nghệ thuật này chính là hai nhà thơ Hoàng Cầm, Xuân Diệu. Nguyên Hồng ghé sát tai tôi, tinh nghịch:
    - Lại có những vị lên ngâm thơ cứ ưỡn bụng ra mà chẳng có gì là gợi tình cả.
    Chúng tôi lại cười. Tràn ngập không gian là tiếng đàn thập lục thánh thót, tiếng sáo lúc vút lên như tiếng chim chiền chiện, lúc là là như trôi sát mặt sông và giọng ngâm điêu luyện:
    Sáng rồi rộn rã trong tim Đường về phơi phới cánh chim tung hoành Cờ bay Vạn lý trường thành Bắc Kinh tay chị tay anh triệu vòng Tôi bảo Nguyên Hồng:
    - Cửu Long giang ta ơi của anh cũng được hát trên đài đấy. Tôi nghe mấy lần rồi.
    Anh làm ra bộ thiểu não, lắc đầu, kiểu như muốn nói: ?oPhải chịu thôi. Phải đầu hàng thôi. Không còn cách nào khác?.
    Chúng tôi lại nói chuyện thơ. Nguyên Hồng là tác giả những bài thơ có thể làm bất kỳ nhà thơ nào ghen tỵ.
    Một bài thơ của anh ít được nhắc tới, nhưng tôi chỉ nghe một lần đã thuộc. Và nó cứ nằm lý trong trí nhớ ngày một tồi một suy giảm của tôi. Đó là bài ?oHồng Hà, tên con, dòng sông yêu dấu?.
    Hồng Hà Ngẩng trán lên Cha hôn Nước sa đã về Vải thiều đã đỏ.
    Bãi ngô ngả rạp Gió Tây chảy vàng đồng lúa Mây đen Tam Đảo gọi gió chiều hôm Lô, Thao thác réo ghềnh sôi Biển Đông chớp nhói lửa chài chông chênh.
    Mẹ đẻ con Mùa ấy Tên con tìm đặt Ngay khi thai nghén Vú nhỏ nổi gai Bụng nhỏ căng tròn Mặt váng vất những buổi chiều nhớ sốt Trong thịt xương một xương thịt mang hồn (.) Còn đây là Cửu Long giang ta ơi đã đi vào cổ điển:
    () Mê kông chảy Cây lao đá đổ Lan hoang dứa mật thông nhựa lên hương Những trưa hè ngun ngút nắng Trường Sơn.
    Ngẫm nghĩ vơi đi Thác Khôn cười trắng xoá Rừng Lào - Miên rộng quá Dân Lào - Miên mến yêu Hai bài thơ anh viết về hai con sông lớn nhất đất nước, một ở miền Nam, một ở miền Bắc, bồi đắp thành hai châu thổ lớn, ?othành những tên đọc lên nước mắt đều muốn ứa?.
  3. U_r_bullshit

    U_r_bullshit Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/10/2006
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    0
    Mặc. Hai ông già cứ ?onâng lên đặt xuống?. Cứ đối ẩm. Cứ ngâm nga. Như chỉ có hai người. Khi hai ông ngừng uống để ăn cơm, các món ăn chỉ còn lại xương. Thấy mỗi người chỉ và một lưng cơm như kiểu ăn chiếu lệ, một bạn trẻ cùng đi lễ phép hỏi:
    - Hai bác ăn ít thế ạ?
    Nguyên Hồng im lặng vì biết thế nào Nguyễn Tuân cũng... trả lời. Anh không nhầm. Tác giả Sông Đà, Vang bóng một thời nhìn cái bụng căng tròn của anh bạn trẻ, đáp với giọng thương hại:
    - Sao anh chậm hiểu thế. Các anh ăn gạo. Còn chúng tôi ăn tinh của gạo.
    Lại cười dòn. Nguyên Hồng quả là người mau nước mắt. Khi cười cũng lấy khăn mùi soa lau mắt. Dịp quốc khánh năm ấy, anh thi đua xí nghiệp đánh cá (nơi tôi sẽ đến làm thi đua khi ở tù ra) mua cho tôi mười ki lô cá mực theo giá cung cấp. Nghĩa là ?obán như cho? và ?omua như vớ được?. Chưa bao giờ tôi có trong tay một khối lượng thực phẩm quý giá, khổng lồ như vậy. Khi đó tôi vẫn đang làm báo. Sau khi đã vợi bớt cho vài người bạn thân, chúng tôi giã chả. Hai vợ chồng thay phiên nhau giã, rán. Và phải gương mẫu ăn nữa vì cũng chỉ có hai chúng tôi. Các cháu đã về quê với bố mẹ tôi.
    Suốt một ngày ăn chả mực, tới tối vẫn còn một đĩa men đầy. Giống này rất chóng thiu. Đang lo vì sắp phải mở toà án lương tâm tự đưa mình ta xét xử về tội tham lam dẫn tới sự lãng phí không thể tha thứ được thì Nguyên Hồng đến. Thấy anh và cái làn ràng ràng lủng củng chai lọ hiện ra ở hành lang, chúng tôi cùng reo lên.
    Anh ngạc nhiên:
    - Có chuyện gì mà vui thế?
    Đó là một đêm thu. Trời đẹp. Gió tới tấp. Mà cửa sổ nhà tôi thì rộng, lại trông thẳng ra biển. Bóng điện tròn treo giữa nhà bị gió đánh đung đưa. Nguyên Hồng rút từ trong làn ra một gói chè Ba Đình và hai gói thuốc Tam Đảo tiêu chuẩn phân phối của anh. Quà anh mang từ Hà Nội về tặng tôi ngày Quốc khánh.
    Nhìn đĩa chả mực vàng ruộm vợ tôi vừa rán lại, Nguyên Hồng xuýt xoa. Chúng tôi ngồi uống rượu.
    Nguyên Hồng nói với vợ tôi:
    - Chị Bích ạ. Chả mực phải rán nhỏ nữa. Bằng ngón chân cái thôi. Rán ngập mỡ. Như mấy bà bán ở chợ ấy.
    Thế là anh kể về những hàng quà rong. Cái thú khi ngồi ăn ở vỉa hè, cổng chợ. Vừa ngon. Vừa rẻ. Vừa được nhìn, được nghe. Biết bao nhiêu chuyện. Như cái hôm anh ăn bên Hạ Lý. Giời rét đại hàn chi cực. Anh thanh niên ngồi cạnh anh quần áo phong phanh lại chỉ ăn bún chấm mắm tôm, vừa ăn vừa run lập cập khiến chính Nguyên Hồng cũng run lên. Lại như cái hôm anh ngồi uống rượu ở hàng bà bán bún ngoài cổng chợ Lạc Viên. Ngồi ghế đối diện với anh là một phụ nữ, chắc là làm bốc vác Cảng. Giầy vải, quần áo bảo hộ lao động xanh rộng thùng, lấm bẩn. Rõ ràng vừa tan ca về. Người ấy lẳng lặng ăn như anh lẳng lặng uống. Ăn xong khen bún ngon và lấy trong túi xách ra cái cặp ***g đựng một bát mua thêm. Lấy cả chanh ớt, chíu chương. Thêm một ít hành dúng. Đừng cho hành dúng vào bún. Cứ để ngăn trên chỗ chanh ớt. Rồi chỉ vào cái tỏi gà: Chặt cho tôi cái tỏi này. Con gà hôm nay béo, mềm. Gói riêng ra hộ tôi. Cả lá chanh nữa. Cho vào cặp ***g, cho gói thịt vào túi xách. Tưởng xong. Lại rút từ túi ra một con hươu. Cho tôi một cút vào đây. Lúc ấy mới trả tiền. Xách túi đứng lên còn quay lại giải thích với Nguyên Hồng đang cố làm ra không để ý gì đến mọi việc chung quanh:
    - Cho ông lão ở nhà.
    Và đon đả ra đi.
    Nguyên Hồng xuýt xoa không một chút hài hước:
    - Lấy được một người vợ như vậy thật đại hạnh phúc!
    Chúng tôi cùng cười. Hình như anh muốn tin đấy là Gái Đen, là mẹ La của anh. Anh muốn tin rằng đó là những người trong Cửa biển của anh đã đổi đời cũng với cách mạng, đang sống hạnh phúc trong cuộc sống mới.
    Chúng tôi uống lâu. Tới lúc đài phát thanh kết thúc bản tin và bắt đầu chương trình văn nghệ- tiết mục Tiếng thơ. Mười giờ đêm rồi. Cái loa nón Ngã Sáu vọng vào giọng ca thơ lanh lảnh của ai đó đang hát bài thơ chưa in (như giới thiệu của đài Tiếng nói Việt Nam) của Tố Hữu, bài Nhật ký đường về. Đúng là iné***e vì tới sáng hôm sau, mùng hai tháng chín báo Nhân Dân in bài thơ ấy mới phát hành.
    Hay tin giặc bắn Hòn Mê Đêm nằm nghe biển gọi về quê hương Sáng ra cất cánh lên đường Xôn xao sóng nước đại dương muốn trùng.
    Cu Ba chào bạn anh hùng Cũng giống tôi, Nguyên Hồng không thích ngâm thơ. Ghét nữa. Giọng véo von trầm bổng làm mất âm điệu của ngôn ngữ. Nó giết chết nhạc của thơ. Nó có thể tạo nên một lớp công chúng không biết gì về chất nhạc này. Nguyên Hồng không gọi là ngâm thơ. Anh gọi là hát thơ. Và anh cho biết thủ phạm của ngành nghệ thuật này chính là hai nhà thơ Hoàng Cầm, Xuân Diệu. Nguyên Hồng ghé sát tai tôi, tinh nghịch:
    - Lại có những vị lên ngâm thơ cứ ưỡn bụng ra mà chẳng có gì là gợi tình cả.
    Chúng tôi lại cười. Tràn ngập không gian là tiếng đàn thập lục thánh thót, tiếng sáo lúc vút lên như tiếng chim chiền chiện, lúc là là như trôi sát mặt sông và giọng ngâm điêu luyện:
    Sáng rồi rộn rã trong tim Đường về phơi phới cánh chim tung hoành Cờ bay Vạn lý trường thành Bắc Kinh tay chị tay anh triệu vòng Tôi bảo Nguyên Hồng:
    - Cửu Long giang ta ơi của anh cũng được hát trên đài đấy. Tôi nghe mấy lần rồi.
    Anh làm ra bộ thiểu não, lắc đầu, kiểu như muốn nói: ?oPhải chịu thôi. Phải đầu hàng thôi. Không còn cách nào khác?.
    Chúng tôi lại nói chuyện thơ. Nguyên Hồng là tác giả những bài thơ có thể làm bất kỳ nhà thơ nào ghen tỵ.
    Một bài thơ của anh ít được nhắc tới, nhưng tôi chỉ nghe một lần đã thuộc. Và nó cứ nằm lý trong trí nhớ ngày một tồi một suy giảm của tôi. Đó là bài ?oHồng Hà, tên con, dòng sông yêu dấu?.
    Hồng Hà Ngẩng trán lên Cha hôn Nước sa đã về Vải thiều đã đỏ.
    Bãi ngô ngả rạp Gió Tây chảy vàng đồng lúa Mây đen Tam Đảo gọi gió chiều hôm Lô, Thao thác réo ghềnh sôi Biển Đông chớp nhói lửa chài chông chênh.
    Mẹ đẻ con Mùa ấy Tên con tìm đặt Ngay khi thai nghén Vú nhỏ nổi gai Bụng nhỏ căng tròn Mặt váng vất những buổi chiều nhớ sốt Trong thịt xương một xương thịt mang hồn (.) Còn đây là Cửu Long giang ta ơi đã đi vào cổ điển:
    () Mê kông chảy Cây lao đá đổ Lan hoang dứa mật thông nhựa lên hương Những trưa hè ngun ngút nắng Trường Sơn.
    Ngẫm nghĩ vơi đi Thác Khôn cười trắng xoá Rừng Lào - Miên rộng quá Dân Lào - Miên mến yêu Hai bài thơ anh viết về hai con sông lớn nhất đất nước, một ở miền Nam, một ở miền Bắc, bồi đắp thành hai châu thổ lớn, ?othành những tên đọc lên nước mắt đều muốn ứa?.
  4. U_r_bullshit

    U_r_bullshit Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/10/2006
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    0
    Trong thơ Nguyên Hồng không có chỗ cho sự trung bình của tình cảm, lại càng không có chỗ cho sự uốn éo, làm duyên.
    Đêm ấy chúng tôi thức khuya. Một tối thật vui.
    Nguyên Hồng ngủ lại nhà tôi. Vợ tôi dẹp mâm. Tôi lấy khăn mặt đưa anh lau tay, lau miệng. Nhưng anh cho tay vào làn, lục tìm, lôi từ đống hỗn mang ấy ra một cái khăn mặt mầu nước dưa và thân mật vỗ vai tôi, phổ biến cho tôi một chân lý mới mẻ, vĩnh hằng:
    - Người ta có thể uống chung một chén rượu. Nhưng không thể dùng chung một cái khăn mặt!
    *** Khi tôi bị văng ra ngoài quỹ đạo, Nguyên Hồng thưa lại nhà tôi. Ngoài những lý do về nhà cửa, nơi ở của anh đã có còn một lý do khác nữa. Anh không thể nói chuyện văn chương với tôi, mà đấy lại là nội dung chính trong cuộc sống của anh. Mọi con đường đều dẫn tới thành Rôm. Dù có nói chuyện gì cuối cùng cũng dẫn tới chuyện sáng tác, cũng dính dáng tới công việc của anh, tới các bạn tôi đang viết, đang in.
    Cuối năm 1974, nghĩa là khi tôi ở tù ra được một năm và đang làm bốc vác, Nguyên Hồng lại nhà tôi. Đó là một tối mùa đông. Ngồi trên chiếc chiết giải giữa nhà, đúng chỗ tôi và anh uống rượu với chả mực năm nào, anh lục trong cặp (lần này là cặp, không phải cái làn đựng các thứ hỗn mang nữa) rút ra một tập sách anh mới in. Một tuổi thơ văn. Anh lấy bút ghi tặng tôi, vẫn bằng thứ chữ to anh chuyên đề tặng trên các tập sách: Cho Bùi Ngọc Tấn rất thương. Mùa đông nhớ năm xưa. Nguyên Hồng.
    Đưa tập sách cho tôi, thật bất ngờ, anh oà khóc. Đó là những giọt nước mắt mặn xót cả lòng tôi. Tập sách đầu tiên anh tặng tôi khi tôi trở lại cuộc sống con người. Cầm tập sách tôi nguôi đi tất cả những hờn giận về anh, về những xa cách đã có giữa chúng tôi. ?o... rất thương. Mùa Đông nhớ năm xưa?. Anh vẫn nhớ những năm xưa. Không quên.
    Đó là tất cả những gì có thể làm được cho tôi. Thế cũng đã là nhiều lắm.
    Hơn một lần anh chảy nước mắt về những đau khổ của tôi. Nhưng chỉ ba lần anh khóc nhiều như vậy. Lần đầu tiên: Gặp lại tôi sau 5 năm tù. Lần thứ hai khi tôi cho anh xem bộ quần áo số của tôi. Và lần này. Anh sợ quyển sách của anh sẽ làm tôi đau. Vì tôi đã bị văng ra ngoài quỹ đạo.
    Nguyên Hồng vẫn tránh mọi chuyện văn chương với tôi ấy thế mà có một lần vừa đến nhà, anh đã lôi ra một tạp chí nước ngoài. Anh lật tìm trang. Và đặt trước mặt tôi quyển tạp chí để mở. Tôi nhìn tấm hình in trên tạp chí và lại nhìn anh. Đúng là anh. Nhưng tôi kêu lên:
    - Giống Đề Thám quá?
    Thật là một phát hiện bất ngờ. Eureka!
    Tạp chí giới thiệu Nguyên Hồng và in ảnh của anh. Khuôn mặt. Chòm râu. Chỉ thiếu vành khăn trên đầu là thành Hoàng Hoa Thám.
    Anh ngắm lại tấm ảnh:
    - Mình không biết họ chụp mình lúc nào. Đúng là Đề Thám.
    Khi đó anh đang viết Núi rừng Yên Thê, anh ?ovẫn khoẻ vì cần phải khoẻ? như thư anh viết cho tôi ngày trước.
    Khi đó anh đã dạy con gái anh cách bán mèo ở chợ Yên Thế để lấy tiền mua sách bút vào năm học mới.
    - Con cứ cầm gáy nó giơ lên thế này này. Chân nó chụm lại thế này là mèo hay chuột đấy. Cứ bảo người ta là mèo nhà cháu hay chuột lắm..
    Chờ đến gần trưa, chưa thấy con gái về, Nguyên Hồng ra chợ. Chợ đã vãn. Con bé con và con mèo con vẫn còn ngồi đó. Thấy anh, con bé oà lên khóc - Con đã làm như thầy bảo, nhưng người ta không mua. Người ta bảo mèo nhà mình là mèo đực.
    Còn một chuyện nữa về Nguyên Hồng, tôi cứ suy nghĩ mãi: Nên viết hay chỉ lưu giữ trong bộ nhớ. Đó là cuộc gặp giữa Giăng và Nguyên Hồng ở nhà tôi. Giăng là con liệt sĩ. Bố Giăng hy sinh từ những năm đầu chống Pháp. Mẹ đi lấy chồng. Giăng trở thành trẻ bụi. Móc túi. Đánh nhau. Ăn cắp xe đạp. Đi tù.
    Khi tôi và Nguyên Hồng đang uống rượu thì Giăng đến. Không cần giới thiệu, Giăng cũng biết ngay là Nguyên Hồng. Có lẽ hồi ở trong tù tôi đã tả về anh quá nhiều, nên vừa gặp, Giăng đã nhận ra anh. Tôi bảo Giăng ngồi xuống mâm. Thức nhắm với Nguyên Hồng bao giờ cũng đơn giản. Bữa ấy chỉ có ít lạc rang. Tôi nói cho Nguyên Hồng biết đôi chút về cuộc đời Giăng. Giăng rụt dè:
    - Cháu đã đọc Bỉ vỏ. Chúng cháu thích lắm...
    Đó là những điều quá nhàm, nhà văn chỉ mỉm cười độ lượng. Nhưng câu nói tiếp theo của Giăng thật bất ngờ:
    - Sao bác không viết những chuyện như thế nữa. Những chuyện xẩy ra bây giờ cơ. Nhiều chuyện lắm. Chúng cháu sẽ kể cho bác. Bác viết thì hay lắm...
    Nguyên Hồng im lặng. Giăng nhìn anh chờ câu trả lời.
    Tôi bỗng nhớ đến một câu chuyện Nguyên Hồng kể cho tôi lâu lắm rồi, từ trước khi tôi bị bắt. Một cô gái tuổi đôi mươi nói với Nguyên Hồng đầy tự tin:
    - Tôi có cuộc sống. Anh có tay nghề. Chúng ta sẽ cộng tác viết một tác phẩm...
    Tôi đã cười mãi về sự tự tin đến mức ngây ngô của người con gái ấy, người đã khoe cuộc sống với cả Nguyên Hồng. Giờ đây tôi mới hiểu cô. Đến bây giờ tôi mới biết có những Tám Bính, Năm Sài Gòn mới đang đòi có những nhà văn của mình.
    Tôi nhớ sự đăm chiêu của Nguyên Hồng trước câu hỏi của Giăng. Tôi nhớ anh đã tránh cái nhìn lễ phép, chờ đợi của Giăng. Tôi nhớ vẻ sợ sệt của Giăng vì đã làm anh buồn.
    Cũng như tôi nhớ trong một lần khác, lại nhà tôi, anh phe phẩy cái quạt giấy tuỳ thân. (Anh không thích dùng quạt máy dù tôi đã ưu tiên cái quạt cóc duy nhất cho anh). Nằm trên giường, anh đọc. Bỗng anh nhổm dậy gọi tôi với vẻ đầy sảng khoái:
    - Tấn ơi! Làm gì đấy. Nghe đã nhé. Đây là câu kết một vở kịch Ba Lan. Nhân vật chính quay ra nói với khán giả: ?oCác bạn có biết vì sao người ta nói dối không? Có hai lý do. Thứ nhất: Người ta sợ nói khác mọi người. Thứ hai: Người ta mệt quá rồi?.
    Ngã Sáu 18 - 20.5.1992
    hết: 7., xem tiếp: Phụ lục 2:
  5. U_r_bullshit

    U_r_bullshit Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/10/2006
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    0
    Trong thơ Nguyên Hồng không có chỗ cho sự trung bình của tình cảm, lại càng không có chỗ cho sự uốn éo, làm duyên.
    Đêm ấy chúng tôi thức khuya. Một tối thật vui.
    Nguyên Hồng ngủ lại nhà tôi. Vợ tôi dẹp mâm. Tôi lấy khăn mặt đưa anh lau tay, lau miệng. Nhưng anh cho tay vào làn, lục tìm, lôi từ đống hỗn mang ấy ra một cái khăn mặt mầu nước dưa và thân mật vỗ vai tôi, phổ biến cho tôi một chân lý mới mẻ, vĩnh hằng:
    - Người ta có thể uống chung một chén rượu. Nhưng không thể dùng chung một cái khăn mặt!
    *** Khi tôi bị văng ra ngoài quỹ đạo, Nguyên Hồng thưa lại nhà tôi. Ngoài những lý do về nhà cửa, nơi ở của anh đã có còn một lý do khác nữa. Anh không thể nói chuyện văn chương với tôi, mà đấy lại là nội dung chính trong cuộc sống của anh. Mọi con đường đều dẫn tới thành Rôm. Dù có nói chuyện gì cuối cùng cũng dẫn tới chuyện sáng tác, cũng dính dáng tới công việc của anh, tới các bạn tôi đang viết, đang in.
    Cuối năm 1974, nghĩa là khi tôi ở tù ra được một năm và đang làm bốc vác, Nguyên Hồng lại nhà tôi. Đó là một tối mùa đông. Ngồi trên chiếc chiết giải giữa nhà, đúng chỗ tôi và anh uống rượu với chả mực năm nào, anh lục trong cặp (lần này là cặp, không phải cái làn đựng các thứ hỗn mang nữa) rút ra một tập sách anh mới in. Một tuổi thơ văn. Anh lấy bút ghi tặng tôi, vẫn bằng thứ chữ to anh chuyên đề tặng trên các tập sách: Cho Bùi Ngọc Tấn rất thương. Mùa đông nhớ năm xưa. Nguyên Hồng.
    Đưa tập sách cho tôi, thật bất ngờ, anh oà khóc. Đó là những giọt nước mắt mặn xót cả lòng tôi. Tập sách đầu tiên anh tặng tôi khi tôi trở lại cuộc sống con người. Cầm tập sách tôi nguôi đi tất cả những hờn giận về anh, về những xa cách đã có giữa chúng tôi. ?o... rất thương. Mùa Đông nhớ năm xưa?. Anh vẫn nhớ những năm xưa. Không quên.
    Đó là tất cả những gì có thể làm được cho tôi. Thế cũng đã là nhiều lắm.
    Hơn một lần anh chảy nước mắt về những đau khổ của tôi. Nhưng chỉ ba lần anh khóc nhiều như vậy. Lần đầu tiên: Gặp lại tôi sau 5 năm tù. Lần thứ hai khi tôi cho anh xem bộ quần áo số của tôi. Và lần này. Anh sợ quyển sách của anh sẽ làm tôi đau. Vì tôi đã bị văng ra ngoài quỹ đạo.
    Nguyên Hồng vẫn tránh mọi chuyện văn chương với tôi ấy thế mà có một lần vừa đến nhà, anh đã lôi ra một tạp chí nước ngoài. Anh lật tìm trang. Và đặt trước mặt tôi quyển tạp chí để mở. Tôi nhìn tấm hình in trên tạp chí và lại nhìn anh. Đúng là anh. Nhưng tôi kêu lên:
    - Giống Đề Thám quá?
    Thật là một phát hiện bất ngờ. Eureka!
    Tạp chí giới thiệu Nguyên Hồng và in ảnh của anh. Khuôn mặt. Chòm râu. Chỉ thiếu vành khăn trên đầu là thành Hoàng Hoa Thám.
    Anh ngắm lại tấm ảnh:
    - Mình không biết họ chụp mình lúc nào. Đúng là Đề Thám.
    Khi đó anh đang viết Núi rừng Yên Thê, anh ?ovẫn khoẻ vì cần phải khoẻ? như thư anh viết cho tôi ngày trước.
    Khi đó anh đã dạy con gái anh cách bán mèo ở chợ Yên Thế để lấy tiền mua sách bút vào năm học mới.
    - Con cứ cầm gáy nó giơ lên thế này này. Chân nó chụm lại thế này là mèo hay chuột đấy. Cứ bảo người ta là mèo nhà cháu hay chuột lắm..
    Chờ đến gần trưa, chưa thấy con gái về, Nguyên Hồng ra chợ. Chợ đã vãn. Con bé con và con mèo con vẫn còn ngồi đó. Thấy anh, con bé oà lên khóc - Con đã làm như thầy bảo, nhưng người ta không mua. Người ta bảo mèo nhà mình là mèo đực.
    Còn một chuyện nữa về Nguyên Hồng, tôi cứ suy nghĩ mãi: Nên viết hay chỉ lưu giữ trong bộ nhớ. Đó là cuộc gặp giữa Giăng và Nguyên Hồng ở nhà tôi. Giăng là con liệt sĩ. Bố Giăng hy sinh từ những năm đầu chống Pháp. Mẹ đi lấy chồng. Giăng trở thành trẻ bụi. Móc túi. Đánh nhau. Ăn cắp xe đạp. Đi tù.
    Khi tôi và Nguyên Hồng đang uống rượu thì Giăng đến. Không cần giới thiệu, Giăng cũng biết ngay là Nguyên Hồng. Có lẽ hồi ở trong tù tôi đã tả về anh quá nhiều, nên vừa gặp, Giăng đã nhận ra anh. Tôi bảo Giăng ngồi xuống mâm. Thức nhắm với Nguyên Hồng bao giờ cũng đơn giản. Bữa ấy chỉ có ít lạc rang. Tôi nói cho Nguyên Hồng biết đôi chút về cuộc đời Giăng. Giăng rụt dè:
    - Cháu đã đọc Bỉ vỏ. Chúng cháu thích lắm...
    Đó là những điều quá nhàm, nhà văn chỉ mỉm cười độ lượng. Nhưng câu nói tiếp theo của Giăng thật bất ngờ:
    - Sao bác không viết những chuyện như thế nữa. Những chuyện xẩy ra bây giờ cơ. Nhiều chuyện lắm. Chúng cháu sẽ kể cho bác. Bác viết thì hay lắm...
    Nguyên Hồng im lặng. Giăng nhìn anh chờ câu trả lời.
    Tôi bỗng nhớ đến một câu chuyện Nguyên Hồng kể cho tôi lâu lắm rồi, từ trước khi tôi bị bắt. Một cô gái tuổi đôi mươi nói với Nguyên Hồng đầy tự tin:
    - Tôi có cuộc sống. Anh có tay nghề. Chúng ta sẽ cộng tác viết một tác phẩm...
    Tôi đã cười mãi về sự tự tin đến mức ngây ngô của người con gái ấy, người đã khoe cuộc sống với cả Nguyên Hồng. Giờ đây tôi mới hiểu cô. Đến bây giờ tôi mới biết có những Tám Bính, Năm Sài Gòn mới đang đòi có những nhà văn của mình.
    Tôi nhớ sự đăm chiêu của Nguyên Hồng trước câu hỏi của Giăng. Tôi nhớ anh đã tránh cái nhìn lễ phép, chờ đợi của Giăng. Tôi nhớ vẻ sợ sệt của Giăng vì đã làm anh buồn.
    Cũng như tôi nhớ trong một lần khác, lại nhà tôi, anh phe phẩy cái quạt giấy tuỳ thân. (Anh không thích dùng quạt máy dù tôi đã ưu tiên cái quạt cóc duy nhất cho anh). Nằm trên giường, anh đọc. Bỗng anh nhổm dậy gọi tôi với vẻ đầy sảng khoái:
    - Tấn ơi! Làm gì đấy. Nghe đã nhé. Đây là câu kết một vở kịch Ba Lan. Nhân vật chính quay ra nói với khán giả: ?oCác bạn có biết vì sao người ta nói dối không? Có hai lý do. Thứ nhất: Người ta sợ nói khác mọi người. Thứ hai: Người ta mệt quá rồi?.
    Ngã Sáu 18 - 20.5.1992
    hết: 7., xem tiếp: Phụ lục 2:
  6. U_r_bullshit

    U_r_bullshit Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/10/2006
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    0
    Phụ lục 2:

    Đằng sau những bức thư
    Ba bức thư của Vương Trì Nhàn.
    Bức thứ nhất: Hà Nội ngày 28 tháng 5 năm 1994 Kính gửi anh Bùi Ngọc Tấn Vừa rồi tôi có gặp anh Lê Bầu. Anh ấy nhắc tôi là lo hộ cuốn sách của Bùi Ngọc Tấn. Tôi phải nói ngay là mọi chuyện đang trong giai đoạn chuẩn bị, và chúng tôi những người biên tập phải tìm được cơ hội tốt nhất để cho sách ra đời. Bởi vậy có một số điểm cũng phải có mẹo mực một chút mới ra được. Xin nói để anh Tấn thông cảm:
    - Tôi không dám khoe với ai về tập sách này, cuốn Một thời để mất của anh, vì khoe lắm chỉ gây tò mò, gây chú ý, thậm chí là trở thành một áp lực không có lợi.
    - Cứ nên coi đây là quyển sách bình thường, bọn tôi lo làm biên tập rồi lo duyệt, tiếp đó lo ?ođầu ra?, tức là xem có ?ođầu nậu? nào (cả nhà nước lẫn tư nhân) nhận in thì kết hợp in cho tiện.
    - Trong quá trình biên tập tôi lo chỉnh lại một số việc vặt như viết hoa tên người tên đất, hoặc các trích dẫn chú thích có chính xác không (việc này mong anh tin ở tôi). Gọi là việc vặt song cũng rất cần, nghề nghiệp của người biên tập buộc phải lo như vậy.
    Thế còn vấn đề chính là nội dung của cuốn sách?
    Những mong có dịp nói trực tiếp với anh, chứ viết thư không phủi bao giờ cĩmg nói hết được ý mình. Như thư trước đã nói với anh: Tôi đã gợi ý để anh viết, không bao giờ tôi quên điều đó. Tôi sẽ cố gắng lo cho nó như lo cho sách của mình. Chắc anh cũng tin là tôi hiểu tâm huyết của anh khi viết. Tôi sẽ bàn với anh Kiên giữ được quyển sách như hình thù hiện nay. Nếu chỗ nào có phải cắt bớt, chúng tôi cũng đau như chính anh vậy. Còn nêu có gì phải chữa, bọn tôi sẽ báo để anh làm chứ không tự tiện đâu.
    Đấy về lý mọi chuyện tóm tắt là như thế.
    Còn về tình cảm, quả thật, tôi đọc thấy rất cảm động. Trước đây chưa đọc cái gì đàng hoàng của anh ngoài hai bài anh viết về Nguyên Hồng in trên Cửa Biển.
    Nhưng tôi thấy không có gì phải hối hận về việc đã ?oxui dại? anh. Qua hồi tưởng về Nguyên Hồng, anh đã kể về đời mình về thế hệ mình, kể một cách tương đối phải chăng, không bực bội hờn dỗi mà cũng không dạy khôn mọi người, nên nói chung là ?onghe được?.
    Khi Cát bụi chân ai in ra (cũng do tôi là người biên tập) nhiều anh em đọc xong cứ thấy buồn buồn: Chuyện của Tô Hoài cũng là chuyện mình chứng kiến mà sao mình không kể được như Tô Hoài.
    Tôi tin rằng khi cuốn hồi ký của anh in ra, cũng sẽ có người nghĩ vậy Nói thật với anh, trước mắt tôi chưa tin là chúng ta có một nền văn học lớn ở những cái chúng ta làm ra, yếu tố sáng tạo còn thô sơ nhạt nhẽo lắm.
    Nhưng tôi tin chúng ta đã sống những năm tháng đáng ghi nhớ, kinh khủng ghê sợ nhưng cung đẹp kỳ lạ, đúng với những gì mà kiếp người có thể có.
    Nói cách khác Tôi không tin lắm ở tiểu thuyết. Có thể có cuốn nọ cuốn kia đọc được, một, hai tác giả đọc được. Nhưng toàn bộ nền tiểu thuyết tôi không tin lắm.
    Ngược lại, tôi tin ở hồi ký: Nếu anh em ta bảo nhau viết và biết cách viết thì chúng ta có thể có những hồi ký kha khá.
    Tôi chưa được đọc tiểu thuyết của anh. Nhưng cuốn hồi ký này tôi nghĩ nên in ra để những anh em khác cũng có dịp nghĩ về đời mình và viết ra những cuốn hồi ký khác.
    Viết được như thế là đáng sống rồi.
    Tôi xin dừng bút và chúc anh Tấn cùng gia đình vui khoẻ.
    Có gì mới tôi sẽ báo cho anh biết ngay.
    Kính Vương Trí Nhàn.
    Tái bút: Theo tôi nên đưa hai chữ Nguyên Hồng vào đầu đề Nguyên Hồng và Một thời để mất. Nếu anh không đồng ý xin báo cho tôi biệt ngay. Còn nếu đồng ý không cần báo cũng được.
  7. U_r_bullshit

    U_r_bullshit Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/10/2006
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    0
    Phụ lục 2:

    Đằng sau những bức thư
    Ba bức thư của Vương Trì Nhàn.
    Bức thứ nhất: Hà Nội ngày 28 tháng 5 năm 1994 Kính gửi anh Bùi Ngọc Tấn Vừa rồi tôi có gặp anh Lê Bầu. Anh ấy nhắc tôi là lo hộ cuốn sách của Bùi Ngọc Tấn. Tôi phải nói ngay là mọi chuyện đang trong giai đoạn chuẩn bị, và chúng tôi những người biên tập phải tìm được cơ hội tốt nhất để cho sách ra đời. Bởi vậy có một số điểm cũng phải có mẹo mực một chút mới ra được. Xin nói để anh Tấn thông cảm:
    - Tôi không dám khoe với ai về tập sách này, cuốn Một thời để mất của anh, vì khoe lắm chỉ gây tò mò, gây chú ý, thậm chí là trở thành một áp lực không có lợi.
    - Cứ nên coi đây là quyển sách bình thường, bọn tôi lo làm biên tập rồi lo duyệt, tiếp đó lo ?ođầu ra?, tức là xem có ?ođầu nậu? nào (cả nhà nước lẫn tư nhân) nhận in thì kết hợp in cho tiện.
    - Trong quá trình biên tập tôi lo chỉnh lại một số việc vặt như viết hoa tên người tên đất, hoặc các trích dẫn chú thích có chính xác không (việc này mong anh tin ở tôi). Gọi là việc vặt song cũng rất cần, nghề nghiệp của người biên tập buộc phải lo như vậy.
    Thế còn vấn đề chính là nội dung của cuốn sách?
    Những mong có dịp nói trực tiếp với anh, chứ viết thư không phủi bao giờ cĩmg nói hết được ý mình. Như thư trước đã nói với anh: Tôi đã gợi ý để anh viết, không bao giờ tôi quên điều đó. Tôi sẽ cố gắng lo cho nó như lo cho sách của mình. Chắc anh cũng tin là tôi hiểu tâm huyết của anh khi viết. Tôi sẽ bàn với anh Kiên giữ được quyển sách như hình thù hiện nay. Nếu chỗ nào có phải cắt bớt, chúng tôi cũng đau như chính anh vậy. Còn nêu có gì phải chữa, bọn tôi sẽ báo để anh làm chứ không tự tiện đâu.
    Đấy về lý mọi chuyện tóm tắt là như thế.
    Còn về tình cảm, quả thật, tôi đọc thấy rất cảm động. Trước đây chưa đọc cái gì đàng hoàng của anh ngoài hai bài anh viết về Nguyên Hồng in trên Cửa Biển.
    Nhưng tôi thấy không có gì phải hối hận về việc đã ?oxui dại? anh. Qua hồi tưởng về Nguyên Hồng, anh đã kể về đời mình về thế hệ mình, kể một cách tương đối phải chăng, không bực bội hờn dỗi mà cũng không dạy khôn mọi người, nên nói chung là ?onghe được?.
    Khi Cát bụi chân ai in ra (cũng do tôi là người biên tập) nhiều anh em đọc xong cứ thấy buồn buồn: Chuyện của Tô Hoài cũng là chuyện mình chứng kiến mà sao mình không kể được như Tô Hoài.
    Tôi tin rằng khi cuốn hồi ký của anh in ra, cũng sẽ có người nghĩ vậy Nói thật với anh, trước mắt tôi chưa tin là chúng ta có một nền văn học lớn ở những cái chúng ta làm ra, yếu tố sáng tạo còn thô sơ nhạt nhẽo lắm.
    Nhưng tôi tin chúng ta đã sống những năm tháng đáng ghi nhớ, kinh khủng ghê sợ nhưng cung đẹp kỳ lạ, đúng với những gì mà kiếp người có thể có.
    Nói cách khác Tôi không tin lắm ở tiểu thuyết. Có thể có cuốn nọ cuốn kia đọc được, một, hai tác giả đọc được. Nhưng toàn bộ nền tiểu thuyết tôi không tin lắm.
    Ngược lại, tôi tin ở hồi ký: Nếu anh em ta bảo nhau viết và biết cách viết thì chúng ta có thể có những hồi ký kha khá.
    Tôi chưa được đọc tiểu thuyết của anh. Nhưng cuốn hồi ký này tôi nghĩ nên in ra để những anh em khác cũng có dịp nghĩ về đời mình và viết ra những cuốn hồi ký khác.
    Viết được như thế là đáng sống rồi.
    Tôi xin dừng bút và chúc anh Tấn cùng gia đình vui khoẻ.
    Có gì mới tôi sẽ báo cho anh biết ngay.
    Kính Vương Trí Nhàn.
    Tái bút: Theo tôi nên đưa hai chữ Nguyên Hồng vào đầu đề Nguyên Hồng và Một thời để mất. Nếu anh không đồng ý xin báo cho tôi biệt ngay. Còn nếu đồng ý không cần báo cũng được.
  8. U_r_bullshit

    U_r_bullshit Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/10/2006
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    0
    Bức thứ hai:
    Hà Nội ngày 17 tháng 4 năm 1995 Kính gửi anh Tấn.
    Tôi ngần ngại mãi, nghĩ là cứ viết thư thẳng cho anh có lẽ hay hơn. Vẫn là chung quanh câu chuyện bản thảo Một thời để mất của anh thôi. Tôi nghĩ là mình có trách nhiệm trong việc này, tôi đã gợi ý để anh viết. Tôi xót xa cho nó, như xót xa cho những gì tự tôi viết ra. Do vậy cứ thấy gờn gợn trước quyết định của mấy anh trong Ban giám đốc chúng tôi, là tước bỏ tột cả những gì ?orâu ria? đi (những gì liên quan đền chính Bùi Ngọc Tấn và đám bạn bè) mà chỉ giữ lại những gì liên quan đến Nguyên Hồng thôi. Có thể sách viết ra hôm nay có phần hơi tản mạn, và cái phần lam lũ cay đắng trong nghề của các anh hôm nay viết ra chưa tiện (thậm chí, xin phép được nói thẳng: có thể ai đó nghĩ Bùi Ngọc Tấn chưa phải là người. có quyền và cần chia sẻ với bạn đọc và đồng nghiệp những vui buồn của đời mình như thế). Nhưng đã vậy thì nên để quyển sách lại. Chứ tước bỏ đi cái phần ?orâu ria? ấy, chỉ giữ phần Nguyên Hồng thôi, thì tức là làm nánh hẳn quyển sách, làm nó mất đi sự thống nhất nội tại và tôi nghĩ là cái phần tâm huyết anh đặt vào đó cũng mất đi cơ hội bộc lộ.
    Anh Tấn ơi! Tôi viết những dòng này với anh là với tư cách một đồng nghiệp, chứ không phải một biên tập viên nhà xuất bản. Chức năng biên tập viên là làm sao lo để nhà xuất bản có sách in ra và không bị tai nạn. Nếu anh đồng ý cắt phần ?orâu ria ?o và chỉ để lại phần Nguyên Hồng thì dù hơi ngại làm cái công việc là cắt bỏ phần nửa tác phẩm, tôi vẫn làm được thôi. Nhưng anh Tấn ạ, với tư cách một người yêu mến và thích viết về đời sống của những người cầm bút, tôi nghĩ như trên, tức là đừng cắt gì cả. Nếu anh đồng ý với tôi, nghĩa là anh phải tạm gác tác phẩm lại, để đấy, để một dịp khác sẽ in, hoặc tìm một nhà xuất bản khác để in. Tôi không chắc là mình có thể giúp gì được anh trong cái công việc liên hệ để in ấy.
    Nhưng ta cứ dùi gắng đợi, anh Tấn ạ. Tôi chờ thư của anh, và các biện pháp đề nghị của anh.
    Kính Vương Trì Nhàn.
    Bức thư thứ ba: Hà Nội ngày 20 tháng 5 năm 1995 Thân gửi anh Tấn Chờ mãi không thấy thư anh lên, nhưng thôi tôi đã có thể viết lá thư này để xoá sổ lá thư trước:
    Rút cuộc là bản thảo đã giải quyết xong anh Tấn ạ.
    Số là theo tôi biết, tiểu thuyết của anh vẫn còn đang treo đó. Bởi vậy, anh Kiên, anh Phú chỉ thị cho tôi là cố gắng đưa đưa tập hồi ký này của anh ra.
    Tôi chủ yếu làm công việc tước bỏ cho gọn sách lại. Bỏ hết những chi tiết liên quan đến nhà xuất bản chúng tôi (tôi và anh Kiên), tuy vẫn giữ được những câu có tính chất vào truyện của anh (đoạn lên Hà Nội).
    Tước bỏ những chỉ tiết đùa tếu gọi là tự nhiên chủ nghĩa kiểu như đôi tất của anh Tất Vinh, hoặc Vũ Tín đi mua thịt v.v...
    Như tôi đã viết trong thư trước, nêu các anh ở Ban giám đốc yêu cầu bỏ hết những gì liên quan đến lớp người cầm bút như anh, Vũ Thư Hiên, Vũ Bão, Dương Tường... thì tôi khuyên anh để sách lại đừng in.
    Nhưng nay các anh không quyết liệt đến quá thế nữa, và hai bên (tôi, coi như đại diện của anh + ban phụ trách đã tìm được chỗ thoả hiệp). Bản thảo đã duyệt xong, chỉ còn vài việc vặt nữa rồi chuyền sách sang khâu in.
    Xong việc này tôi cũng thấy nhẹ cả người, anh Tấn ạ, vì dầu sao tôi cúng ?ođầu têu ra nó, sách mà không ra được hoặc ra mà méo mó mày mặt thì tôi cũng buồn.
    Mong anh tin ở tôi, tin ở cảm giác về một cuốn sách của tôi..
    Lần này chắc anh không im lặng nữa mà viết thư cho tôi chứ?
    À, vừa rồi tôi thấy có một mẩu đăng ở báo Người Hà Nội, trích từ cuốn sách này ra. Nói chung là tôi hoan nghênh, anh bán được thêm cho báo nào cứ bán. Như Tiền Phong chẳng hạn, họ rất thích loại này. Nếu anh chưa quen họ, xin viết thư cho tôi biết và uỷ nhiệm cho tôi làm việc này. Chỉ cuối cùng anh đừng đưa bản thảo cho nhà xuất bản nào khác là được.
    Chúc anh khoẻ.
    Vương Trí Nhàn
  9. U_r_bullshit

    U_r_bullshit Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/10/2006
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    0
    Bức thứ hai:
    Hà Nội ngày 17 tháng 4 năm 1995 Kính gửi anh Tấn.
    Tôi ngần ngại mãi, nghĩ là cứ viết thư thẳng cho anh có lẽ hay hơn. Vẫn là chung quanh câu chuyện bản thảo Một thời để mất của anh thôi. Tôi nghĩ là mình có trách nhiệm trong việc này, tôi đã gợi ý để anh viết. Tôi xót xa cho nó, như xót xa cho những gì tự tôi viết ra. Do vậy cứ thấy gờn gợn trước quyết định của mấy anh trong Ban giám đốc chúng tôi, là tước bỏ tột cả những gì ?orâu ria? đi (những gì liên quan đền chính Bùi Ngọc Tấn và đám bạn bè) mà chỉ giữ lại những gì liên quan đến Nguyên Hồng thôi. Có thể sách viết ra hôm nay có phần hơi tản mạn, và cái phần lam lũ cay đắng trong nghề của các anh hôm nay viết ra chưa tiện (thậm chí, xin phép được nói thẳng: có thể ai đó nghĩ Bùi Ngọc Tấn chưa phải là người. có quyền và cần chia sẻ với bạn đọc và đồng nghiệp những vui buồn của đời mình như thế). Nhưng đã vậy thì nên để quyển sách lại. Chứ tước bỏ đi cái phần ?orâu ria? ấy, chỉ giữ phần Nguyên Hồng thôi, thì tức là làm nánh hẳn quyển sách, làm nó mất đi sự thống nhất nội tại và tôi nghĩ là cái phần tâm huyết anh đặt vào đó cũng mất đi cơ hội bộc lộ.
    Anh Tấn ơi! Tôi viết những dòng này với anh là với tư cách một đồng nghiệp, chứ không phải một biên tập viên nhà xuất bản. Chức năng biên tập viên là làm sao lo để nhà xuất bản có sách in ra và không bị tai nạn. Nếu anh đồng ý cắt phần ?orâu ria ?o và chỉ để lại phần Nguyên Hồng thì dù hơi ngại làm cái công việc là cắt bỏ phần nửa tác phẩm, tôi vẫn làm được thôi. Nhưng anh Tấn ạ, với tư cách một người yêu mến và thích viết về đời sống của những người cầm bút, tôi nghĩ như trên, tức là đừng cắt gì cả. Nếu anh đồng ý với tôi, nghĩa là anh phải tạm gác tác phẩm lại, để đấy, để một dịp khác sẽ in, hoặc tìm một nhà xuất bản khác để in. Tôi không chắc là mình có thể giúp gì được anh trong cái công việc liên hệ để in ấy.
    Nhưng ta cứ dùi gắng đợi, anh Tấn ạ. Tôi chờ thư của anh, và các biện pháp đề nghị của anh.
    Kính Vương Trì Nhàn.
    Bức thư thứ ba: Hà Nội ngày 20 tháng 5 năm 1995 Thân gửi anh Tấn Chờ mãi không thấy thư anh lên, nhưng thôi tôi đã có thể viết lá thư này để xoá sổ lá thư trước:
    Rút cuộc là bản thảo đã giải quyết xong anh Tấn ạ.
    Số là theo tôi biết, tiểu thuyết của anh vẫn còn đang treo đó. Bởi vậy, anh Kiên, anh Phú chỉ thị cho tôi là cố gắng đưa đưa tập hồi ký này của anh ra.
    Tôi chủ yếu làm công việc tước bỏ cho gọn sách lại. Bỏ hết những chi tiết liên quan đến nhà xuất bản chúng tôi (tôi và anh Kiên), tuy vẫn giữ được những câu có tính chất vào truyện của anh (đoạn lên Hà Nội).
    Tước bỏ những chỉ tiết đùa tếu gọi là tự nhiên chủ nghĩa kiểu như đôi tất của anh Tất Vinh, hoặc Vũ Tín đi mua thịt v.v...
    Như tôi đã viết trong thư trước, nêu các anh ở Ban giám đốc yêu cầu bỏ hết những gì liên quan đến lớp người cầm bút như anh, Vũ Thư Hiên, Vũ Bão, Dương Tường... thì tôi khuyên anh để sách lại đừng in.
    Nhưng nay các anh không quyết liệt đến quá thế nữa, và hai bên (tôi, coi như đại diện của anh + ban phụ trách đã tìm được chỗ thoả hiệp). Bản thảo đã duyệt xong, chỉ còn vài việc vặt nữa rồi chuyền sách sang khâu in.
    Xong việc này tôi cũng thấy nhẹ cả người, anh Tấn ạ, vì dầu sao tôi cúng ?ođầu têu ra nó, sách mà không ra được hoặc ra mà méo mó mày mặt thì tôi cũng buồn.
    Mong anh tin ở tôi, tin ở cảm giác về một cuốn sách của tôi..
    Lần này chắc anh không im lặng nữa mà viết thư cho tôi chứ?
    À, vừa rồi tôi thấy có một mẩu đăng ở báo Người Hà Nội, trích từ cuốn sách này ra. Nói chung là tôi hoan nghênh, anh bán được thêm cho báo nào cứ bán. Như Tiền Phong chẳng hạn, họ rất thích loại này. Nếu anh chưa quen họ, xin viết thư cho tôi biết và uỷ nhiệm cho tôi làm việc này. Chỉ cuối cùng anh đừng đưa bản thảo cho nhà xuất bản nào khác là được.
    Chúc anh khoẻ.
    Vương Trí Nhàn
  10. U_r_bullshit

    U_r_bullshit Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/10/2006
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    0
    Thư của Nguyễn Kiên giám đốc nhà xuất bản Hội Nhà văn (khi đó):
    Hà Nội ngày tháng 7 năm 1995
    Thân gửi Bùi Ngọc Tấn
    Mình đi công tác vắng ít hôm, về nhà nhận được thư Tấn, như vậy là hơi muộn. Về Một thời để mất, Vương Trí Nhàn đã trao đổi với Tấn. Bọn mình muốn in tập sách này vì những tư liệu ở trong đó rất nên được công bố đã đành, ngoài ra còn vì những kỷ niệm bạn bè giữa chúng ta. Một số chỗ Vương Trí Nhàn cắt bớt là để cho nó gọn hơn. Mong Tấn thông cảm với bọn mình. Mình đã nói lại (nhân tiện đưa luôn cả thư Tấn viết cho mình) những điều Tấn muốn qua mình nói với Ngô Văn Phú. Cũng là cái tình đồng nghiệp với nhau.
    Tình hình không khí văn học hiện thời có những biểu hiện không đơn giản. Chắc Tấn cũng thấy. Giá gặp nhau thì nói được nhiều hơn.
    Cuốn Một thời... của Tấn đã có giấy phép xuất bản, mình đã bàn với Lân Tùng (phó giám đôc phụ trách sản xuất kinh doanh của nhà xuất bản) tìm cách liên kết với một ?ođầu nậu? nào đó để in (phần lớn sách xuất bản hiện thời đều phải theo cách này). Khi nào có kết quả cuối cùng sẽ tin để Tấn biết.
    Mình đã nói với Hội Nhà văn có lẽ mình chỉ làm quản lý một thời gian ngắn nữa thôi. Sẽ nghỉ. Để có chút thì giờ, không bị ràng buộc (tất nhiên là tương đối!) may ra có thể ngẫm nghĩ và viết được thêm một chút gì chăng?
    Vài lời vắn tắt. Biết ông bạn vẫn khoẻ, thế là mừng.
    Cho mình gửi lời thăm bà xã và các cháu.
    Thân mến
    Nguyễn Kiên
    Thư của Vương Trí Nhàn báo tin Nhàn đã liên hệ với báo Tiền Phong đăng nhiều kỳ Một thời để mất.
    Hà Nội ngày 29 tháng 6 năm 1995
    Kình gửi anh Bùi Ngọc Tấn
    Báo Tiền Phong đã nhận đăng Một thời để mất trong nhiều kỳ (không rõ cuối cùng họ có từ bỏ ý định đó không, nhưng hiện nay là thế). Mọi chuyện tôi sẽ lo tiếp, chỉ cần anh gửi lên cho họ một ảnh nghiêm túc, rõ, đẹp, không cần to lắm cũng được. Gửi cho tôi ở 65 Nguyễn Du hoặc cho cô Dương Phương Vinh, báo Tiền Phong 15 Hồ Xuân Hương Hà Nội, bảo là do tôi nhắn.
    Chúc anh khoẻ.
    Nhàn

Chia sẻ trang này