1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Một vài thông tin cho các bạn đi Khau vai - Hà giang - Cao bằng .

Chủ đề trong 'Du lịch' bởi DuGia, 18/04/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. DuGia

    DuGia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2005
    Bài viết:
    5.696
    Đã được thích:
    3
    Một vài thông tin cho các bạn đi Khau vai - Hà giang - Cao bằng .

    Thắng cảnh Hà Giang


    Hang Phương Thiện:

    Hang cách thị xã Hà Giang 7 km (4.38 miles) xuôi về phía nam. Đây là nơi có nhiều phong cảnh đẹp, nhiều hang động tự nhiên tuyệt đẹp như hang Dơi, hang làng Lò, hang Phương Thiện. Tại đây du khách có thể thưởng thức các loại hoa trái đặc sản của vùng như mận, lê, cam, táo và các loại chè tuyết san cổ thụ mọc trên độ cao 900 m (2,700 ft).



    Hang Chui :

    Hang ở khu vực Phương Thiện, cách thị xã Hà Giang 7 km (4.38 miles) về phía nam. Hang ăn sâu vào lòng núi khoảng 100 m (300 ft). Cửa hang hẹp phải lách người mới qua được. Vào trong lòng hang mở rộng, vòm hang cao vút, nhiều nhũ đá rủ xuống đủ mọi hình thù. Đặc biệt hang có nhiều dơi. Đi tiếp thêm, du khách sẽ thấy một dòng suối dâng cao đổ xuống thành thác trông rất đẹp và ngoạn mục.

    Suối Tiên:

    Cách thị xã Hà Giang 2 km (1.25 miles) về phía bắc, là thắng cảnh Suối Tiên đẹp nổi tiếng. Phong cảnh ở đây rất nên thơ, nước trong xanh. Du khách có thể đến đây nghỉ ngơi, tắm mát và ngắm cảnh. Tỉnh đang có dự án quy hoạch Suối Tiên thành khu nghỉ hiện đại và xây dựng làng văn hóa các dân tộc Hà Giang.


    Động Én :

    Động cách thị xã Hà Giang 60 km (37.5 miles) thuộc địa phận huyện Yên Minh. Từ thị xã Hà Giang qua cổng trời Quản Bạ, qua những cách rừng thông ngập chìm trong sương sẽ tới động Én. Hang động còn mang nhiều nét hoang sơ nhưng lại đẹp đến kỳ lạ khiến cho nhiều du khách không khỏi bàng hoàng, sửng sốt. Đây là một trong những điểm du lịch hấp dẫn không thể thiếu khi du khách tới thăm Hà Giang.

    Đồng Văn - "Cổng Trời":

    Là một huyện vùng cao biên giới của Hà Giang. Độ cao vùng khoảng 1.000 m (3,000 ft) so với mặt biển, địa hình hầu như chỉ thấy núi đá. Huyện lỵ cách thị xã Hà Giang 146 km (91.25 miles) nên giao thông rất khó khăn. Huyện có 19 xã thì 9 xã có đường biên giới với Trung Quốc. Mùa đông nhiệt độ có lúc xuống đến 1° C, nhưng mùa hè nóng nhất chỉ khoảng 24° C. Bầu trời hầu như quanh năm mưa và mù nên ở đây người dân có câu: "thấy nhau trong tầm mắt, gặp nhau mất nữa ngày" và "đất không ba bước bằng, trời không ba ngày nắng". Đồng Văn có điểm cực Bắc của Việt Nam tại Lũng Cú. Người ta nói rằng nếu chưa lên Lũng Cú thì coi như chưa đến Đồng Văn, bởi Lũng Cú là "nóc nhà của Việt Nam" nơi mà "cuối mặt sát đất, ngẩng mặt đụng trời".

    Đồng Văn nổi tiếng về trái ngon quả ngọt: đào, mận, lê ,táo ,hồng... về dược liệu quý: tam thất, thục địa, hồi, quế... Đồng Văn còn nổi riếng về phong cảnh như núi non, hang động, những rừng hoa đủ sắc màu... Chính nơi đây đã tạo cho các nghệ sĩ nguồn cảm hứng sáng tác nên những tác phẩm hội họa, nhiếp ảnh có một không hai trên thế giới...

    Đến với Đồng Văn là dịp để thử lòng can đảm của bạn bởi đèo cao vực thẳm, nhiều khi phải đi bộ. Nhưng đổi lại, bạn được những ngày đắm mình với thiên nhiên hùng vĩ, sống bên những con người còn nghèo khó nhưng vẫn tràn đầy niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống. Bạn cũng sẽ được thả hồn trong tiếng kèn, tiếng sáo. Biết đâu nó sẽ làm bạn phải ngẩn ngơ khi rời chốn xa xôi này.
  2. DuGia

    DuGia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2005
    Bài viết:
    5.696
    Đã được thích:
    3

    Chợ tình Khau Vai

    Tháng Ba, hoa gạo đỏ trời, ngô xanh tràn ngập triền núi đá, cỏ xanh mượt mà gọi những đàn bò vàng núi, vàng đồi. Con ong đi lấy mật, để cho ra loại mật ong Bạc Hà sóng sánh màu ngọc bích làm mê mẩn lòng người. Tháng Ba - nhạc ngựa rộn ràng trên sườn núi đá, như lời mời gọi của một phiên chợ mới, phiên chợ mùa xuân ?ođộc nhất vô nhị?, chợ tình mà chỉ ở nơi đây mới có, vào ngày 27-3 âm lịch hằng năm.
    Chẳng biết chợ tình Khau Vai, thuộc xã Khau Vai, (huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang) được hình thành từ bao giờ, nhưng từ lâu lắm rồi, đã hằn sâu trong lòng ông bà, cha mẹ. Giữa vùng núi đá trùng điệp, một doi đất nổi lên như hình một cánh phượng xòe trong không trung đón nắng, đón gió trời, khoe cái sắc màu vừa hoang sơ, vừa quyến rũ, cho người ta nhìn ngắm rồi thả sức mà tưởng tượng, mà cảm nhận. Ngay dưới tán rừng già, trong sự huyền ảo của nắng gió, miếu Ông, miếu Bà còn đó, rêu phong bao phủ, giấu kín trong lòng rừng, lòng núi câu chuyện tình lãng mạn từ ngàn xưa để lại. Huyền thoại đẫm chất, lãng mạn tưởng như chẳng có bao giờ lại đang có thực hôm nay, đang dắt tay trai gái đến với nhau, rồi nên vợ, nên chồng. Nơi chứng kiến có cụ ông, cụ bà tìm gặp nhau một ngày, một khắc ngắn ngủi của phiên chợ để nhắc lại một thời yêu mà không lấy được nhau. Họ đến chợ không mua, không bán, chỉ đi tìm lại tình xưa, nghĩa cũ; chia nhau một chén rượu thề, nói với nhau vài lời nửa như nhớ nhung, nửa như hờn dỗi sau chuỗi ngày xa cách. Để được tựa lưng vào gốc cây rừng, ôm vai người bạn cũ năm xưa, thả lòng mình vào câu hát đối, trong cái men say của tình, của rượu, của cả một năm hay hàng mấy chục năm chìm đắm trong yêu, cháy lòng trong mong đợi .
    Một đêm trước ngày chợ, một ngày chợ sau một đêm đợi chờ. Khi mặt trời lên, vợ không ghen chồng, chồng cũng chẳng ghen vợ, mỗi người đi tìm lại tình yêu cũ của mình. Người chồng thắp một nén hương lên miếu Bà để mong Bà tìm giúp người tình năm xưa, người vợ cũng thắp một nén hương lên miếu Ông, cầu Ông đưa chân người yêu cũ tới chợ để được quay về cái tuổi đôi mươi, mười tám. Lẫn trong tiếng hát đối sâu thẳm, vọng dài xuống tận dòng sông Nho Quế là tiếng khèn Mông, tiếng kèn lá, tiếng cười khúc khích, tiếng nói chuyện rì rầm.
    Ngày vui cứ nhẹ như bông
    Hoàng hôn xuống núi mà lòng bình minh.
    Hãy về đây, với chợ tình
    Một lần thôi, để cho mình Khau Vai!
    Truyền thuyết kể lại rằng: Ngày xưa, xưa lắm rồi, có một đôi trai gái miền sơn cước yêu nhau. Họ yêu nhau lắm, yêu như đất yêu trời, như trời yêu đất. Nhưng cha mẹ, họ hàng không cho họ đến với nhau. Họ bỏ bản ra đi, đưa nhau đến đây, miền rừng sâu núi thẳm này, để được hưởng tình yêu đôi lứa. Mặc dù vậy, trong lòng họ vẫn mang nặng một tập tục cũng rất xa xưa là khi chưa có lời của cha mẹ, chưa có cỗ cưới, không có chiếc váy mới, không có chén rượu ngon thì không thể cùng nhau chung sống. Thế là chàng trai và cô gái dựng hai túp lều ở cách xa nhau vài ba chục bước chân, để sáng ra có thể nhìn thấy nhau, đêm đêm trao tình cảm cho nhau qua câu hát đối. Năm tháng qua đi, rồi tuổi già đã đến. Vào cái ngày cuối cùng của cuộc đời, họ tìm đến với nhau, dưới gốc cây rừng, trên hòn đá thề, họ ôm chặt nhau mà trở về cõi vĩnh hằng.
    Người dân quanh vùng đã làm lễ mai táng họ ngay trên nền nhà của hai người, nơi bà nằm xuống được dựng lên ngôi miếu thờ, nay được gọi là miếu Bà, nơi ông nằm xuống cũng được dựng lên ngôi miếu, nay được gọi là miếu Ông. Và cũng theo truyền thuyết, miếu Ông, miếu Bà đều rất linh thiêng, nhất là đối với tình yêu đôi lứa. Khi những đôi trai gái trong vùng gặp trắc trở trong tình yêu, chỉ cần đến miếu Ông, miếu Bà thắp hương, cầu khấn là mọi việc về tình cảm được theo ý muốn. Nhất là trên hòn đá thề, dưới gốc cây nghiến làng, giữa miếu Ông, miếu Bà, nếu cặp vợ chồng nào muộn con, đến cầu xin đều linh nghiệm và chợ tình Khau Vai cũng ra đời từ đó. Người đến chợ đủ các dân tộc, đủ các độ tuổi, họ đều mang theo một niềm tin, một tình yêu ấp ủ.
    Sáng 27, trước khi khai chợ, già bản xóm Khau Vai cùng các cụ già, chức sắc trong vùng mang gà, lợn, gạo, đỗ đến để làm cỗ ngay trước cửa miếu Ông. Sau khi các thứ đã được chuẩn bị đủ nghi lễ như một lễ hỏi, mọi người rước cỗ sang miếu Bà, đúng với một nghi thức đi dạm hỏi vợ theo tập tục trong vùng. Khi thắp hương, cúng khấn, xin âm dương, được ?oBà? đồng ý, lúc đó mới rước vong linh ?oBà? về miếu Ông, lúc đó mới chính thức đánh mõ khai chợ.
    Dòng người cứ chen trong chợ để tìm nhau, uống với nhau vài ba bát rượu, hút với nhau vài điếu thuốc lào, buông ra không trung vài ba câu hát đối. Tiếng cười có, tiếng thút thít chia nhau mừng tủi cũng không thiếu sau vành khăn của người Mông, người Nùng, người Dao, người Tày, người Kinh.
    Chợ tình chỉ có ở Khau Vai, với những nét văn hóa mang đậm sắc thái dân tộc giữa vùng rừng núi nguyên sơ đang chờ đón du khách từ mọi miền đất nước.
    Theo Báo Hà Giang
  3. DuGia

    DuGia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2005
    Bài viết:
    5.696
    Đã được thích:
    3

    Hà Giang: Phát hiện 2 loài thông quí hiếm


    Thông đỏ, một trong những loài thông quý ở VN
    Các nhà sinh học trong nước và nước ngoài vừa phát hiện hai loài thông quý hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng có tên trong Sách Đỏ Việt Nam và Thế giới, tại xã Thài Phìn Tủng, Đồng Văn, tỉnh Hà Giang.
    Trong đợt khảo sát thực địa trên các sườn đông và đỉnh núi đá vôi thuộc thôn Hapuda, xã Thài Phìn Tủng, ở độ cao từ 1.300m đến 1.700m so với mặt biển, các nhà khoa học đã phát hiện được một số cá thể Thiết sam núi đá (Tsuga chinensis Pritz. ex Diels), cao khoảng 12-15m và đường kính thân cây 0,4-0,5m, mọc xen lẫn với Thiết sam giả (Pseudotsuga sinensis Dode) tạo thành một quần thể gần như thuần loại.
    Thiết sam giả trước đây phân bố trên núi đá vôi của các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn và Lạng Sơn. Đây là vùng phân bố cực nam của chi Thiết sam giả (Pseudotsuga) ở châu Á.
    Trong khi đó, Thiết sam núi đá chỉ được phát hiện được ở một số địa điểm trên vùng núi đá vôi thuộc hai tỉnh Hà Giang và Cao Bằng như khu bảo tồn thiên nhiên Bát Đại Sơn (Hà Giang) và Nguyên Bình, Yên Lạc (Cao Bằng).
    Kết quả khảo sát cho thấy tại xã Thài Phìn Tủng có 8 loài thực vật quý hiếm, trong đó có 7 loài thuộc nhóm Thông. Tổ chức bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên quốc tế (IUCN) đánh giá Việt Nam là một trong 10 điểm "nóng" nhất trên thế giới về bảo tồn các loài thông này.
    Dự án ?oBảo tồn và phát triển nguồn gen quý hiếm, bảo vệ đa dạng sinh học ở xã Thài Phìn Tủng, Đồng Văn, Hà Giang?, do Quỹ Môi trường toàn cầu và Chương trình tài trợ các dự án nhỏ tại Việt Nam thực hiện, đang tiến hành bảo tồn 4 loài thuộc nhóm thông (thông đỏ, thông tre lá ngắn, hoàng đàn rủ và dẻ tùng sọc nâu rộng).
  4. DuGia

    DuGia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2005
    Bài viết:
    5.696
    Đã được thích:
    3

    Bắc Mê - Phố núi giữa rừng
    Có nhiều người sinh ra ở thị xã Hà Giang nhưng vẫn chưa một lần đặt chân lên Bắc Mê huyện vùng cao thượng nguồn sông Gâm, có căng Bắc Mê, một nhà tù từng giam cầm các nhà yêu nước, các chiến sĩ cộng sản thời thuộc Pháp, chỉ cách thị xã Hà Giang chừng 60 km, vậy mà xa xôi heo hút mờ mịt như ở tận xứ sở mê hoặc huyền bí nào.
    Con đường 34 từ thị xã Hà Giang lên Bắc Mê là một con đường đấy những "cua tay áo" và nhiều đoạn dốc ngược khiến những tay lái xe yếu bóng vía không dám vượt qua. Vào những ngày mưa vạt ta luy sạt lở, tạo thành những lớp bùn nhão quánh ngập lốp xe khiến những chiếc Gát ba cầu, những Toyota cứu thương cải tiến, những Landcruise cũng phải quay tít bánh, thả khói mù mịt hàng nửa tiếng đồng hồ mới vượt qua đoạn patinê dài trăm mét. Cánh lái xe khách Hà Giang-Bắc Mê từ thị xã lên đến đoạn cây số 34 bao giờ cũng phải dừng lại, lắp thêm một bộ phận bánh răng tự tạo vào hai bánh sau, xe mới có đủ sức và người mới đủ tự tin để leo tiếp đoạn đường gần ba chục cây số nữa.
    Bù lại cho sự quanh co, khúc khuỷu và hiểm nguy của con đường, thiên nhiên Bắc Mê lại có sức quyến rũ bất cứ ai ngay từ lúc họ vượt qua khỏi ngoại vi thị xã Hà Giang. Dòng sông Nhiệm hầu như chạy song song với con đường, bốn mùa nước trong leo lẻo, ấy là dấu hiệu của rừng nguyên sinh vẫn còn được bảo vệ nguyên vẹn. Bắc Mê kho gỗ quý hiếm với nghiến, lát, đinh, lim... của vùng núi đá và hàng chục loại gỗ hồng sắc quý của vùng núi đất - là nguồn tài nguyên đặc hữu của Hà Giang.
    Qua dòng sông Nhiệm con đường bỗng dẫn ta tới một dòng sông rộng hơn, hùng vĩ hơn, cái dòng sông mới nghe nhắc đến tên thôi, đã bồi hồi, náo nức như chạm vào nơi sâu kín của tiềm thức, thân thiết và máu thịt đến mức như đó chính là cha mẹ ta, người yêu ta: Sông Gâm
    Con sông bắt nguồn từ cao nguyên Mèo Vạc - Ðồng Văn đỉnh đầu Tổ quốc trên kia, chảy len lỏi giữa những khối núi đá vôi, đá Granit đến Bắc Mê thì mở rộng lòng, tạo nên những bãi cát rộng thoải, rồi lại tiếp tục len lỏi qua cánh cung sông Gâm để gặp sông Lô ở Chiêm Hoá, Tuyên Quang, gặp sông chảy ở ngã ba Ðoan Hùng rồi hòa tan thành một dòng xuôi xuống Việt Trì và đổ vào sông Hồng ở ngã ba Bạch Hạc. Từ đây bắt đầu dòng sông Mẹ - sông Cái - sông Hồng quanh năm cuộn đỏ phù sa nuôi dưỡng châu thổ Bắc Bộ, tạo nên nền văn minh lúa nước Lạc Việt.
    Phía đầu thị trấn, bên kia sông Gâm là căng Bắc Mê. Ði qua chiếc cầu treo vắt vẻo, du khách như lạc vào một phế tích nổi tiếng chẳng kém gì những phế tích Chàm vùng Quảng Nam - Ðà Nẵng. Ây là dấu tích nhà tù Bắc Mê - những nền móng bằng gạch nung, những cửa hầm, bức tường đổ còn sót lại. Ngay từ những năm đầu thế kỷ 20, run sợ trước phong trào cách mạng của nhân dân ta, thực dân Pháp phải cho xây dựng ở đây một căng (nhà tù) để giam cầm những người yêu nước và những người cộng sản. Nhiều đồng chí lãnh đạo của Ðảng và Nhà nước ta từng bị tù đầy ở căng Bắc Mê. Cái vị trí xây nhà tù lợi hại vô cùng, bởi ngày xưa và cho đến bây giờ con đường 34 nối từ Hà Giang - Bắc Mê qua Bảo Lạc, Cao Bằng vẫn bị ngăn cách bởi con sông Gâm, như một nhát chém của tạo hoá, sâu thăm thẳm.
    Ba mươi năm trước đây từ thị trấn Bắc Mê, một tin dữ được báo đến mọi miền đất nước: Sông Gâm nổi giận, nước xoáy vào hai bờ thị trấn Bắc Mê có nguy cơ bị cuốn trôi những ngôi nhà bên rìa mép nước. Tin dữ khiến người đứng đầu tỉnh Hà Giang, Bí thư tỉnh ủy Vũ Ngọc Kỳ, mặc dù mới được Trung ương điều từ Yên Bái lên chưa đầy nửa tháng đã phải gấp rút lên Bắc Mê. Ðứng trên bờ dốc phố huyện đang bị dòng sông xâm thực, lãnh đạo tỉnh Hà Giang đã quyết định phương án dời huyện lỵ Bắc Mê về địa điểm mới.
    Một cuộc chuyển rời táo bạo cam go, nhưng cũng mở ra một bước ngoặt, tạo đà cho một thị trấn mới Bắc Mê xứng đáng là một thị tứ khang trang hiện đại giữa rừng xanh vùng địa đầu phía bắc.
    Bây giờ lên Bắc Mê, cách thị trấn cũ chừng năm cây số, trên mặt bằng rộng vài chục héc ta bên bờ sông Gâm, du khách sẽ thấy một đại công trường với máy xúc, máy ủi, cần cẩu, dàn giáo và lừng lững hàng chục ngôi nhà ba bốn tầng hiện đại đã và đang mọc lên. Một phố núi đang từng ngày từng giờ biến đổi. Trụ sở ủy ban nhân dân huyện, bưu điện, bệnh viện, kho bạc, ngân hàng, trường học, lâm nghiệp, đài phát thanh và truyền hình... Mỗi ngôi nhà là một tác phẩm kiến trúc với những kiểu dáng đẹp và đậm đà sắc thái dân tộc.
    Trên kia, nơi chiếc cầu treo bắc qua sông Gâm sang căng Bắc Mê, một chiếc cầu vĩnh cửu đang sắp hoàn thành. Những người thợ cầu thuộc Công ty cầu 14, Bộ Giao thông vận tải đã miệt mài, lặng lẽ, lên khoan, đào, đổ mòng trụ bê tông từ năm 1997. Những dầm cầu trên đã được lao xong. Không bao lâu nữa khi cầu Bắc Mê hoàn thành, sông Gâm sẽ không còn ngăn cách giữa Hà Giang - Cao Bằng. Con đường biên giới sẽ nối từ thị xã Hà Giang sang, từ Ðồng Văn, Mèo Vạc tới, thông suốt sang Bảo Lạc, Trùng Khánh, Quảng Hoà, Cao Bằng thông suốt với đường số 4, mở tít ra tận Móng Cái, Quảng Ninh.
    Bắc Mê đang làm kinh ngạc ngay chính những chủ nhân của nó. Những người H'''' mông, người Dao, người Tày, người Nùng trên vùng cao, trong hang sâu mỗi lần về phố huyện lại trầm trồ, lạ lẫm, vui mừng. Bắc Mê ta giờ cũng có cầu, có phố chẳng kém gì Hà Giang, Hà Nội. Họ kháo nhau thế. Và họ càng thêm yêu, thêm gắn bó với vùng đất xa xôi hiểm trở, nhưng đẹp một cách huyền hoặc và thơ mộng này.
  5. DuGia

    DuGia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2005
    Bài viết:
    5.696
    Đã được thích:
    3
    Điểm sáng văn hóa của thị xã biên cương Hà Giang


    Nhóm tượng đài Bác Hồ với đồng bào các dân tộc tỉnh Hà Giang tọa lạc trang trọng ở vị trí trung tâm công viên 26-3 giữa lòng thị xã Hà Giang, được khánh thành vào đúng dịp cả nước kỷ niệm Ngày Quốc khánh (2-9) năm nay.
    Tượng đài Bác Hồ với đồng bào các dân tộc Hà Giang do nhà điêu khắc Nguyễn Phú Cường sáng tác, Công ty Mỹ thuật Trung ương thi công; chuyển chất liệu đá do nghệ nhân Phạm Ngọc Hoàn chỉ đạo và tập thể thợ điêu khắc đá nổi tiếng Ninh Vân thể hiện, phần xây dựng hạ tầng do Công ty TNHH Tuyến Minh đảm nhiệm.
    Tượng cao 11m70 cả bệ gồm bảy nhân vật. Vị trí đặt tượng - quảng trường tỉnh Hà Giang, là nơi ngày 26-3-1961, Bác Hồ đứng nói chuyện với đồng bào các dân tộc Hà Giang khi Người về thăm tỉnh nhà. Ðây là công trình tượng đài được Hội đồng nghệ thuật quốc gia đánh giá cao về chất lượng nghệ thuật, được dư luận công chúng Hà Giang khen ngợi.
    Tượng đài đạt được sự thành công trong việc quy hoạch không gian kết hợp trình độ mỹ thuật và kỹ thuật tạc đá nổi tiếng của Ninh Bình. Chất liệu đá núi Nhồi - Thanh Hóa từ bao đời đã nổi tiếng về vẻ đẹp và tính bền vững của nó, đã được các triều đại suốt hàng nghìn năm qua sử dụng trong các chạm trổ điêu khắc ở các bia đá, cột trụ trong các đình, chùa Việt Nam, thì nay lựa chọn để tạc hình tượng vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc.
    Nhóm tượng Bác Hồ với các dân tộc Hà Giang vừa mang tính hiện đại trong bố cục vừa tiếp thụ tinh hoa của ông cha ta trong các tác phẩm điêu khắc trên những pho tượng chùa Tây Phương, chùa Thầy, chùa Mía... Tính truyền thống đó được khai thác trong việc thể hiện tả thực nét mặt các nhân vật trong nhóm tượng.
    Nhóm tượng đài bề thế, hoành tráng nhưng lại rất ấm cúng, gần gũi. Nhìn vào tổng thể nhóm tượng là thấy ngay cái đặc thù của Hà Giang với những đỉnh núi cao, những thửa ruộng bậc thang, mây núi, thác đổ...
    Cái tài của tác giả là khắc họa các hình tượng rất độc đáo và điển hình: nét mặt Bác Hồ thư thái, hiền hòa, dáng người thanh thoát, nhẹ nhàng như bước chân Người đang đi dừng lại đón con cháu đến thăm; đặc biệt nhân vật hai cháu thiếu nhi với vẻ mặt rất đặc trưng và hồn nhiên, tươi tắn. Bên cạnh đó, các nhân vật: cô gái Tày, cô công nhân, anh bộ đội, anh cán bộ... tác giả đã khắc họa mỗi người một vẻ, nhưng tất cả đều hướng về phía Bác.
    Một hình ảnh, một câu chuyện sống động đã xảy ra cách đây 44 năm (ngày 26-3-1961) khi Bác Hồ về thăm Hà Giang - tại quảng trường đã có gần hai vạn đồng bào các dân tộc đón Bác, thì nay đã được tác giả hình tượng hóa trong nghệ thuật điêu khắc để dù thời gian của sự kiện đã lùi xa, nhưng khi chiêm ngưỡng nhóm tượng đài, người xem vẫn như thấy hình ảnh ngày đó, đồng bào các dân tộc Hà Giang quây quần bên Bác.
    Cùng với sự phát triển đi lên của Hà Giang, tượng đài Bác Hồ với đồng bào các dân tộc Hà Giang trở thành điểm sáng văn hóa quan trọng của thị xã biên cương xinh đẹp, giàu tiềm năng du lịch.
  6. DuGia

    DuGia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2005
    Bài viết:
    5.696
    Đã được thích:
    3
    Nhà Vương - di tích đặc sắc trên cao nguyên đá

    Vượt cổng trời Thẩm Mã, dốc Chín Khoanh rồi nghiêng xuống thung lũng Lũng Cẩm để lên với cao nguyên đá, núi non trùng điệp, mênh mông và hùng vĩ. Mời bạn lên cao nguyên đá Đồng Văn (Hà Giang) để được ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của nhà Vương-di tích kiến trúc nghệ thuật tọa lạc tại thung lũng Sà Phìn.
    Ngày ấy cách nay chừng 100 năm, cụ Vương Chính đức đã kỳ công đi khắp đó đây tìm thầy, tìm thợ về xây nhà. Thầy địa lý Trung Hoa đã sang Hà Giang đi hết núi non vùng cao nguyên để chọn đất cho ông Vương. Đi mãi, ngắm mãi rồi dừng lại ở thung lũng Sà Phìn, thế là những nghệ nhân tạc đá xây thành có con mắt nghệ thuật và bàn tay khéo léo đến từ Vân Nam (Trung Hoa) đã cùng với những tốp thợ giỏi nhất của người Mông để xây nhà cho vua Mèo.
    Dinh thự họ Vương mang hình chữ VƯƠNG độc đáo trên mỏm đồi rộng 1.000m2 có hình mai rùa vững chắc cùng với những dãy sa mộc vươn cao. Chọn thế đất này thầy địa lý đã đoán ước được sự hưng thịnh cho dòng họ. Bởi theo thuyết tứ Quý của Trung Hoa thì rùa là một trong bốn con vật quý và trường tồn. Thế đất hình mai rùa tượng trưng cho sự đi lên của những người sống trên đó. Chẳng thế mà dòng họ Vương đã làm chủ cao nguyên đá Đồng Văn (gồm bốn huyện phía Bắc của Hà Giang) trong một thời gian dài. Cho đến tận bây giờ, người họ Vương vẫn giỏi giang, thông minh và thành đạt.
    Kiến trúc nhà Vương được mô phỏng một phần kiến trúc đời Thanh kết hợp với các hoa văn của người Mông mang lại cho khu nhà một dáng vẻ bề thế, uy nghi, là sự phối hợp hài hòa đến tinh sảo giữa các nguyên liệu được chế tác ngay tại địa phương như: đá xanh, gốc sa mộc và ngói đất nung lợp theo lối âm-dương với cái nhìn tinh thế của những người thợ.
    Các bộ phần dù bằng đá hay gỗ đều được chạm khắc cầu kỳ, khéo léo thành hình con rồng, con phượng, con dơi... tượng trưng cho sự trường tồn, hưng thịnh của các dòng họ quyền quý.
    Những cây cột cái được trạm trổ hình mai rùa hay vẩy rồng từ dưới chân lên đỉnh, cùng với các cột con được khắc ở chân hình dơi phú quí. Mái nhà cong cong như cánh bay của rồng. Bên cạnh đó còn có những mái che mưa hai đầu hồi làm thành tầng tầng, lớp lớp cho ngôi nhà theo vẻ huyền bí.
    Nét đặc trưng của văn hóa Mông thể hiện ở bờ tường đá có tính đặc sắc riêng. Các phiến đá nhỏ được kè chặt khít với nhau không cần thiết kết dính dày khoảng 50 phân và xếp thành vòng tròn quanh khu nhà, tạo thành khuôn viên riêng biệt cho dòng họ Vương. Bờ đá vừa là để bảo vệ ngôi nhà trước sự tấn công của thú dữ, vừa để che chắn khu nhà Vương khỏi hòn tên mũi đạn của kẻ thù, đồng thời lại tạo cho nó vẻ bề thế và bí hiểm để tạo quyền lực đối với dân chúng.
    Nhà Vương được bố trí thành 4 dãy ngang và 6 dãy dọc, kết cấu hai tầng với 64 buồng. Các bậc đá xẻ dẫn vào nhà được gọt đẽo theo những hình thù đặc sắc thể hiện uy thế của một dòng tộc đang hưng thịnh thời bấy giờ. Để bảo vệ dinh thự, cụ Vương Chính Đức còn xây tường nhà bằng đá có lỗ châu mai và những bốt canh để lính canh gác ngày đêm.
    Ngoài phần chính, nhà Vương còn được thiết kế thêm nhà đón khách, nhà sinh hoạt chung, khu bể nước và chuồng gia súc. Những hạng mục được xây dựng phù hợp với tập quán sinh hoạt của đồng bào Mông ở vùng rẻo cao. Tách hẳn khu nhà là khu thờ Phật và phần mộ của gia đình. Khu này cũng được chạm khắc cầu kỳ, tinh sảo như các bộ phận trong nhà.
    Nhà Vương được Bộ Văn hóa-Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật từ năm 1993. Những năm trước đây, do chưa được quan tâm đúng mức nên 6 hộ gia đình sống trong đó đều tự do sắp xếp, cải tạo khu nhà do đó một vài bộ phận đã bị biến dạng; các cánh cửa dụng cụ sinh hoạt bị thất lạc, làm cho nhà Vương mất đi vẻ uy nghiêm, cổ kính. Đứng trước sự xuống cấp củ một di tích quan trọng, Bộ Văn hóa-Thông tin quyết định trùng tu lại hoàn toàn di tích nhà Vương trong hai năm 2004-2005 với kinh phí 7,5 tỷ đồng. Tháng 5-2005 di tích đã được trùng tu xong và được khôi phục gần như nguyên bản. Đặc biệt, sau khi trùng tu kiến trúc Hoa-Mông được làm nổi bật, mang lại cho khu di tích nét cổ kính như vốn có. Bà Vương Thị Say - một trong 6 hộ con cháu dòng họ Vương được Ban chủ nhiệm dự án di chuyển ra ngoài, cắm đất và làm nhà cho đã nói: "Họ Vương được quan tâm thế này là tốt lắm. Nhà của ông, của bố để lại được bảo quản lâu dài thì con cháu mai sau cũng tự hào nhiều".
    Hiện nay, xã Sà Phìn đã cùng với ngành Văn hóa trông nom, giữ gìn khu di tích và phục vụ khách tham quan. Ông Nguyễn Trùng Thương-Giám đốc sở Văn hóa-Thông tin tỉnh Hà Giang cho biết: Di tích sẽ được đưa vào khai thác sử dụng, phục vụ nhu cầu tìm hiểu lịch sử, tham quan du lịch của các nhà nghiên cứu và du khách. Ngành Văn hóa sẽ sưu tầm tiếp các đồ dùng sinh hoạt đểlạp một bảo tảng nhỏ về quá trình phát triển của dân tộc Mông Hà Giang để đưa nhà Vương thành di tích hàng đầu trong cụm di tích kiến trúc nghệ thuật phía Bắc.
  7. DuGia

    DuGia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2005
    Bài viết:
    5.696
    Đã được thích:
    3
    Phát hiện bãi đá có hình vẽ thời tiền sử tại Hà Giang

    Trong đợt điều tra khảo cổ học ở tỉnh Hà Giang vào đầu tháng 12-2004, Viện Khảo cổ học Việt Nam kết hợp với Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Hà Giang đã phát hiện di tích bãi đá có hình khắc vẽ thời tiền sử ở xã Nấm Dẩn, huyện Xín Mần.
    Khu vực có di tích bãi đá nằm trong một thung lũng rộng, chung quanh là những dãy núi cao bao bọc. Trên bề mặt thung lũng có nhiều tảng đá trầm tích lớn nằm ngổn ngang dọc dòng suối. Trên bề mặt các tảng đá này thường khá bằng phẳng. Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy trên một số tảng đá có hình khắc vẽ.
    Đáng chú ý là trên một tảng đá to có diện tích bề mặt hơn 30m2 ở khu Nà Lai Shứ (theo tiếng đồng bào địa phương có nghĩa là khu ruộng có hình vẽ chữ) đã phát hiện hơn 40 hình khắc vẽ cổ. Có thể phân thành một số nhóm mô típ họa tiết sau:
    * Nhóm thứ nhất là những họa tiết hình học như hình tròn, hình tam giác, hình thang. Đây là mô típ họa tiết giữ vai trò chủ thể. Những hình tròn ở đây thường là những vòng tròn đơn. Có hình tròn có bốn tia ở xung quanh có thể là biểu tượng mặt trời.
    * Nhóm thứ hai là những họa tiết hình bàn chân người. Những bàn chân thường là những bàn chân phải của người lớn và trẻ em, với kích thước to gần như thật, những ngón chân được khắc lõm sâu vào trong đá. Đây là mô típ thể hiện được xem là rất cổ trong nghệ thuật tiền sử.
    * Nhóm thứ ba là những biểu tượng sinh thực khí, chủ yếu là những biểu tượng nữ tính với hình tam giác có rãnh dọc ở giữa.
    * Nhóm thứ tư là họa tiết hình người được thể hiện trong tư thế giơ tay, dạng hai chân như chúng ta thường thấy trong các bích họa hang động thời tiền sử.
    * Nhóm thứ năm là những hồi văn hình vuông và hình tròn.
    * Nhóm thứ sáu là những hình khắc chưa xác định được hình dáng và ý nghĩa thể hiện.
    Để tạo những hình khắc vẽ này, người xưa đã sử dụng kỹ thuật rất thô sơ là đục khắc trực tiếp trên bề mặt tảng đá. Những nét khắc chạm này thường có bề rộng khoảng 2cm, sâu chừng 1cm.
    Qua các mô típ họa tiết được thể hiện, chúng ta thán phục sự cần mẫn và bàn tay khéo léo của người xưa với những nét đục khắc khá đều đặn. Nhìn chung những hình khắc vẽ này còn mang tính biểu tượng, ước lệ, nhưng đó là những sáng tạo nghệ thuật tạo hình thời tiền sử.
    Như chúng ta đã biết, từ nhận thức cái đẹp đến sáng tạo nghệ thuật là cả một quá trình lâu dài trong lịch sử nhân loại. Chủ nhân của những hình khắc vẽ Xín Mần đã có khái niệm về thẩm mỹ, về cái đẹp bản năng trong đời sống thiên nhiên, trong sinh hoạt cộng đồng và đã thể hiện chúng trên đá.
    Cho đến nay, ở Việt Nam, những dấu tích của nghệ thuật bích họa thời tiền sử được tìm thấy còn ít. Trước đây, tại hang Đồng Nội, tỉnh Hòa Bình, các nhà khảo cổ đã tìm thấy trên vách hang đá những hình khắc vẽ mang tính ước lệ về động vật và khuôn mặt người. Ở Sa Pa, tỉnh Lào Cai, các nhà nghiên cứu đã phát hiện nhiều tảng đá có hình khắc vẽ cổ.
    Tuy nhiên, việc xác định niên đại của chúng còn gặp nhiều khó khăn bởi sự chằng chéo nhiều mô típ thể hiện trong nhiều thời kỳ khác nhau. Nhưng cũng có một số hình khắc vẽ cổ trên đá Sa Pa có phong cách tạo hình và mô típ đề tài thể hiện tương tự như những hình khắc họa ở Xín Mần, Hà Giang.
    Dựa vào kỹ thuật tạo hình, vào đề tài mô típ thể hiện và so sánh với các di tích đồng dạng trong khu vực, bước đầu các nhà khảo cổ xác định những hình khắc vẽ cổ trên đá ở Xín Mần, Hà Giang là những bích họa thời tiền sử, có niên đại cách đây khoảng vài ngàn năm.
    Đây là những di tích quan trọng, có giá trị lớn về nghệ thuật tạo hình của tổ tiên ta, là di sản văn hóa của nhân dân ta.
  8. DuGia

    DuGia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2005
    Bài viết:
    5.696
    Đã được thích:
    3
    Tinh tế ẩm thực Cao Bằng

    Cao Bằng, xứ sở của những cọn nước, của các suối nguồn trong vắt và những cô gái áo chàm. Không chỉ nổi tiếng gạo trắng, nước trong, đây còn là một vùng văn hoá ẩm thực với các đặc sản và món ăn độc đáo, nức tiếng gần xa. Mùa này, tiết trời Cao Bằng đã se lạnh, thị xã miền núi đẹp một cách huyền ảo. Lên đây vào dịp chợ phiên, du khách có dịp thưởng thức nhiều món ăn thể hiện nét tinh tế trong nghệ thuật chế biến ẩm thực đầy khéo léo. Hai món ăn hấp dẫn thu hút đông người ăn nhất vào các buổi sáng sớm có lẽ là bánh cuốn nóng chan nước canh xương và phở chua.
    Bánh cuốn và phở thì nhiều vùng phía bắc cũng có nhưng ở Cao Bằng lại mang một vị riêng đặc sắc không thể lẫn vào đâu được. Bánh cuốn ở đây ngon, vừa dai, vừa thơm vì được làm bằng thứ gạo Cao Bằng ngọt dẻo, và còn lôi cuốn bởi phương thức pha trộn trong vị ngọt đậm của nước canh xương thoang thoảng mùi vị ớt măng ngâm quả mác mật, thảo quả.
    Phở chua thì có vẻ cầu kỳ hơn một chút với nhiều gia vị trộn lẫn trong bánh phở và miến, khoai, thịt ba chỉ, dạ dày lợn thái nhỏ từng sợi chao mỡ vàng rộm, rưới nước dấm ớt và lạc. Ăn phở chua, thực khách được nhấm nháp mùi vị và thỏa mãn cảm giác mầu sắc món ăn.
    Một thú vị khác của ẩm thực Cao Bằng là các món ăn chế biến từ thịt lợn như thịt lợn ướp bột gạo chua của Bảo Lâm, Bảo Lạc, thịt nướng, chả cuốn mác mật Quảng Uyên rồi vịt quay, lợn sữa quay nhồi lá mác mật vàng rộm, thơm ngọt từng con được quảy đến pha, chặt rộn ràng trong phiên chợ, tạo nên không khí nhộn nhịp, sôi động. Người Cao Bằng đã khéo léo kết hợp trong các món ăn những nguồn gia vị thực phẩm phong phú sẵn có của núi rừng tạo được nhiều món khoái khẩu như ong đất xào măng, lẩu cá chua, xôi trám đen thơm ngậy, rêu đá Tầu Quầy xào, cốm hạt dẻ, bánh khảo, khẩu sli, bánh gio, cơm lam chấm măng ớt, v.v. Những món trên nếu được nhấm nháp bằng thứ rượu Tắp Ná huyện Thông Nông hoặc rượu Lẩu Pảng huyện Hà Quảng thì thật tuyệt vời. Rượu Lẩu Pảng được trưng cất từ bột cây báng lâu năm trên núi đá, men làm từ quả trầm hương, ủ bột xuống đất gần một tháng, đợi tiết trời vào thu có nhiều sương thì đem phơi rồi mới đem trưng cất. Ðây là thứ rượu thuốc quý, bồi dưỡng sức khỏe và phòng chữa được nhiều bệnh.
    Ðến Cao Bằng, du khách cũng nên thưởng thức và mang theo nhiều món đặc sản làm quà cho người thân, bạn bè khi về xuôi. Đã có hơn 100 sản vật nổi danh các vùng như chè đắng Thạch An, sản phẩm đạt chất lượng cao trong các kỳ hội chợ toàn quốc; hạt dẻ, tương mạch Cô Sầu huyện Trùng Khánh; măng khô, măng bào chua, mía đường Bảo Lâm, Bảo Lạc, Phục Hóa; mật ong Nguyên Bình; lê Ðông Khê. Tất cả sẽ góp phần làm phong phú thêm vốn hiểu biết về nghệ thuật ẩm thực của du khách trong cuộc hành trình khám phá về một vùng đất đẹp, giàu tiềm năng.
  9. DuGia

    DuGia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2005
    Bài viết:
    5.696
    Đã được thích:
    3
    Bảo tồn và phát triển vượn Cao Vít ở Cao Bằng

    Vượn đen Cao Vít.
    Theo khảo sát của các nhà sinh học của Tổ chức bảo tồn động thực vật hoang dã quốc tế (FFI), mấy năm gần đây vượn Cao Vít (thuộc loài vượn đen Đông Bắc - loài linh trưởng quý hiếm nhất trên thế giới đang có nguy cơ tuyệt chủng) đã xuất hiện trong khu rừng trên dãy núi đá vôi thuộc địa phận hai xã biên giới Ngọc Khê và Phong Nậm (huyện Trùng Khánh, Cao Bằng).
    Các bậc cao tuổi ở xã Phong Nậm kể rằng, hơn 30 năm trước, trong vùng này xuất hiện loài vượn không đuôi, tay dài, vượn trưởng thành nặng khoảng 7-8 kg. Con đực toàn thân mầu đen và có chỏm mào trên đỉnh đầu, con cái trưởng thành lông vàng, có mảng lông đen và không có chỏm, con non lông mầu vàng. Chúng sống thành từng nhóm nhỏ trên cây, di chuyển bằng hai tay rất nhanh, thức ăn chủ yếu là quả chín, lá cây. Mỗi sớm bình minh, chúng cất tiếng hót "cao vít", "cao huýt"... kéo dài nên dân địa phương thường gọi là vượn Cao Vít hay Cao Huýt. Do nạn chặt phá, khai thác rừng bừa bãi nên một thời gian dài không thấy chúng xuất hiện.
    Theo các nhà nghiên cứu của FFI, vượn Cao Vít có tên khoa học là Nomascus nasutus nasutus, thuộc loài vượn đen Đông Bắc (tên khoa học là Nomascus nasutus), chỉ có ở vùng Đông Bắc Việt Nam, đảo Hải Nam và vùng Đông Nam Trung Quốc. Vượn đen Đông Bắc Trung Quốc hiện chỉ tồn tại trên đảo Hải Nam, gọi là vượn Hải Nam (tên khoa học là Nomascus nasutus hainannus), hình dáng bên ngoài giống vượn Cao Vít và chỉ còn 14 cá thể, sống trong Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Vong Linh.
    Năm 2002, tại Đại hội Hội khỉ hầu quốc tế Bắc Kinh (Trung Quốc), các nhà nghiên cứu coi vượn đen Đông Bắc là "loài linh trưởng hiếm nhất và có nguy cơ tuyệt chủng cao trên thế giới".
    Ở Việt Nam, từ những năm 50 thế kỷ trước, loài vượn này đã không được nhìn thấy và bị coi là tuyệt chủng. Khi phát hiện đàn vượn ở Trùng Khánh, qua phân tích ADN và tiếng hót đã khẳng định đây đúng là loài vượn Cao Vít đã hơn 50 năm vắng bóng tưởng chừng đã bị tuyệt chủng.
    Theo khảo sát mới nhất của FFI vào tháng 9-2004, đàn vượn ở đây có 37 cá thể, trong đó có 5 con non. Việc tái phát hiện loài vượn này là sự kiện đặc biệt quan trọng với cả các nhà khoa học và nhân dân địa phương.
  10. DuGia

    DuGia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2005
    Bài viết:
    5.696
    Đã được thích:
    3
    Những lễ hội đặc sắc của Cao Bằng
    Cao Bằng, nơi địa đầu Tổ quốc, người dân có truyền thống thượng võ, quật cường, giàu tình cảm, nơi đây còn có nhiều lễ hội đặc sắc mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.
    Đáng kể nhất là lễ hội đền Kỳ Sầm thờ Thái Bảo Nùng Chí Cao, một nhân vật nổi tiếng không chỉ ở Cao Bằng, hiện ở Trung Quốc, Thái Lan cũng có đền thờ ông. Người dân Cao Bằng tự hào vì Bản Ngần, xã Vĩnh Quang, huyện Hòa An ngày nay là quê hương của ông. Lễ hội đền Kỳ Sầm ở Bản Ngần, xã Vĩnh Quang diễn ra vào ngày 10 tháng Giêng hằng năm thu hút người dân ở nhiều địa phương trong tỉnh đến tham dự. Trong lễ hội có nhiều hoạt động như múa lân, tung còn, kéo co, đá bóng... Người đến dự hội được tắm mình trong không khí sôi nổi, lắng sâu của lễ hội với phần Lễ tế và phần Hội.
    Ấn tượng nhất là lễ hội Quảng Uyên, đây là lễ hội diễn ra dài nhất (2 ngày), từ ngày hôm trước người dân huyện Quảng Uyên đã về dự hội, ngủ qua đêm ở nhà người thân. Người đến dự hội sớm được tham dự các hoạt động: Khai quang mắt rồng, tế lễ ở Đền Đức Thánh Trần (Thờ vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo). Ngày hôm sau người dự hội được xem múa Rồng với con Rồng uốn lượn mềm mại nhưng khỏe khoắn, với tiếng chiêng tiếng trống rộn ràng. Trong ngày hội chính người dự hội được xem cuộc tranh đầu pháo hoa vui nhộn và bổ ích, đội thắng cuộc được nhận phần thưởng là một con lợn quay. Ngoài ra còn các hoạt động: Chọi chim họa my, chọi gà, thi đấu bóng chuyền... Người dân huyện Quảng Uyên nói riêng và người dân miền Đông tỉnh Cao Bằng nói chung rất tự hào về lễ hội này.
    Thứ ba là lễ hội chùa Đà Quận, ở làng Đà Quận, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, nơi đây có đôi chuông cổ được công nhận là di tích lịch sử văn hóa Quốc gia. Mỗi quả chuông nặng hơn 1 tấn, khi gõ tiếng chuông vang động vang xa vài ki lô mét. Lễ hội diễn ra ngày 9 tháng Giêng, thu hút đông đảo nhân dân huyện Hòa An, nhân dân Thị xã và các huyện lân cận tham dự.

Chia sẻ trang này