1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Mục lục box Tiếng Việt-Từ điển tra cứu trực tuyến-Tuyển tập các bài viết(SƯU TẦM) về Tiếng Việt.

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi home_nguoikechuyen, 24/06/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Thế ngôn ngữ của các dân tộc ít người khác thì sao? Từ thiết yếu để chỉ NGƯỜi của các ngôn ngữ đó là gì? Xin ghi lại bản đối chiếu các từ chỉ NGƯỜI trích trong quyển sách về ngôn ngữ của Trần Trí Dõi [3]:
    - tiếng Nguồn: ngàj - tiếng Sách: ngàj
    - tiếng Mày: ngàj - tiếng Rục: ngàj
    - tiếng Xơ Đăng: mơngê - tiếng Kơ Tua: moi ngàj
    - tiếng Dêh: ngaj - tiếng Triêng: ngaj
    - tiếng Ba Na: ngaj (mơ-ngaj) - tiếng Hrê: ma ngaj
    - tiếng Gié Triêng: ma ngaj - tiếng Việt: người, ngài

    Điểm đáng để ý, ghi chú [3] hoàn toàn không xác định ?~ngài?T chính là từ cổ của ?~người?T trước khi quốc ngữ thay thế Nôm.

    (iii) Biến chuyển từ âm A sang ƯƠ qua tác động của quốc ngữ

    Biến chuyển từ Ngài sang Người thật ra chỉ là 1 trong hàng chục biến chuyển khác từ nguyên âm A sang nhị âm ƯƠ ?" trong lúc chữ Nôm rút vào bóng tối và nhường chỗ cho quốc ngữ. Đó là biến chuyển:

    Lên đàng => lên đường / tlàng học => tràng học => trường học
    Nàng => nường
    Nhà Thang => nhà Thương / Yang gui Fei => Yương quí Phi
    Mài => Mười (10) / Đài ai => đười ươi / Tai cài => tươi cười
    Trang (họ) => Trương (họ) {viết tiếng Tàu y như nhau}
    NGÀI biến sang NGƯỜI hoàn toàn nằm trong quy lệ này

    Kiểm chứng: Lật một quyển tự điển chữ Nôm ta thấy lối đánh vần của các âm ngày nay đọc ƯƠ (thí dụ: Mười ?" 10) luôn luôn dựa trên âm A (thí dụ: mÀi), và không có âm ƯƠ để tạo âm cốt yếu, hỗ trợ cho phát âm ƯƠ. Thí dụ:

    - Ươn (cá ươn)= tử + An (viết theo chữ Nôm) => ươn xưa đọc: An
    - Mường= Nhân + MAng = Di + mAng => Mường xưa đọc Màng
    - Mượn= tâm + mẠn => ?~mượn?T thời Nôm đọc mẠn
    - Mười (10)= Mại + Thập (Hán tự chỉ 10) => Mười = Mài
    - Nườm= Thủy + nAm / Nượp= Khẩu +nẠp => nườm nượp= nàm nạp
    - Tươi= Nhục + tAi / tưới (tưới cây)= thủy + tái. Tươi đọc Tai / tưới đọc tái

    Chỉ trừ các từ xuất phát từ tiếng Hán: thí dụ, ?~nương?T hài thanh từ chữ Hán ?~niang?T / ?~tưởng?T từ Hán ?~xiang?T, đa số các từ Nôm có âm ƯƠ thường xuất phát từ âm A. Cách viết chữ Nôm âm ƯƠ hoàn toàn độc lập và dựa trên âm A như các thí dụ phía trên đã minh chứng.

    Quyển ?~Tiếng Việt Tuyệt Vời?T của gs Đỗ Quang Vinh [13] có trích dẫn bản liệt kê các từ còn dùng trong thời gian gần đây ở khu Bắc Trung Bộ - thường dễ nhầm lẫn với phương ngữ - của Bs Lê Văn Lân. Trong đó có:
    hấng nÁc= hứng nước
    cho thấy rõ ràng ?~nƯỚc?T với âm ?~ươ?T tương đương với ?~nÁc?T (y hệt như phát âm theo đánh vần chữ Nôm: Nước= giả tá âm chữ Hán: NẶC), một cách phát âm thời cổ còn lưu lại, mà ta có thể lầm tưởng như phương ngữ.

    Biến chuyển từ A sang ƯƠ cũng được nhà nghiên cứu Nguyễn Tài Cẩn [4] đề cập đến. Nhưng công trình [4] không xác nhận biến chuyển này phát sinh sau khi quốc ngữ đang và đã thay thế chữ Nôm theo như giả thuyết ở đây - dựa trên phân tích đánh vần chữ Nôm.

    Do đó ?~ngÀi?T biến sang ?~ngƯỜi?T cũng chỉ một trường hợp trong vòng biến chuyển âm A sang ƯƠ, lúc Nôm bắt đầu thoái vị, nhường chỗ cho quốc ngữ mà thôi.

    (iv) Một vài điểm dễ nhầm

    Qua ba lối chứng minh trên ta có thể xác định chắc chắn:
    Ngày trước, ?~Người?T dùng để chỉ ?~con người, người ta?T được phát âm trên khắp nước An-Nam là NGÀI.

    ------------------------------------
    [red]
    Nỗi đau ngày ấy là em ạ
    Là chút hao mòn của bể dâu
    Bể dâu sông bãi con thuyền bé
    Trong cõi vô thường nhẹ cánh chao[/size=4][/red]
  2. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Nhân tiện xin khảo sát một vài điểm dễ nhầm trong việc nghiên cứu Kiều và chữ Nôm, chữ quốc ngữ nói chung: Dễ nhầm ở chỗ khi ta phát hiện một phát âm hoặc một lối đánh vần hơi lạ của một từ, ta thường cho đó là phương ngữ, là cách phát âm địa phương. Thí dụ: Ngài là một phương ngữ miền Nghệ Tĩnh cho Người. Nác là phương ngữ của Bắc Trung Bộ cho Nước. Có vài khu vực Bắc Bộ người ta lẫn lộn âm L và N với nhau: chim hót níu no (thay vì líu lo) / Ở Hà Lội người ta lói lăng khéo nắm. L thay N lẫn nhau là nhầm lẫn qui về phát âm ?~địa phương?T.

    Những điểm dễ nhầm đó ?" qua phát hiện khi viết bài này - đều có thể được minh chứng rằng không phải phương ngữ, hay phát âm đơn thuần địa phương, mà chính cũng do tác động của quốc ngữ, của những Thầy quốc ngữ đầu tiên. Bằng cách truy về cội nguồn của phát âm chữ Nôm, hay chữ Mường - trước khi người Tây phương mang chữ cái alphabet đến nước Nam, và bày ra chữ quốc ngữ thay thế chữ Nôm.

    Khi bắt đầu cuộc trao đổi ý kiến về đề tài này trên mạng, Lê Quý {mc}, theo đường hướng Phạm Duy, đưa ra một câu ca dao anh ấy nhớ từng nghe ở Nghệ An trong những năm 1946-1952:
    Hà Tĩnh gạo trắng nước troong
    Em về Hà Tĩnh thong dong con ngài {mang ý: con người}

    và đồng ý với Phạm Duy rằng người Nghệ Tĩnh, ít ra trong thời 1945, vẫn còn dùng Ngài cho Người - như một phương ngữ. Nhiều bằng hữu mitchong gốc Nghệ An, như NĐ Nam, biên thư i-meo cho biết anh ấy đã kiểm chứng với các Cụ ở nhà và các Cụ nhớ chưa bao giờ nghe Ngài dùng thay cho Người ở Nghệ An.

    TQ Dương {mc} nói lên thắc mắc, một nhà thơ lớn như Nguyễn Du khi hạ bút viết ra Kiều không lẽ lại cứ dùng các phương ngữ Nghệ An. Và thật ra như đã thấy ?~Ngài?T hoàn toàn không phải là một phương ngữ, nhưng chính cách phát âm của tất cả người An-Nam vào trước thế kỷ 18-19 cho một từ Nôm dùng để chỉ ?~Người?T. Thế tại sao có cái mốt lạ đời này. Theo thiển ý mốt này do chính cố gs Hoàng Xuân Hãn bày ra! Người ta thấy nó được viện dẫn cho có vẻ thẩm quyền trong nhiều quyển sách phân tích và nghiên cứu về Kiều (thí dụ [14]). Theo ghi chú [6], Gs Hoàng Xuân Hãn cho rằng bản Kiều đầu tiên của Nguyễn Du đã ?~được?T một người bạn thân, Phạm Quý Thích tiên sinh sửa chữa, nhất là những từ mang phương ngữ Nghệ An, cho hợp với ngôn ngữ ? Nôm của cả nước. Ý kiến này, theo thiển ý, thiếu sót rất nhiều các bằng chứng cụ thể, nhất là về Nôm học và ngôn ngữ học. Bởi chính Hoàng giáo sư hồi sinh thời cũng chưa hề trông thấy bản sửa chữa của Phạm Quý Thích hay nguyên bản gốc của Tiên Điền. Điểm ?~dễ nhầm?T đó (xin tạm dịch từ fallacy) của nhiều tác giả và của chính học giả Hoàng Xuân Hãn hiện ra rất rõ qua phần chứng minh Ngài= Người ở trên, và qua chính sơ suất của cố học giả họ Hoàng trong tác phẩm về Hồ Xuân Hưong của Ông [7]. Thật ra đó là một mâu thuẫn rất nhỏ. Trong [7], có một chương về tác phẩm lục bát của Trương phu nhân, học giả nhấn mạnh nhiều chỗ, người gốc Kinh Bắc, tức Bắc Ninh ngày nay. Thế nhưng trong một trang chú thích (tr 154) các từ cổ, tác giả ghi: NGAY: Biến âm của NGÀY. Vùng Nghệ Tĩnh nguyên chỉ có từ NGAY mà thôi. Xin nhắc lại Trương Phu Nhân người gốc Kinh Bắc, chứ không phải Nghệ An.

    Thật ra điểm dễ nhầm này có thể xuất phát từ việc những từ cổ vẫn thường được nghe ở khu vực Thanh Nghệ Tĩnh, chẳng hạn. Có lẽ nghe từ những người Mường địa phương bởi vùng Thanh Nghệ Tĩnh là một trong những địa bàn chính của người Mường. Hoặc bởi những vị Thầy quốc ngữ trong những khu vực đó không có thói quen ?~táy máy?T biến chuyển cách viết, cách phát âm, hay sáng tác các từ mới. Hay cách phát âm mới, biến chuyển của từ đã đến hơi chậm, hoặc không đồng đều với khối dân số của khu vực.

    Qua việc tìm tài liệu và kiểm chứng để viết ra bài này, người viết chợt phát hiện rất nhiều điểm fallacy, điểm dễ nhầm mà rất nhiều người, kể cả rất nhiều vị tiền bối với kiến thức sâu rộng đáng bậc thầy, đã vướng phải. Trong đó có phát âm lẫn lộn L và N. Trong thí dụ sau, người ta thường nhầm đó là phát âm địa phương:

    Chim hót níu no / Ở Hà Lội người ta lói lăng khéo nắm. THAY VÌ:
    Chim hót líu lo / Ở Hà nội người ta nói năng khéo lắm.

    Cũng lại một hiện tượng biến đổi từ Nôm sang quốc ngữ!

    Dẫn chứng thứ 1: Hỏi một người Hongkong hoặc Quảng Đông làm ơn phát âm tên nước Việt Nam? Đa số họ sẽ nói ngay: Yuệt Lam / L (Lam) thay vì N (Nam). Một số khác cũng có thể phát âm: Yuệt Nam.
    Dẫn chứng thứ 2: Xin thử phát âm LAM và NAM. Ta để ý vị trí lưỡi, họng và môi trong lúc phát âm Lam và Nam: gần như y hệt nhau!
    ------------------------------------
    [red]
    Nỗi đau ngày ấy là em ạ
    Là chút hao mòn của bể dâu
    Bể dâu sông bãi con thuyền bé
    Trong cõi vô thường nhẹ cánh chao[/size=4][/red]
  3. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Nhân tiện xin khảo sát một vài điểm dễ nhầm trong việc nghiên cứu Kiều và chữ Nôm, chữ quốc ngữ nói chung: Dễ nhầm ở chỗ khi ta phát hiện một phát âm hoặc một lối đánh vần hơi lạ của một từ, ta thường cho đó là phương ngữ, là cách phát âm địa phương. Thí dụ: Ngài là một phương ngữ miền Nghệ Tĩnh cho Người. Nác là phương ngữ của Bắc Trung Bộ cho Nước. Có vài khu vực Bắc Bộ người ta lẫn lộn âm L và N với nhau: chim hót níu no (thay vì líu lo) / Ở Hà Lội người ta lói lăng khéo nắm. L thay N lẫn nhau là nhầm lẫn qui về phát âm ?~địa phương?T.

    Những điểm dễ nhầm đó ?" qua phát hiện khi viết bài này - đều có thể được minh chứng rằng không phải phương ngữ, hay phát âm đơn thuần địa phương, mà chính cũng do tác động của quốc ngữ, của những Thầy quốc ngữ đầu tiên. Bằng cách truy về cội nguồn của phát âm chữ Nôm, hay chữ Mường - trước khi người Tây phương mang chữ cái alphabet đến nước Nam, và bày ra chữ quốc ngữ thay thế chữ Nôm.

    Khi bắt đầu cuộc trao đổi ý kiến về đề tài này trên mạng, Lê Quý {mc}, theo đường hướng Phạm Duy, đưa ra một câu ca dao anh ấy nhớ từng nghe ở Nghệ An trong những năm 1946-1952:
    Hà Tĩnh gạo trắng nước troong
    Em về Hà Tĩnh thong dong con ngài {mang ý: con người}

    và đồng ý với Phạm Duy rằng người Nghệ Tĩnh, ít ra trong thời 1945, vẫn còn dùng Ngài cho Người - như một phương ngữ. Nhiều bằng hữu mitchong gốc Nghệ An, như NĐ Nam, biên thư i-meo cho biết anh ấy đã kiểm chứng với các Cụ ở nhà và các Cụ nhớ chưa bao giờ nghe Ngài dùng thay cho Người ở Nghệ An.

    TQ Dương {mc} nói lên thắc mắc, một nhà thơ lớn như Nguyễn Du khi hạ bút viết ra Kiều không lẽ lại cứ dùng các phương ngữ Nghệ An. Và thật ra như đã thấy ?~Ngài?T hoàn toàn không phải là một phương ngữ, nhưng chính cách phát âm của tất cả người An-Nam vào trước thế kỷ 18-19 cho một từ Nôm dùng để chỉ ?~Người?T. Thế tại sao có cái mốt lạ đời này. Theo thiển ý mốt này do chính cố gs Hoàng Xuân Hãn bày ra! Người ta thấy nó được viện dẫn cho có vẻ thẩm quyền trong nhiều quyển sách phân tích và nghiên cứu về Kiều (thí dụ [14]). Theo ghi chú [6], Gs Hoàng Xuân Hãn cho rằng bản Kiều đầu tiên của Nguyễn Du đã ?~được?T một người bạn thân, Phạm Quý Thích tiên sinh sửa chữa, nhất là những từ mang phương ngữ Nghệ An, cho hợp với ngôn ngữ ? Nôm của cả nước. Ý kiến này, theo thiển ý, thiếu sót rất nhiều các bằng chứng cụ thể, nhất là về Nôm học và ngôn ngữ học. Bởi chính Hoàng giáo sư hồi sinh thời cũng chưa hề trông thấy bản sửa chữa của Phạm Quý Thích hay nguyên bản gốc của Tiên Điền. Điểm ?~dễ nhầm?T đó (xin tạm dịch từ fallacy) của nhiều tác giả và của chính học giả Hoàng Xuân Hãn hiện ra rất rõ qua phần chứng minh Ngài= Người ở trên, và qua chính sơ suất của cố học giả họ Hoàng trong tác phẩm về Hồ Xuân Hưong của Ông [7]. Thật ra đó là một mâu thuẫn rất nhỏ. Trong [7], có một chương về tác phẩm lục bát của Trương phu nhân, học giả nhấn mạnh nhiều chỗ, người gốc Kinh Bắc, tức Bắc Ninh ngày nay. Thế nhưng trong một trang chú thích (tr 154) các từ cổ, tác giả ghi: NGAY: Biến âm của NGÀY. Vùng Nghệ Tĩnh nguyên chỉ có từ NGAY mà thôi. Xin nhắc lại Trương Phu Nhân người gốc Kinh Bắc, chứ không phải Nghệ An.

    Thật ra điểm dễ nhầm này có thể xuất phát từ việc những từ cổ vẫn thường được nghe ở khu vực Thanh Nghệ Tĩnh, chẳng hạn. Có lẽ nghe từ những người Mường địa phương bởi vùng Thanh Nghệ Tĩnh là một trong những địa bàn chính của người Mường. Hoặc bởi những vị Thầy quốc ngữ trong những khu vực đó không có thói quen ?~táy máy?T biến chuyển cách viết, cách phát âm, hay sáng tác các từ mới. Hay cách phát âm mới, biến chuyển của từ đã đến hơi chậm, hoặc không đồng đều với khối dân số của khu vực.

    Qua việc tìm tài liệu và kiểm chứng để viết ra bài này, người viết chợt phát hiện rất nhiều điểm fallacy, điểm dễ nhầm mà rất nhiều người, kể cả rất nhiều vị tiền bối với kiến thức sâu rộng đáng bậc thầy, đã vướng phải. Trong đó có phát âm lẫn lộn L và N. Trong thí dụ sau, người ta thường nhầm đó là phát âm địa phương:

    Chim hót níu no / Ở Hà Lội người ta lói lăng khéo nắm. THAY VÌ:
    Chim hót líu lo / Ở Hà nội người ta nói năng khéo lắm.

    Cũng lại một hiện tượng biến đổi từ Nôm sang quốc ngữ!

    Dẫn chứng thứ 1: Hỏi một người Hongkong hoặc Quảng Đông làm ơn phát âm tên nước Việt Nam? Đa số họ sẽ nói ngay: Yuệt Lam / L (Lam) thay vì N (Nam). Một số khác cũng có thể phát âm: Yuệt Nam.
    Dẫn chứng thứ 2: Xin thử phát âm LAM và NAM. Ta để ý vị trí lưỡi, họng và môi trong lúc phát âm Lam và Nam: gần như y hệt nhau!
    ------------------------------------
    [red]
    Nỗi đau ngày ấy là em ạ
    Là chút hao mòn của bể dâu
    Bể dâu sông bãi con thuyền bé
    Trong cõi vô thường nhẹ cánh chao[/size=4][/red]
  4. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Dẫn chứng thứ 3: lật quyển tự điển chữ Nôm, ta có thể tìm thấy:
    - Nương (nương tựa)= Thủ + Lương (âm N viết theo L)
    - Lom (lom khom)= Thân + Nam (âm L viết theo N)
    Dẫn chứng thứ 4: Phát âm giữa L và N rất khó phân biệt trong tiếng Nôm đến nỗi một vài biến chuyển qua lại trở nên ?~bình thường?T qua cách kèm thêm chữ H:
    - Nhầm lẫn => Lầm lẫn
    - Lạt lẽo => Nhạt nhẽo. Nhưng: Lạnh không thể=> Nhạnh, bởi Lạnh: Hán từ, Lậng
    - Nhác => Lác [7]
    - Lớn => Nhớn (người nhớn)
    So chữ Nôm:
    - Lầm= Ngộ + Nhâm (âm L dựa trên Nh) / Nhầm= Khẩu + Lâm (đọc Lầm)
    - Nhạt= Thủy + Lạt (Nh dựa L) / Nhanh= âm Hán: Linh (tức đọc Lanh)

    Xem kỹ các dẫn chứng trên, và đặc biệt để ý trước khi có quốc ngữ, người An-Nam không thể phân biệt L và N, bởi họ chưa biết a-b-c. Họ chỉ đưa vị trí lưỡi và môi vào những chỗ nào đó và phát âm lên, thí dụ Nói và Lói. Sự lẫn lộn giữa L và N hoàn toàn không có trong môi trường tiếng Nôm. Nó chỉ xuất hiện bởi các giáo sĩ không biết ký âm đó bằng L hoặc bằng N, cách nào mới đúng. Hậu quả: người ở vài khu vực phía Bắc vẫn bị lộn xộn bởi quốc ngữ, khi phát âm các từ ký âm bắt đầu bằng L hay N.

    Điểm dễ nhầm còn được phát hiện trên rất nhiều khía cạnh của tiếng Việt trong dịp sửa soạn ?~nét ngài?T.
    - Chẳng hạn: cách phát âm TR (thí dụ: Trọng lượng, Trần Trung) - như Tzchọng lượng, Tzchần Tzchung, của người phía Bắc, hoặc thỉnh thoảng như Chọng lượng, Chần Chung theo phía Nam - từ trước đến giờ vẫn là một chuyện khó hiểu. Thật ra, cách phát âm không giống TR quốc tế này xem lại rất gần với phát âm Hán ngữ ngày xưa và nay: Zhong liang, Chen Zhung, v.v.
    - Chẳng hạn: cách phát âm TH như Thăng Long / Thượng Đế, v.v. Trong thời chữ Nôm, âm TH đã được phát âm y như quan thoại SH ngày nay: Sheng Long / Shang Tí. Bằng chứng: Trong văn bản năm 1626 của giáo sĩ Francisco Buzomi Thượng Đế viết bằng quốc ngữ ?~Xán Tí?T gần như tiếng Hán: Shang Tí. Quyển ?~Tiếng Việt Tuyệt Vời?T [13] có ghi nhận một vài khu vực ở phía Bắc, người ta phát âm lẫn lộn TH với S như: ?~mưa như xế mà ra thân xì xế nào cũng cảm mất xôi?T => ?~mưa như thế mà ra sân thì thế nào cũng cảm mất thôi?T. Ta cũng dễ nhầm rằng phát âm TH qua lại với SH hay X sai. Thật ra đó cũng là lối phát âm cổ còn sót lại. Tuy nhiên ta có thể để ý SH biến sang TH ít gây xáo trộn và đảo lộn bất thường như BL, KL, TL và ZH chuyển sang TR, hay B & W bị tống hết vào V.

    Nhưng vì khuôn khổ bài viết có hạn nên xin hẹn dịp khác.

    5. Nét Người nở nang?

    Bây giờ xin quan sát nguyên mệnh đề: nét ngài nở nang và nét người nở nang.

    Ai cũng biết ?~nét ngài nở nang?T đã thành một tiêu chuẩn, và dính chặt trong đầu óc của bất cứ người Việt nào biết qua truyện Kiều. Bác bỏ ?~nét ngài?T, và thay vào bằng ?~nét người?T, là một việc làm hết sức táo bạo, và ? động ?~blời?T. Bởi nó va chạm đến một thói quen, một quán tính của người Việt khắp nơi. Cho đến đây, chúng ta đã cố gắng thiết lập một vài điểm cơ bản để thẩm định việc làm táo bạo của Phạm Duy có cơ sở lí luận vững chắc hay không. Xin tóm lược:
    - Thảo luận về nguyên bản Kiều có phải thế này hoặc thế kia hay không là một việc mang nhiều tính chất khoa bảng. Bởi Kiều bị biến đổi quá nhiều qua ba đợt: Đợt truyền khẩu (trên 1000 người); Đợt ghi lại bằng chữ Nôm (chừng 5-6 bản); và Đợt dịch sang quốc ngữ (chừng trên 10 bản). Mỗi đợt cách nhau chừng vài chục năm.
    - Một điểm mấu chốt được xác nhận: Tại nước An-Nam, trước khoảng chuyển tiếp thế kỷ 18-19, người ta phát âm NGÀI cho từ dùng để chỉ ?~con tằm, con nhộng (ong)?T, và luôn cả ?~con người?T, và những người ở địa vị trên trước (thưa Ngài). Tác giả Kiều rất có thể đã phát âm Người và Ngài bằng một tiếng mà thôi: NGÀI.

    Trước hết xin hãy xem những giải thích hỗ trợ ?~nét ngài?T, thường có thể tìm thấy trong tất cả sách vở viết về Kiều có từ trước đến nay, qua đóng góp của các bằng hữu xa gần trên mạng internet, đặc biệt nhóm mitchong {mc}.

    5.1 Nét NGÀI

    Rất nhiều, nếu không nói gần như tất cả, bằng hữu ở diễn đàn mitchong giữ vững lập trường ?~nét ngài?T. Chị ND Ngôn nhũ danh Mai Chi {mc} từ California, trích lược giải thích của Nguyễn Xuân Nghĩa về nét ngài như sau.

    Theo các điển tích Trung Hoa, nét đẹp của Thúy Vân được tả trên 2 lãnh vực, thẩm mỹ và tướng pháp. ?~Trang trọng?T: Trang nói về tính tình lộ ra cử chỉ, trọng tả về tầm vóc thân hình. Khuôn trăng đầy đặn: Khuôn mặt tròn, bầu bĩnh. Nét ngài nở nang: Đôi lông mày dài, cong cong cân xứng với khuôn mặt tròn. Mày ngài: dịch từ tiếng Tàu: Nga Mi. Con ngài là loài **** vừa chui ra khỏi cái kén, đầu có 2 râu nhỏ, dài và cong. Người ta hay ví lông mày dài có nét bán nguyệt, với râu con ngài nên thường gọi Nga-Mi.

    Mai Chi {mc} phát biểu một quán tính khó thay đổi, bởi xưa nay chỉ nghe tả NGÀI ở trong phần giới thiệu nhân vật Thúy Kiều và Thúy Vân, nên thích ?~nét ngài?T hơn. Lúc nói về Thúy Vân có khuôn mặt đẹp, có hậu, cuộc đời không bị lận đận, long đong, chứ không được đẹp, sắc xảo như Thúy Kiều, bị cảnh hồng nhan đa truân.

    Nhà thơ Bùi Tiến Hoàng {mc} từ Canada, góp ý dựa trên bản quốc ngữ của Ưu Thiên Bùi Kỷ và Lệ Thần Trần Trọng Kim [16]: Theo tướng thư, diện như mãn nguyệt, my nhược ngoạ tàm. Mặt như mặt trăng tròn mà lông my như con tằm nằm ngang. Anh Hoàng cũng cho một khôi hài ý nhị, để ứng đáp với anh NĐ Nam {mc}, qua dẫn chứng bản của Quán Vân Đường, phải chăng thật ra tác giả Kiều có thể đã viết: ?~Khuôn lưng đầy đặn, nét người hở hang?T?
    Howard Nguyen {mc} từ Sydney, cho rằng nét ngài hợp lý hơn bởi người xưa thường thán phục vẻ đẹp thiên về cảm xúc lãng mạn hơn là những cảm hứng xếch-xi. Người ta thường nhìn người phụ nữ ở khuôn mặt hơn là thân thể.

    TQ Dương {mc} từ Wellington ?" Tân Tây Lan, với chuyên khoa ngôn ngữ học, cho một i-meo dài về nét ngài, xin tạm dịch sang quốc ngữ như sau: Nếu dùng ?~nét người nở nang?T người ta sẽ có thể hỏi tại sao một văn hào đạo mạo như Nguyễn Du lại có thể mô tả nét đẹp phụ nữ một cách quá lộ liễu trắng trợn như vậy. Trong khi người ta vẫn có thể dễ dàng chấp nhận và thông hiểu các lý do khiến nhạc sĩ lão thành Phạm Duy đã thay đổi ?~nét ngài?T thành ?~nét người?T trong vế 20 của Kiều.

    Thế nhưng, trên phương diện ngôn ngữ học, bất cứ một từ nào cũng có những phụ từ mang tính tương thanh hưởng ý (collocations). Thí dụ: người ta nói strong wind and heavy rain (gió mạnh và mưa nặng hạt) chứ không ai nói, heavy wind and strong rain (gió nặng và mưa mạnh). Trong tiếng Việt, lông mày dù giống hình con ngài thường đi đôi với ?~bán nguyệt?T hoặc ?~thanh tú?T hay ?~rậm rạp?T. Có cái gì bất ổn khi nói: ?~lông mày nở nang?T.
    ------------------------------------
    [red]
    Nỗi đau ngày ấy là em ạ
    Là chút hao mòn của bể dâu
    Bể dâu sông bãi con thuyền bé
    Trong cõi vô thường nhẹ cánh chao[/size=4][/red]
  5. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Dẫn chứng thứ 3: lật quyển tự điển chữ Nôm, ta có thể tìm thấy:
    - Nương (nương tựa)= Thủ + Lương (âm N viết theo L)
    - Lom (lom khom)= Thân + Nam (âm L viết theo N)
    Dẫn chứng thứ 4: Phát âm giữa L và N rất khó phân biệt trong tiếng Nôm đến nỗi một vài biến chuyển qua lại trở nên ?~bình thường?T qua cách kèm thêm chữ H:
    - Nhầm lẫn => Lầm lẫn
    - Lạt lẽo => Nhạt nhẽo. Nhưng: Lạnh không thể=> Nhạnh, bởi Lạnh: Hán từ, Lậng
    - Nhác => Lác [7]
    - Lớn => Nhớn (người nhớn)
    So chữ Nôm:
    - Lầm= Ngộ + Nhâm (âm L dựa trên Nh) / Nhầm= Khẩu + Lâm (đọc Lầm)
    - Nhạt= Thủy + Lạt (Nh dựa L) / Nhanh= âm Hán: Linh (tức đọc Lanh)

    Xem kỹ các dẫn chứng trên, và đặc biệt để ý trước khi có quốc ngữ, người An-Nam không thể phân biệt L và N, bởi họ chưa biết a-b-c. Họ chỉ đưa vị trí lưỡi và môi vào những chỗ nào đó và phát âm lên, thí dụ Nói và Lói. Sự lẫn lộn giữa L và N hoàn toàn không có trong môi trường tiếng Nôm. Nó chỉ xuất hiện bởi các giáo sĩ không biết ký âm đó bằng L hoặc bằng N, cách nào mới đúng. Hậu quả: người ở vài khu vực phía Bắc vẫn bị lộn xộn bởi quốc ngữ, khi phát âm các từ ký âm bắt đầu bằng L hay N.

    Điểm dễ nhầm còn được phát hiện trên rất nhiều khía cạnh của tiếng Việt trong dịp sửa soạn ?~nét ngài?T.
    - Chẳng hạn: cách phát âm TR (thí dụ: Trọng lượng, Trần Trung) - như Tzchọng lượng, Tzchần Tzchung, của người phía Bắc, hoặc thỉnh thoảng như Chọng lượng, Chần Chung theo phía Nam - từ trước đến giờ vẫn là một chuyện khó hiểu. Thật ra, cách phát âm không giống TR quốc tế này xem lại rất gần với phát âm Hán ngữ ngày xưa và nay: Zhong liang, Chen Zhung, v.v.
    - Chẳng hạn: cách phát âm TH như Thăng Long / Thượng Đế, v.v. Trong thời chữ Nôm, âm TH đã được phát âm y như quan thoại SH ngày nay: Sheng Long / Shang Tí. Bằng chứng: Trong văn bản năm 1626 của giáo sĩ Francisco Buzomi Thượng Đế viết bằng quốc ngữ ?~Xán Tí?T gần như tiếng Hán: Shang Tí. Quyển ?~Tiếng Việt Tuyệt Vời?T [13] có ghi nhận một vài khu vực ở phía Bắc, người ta phát âm lẫn lộn TH với S như: ?~mưa như xế mà ra thân xì xế nào cũng cảm mất xôi?T => ?~mưa như thế mà ra sân thì thế nào cũng cảm mất thôi?T. Ta cũng dễ nhầm rằng phát âm TH qua lại với SH hay X sai. Thật ra đó cũng là lối phát âm cổ còn sót lại. Tuy nhiên ta có thể để ý SH biến sang TH ít gây xáo trộn và đảo lộn bất thường như BL, KL, TL và ZH chuyển sang TR, hay B & W bị tống hết vào V.

    Nhưng vì khuôn khổ bài viết có hạn nên xin hẹn dịp khác.

    5. Nét Người nở nang?

    Bây giờ xin quan sát nguyên mệnh đề: nét ngài nở nang và nét người nở nang.

    Ai cũng biết ?~nét ngài nở nang?T đã thành một tiêu chuẩn, và dính chặt trong đầu óc của bất cứ người Việt nào biết qua truyện Kiều. Bác bỏ ?~nét ngài?T, và thay vào bằng ?~nét người?T, là một việc làm hết sức táo bạo, và ? động ?~blời?T. Bởi nó va chạm đến một thói quen, một quán tính của người Việt khắp nơi. Cho đến đây, chúng ta đã cố gắng thiết lập một vài điểm cơ bản để thẩm định việc làm táo bạo của Phạm Duy có cơ sở lí luận vững chắc hay không. Xin tóm lược:
    - Thảo luận về nguyên bản Kiều có phải thế này hoặc thế kia hay không là một việc mang nhiều tính chất khoa bảng. Bởi Kiều bị biến đổi quá nhiều qua ba đợt: Đợt truyền khẩu (trên 1000 người); Đợt ghi lại bằng chữ Nôm (chừng 5-6 bản); và Đợt dịch sang quốc ngữ (chừng trên 10 bản). Mỗi đợt cách nhau chừng vài chục năm.
    - Một điểm mấu chốt được xác nhận: Tại nước An-Nam, trước khoảng chuyển tiếp thế kỷ 18-19, người ta phát âm NGÀI cho từ dùng để chỉ ?~con tằm, con nhộng (ong)?T, và luôn cả ?~con người?T, và những người ở địa vị trên trước (thưa Ngài). Tác giả Kiều rất có thể đã phát âm Người và Ngài bằng một tiếng mà thôi: NGÀI.

    Trước hết xin hãy xem những giải thích hỗ trợ ?~nét ngài?T, thường có thể tìm thấy trong tất cả sách vở viết về Kiều có từ trước đến nay, qua đóng góp của các bằng hữu xa gần trên mạng internet, đặc biệt nhóm mitchong {mc}.

    5.1 Nét NGÀI

    Rất nhiều, nếu không nói gần như tất cả, bằng hữu ở diễn đàn mitchong giữ vững lập trường ?~nét ngài?T. Chị ND Ngôn nhũ danh Mai Chi {mc} từ California, trích lược giải thích của Nguyễn Xuân Nghĩa về nét ngài như sau.

    Theo các điển tích Trung Hoa, nét đẹp của Thúy Vân được tả trên 2 lãnh vực, thẩm mỹ và tướng pháp. ?~Trang trọng?T: Trang nói về tính tình lộ ra cử chỉ, trọng tả về tầm vóc thân hình. Khuôn trăng đầy đặn: Khuôn mặt tròn, bầu bĩnh. Nét ngài nở nang: Đôi lông mày dài, cong cong cân xứng với khuôn mặt tròn. Mày ngài: dịch từ tiếng Tàu: Nga Mi. Con ngài là loài **** vừa chui ra khỏi cái kén, đầu có 2 râu nhỏ, dài và cong. Người ta hay ví lông mày dài có nét bán nguyệt, với râu con ngài nên thường gọi Nga-Mi.

    Mai Chi {mc} phát biểu một quán tính khó thay đổi, bởi xưa nay chỉ nghe tả NGÀI ở trong phần giới thiệu nhân vật Thúy Kiều và Thúy Vân, nên thích ?~nét ngài?T hơn. Lúc nói về Thúy Vân có khuôn mặt đẹp, có hậu, cuộc đời không bị lận đận, long đong, chứ không được đẹp, sắc xảo như Thúy Kiều, bị cảnh hồng nhan đa truân.

    Nhà thơ Bùi Tiến Hoàng {mc} từ Canada, góp ý dựa trên bản quốc ngữ của Ưu Thiên Bùi Kỷ và Lệ Thần Trần Trọng Kim [16]: Theo tướng thư, diện như mãn nguyệt, my nhược ngoạ tàm. Mặt như mặt trăng tròn mà lông my như con tằm nằm ngang. Anh Hoàng cũng cho một khôi hài ý nhị, để ứng đáp với anh NĐ Nam {mc}, qua dẫn chứng bản của Quán Vân Đường, phải chăng thật ra tác giả Kiều có thể đã viết: ?~Khuôn lưng đầy đặn, nét người hở hang?T?
    Howard Nguyen {mc} từ Sydney, cho rằng nét ngài hợp lý hơn bởi người xưa thường thán phục vẻ đẹp thiên về cảm xúc lãng mạn hơn là những cảm hứng xếch-xi. Người ta thường nhìn người phụ nữ ở khuôn mặt hơn là thân thể.

    TQ Dương {mc} từ Wellington ?" Tân Tây Lan, với chuyên khoa ngôn ngữ học, cho một i-meo dài về nét ngài, xin tạm dịch sang quốc ngữ như sau: Nếu dùng ?~nét người nở nang?T người ta sẽ có thể hỏi tại sao một văn hào đạo mạo như Nguyễn Du lại có thể mô tả nét đẹp phụ nữ một cách quá lộ liễu trắng trợn như vậy. Trong khi người ta vẫn có thể dễ dàng chấp nhận và thông hiểu các lý do khiến nhạc sĩ lão thành Phạm Duy đã thay đổi ?~nét ngài?T thành ?~nét người?T trong vế 20 của Kiều.

    Thế nhưng, trên phương diện ngôn ngữ học, bất cứ một từ nào cũng có những phụ từ mang tính tương thanh hưởng ý (collocations). Thí dụ: người ta nói strong wind and heavy rain (gió mạnh và mưa nặng hạt) chứ không ai nói, heavy wind and strong rain (gió nặng và mưa mạnh). Trong tiếng Việt, lông mày dù giống hình con ngài thường đi đôi với ?~bán nguyệt?T hoặc ?~thanh tú?T hay ?~rậm rạp?T. Có cái gì bất ổn khi nói: ?~lông mày nở nang?T.
    ------------------------------------
    [red]
    Nỗi đau ngày ấy là em ạ
    Là chút hao mòn của bể dâu
    Bể dâu sông bãi con thuyền bé
    Trong cõi vô thường nhẹ cánh chao[/size=4][/red]
  6. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Senior TQ Dương viết tiếp: Theo quyển ?~Thúy Kiều Truyện Thường Chú?T do Chiêm Vân Thị chú đính và Trúc Viên Mạnh Liêu phiên dịch và phụ chú (ấn bản thứ nhất 1965, do Bộ Quốc Gia Giáo Dục xuất bản), nét ngài xuất phát từ ?Tngọa tàm?T. Trên khuôn mặt người ta, ngọa tàm nằm ngay dưới ?~khoé mắt?T. Quyển Sách Tướng Kinh có viết: Phụ nhân ngọa tàm vi nhược phong mãn, bất thâm hãm, vượng phu ích tử?T nghĩa là: Một ngài đàn bà có ngoạ tàm phát triển đầy đặn và trong sáng sẽ đem lại phú quý cho chồng và phúc lộc cho con cái. Thành ra có thể tác giả Kiều khi dùng ngài trong nét ngài nở nang có thể mang hàm ý ngoạ tàm tức nét tướng phía dưới đôi mắt. Thế có thể tác giả Kiều biến đổi ?~tàm?T ra ?~ngài?T để phù hợp âm điệu (niêm luật) với ?~khác vời?T ở vế phía trước hay chăng? [17]. Chắc là không. Nhưng tra cứu một quyển tự điển Hán Việt sẽ cho thấy, tàm tiếng Hán chính là con tằm, con ngài ở tiếng Nôm. Và do đó, TQ Dương {mc} kết luận, nét ngài trong vế đó mang nghĩa ngọa tàm, giống như con ngài nằm dưới khoé mắt. Chỉ có nét ngọa tàm nở nang mới đem lại phú quý, phúc lộc cho chồng con. Nét ngài, chứ không phải nét người.
    NP Hưng {mc} và NL Bình {mc} từ miền Texas Hoa Kỳ cho i-meo khơi lại một chuyện thiếu sót trong chương trình giáo dục tại Việt Nam. Trong suốt mười mấy năm cắp sách đến trường, không một học sinh nào được Thầy Cô giảng dạy về chữ Nôm quá hơn 5-7 phút. NP Hưng đề cập đến một điểm dễ nhầm: tiếng Nôm trong cách nói, luôn luôn như vậy từ ngàn xưa, độc lập với chữ Nôm và quốc ngữ. Và anh Bình kêu gọi ai rành một tí về vấn đề này xin viết 1 bài cho dân chúng nhờ.

    NĐ Nam {mc} từ Canada đưa ra hai bản khác:
    Một của Quán Vân Đường: Khuôn lưng đầy đặn, nét ngài nở nang
    Một của Duy Minh Thị: Tư phong đầy đặn, nét ngài nở nang
    Và cho rằng nếu theo hai bản này, NGÀI mang nghĩa NGƯỜI có thể được chấp nhận dễ dàng bởi nó đối xứng với ?~Khuôn lưng?T và ?~Tư phong?T.
    Thế nhưng NĐ Nam tìm ra một đoạn khác cũng dùng nét ngài, lúc Tú Bà chỉ cho Kiều những ngón nghề để câu khách:
    Chơi cho liễu chán, hoa chê,
    Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời.
    Khi khoé hạnh, khi nét NGÀI,
    Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa.

    Và cho rằng ?~nét ngài?T ở đây chắc chắn đề cập đến lông mày phía trên khoé hạnh, tức khoé mắt.

    Senior Lê Quý {mc} từ Melbourne, góp ý với suy luận của Phạm Duy qua việc ngắm tượng Dương Quí Phi ở Trung quốc: Trong tiếng Việt, ?~nở nang?T đi đôi với thân thể con người, xưa nay không bao giờ mang nghĩa ?~đẹp?T. ?~Nở nang?T muốn tả ?~đẹp?T phải được ghép vào những bộ phận nào khác của cơ thể con người. Thêm vào đó, bởi vế trên tâng bốc vẻ đẹp thanh tao của Thúy Vân: ?~Vân xem trang trọng khác vời?T nên vế dưới rất khó lòng ?~nét người nở nang?T nhất là nếu nét người bị ghép vào những bộ phận khác, chứ không phải toàn diện thân thể con người. Ngoài ra, so sánh Dương Quí Phi với Thúy Vân cũng có thể không được chính xác, bởi Dương Quí Phi là một người đàn bà đã phát triển tột bực, trong khi Thúy Vân chỉ mới chừng 15.

    NV Ưu {mc} góp ý cần nghiên cứu kỹ hơn bởi Dương Quí Phi lúc được tuyển vào cung có thể chỉ chừng 18 tuổi và Thúy Vân, ngày ấy có thể cũng đã 17.

    Anh Quý bàn thêm: Mô tả nét người nở nang có thể rất thiếu tự nhiên bởi ngày xưa ở giai cấp trung liu, người phụ nữ thường ăn mặc quần áo xiêm y hơi rộng, chứ không bó chặt như ngày nay. Nếu vậy, các thi sĩ rất khó biết thân hình các cô, và do đó khó lòng mô tả đến nét người, đến thân thể . . . nở nang.

    PQ Tuấn {mc} cho ý kiến: Cho dù Thúy Vân có lông mày phát triển? nở nang như Margot Hemingway hay thân hình đẹp, có da có thịt, như Marilyn Monroe, ta cũng khó lòng biết được thật sự ý định của Nguyễn Du. Thật ra, trong toàn bộ 38 vế vào đề của truyện Kiều, chẳng có câu nào đáng chúng ta phân tích tỉ mỉ cả, bởi mục đích chính của những vế đó là giới thiệu tổng quát các nhân vật và những góc nhìn nghệ sĩ và triết lý của tác giả cho toàn câu chuyện. Nguyễn Du có thể viết rất nhanh đoạn đầu. Đoạn này có thể được ? vứt đi mà không ảnh hưỏng mấy đến giá trị tổng thể của truyện Kiều. Và thật ra chỉ đến vế thứ 39 ta mới thấy chất thơ bắt đầu lai láng:

    Ngày xuân con én đưa thoi,
    Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
    Cỏ non xanh tận chân trời,
    Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

    Bây giờ chúng ta hãy quan sát những quan điểm hỗ trợ Phạm Duy qua ?~nét người nở nang?T. Nhưng trước hết, xin hãy lược qua, trong khuôn khổ hạn hẹp của bài này, nét đẹp phụ nữ theo những quan niệm xưa cổ.

    5.2 Phụ nữ đẹp theo người xưa

    Bác sĩ Hồ Đắc Duy từ Việt Nam, cũng thấy hứng khởi trong việc tham gia góp ý vào cuộc thảo luận ?~ngài?T với ?~người?T. Rất may, anh Duy có để ý ?~nét đẹp phụ nữ?T từ trước, như mọi ngài đàn ông, và đã viết một hai bài về đề tài này đăng trên báo chí khắp nơi, có thể tìm thấy trên trang mạng riêng của Anh
    ------------------------------------
    [red]
    Nỗi đau ngày ấy là em ạ
    Là chút hao mòn của bể dâu
    Bể dâu sông bãi con thuyền bé
    Trong cõi vô thường nhẹ cánh chao[/size=4][/red]
  7. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Senior TQ Dương viết tiếp: Theo quyển ?~Thúy Kiều Truyện Thường Chú?T do Chiêm Vân Thị chú đính và Trúc Viên Mạnh Liêu phiên dịch và phụ chú (ấn bản thứ nhất 1965, do Bộ Quốc Gia Giáo Dục xuất bản), nét ngài xuất phát từ ?Tngọa tàm?T. Trên khuôn mặt người ta, ngọa tàm nằm ngay dưới ?~khoé mắt?T. Quyển Sách Tướng Kinh có viết: Phụ nhân ngọa tàm vi nhược phong mãn, bất thâm hãm, vượng phu ích tử?T nghĩa là: Một ngài đàn bà có ngoạ tàm phát triển đầy đặn và trong sáng sẽ đem lại phú quý cho chồng và phúc lộc cho con cái. Thành ra có thể tác giả Kiều khi dùng ngài trong nét ngài nở nang có thể mang hàm ý ngoạ tàm tức nét tướng phía dưới đôi mắt. Thế có thể tác giả Kiều biến đổi ?~tàm?T ra ?~ngài?T để phù hợp âm điệu (niêm luật) với ?~khác vời?T ở vế phía trước hay chăng? [17]. Chắc là không. Nhưng tra cứu một quyển tự điển Hán Việt sẽ cho thấy, tàm tiếng Hán chính là con tằm, con ngài ở tiếng Nôm. Và do đó, TQ Dương {mc} kết luận, nét ngài trong vế đó mang nghĩa ngọa tàm, giống như con ngài nằm dưới khoé mắt. Chỉ có nét ngọa tàm nở nang mới đem lại phú quý, phúc lộc cho chồng con. Nét ngài, chứ không phải nét người.
    NP Hưng {mc} và NL Bình {mc} từ miền Texas Hoa Kỳ cho i-meo khơi lại một chuyện thiếu sót trong chương trình giáo dục tại Việt Nam. Trong suốt mười mấy năm cắp sách đến trường, không một học sinh nào được Thầy Cô giảng dạy về chữ Nôm quá hơn 5-7 phút. NP Hưng đề cập đến một điểm dễ nhầm: tiếng Nôm trong cách nói, luôn luôn như vậy từ ngàn xưa, độc lập với chữ Nôm và quốc ngữ. Và anh Bình kêu gọi ai rành một tí về vấn đề này xin viết 1 bài cho dân chúng nhờ.

    NĐ Nam {mc} từ Canada đưa ra hai bản khác:
    Một của Quán Vân Đường: Khuôn lưng đầy đặn, nét ngài nở nang
    Một của Duy Minh Thị: Tư phong đầy đặn, nét ngài nở nang
    Và cho rằng nếu theo hai bản này, NGÀI mang nghĩa NGƯỜI có thể được chấp nhận dễ dàng bởi nó đối xứng với ?~Khuôn lưng?T và ?~Tư phong?T.
    Thế nhưng NĐ Nam tìm ra một đoạn khác cũng dùng nét ngài, lúc Tú Bà chỉ cho Kiều những ngón nghề để câu khách:
    Chơi cho liễu chán, hoa chê,
    Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời.
    Khi khoé hạnh, khi nét NGÀI,
    Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa.

    Và cho rằng ?~nét ngài?T ở đây chắc chắn đề cập đến lông mày phía trên khoé hạnh, tức khoé mắt.

    Senior Lê Quý {mc} từ Melbourne, góp ý với suy luận của Phạm Duy qua việc ngắm tượng Dương Quí Phi ở Trung quốc: Trong tiếng Việt, ?~nở nang?T đi đôi với thân thể con người, xưa nay không bao giờ mang nghĩa ?~đẹp?T. ?~Nở nang?T muốn tả ?~đẹp?T phải được ghép vào những bộ phận nào khác của cơ thể con người. Thêm vào đó, bởi vế trên tâng bốc vẻ đẹp thanh tao của Thúy Vân: ?~Vân xem trang trọng khác vời?T nên vế dưới rất khó lòng ?~nét người nở nang?T nhất là nếu nét người bị ghép vào những bộ phận khác, chứ không phải toàn diện thân thể con người. Ngoài ra, so sánh Dương Quí Phi với Thúy Vân cũng có thể không được chính xác, bởi Dương Quí Phi là một người đàn bà đã phát triển tột bực, trong khi Thúy Vân chỉ mới chừng 15.

    NV Ưu {mc} góp ý cần nghiên cứu kỹ hơn bởi Dương Quí Phi lúc được tuyển vào cung có thể chỉ chừng 18 tuổi và Thúy Vân, ngày ấy có thể cũng đã 17.

    Anh Quý bàn thêm: Mô tả nét người nở nang có thể rất thiếu tự nhiên bởi ngày xưa ở giai cấp trung liu, người phụ nữ thường ăn mặc quần áo xiêm y hơi rộng, chứ không bó chặt như ngày nay. Nếu vậy, các thi sĩ rất khó biết thân hình các cô, và do đó khó lòng mô tả đến nét người, đến thân thể . . . nở nang.

    PQ Tuấn {mc} cho ý kiến: Cho dù Thúy Vân có lông mày phát triển? nở nang như Margot Hemingway hay thân hình đẹp, có da có thịt, như Marilyn Monroe, ta cũng khó lòng biết được thật sự ý định của Nguyễn Du. Thật ra, trong toàn bộ 38 vế vào đề của truyện Kiều, chẳng có câu nào đáng chúng ta phân tích tỉ mỉ cả, bởi mục đích chính của những vế đó là giới thiệu tổng quát các nhân vật và những góc nhìn nghệ sĩ và triết lý của tác giả cho toàn câu chuyện. Nguyễn Du có thể viết rất nhanh đoạn đầu. Đoạn này có thể được ? vứt đi mà không ảnh hưỏng mấy đến giá trị tổng thể của truyện Kiều. Và thật ra chỉ đến vế thứ 39 ta mới thấy chất thơ bắt đầu lai láng:

    Ngày xuân con én đưa thoi,
    Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
    Cỏ non xanh tận chân trời,
    Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

    Bây giờ chúng ta hãy quan sát những quan điểm hỗ trợ Phạm Duy qua ?~nét người nở nang?T. Nhưng trước hết, xin hãy lược qua, trong khuôn khổ hạn hẹp của bài này, nét đẹp phụ nữ theo những quan niệm xưa cổ.

    5.2 Phụ nữ đẹp theo người xưa

    Bác sĩ Hồ Đắc Duy từ Việt Nam, cũng thấy hứng khởi trong việc tham gia góp ý vào cuộc thảo luận ?~ngài?T với ?~người?T. Rất may, anh Duy có để ý ?~nét đẹp phụ nữ?T từ trước, như mọi ngài đàn ông, và đã viết một hai bài về đề tài này đăng trên báo chí khắp nơi, có thể tìm thấy trên trang mạng riêng của Anh
    ------------------------------------
    [red]
    Nỗi đau ngày ấy là em ạ
    Là chút hao mòn của bể dâu
    Bể dâu sông bãi con thuyền bé
    Trong cõi vô thường nhẹ cánh chao[/size=4][/red]
  8. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Trước hết xin tóm tắt vài điểm liên hệ đến lông mày, dựa trên tài liệu của Bs Duy:
    (i) Theo trích dẫn từ một hai trang trong quyển sách về tướng học phụ nữ của Vũ Tài Lục [20], do bs HĐ Duy rà và gửi sang Sydney qua email:
    Những người con mắt lá răm
    Đôi mày lá liễu đáng trăm quan tiền
    Nói mắt tất phải nói kèm theo luôn đôi mày, vì mắt mà thiếu mày như nhà không có nóc. Tục ngữ Tây Phương có câu: ?~Nếu anh cho một người mù đôi mắt, người đó sẽ xin luôn đôi mày?T (On donna des yeux à un aveugle, et il se mit à demander des sourcils).
    Người Tây phương cho thế là quá đáng, nhưng theo tướng lý thì sự đòi hỏi ấy rất phải vì có mắt mà không có mày thời cuộc đời sẽ chẳng ra làm sao.
    Mi là đôi lọng che của mắt, cũng là nghi biểu của mặt con người ta nữa, vì vậy mới có câu nói: ?~mặt mày lem luốc, mặt mũi sáng sủa?T.
    Trước hết chữ MI theo Hán nghĩa là lông mày chứ không phải lông mi (hay lông nheo)?.
    (ii) Cũng theo ghi chú [20], sách Liễu Trang có chép:
    ?~Đàn bà lông mày không dài quá mắt thì nghèo, mày như muốn chùm xuống mắt thì khốn cùng, mày lúc nào cũng chau lại: cô độc, mày thô là ngu?T.
    Một sách tướng số khác, cũng trích dẫn từ ghi chú [20] cho biết 5 cách xem tướng về lông mày:
    (a) nhiều tóc mà mày thưa; (b) quyền (gò má) cao mà mày nhạt;
    (b) tóc dày cứng mà thiếu lông mày; (d) mặt lớn mà vô mi;
    (e) mũi cao mà vô mi
    đều là những tướng dễ bị đẩy vào hoàn cảnh cô độc.
    Kim Tỏa Phú có câu:
    Đàn bà có lông mày thẳng một vệt như chữ nhất, không thấy nét cong, tất mình hại phu tử.
    (iii) Thế nhưng, theo một ca dao cổ Trung Hoa [18]:
    Nữ nhân đào hoa nhãn
    Tư phòng liễu diệp mi
    Vô môi năng tự giá
    Nguyệt hạ nữ nhân kỳ
    (người đàn bà có đôi mắt hào hoa, lại thêm lông mày như lá liễu là loại trăng hoa đáo để....)
    (iv) Theo trích dẫn từ một quyển tướng số [18]:
    Vĩnh Lạc là hoàng đế đời nhà Minh có lần mời tướng sư Viên Liễu Trang
    vào để đàm thoại về Tướng học. Hoàng đế Vĩnh Lạc hỏi: "Trong cung của Trẫm không có phi tần nào mặt vuông vắn, Trẫm muốn tìm một khuôn mặt như thế để lấy làm vợ, ngài nghĩ sao?"
    Viên Liễu Trang trả lời: "Đàn bà sang quí ở mi, vai, lưng và mắt, đường con cái ở bụng, vú và rốn. Mặt vuông gọi là hổ diện tất phạm vào sát tinh làm sao có thể vào cung để làm quí nhân. Người đàn bà hình thể như con phượng mới thực là đại quí, phương thì mạt tròn dài, mi như cánh cung, mắt nhỏ thuôn dài, nhiếu tú khí, cổ tròn dài, vai lưng bằng phẳng đầy đặn. Chân quí ở chổ đó, nếu không được làm vương phi thì cũng là phu nhân".

    Trong quyển ?~Hồ Xuân Hương ?" thiên tình sử?T của Gs Hoàng Xuân Hãn [7], tại chương về truyện thơ lục bát của Trương Thị Ngọc Trong (bà Cung Tần của Chúa Trịnh), ngay ở đoạn đầu mô tả Ỷ Lan lúc còn ở tuổi dậy thì:

    Hoài thai đã đủ mười trăng
    Đốc sinh một gái xem bằng tiên nga
    Phương phi mày liễu, mặt hoa
    Má đào, môi hạnh, da ngà, lưng ong
    Quỳnh tư, dao chất lạ lùng
    Thốt cười, muôn tía nghìn hồng nở ra

    Học giả Hoàng đã chú thích đoạn thơ này như sau:
    Mang thai đủ mười tháng; bèn sinh ra một gái trông đẹp như cô tiên.
    Xinh xắn với mày cong, mặt tươi, má hồng, môi thắm, da trắng, thân eo. Thể chất trời cho trong sáng khác thường. Khi nói cười, nét mặt trông tươi như muôn nghìn đoá hoa màu sắc cùng nở.

    Qua các trích dẫn này ta nhận thấy:
    - Lông mày, xuất phát từ tướng số, đã từng là một đặc điểm ?~ắt có?T trong việc thẩm định và mô tả nét đẹp và phú quý của người nữ.
    - Chú ý đến lông mày có lẽ dính liền đến đôi mắt. Loài người, Đông cũng như Tây, dùng cặp mắt để phát biểu cảm xúc, tình cảm, giận dữ, chán chường, hỉ nộ ái ố: ?~Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn?T.
    - Ở Trung hoa cũng như ở nước Nam, lúc mô tả vẻ đẹp phụ nữ, nhất là vào thời xưa, luôn luôn ta thấy người ta đề cập đến MI, tiếng Hán mang nghĩa lông mày. Nga-my theo tự điển Đào Duy Anh: ?~Râu con ngài (một thứ sâu hình như con **** mà to hơn, râu nó nhỏ và dài như tơ) ?" Nghĩa bóng: Lông mày con gái đẹp như râu con ngài. Nga-my nguyệt: Mặt trăng non hình như râu con ngài.?T
    - Ngày nay, mặc dù có những đặc điểm khác trong phương cách nhận chân sắc đẹp phụ nữ, lông mày vẫn giữ vai trò quan trọng. Bằng chứng có nhiều bà nhiều cô vẫn đi thẩm mỹ viện để được kẻ hoặc xâm lông mày cho được rõ và đậm. DV Tuyết {mc} có nhắc đến Trương Vô Kỵ trong tiểu thuyết kiếm hiệp Ỷ Thiên Đồ Long Ký của Kim Dung, lúc từ giã vũ khí, đã hưá với Triệu Minh y sẽ dành quảng đời còn lại chỉ để hàng ngày kẻ lông mày cho Triệu Minh mà thôi.
    - Trong tiếng Việt thuần Nôm, ?~mặt?T thường đi đôi với ?~mày?T: mặt mày nở nang / nở mặt nở mày (mang nghĩa: hãnh diện, tươi vui).Trong Kiều: ?~Nở nang mày mặt mẹ cha?T.

    5.3 Nét Người

    Trở lại với ?~nét người nở nang?T của maestro Phạm Duy. Những luận cứ thiên về Phạm Duy thường nhận ra có cái gì hơi lấn cấn trong việc kèm ?~nét ngài?T với ?~nở nang?T.

    Nét ngài, nếu hiểu theo nghĩa lông mày, nga-my, rất khó tự nó được mô tả bằng hình dung từ ?~nở nang?T. Thường, như đã thấy trong truyện thơ của Trương phu nhân, hay rất nhiều chỗ trong thi văn Việt, lông mày được mô tả ?~cong?T, hay ?~cong như lá liễu?T mới đúng tông. ?~Nét ngài liễu cong?T mới có vẻ đúng điệu.

    NĐ Nam {mc} và Bs Duy có ?~trích ra?T những vế dùng ?~ngài?T trong Kiều:

    Khi tả Từ Hải (vế 2167):
    Râu hùm cằm én mày ngài,
    Vai năm tấc rộng thân mười thước cao.

    Để ý nếu muốn tả lông mày, tác giả Kiều đã dùng rõ rệt ?~mày?T và ?~mày có hình giống con ngài (mày ngài)?T chứ hoàn toàn không trực tiếp dùng ?~ngài?T thay cho ?~mày?T như trong ?~nét ngài?T.
    ------------------------------------
    [red]
    Nỗi đau ngày ấy là em ạ
    Là chút hao mòn của bể dâu
    Bể dâu sông bãi con thuyền bé
    Trong cõi vô thường nhẹ cánh chao[/size=4][/red]
  9. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Trước hết xin tóm tắt vài điểm liên hệ đến lông mày, dựa trên tài liệu của Bs Duy:
    (i) Theo trích dẫn từ một hai trang trong quyển sách về tướng học phụ nữ của Vũ Tài Lục [20], do bs HĐ Duy rà và gửi sang Sydney qua email:
    Những người con mắt lá răm
    Đôi mày lá liễu đáng trăm quan tiền
    Nói mắt tất phải nói kèm theo luôn đôi mày, vì mắt mà thiếu mày như nhà không có nóc. Tục ngữ Tây Phương có câu: ?~Nếu anh cho một người mù đôi mắt, người đó sẽ xin luôn đôi mày?T (On donna des yeux à un aveugle, et il se mit à demander des sourcils).
    Người Tây phương cho thế là quá đáng, nhưng theo tướng lý thì sự đòi hỏi ấy rất phải vì có mắt mà không có mày thời cuộc đời sẽ chẳng ra làm sao.
    Mi là đôi lọng che của mắt, cũng là nghi biểu của mặt con người ta nữa, vì vậy mới có câu nói: ?~mặt mày lem luốc, mặt mũi sáng sủa?T.
    Trước hết chữ MI theo Hán nghĩa là lông mày chứ không phải lông mi (hay lông nheo)?.
    (ii) Cũng theo ghi chú [20], sách Liễu Trang có chép:
    ?~Đàn bà lông mày không dài quá mắt thì nghèo, mày như muốn chùm xuống mắt thì khốn cùng, mày lúc nào cũng chau lại: cô độc, mày thô là ngu?T.
    Một sách tướng số khác, cũng trích dẫn từ ghi chú [20] cho biết 5 cách xem tướng về lông mày:
    (a) nhiều tóc mà mày thưa; (b) quyền (gò má) cao mà mày nhạt;
    (b) tóc dày cứng mà thiếu lông mày; (d) mặt lớn mà vô mi;
    (e) mũi cao mà vô mi
    đều là những tướng dễ bị đẩy vào hoàn cảnh cô độc.
    Kim Tỏa Phú có câu:
    Đàn bà có lông mày thẳng một vệt như chữ nhất, không thấy nét cong, tất mình hại phu tử.
    (iii) Thế nhưng, theo một ca dao cổ Trung Hoa [18]:
    Nữ nhân đào hoa nhãn
    Tư phòng liễu diệp mi
    Vô môi năng tự giá
    Nguyệt hạ nữ nhân kỳ
    (người đàn bà có đôi mắt hào hoa, lại thêm lông mày như lá liễu là loại trăng hoa đáo để....)
    (iv) Theo trích dẫn từ một quyển tướng số [18]:
    Vĩnh Lạc là hoàng đế đời nhà Minh có lần mời tướng sư Viên Liễu Trang
    vào để đàm thoại về Tướng học. Hoàng đế Vĩnh Lạc hỏi: "Trong cung của Trẫm không có phi tần nào mặt vuông vắn, Trẫm muốn tìm một khuôn mặt như thế để lấy làm vợ, ngài nghĩ sao?"
    Viên Liễu Trang trả lời: "Đàn bà sang quí ở mi, vai, lưng và mắt, đường con cái ở bụng, vú và rốn. Mặt vuông gọi là hổ diện tất phạm vào sát tinh làm sao có thể vào cung để làm quí nhân. Người đàn bà hình thể như con phượng mới thực là đại quí, phương thì mạt tròn dài, mi như cánh cung, mắt nhỏ thuôn dài, nhiếu tú khí, cổ tròn dài, vai lưng bằng phẳng đầy đặn. Chân quí ở chổ đó, nếu không được làm vương phi thì cũng là phu nhân".

    Trong quyển ?~Hồ Xuân Hương ?" thiên tình sử?T của Gs Hoàng Xuân Hãn [7], tại chương về truyện thơ lục bát của Trương Thị Ngọc Trong (bà Cung Tần của Chúa Trịnh), ngay ở đoạn đầu mô tả Ỷ Lan lúc còn ở tuổi dậy thì:

    Hoài thai đã đủ mười trăng
    Đốc sinh một gái xem bằng tiên nga
    Phương phi mày liễu, mặt hoa
    Má đào, môi hạnh, da ngà, lưng ong
    Quỳnh tư, dao chất lạ lùng
    Thốt cười, muôn tía nghìn hồng nở ra

    Học giả Hoàng đã chú thích đoạn thơ này như sau:
    Mang thai đủ mười tháng; bèn sinh ra một gái trông đẹp như cô tiên.
    Xinh xắn với mày cong, mặt tươi, má hồng, môi thắm, da trắng, thân eo. Thể chất trời cho trong sáng khác thường. Khi nói cười, nét mặt trông tươi như muôn nghìn đoá hoa màu sắc cùng nở.

    Qua các trích dẫn này ta nhận thấy:
    - Lông mày, xuất phát từ tướng số, đã từng là một đặc điểm ?~ắt có?T trong việc thẩm định và mô tả nét đẹp và phú quý của người nữ.
    - Chú ý đến lông mày có lẽ dính liền đến đôi mắt. Loài người, Đông cũng như Tây, dùng cặp mắt để phát biểu cảm xúc, tình cảm, giận dữ, chán chường, hỉ nộ ái ố: ?~Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn?T.
    - Ở Trung hoa cũng như ở nước Nam, lúc mô tả vẻ đẹp phụ nữ, nhất là vào thời xưa, luôn luôn ta thấy người ta đề cập đến MI, tiếng Hán mang nghĩa lông mày. Nga-my theo tự điển Đào Duy Anh: ?~Râu con ngài (một thứ sâu hình như con **** mà to hơn, râu nó nhỏ và dài như tơ) ?" Nghĩa bóng: Lông mày con gái đẹp như râu con ngài. Nga-my nguyệt: Mặt trăng non hình như râu con ngài.?T
    - Ngày nay, mặc dù có những đặc điểm khác trong phương cách nhận chân sắc đẹp phụ nữ, lông mày vẫn giữ vai trò quan trọng. Bằng chứng có nhiều bà nhiều cô vẫn đi thẩm mỹ viện để được kẻ hoặc xâm lông mày cho được rõ và đậm. DV Tuyết {mc} có nhắc đến Trương Vô Kỵ trong tiểu thuyết kiếm hiệp Ỷ Thiên Đồ Long Ký của Kim Dung, lúc từ giã vũ khí, đã hưá với Triệu Minh y sẽ dành quảng đời còn lại chỉ để hàng ngày kẻ lông mày cho Triệu Minh mà thôi.
    - Trong tiếng Việt thuần Nôm, ?~mặt?T thường đi đôi với ?~mày?T: mặt mày nở nang / nở mặt nở mày (mang nghĩa: hãnh diện, tươi vui).Trong Kiều: ?~Nở nang mày mặt mẹ cha?T.

    5.3 Nét Người

    Trở lại với ?~nét người nở nang?T của maestro Phạm Duy. Những luận cứ thiên về Phạm Duy thường nhận ra có cái gì hơi lấn cấn trong việc kèm ?~nét ngài?T với ?~nở nang?T.

    Nét ngài, nếu hiểu theo nghĩa lông mày, nga-my, rất khó tự nó được mô tả bằng hình dung từ ?~nở nang?T. Thường, như đã thấy trong truyện thơ của Trương phu nhân, hay rất nhiều chỗ trong thi văn Việt, lông mày được mô tả ?~cong?T, hay ?~cong như lá liễu?T mới đúng tông. ?~Nét ngài liễu cong?T mới có vẻ đúng điệu.

    NĐ Nam {mc} và Bs Duy có ?~trích ra?T những vế dùng ?~ngài?T trong Kiều:

    Khi tả Từ Hải (vế 2167):
    Râu hùm cằm én mày ngài,
    Vai năm tấc rộng thân mười thước cao.

    Để ý nếu muốn tả lông mày, tác giả Kiều đã dùng rõ rệt ?~mày?T và ?~mày có hình giống con ngài (mày ngài)?T chứ hoàn toàn không trực tiếp dùng ?~ngài?T thay cho ?~mày?T như trong ?~nét ngài?T.
    ------------------------------------
    [red]
    Nỗi đau ngày ấy là em ạ
    Là chút hao mòn của bể dâu
    Bể dâu sông bãi con thuyền bé
    Trong cõi vô thường nhẹ cánh chao[/size=4][/red]
  10. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Một vài vế khác:
    Vế 927: Bên thì mấy ả mày ngài
    Vế 2273-74: Rỡ mình lạ vẻ cân đài
    Vẫn còn hàm én mày ngài như xưa

    Cũng đều chứng tỏ ?~ngài?T vẫn thường được dùng như một ?~hình dung từ?T mô tả lông mày hơn là một từ thay thế luôn cho ?~mày?T. Tuy nhiên có một vế khác, cũng dùng ?~nét ngài?T đơn độc không đi với ?~mày?T như ở vế 20 ?~nét ngài nở nang?T:
    Vế 1213: Khi khoé hạnh, lúc nét ngài

    Nếu hiểu ?~khoé hạnh?T như khoé mắt (NĐ Nam {mc}) ?" nét ngài ở vế 1213 bắt buộc phải hiểu như ?~nét lông mày?T mới đối xứng. Thế nhưng, trong truyện thơ Ỷ Lan của Trương phu nhân, ta thấy:
    Phương phi mày liễu, mặt hoa
    Má đào, môi hạnh, da ngà, lưng ong

    Và môi được mô tả bằng môi hạnh. Như vậy, ?~khoé hạnh?T trong vế 1213, vẫn có thể mang ý nghĩa ?~khoé môi?T, vành môi, giống hình trái hạnh đào? Nếu như thế ?~nét ngài?T trong vế 1213 có thể mang một nghĩa khác với ?~lông mày?T. Và từ đó, phe ?~nét người?T có thể suy diễn: ?~Khi khoé hạnh, lúc nét ngài?T vẫn có thể chứa ?~ngài?T mang nghĩa ?~người?T, như trong ?~nét người nở nang?T.

    NV Ưu {mc} - gốc kỹ sư giống như đa số các bằng hữu khác trên diễn đàn mitchong, nêu lên một khía cạnh khác, nhắm vào tính không xuôi tai, không đồng thuận giữa ?~nét ngài?T với ?~nở nang?T. Cũng giông giống với nhận xét của anh TQ Dương phía trên, NV Ưu đưa ra nhận xét ?~nét ngài?T chỉ một sự vật thuộc không gian 1-Chiều, thí dụ như sợi chỉ, một đường thẳng. Trong khi ?~nở nang?T là một hình dung từ thường dùng để mô tả trạng thái nở nang của một sự vật thuộc không gian 3-Chiều, như chiếc bong bóng, chiếc thùng phi, hoặc ? thân con người. Do đó ?~nét người nở nang?T có vẻ hợp với môn? hình học không gian hơn! Ngoài ra, người Việt trong lúc nói chuyện thông thường về một bạn gái của con cháu trong nhà, ưa nói: ?~Con nhỏ đó có nét lắm?T. Nét ở đây liên quan đến nét người nói chung chung, hay nét mặt đẹp. ?~Nét?T có thể chỉ sự vật 1-Chiều đến 3-chiều. Nhưng ?~nét ngài?T có lẽ bị giới hạn ở không gian 1-chiều mà thôi.

    Anh NL Bình {mc} từ California, cũng thấy chuyện đem hình học không gian vào Kiều có chút ít cơ sở luận lý, và đề nghị nếu xem ?~nét ngài?T như thuộc không gian hai chiều, thì ?~nét ngài nở nang?T có chỗ đứng hay không. Hoặc giả có thể nào tác giả Kiều đã dùng những từ như ?~vóc dáng?T để tả nở nang hay không? Một nôm-na gia khác góp ý chưa thấy ấn bản nào viết: ?~Khuôn trăng đầy đặn dáng ngài nở nang?T hết và chữ Nôm của ?~dáng?T hay ?~vóc?T, được viết khác xa với ?~nét?T. Hơn nữa ?~dáng người?T xem ra có vẻ một thứ từ rất tân, nhiều khi có thể ra đời trong khoảng thế kỷ 20. ?~Vóc dáng?T thời xưa có lẽ chính là ?~tư phong?T như trong bản của Duy Minh Thị. Điểm này cũng một điểm ít người chú tâm đến. Những ai từng hành nghề thông dịch viên đều có thể xác nhận khi phiên dịch hầu như bất cứ văn bản nào từ tiếng Anh, người dịch thường hay gặp phải những từ không có tương đương trong tiếng Việt. Hoặc có thể, có một từ cũ tra ở tự điển ra nhưng không hoàn toàn thích hợp với từ tiếng Anh trong hoàn cảnh mới, trong hoà hợp với ý chính của bản văn. Thí dụ hình dung từ ?~cool?T (với nghĩa nguyên thủy: mát mẻ) ở tiếng Anh trong vài mươi năm nay dùng để chỉ một cái gì ?~tốt đẹp?T, hay ho, ?~hết xẩy?T, hoăc rất ?~tuyệt chiêu?T! Thế hệ babyboom của những người sinh ra đời rầm rộ sau thế chiến thứ hai, dịch ra làm sao, ngoài cách phải tự ? sáng tác ra từ mới, như thế hệ ?~sinh sung?T chẳng hạn. Impeachment tổng thống Hoa Kỳ dịch ra ?~đàn hặc?T có êm không? Người ta biết chắc chắn lúc quốc ngữ được phát triển, cũng là lúc xã hội Việt giao tác ầm ầm với văn minh phương Tây. Và do đó, những người góp công vào việc phát triển quốc ngữ - từ nhóm Petrus Ký, đến Đông Kinh Nghĩa Thục rồi Nam Phong, và về sau Tự Lực Văn Đoàn - chắc chắn đã phải sáng tác rất nhiều từ, nhiều lối nói, dựa vào kiến thức Hán Nôm và Tây học, cho những sự vật, ý niệm mới từ phương Tây, như xe hơi (ô-tô), xe máy (xe đạp), tự do, dân chủ, v.v.

    NV Iu {mc} từ Sydney, nhắc lại quan niệm đẹp ngay ở phương Tây cũng biến đổi rất nhiều trong vòng 50 năm qua. Thời Greta Garbo, người ta chú ý đến khuôn mặt, đến mắt, đến mí mắt đến lông mày hơn bộ ngực và những bộ phận cơ thể khác. Đến lúc Marilyn Monroe, ?~ngài?T ta bắt đầu để ý đến bộ ngực, mông, eo, và cặp chân. Cyd Charise lại cho biết cái lưng đẹp cũng đáng đồng tiền. Phim nào của Angie Dickinson khán giả cũng đều được dịp ngắm nghía cặp chân đẹp của tài tử ấy. Jennifer Lopez (J. Lo) nghe nói đã bảo hiểm cặp giò đến 1 tỷ đô la. Đến thời Twiggy (khoảng 1965) rồi kéo đến Calista Flockhart (Ally McBeal), Lara Flynn Boyle (hiện đại) người ta thấy gầy ốm cũng đẹp và hấp dẫn như thường. Và đến thời hiện đại, nét đẹp thường đi đôi với phát triển của ngành giải phẫu thẩm mỹ, đặc biệt tập trung vào đôi mắt, lông mày, làn da, sóng mũi, bô ngực, và đôi môi (bơm). Y như Phạm Duy đã nhận xét, nét đẹp người xưa, không đến nỗi xưa như Dương Quý Phi mà ngay ở thời Marilyn Monroe, thông thường không khắt khe chuyện thân thể không được thon thả. Có da có thịt cũng tốt thôi, nhưng đừng quá mập là được rồi. Đối với xã hội Á Đông xưa cũ, anh NL Bình góp ý, người đàn bà phải có da có thịt mới đẹp, bởi như vậy mới có sức khoẻ sinh con đẻ cái, tiếp nối dòng giống cho phu quân.

    Tuy nhiên, những tản mạn về nét đẹp của người phụ nữ, tiếp tay cho Phạm Duy như trên vẫn không đánh thẳng được vào vấn đề mấu chốt:

    Nét ngài nở nang / Nét người nở nang: Cả hai lối mô tả, đều có cái gì lấn cấn. Nhất là khi đi theo: Khuôn trăng đầy đặn. Mặc dù rằng ta chấp nhận Ngài có thể được viết trong một bản xưa cũ nào đó như Ngài mang nghĩa Người.

    6. Mua vui cũng được một vài trống canh

    Như đã trình bày phía trên, phân tích một đoạn hay một câu, một vế của truyện Kiều với nhiệm vụ lý giải rất khó đi đến sự thật. Bởi thật ra chỉ có một sự thật duy nhất: tất cả những bản Kiều người ta biết đến đều là những bản ghi lại theo trí nhớ của ? truyền khẩu dân gian. Những bản-ghi-lại đó được thực hiện sau những năm tiếng nói và chữ viết của người nước Nam được biến chuyển thay đổi dữ dội [19]. Do đó, mục đích của bài này không bao giờ có một tham vọng nào khác hơn việc ?~mua vui cũng được một vài trống canh?T hay mua vui cũng được một hai tách càfê espresso, mà thôi.

    Trước khi đi đến việc cố gắng giải toả vấn đề xin tóm tắt những điểm khó khăn và các lấn cấn trong việc chấp nhận ?~nét ngài?T hoặc ?~nét người?T.

    (i) Nếu chấp nhận ?~nét ngài?T
    - Nét ngài nở nang vẫn nghe hơi kỳ kỳ, lông mày làm sao nở nang được. Ngay đến khi giận dữ, trừ những người như Trương Phi, ít khi lông mày bị dựng ngược, nở nang được!
    - So với những vế như: ?~Râu hùm hàm én mày ngài?T ta thấy ?~ngài?T đơn thuần một hình dung từ cho ?~lông mày?T: Mày trông giống râu con ngài cong cong. ?~Ngài?T viết chung với ?~mày?T. Trong ?~Nét ngài nở nang?T, ngài lại đứng solo, đứng chổng một mình. Có cái gì là lạ.
    - Nhưng ?~nét ngài?T là một lối viết rất quen thuộc và trong hầu hết các bản chữ Nôm NGÀI được viết với ?~con trùng?T nguây nguẩy phía bên, chứng tỏ đó là ?~con tằm?T, là con nhộng, chứ không phải NGƯỜI. Mặc dù hai âm Người và Ngài thật ra chỉ một (Ngài) trong thời chữ Nôm.
    - Nét lông mày là một trong những mô tả chính khi đề cập đến sắc đẹp của người nữ thời xưa. Nên ?~khuôn trăng đầy đặn?T sánh đôi với ?~nét ngài nở nang?T / nét ngài= râu con ngài= nga-my, hoàn toàn hợp nghĩa hợp lý.

    (ii) Nếu chấp nhận ?~nét người?T
    - Qua dẫn chứng phía trên, người An Nam ngày xưa phát âm ?~Ngài?T khi muốn nói ?~Người?T bởi trước thời quốc ngữ hoàn toàn thay thế chữ Nôm, từ ?~Người?T theo âm đọc ngày nay, chưa xuất hiện. Do đó trong bản Kiều bất cứ từ nào viết theo quốc ngữ ?~Người?T đều có thể đọc như ?~Ngài?T, và những từ ngày nay viết ?~Ngài?T đều có thể đã bị viết sai thành ?~ngài?T với nghĩa con nhộng ong, nghĩa bóng ?~nga-mi?T hay lông mày ?" trong khi ở nguyên bản có thể tác giả mang hàm ý Người.
    ------------------------------------
    [red]
    Nỗi đau ngày ấy là em ạ
    Là chút hao mòn của bể dâu
    Bể dâu sông bãi con thuyền bé
    Trong cõi vô thường nhẹ cánh chao[/size=4][/red]

Chia sẻ trang này