1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Mục lục box Tiếng Việt-Từ điển tra cứu trực tuyến-Tuyển tập các bài viết(SƯU TẦM) về Tiếng Việt.

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi home_nguoikechuyen, 24/06/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7

    ::: Diệu Tần :::
    Ngôn ngữ và văn hóa
    Văn hóa và ngôn ngữ có liên hệ chặt chẽ, không thể tách rời. Ngôn ngữ là phương tiện chuyên chở văn hóa và văn hóa chứa đựng trong ngôn ngữ. Người ta đã nói rằng ngôn ngữ và văn tự là kết tinh của văn hóa dân tộc, nhờ ngôn ngữ và văn tự để được lưu truyền và trong tương lai, nền văn hóa cũng nhờ vào ngôn ngữ để phát triển. Sự biến đổi và phát triển ngôn ngữ lại luôn luôn đi song song với biến đổi và phát triển văn hóa. Vậy muốn nghiên cứu sâu về văn hóa phải nghiên cứu ngôn ngữ, và tất nhiên muốn đi sâu vào ngôn ngữ phải chú tâm đến văn hóa. Ðiều đó được thể hiện rõ ràng trong trường hợp tiếp xúc giao thiệp văn hóa mà hai bên (khác dân tộc, khác quốc gia) có bối cảnh văn hóa khác nhau.
    Thông thường thì trình độ sử dụng một ngôn ngữ như một ngoại ngữ (khả năng nghe, nói, đọc và viết, mà nghe là quan trọng nhất) được quyết định bằng hai yếu tố: Sự am hiểu về ngôn ngữ đó và sự hiểu biết về kiến thức văn hóa trong bối cảnh của ngôn ngữ đó. Khi một người đã nắm được đầy đủ những kiến thức ngôn ngữ mà vẫn không giải thích thỏa đáng được ngoại ngữ là vì họ không có đủ kiến thức về bối cảnh của ngôn ngữ đó. Do sự khác biệt về óc thẩm mỹ, cách suy tư, quan niệm giá trị, đặc trưng tâm lý và tập quán của từng dân tộc, cách giải thích và diễn đạt cùng một sự vật cũng sẽ khác nhau. Cho nên có khó khăn hoặc có khi dẫn tới sự hiểu lầm trong tiếp xúc là lẽ đương nhiên.
    Chúng tôi xin nêu một số trường hợp đáng chú ý sau đây: CÁCH THỨC ÐỐI THOẠI
    l. Chào hỏi
    Người Việt Nam và người Á đông có thói quen (thói quen, tập quán là văn hóa) chào nhau bằng cách hỏi: ông ăn cơm chưa?; bác đi đâu đấy?; Bà đang làm gì đấy? Hỏi mà không cần nghe câu trả lời, đó chỉ là cách thức chào, không phải thật sự muốn biết người được hỏi ăn cơm chưa; đi đâu; hay đang làm gì. Khi trả lời, người ta có thể đáp lại một cách không đích xác, hoặc không trả lời. Nếu dịch những câu hỏi trên sang tiếng Anh, tiếng Pháp thì sẽ là những câu hỏi rõ ràng, cần phải trả lời. Nếu chúng ta chào hỏi người Pháp người Mỹ những câu như thế có thể có sự hiểu lầm , vì họ chào nhau bằng những câu như: Bon soir, Good morning... Trái lại với chúng ta khi muốn chào như thế, chúng ta không cần phải nói rõ là chào buổi chiều, hay chào buổi tối
    2. Làm quen.
    Người Việt Nam và người Á Ðông có thói quen ưa tìm hiểu quan sát và đánh giá người mình tiếp xúc. Tuổi tác, quê quán, trình độ văn hóa, địa vị xã hội, mức thu nhập cá nhân, tình trạng gia đình. (Bố mẹ còn hay mất, đã lập gia đình chưa, đã có con chưa, mấy trai mấy gái. Nhũng câu hỏi về biography và background cho người đối diện luôn là những điều chúng ta quan tâm và đặt câu hỏi). Chúng ta hỏi những điều đó là xuất phát từ óc cộng đồng, tự thấy có trách nhiệm phải chú ý đến người khác, cần biết rõ người đối thoại. Nhưng thói quen ưa tìm hiểu này hoàn tòan trái ngược với người Tây phương. Người Âu Mỹ đề cao chuyện riêng tư của con người, coi như bất khả xâm phạm, nhất là về lương bổng và tuổi tác phụ nữ. Ở Mỹ, ngay cả trong mẫu đơn xin việc và trong các cuộc phỏng vấn nhận nhân viên, công nhân, không có quyền hỏi người đứng đơn về tình trạng gia đình. Người Tây phương khi làm quen thường khen nhau trẻ, đẹp, quần áo hợp thời trang, hoặc nói về thời tiết, hay bàn về trận đấu thể thao vừa qua. Nếu cứ hỏi người Tây phương về chuyện riêng của họ, họ cho mình là tò mò, hay dò tìm những điều bí ẩn của người khác và có thể họ sẽ chán nản, tức giận.
    3. Lời khen hay lời chê?
    Khoảng 30, 40 năm trở lại đây, phụ nữ Âu Mỹ rất sợ béo mập, vì béo mập là hình
    dáng không đẹp, lại là mầm mống cuả nhiều thứ bệnh. Trong khi người Á đông khen: béo tốt, tốt tướng, lên cân, bệ vệ thì người được khen hài lòng. Ngược lại khen như thế lại là lời sỉ mạ người được khen! Người Việt và người Trung Hoa có thói quen nói lớn tiếng ngoài đường phố, nơi công cộng. Trong khi đó người Âu, Mỹ thường nói chuyện vửa đủ nghe, tôn trọng bầu không khí yên tĩnh, tôn trọng người khác. Người Á đông vào những tnlờng hợp ông, Bà, Cha, Mẹ nhận quà tặng cua con cháu, nhận lời chúc mừng, nhận lời khen tặng, không cần phải cảm ơn. Các vị đó xem như con cháu có bổn phận phải làm như thế.
    Người Việt, có khi khen thật lòng, có khi lại khen mỉa mai, khen mà là chê. Ví dụ có người hỏi: Cô ấy, bà ấy đẹp nhỉ, người đối thoại sẽ trả lời: Ðẹp? Ðẹp thật à? À, đẹp thật, đẹp chín nghìn ! Hoặc dùng ca dao: Ðẹp như con tép kho tương! Trái lại khi khen một đứa bé bụ bẫm thì dùng hình thức chê, vì e sợ mụ quở, sợ ma quỷ bắt đứa bé đi: "Ấy cháu nó xấu xí lắm, nó hư lắm." Có nghĩa là cháu nó bụ sữa lắm! Cháu nó ngoan lắm! Nếu dịch lời chê rồi giải nghĩa cho người Âu Mỹ hiểu đó là lời khen thì họ phải cố hiểu mới hiểu nổi.
    4. Cách xưng hô
    Trong một ngôn ngữ, cách xưng hô luôn luôn biểu lộ đặc trưng tâm lý, nếp suy tư và văn hóa của dân tộc đó. Trong tiếng Việt cách xưng hô rất phong phú và phức tạp. Ngoài các đại từ nhân xưng như: tôi tao, tớ, mày, nó, hắn; chúng tôi, chúng tao, chúng tớ, chúng nó, bọn hắn còn có một số lượng lớn các danh từ chỉ liên hệ họ hàng như: anh - em, bà - cháu, chú - cháu... để thay thế cho đại từ nhân xưng và những danh từ này có xu hướng lấn át các đại từ nhân xưng. Hệ thống xưng hô này nói lên đặc điểm của văn hóa Việt Nam. Chúng được ứng dụng tùy theo tình cảm của người phát biểu và trường hợp cụ thể khi nói chuyện. Cùng tiếp xúc một người, người ta có thể dùng những cặp từ xưng hô khác nhau như : anh- em, anh - tôi, ông -tôi, mày - tao tùy theo từng trường hợp. Trái lại trong ngôn ngữ Tây phương và cách nói phổ thông của Trung Hoa chỉ sử dụng các đại từ nhân xưng như
    : I, You, he, she, Hán ngữ thì ngã, nhĩ (ngổ, nỉ).
    Nếu so sánh các danh từ chỉ liên hệ họ hàng trong các ngôn ngữ, chúng ta sẽ thấy nhiều điểm khác nhau có khi thú vị, khôi hài và kỳ lạ. Ví dụ trong tiếng Việt cháu (trai, gái) chỉ người thế hệ sau, nhưng không phải là con, gồm: con của con; con của anh, chị và em. Trong tiếng Anh cũng có grand child, nephew và niece. Nhưng nếu dạy tiếng Việt cho người Anh, Mỹ thì cháu lại có thể là con, có thể là tôi nữa. Ví dụ hỏi một thanh niên: Anh đã có cháu nào chưa?; hay nói: Thưa các cụ , cháu không dám ạ!
    Như vậy cách xưng hô nói lên những đặc trưng bối cảnh văn hóa xã hội của từng ngôn ngữ, cần được nghiên cứu bằng kết hợp văn hóa và ngôn ngữ.
  2. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7

    5. Lối khiêm tốn (nhún nhường)
    Khiêm tốn là một đức tính, nhưng mỗi dân tộc thường có cách thức riêng để tỏ ý khiêm nhường. Người Việt Nam và Á đông thường tỏ ý khiêm tốn bằng cách tự khiêm, là tự hạ mình xuống. Ví dụ trong một cuộc họp, người Á đông thường mở đầu bằng mấy câu như sau: "Trình độ của tôi không bằng ai, tôi chưa chuẩn bị kỹ, nếu có chỗ nào tôi sơ xuất thì mong quý vị thông cảm và bo åtúc cho" Nói như thế là lịch sự. Nhưng người Tây phương sẽ không hài lòng và phản ứng: nếu trình độ yếu, chưa chuẩn bị kỹ thì nói làm gì?" Họ không hiểu rằng khi nói thế chỉ là cách nhún mình thôi, thật ra người ấy rất giỏi, và chuẩn bị hết sức kỹ càng. Người Á Ðông không bao giờ tự khen mình tự tâng bốc mình, e bị chê cười. Trái lại người Tây phương cho rằng chúng ta thiếu tự tin, và tự tin không có nghĩa là tự khoe khoang. Khi tặng quà, người Việt thường muốn giảm giá trị món quà, dù món quà đó họ đã bỏ ra nhiều công sức tiền bạc mới mua được. Họ chỉ nói "Ðây là chút quà mọn chẳng đáng gì bao nhiêu". Nói thế để người nhận quà yên lòng. Người Âu Mỹ thì trái lại. Khi tặng quà họ thường nói rõ: Món quà này tôi đã có chủ ý đi mua cho bằng được, hoặc là: "Ðây là hàng nổi tiếng, hiếm có". Người phương Tây cho rằng nói thế mới tỏ lòng chân thành.
    Lối tự khiêm còn thể hiện ngay trong cách sử dụng ngôn ngữ. Ví dụ: "Ông lại chơi nhà chúng tôi; Ông cho tôi món quà" nhưng lại nói để nâng cao giá trị người đối thoại: "Tôi xin lại thăm ông bà"; "Tôi xin biếu ông bà món quà mọn".
    SỬ DỤNG CÁC TỪ NGỮ VĂN HÓA TRONG GIAO THIỆP
    Từ ngữ văn hóa có ý nghĩa văn hóa xã hội. Ý nghĩa văn hóa xã hội là chỉ nghĩa bóng, ẩn dụ, tượng trưng, biểu cảm.
    l. Từ ngữ tượng trưng
    Ðó là các từ ngữ có hàm nghĩa tựng trưng văn hóa, ngoài chức việc định danh ra, các từ ngữ gợi lên một sự liên tưởng nào đó. Ví dụ trong tiếng Việt, từ "con rồng" ngoài chức năng định danh là chỉ một con vật tưởng tượng ra, là biểu tượng của nhà vua thời xưa và tượng trưng của dân tộc Việt. Người Việt thường tự nhận là con rồng cháu tiên. Người Trung Hoa cũng thường nhận là con cháu của Rồng. Nhưng trong các tiếng Tây phương , Dragon (rồng) lại không có nghĩa đẹp như vậy. Ðó chỉ là con vật huyền thoại rất hung ác, luôn luôn làm hại con người. Bởi thế người Tây phương không hiểu tại sao tại sao người Việt, người Trung Hoa lại sùng bái một con ác thú như thế!
    Trong Hán ngữ con bò vàng già (lão hoàng ngưu) là chỉ tượng trưng những người làm việc cần cù, có góp công sức lớn lao và không bao giờ khoe khoang, là một danh hiệu rất quý Nhưng trong tiếng Việt, con bò là một biểu tượng cho ngu đần. Người ta nói: ngu như bò; đầu bò đầu bướu (bướng bỉnh, ngang ngạnh) con bò vàng già chỉ là người già yếu chậm chạp ngu dốt. Trong khi đó để chỉ người kém thông minh, người Mỹ nói: óc nó nhỏ như hạt đậu (bean).
    Ngôn ngữ Việt , tiếng lóng dê có nghĩa không đẹp, dùng để chỉ đàn ông đa dâm: nó có máu dê, nó là dê cụ, dê xồm! Nhưng trong Hán ngữ thì dê và cừu là hình ảnh dịu hiền, rất dễ thương. Ngoài ra vì đồng âm với dương (trái với Âm) và cùng vần với chữ may mắn, nên người Trung Hoa xem con dê và cừu là tượng trủng cho may mắn.
    Người Việt và Trung Hoa cho con chim khách là biểu tượng cho điềm lành, tin rằng nó đem đến tin vui. Người Âu Tây hình ảnh chim khách không quý báu gì, ở nước Nga người ta cho loại chim này là tượng trưng cho kẻ đâm bị thóc, chọc bị gạo và kẻ trộm.
    2.Hình thức tôn kính
    Ở Á Ðông như Nhật, Cao Ly và Tây tạng có hình thức nói và viết tôn kính đối với những bậc tu hành, lãnh đạo... Hình thức này được biến cải ngay vào trong ngôn ngữ. Ở Việt Nam và Trung Hoa không có lối viết như thế, nhưng dùng những từ đặt thêm vào để bày tỏ lòng quý trọng tôn kính. Ví dụ tiên sinh, tiền bôí; ông anh, đàn anh. Riêng Việt Nam có những có những chữ không dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp được, để bày tỏ kính trọng người hơn mình về tuổi tác, học vấn, tư tưởng... Ðó là thưa, trình, bẩm, ở đầu câu và ạ ở cuối câu. Người Mỹ chỉ có từ Sir và Mam đặt ở cuối hoặc đầu câu để bày tỏ sự tôn kính thôi.
    3.Con số
    Ngôn ngữ nào cũng phải có số đếm, nhưng có vài con số có những hàm nghĩa đặc biệt.
    Chính con số không có gì thần bí, nhưng từ chỗ sùng bái linh vật về ngôn ngữ, người ta đi đến sùng bái về con số. Người ta cho rằng có những số lành, may mắn, có những số dữ, xui xẻo.
    Ví dụ ở các nước phương Tây, số 13 bị coi là số xấu, người ta luôn luôn kiêng và cố lẩn tránh con số này Ở các nhà lầu, ngườii ta không lấy số 13, các bệnh viện và giường bệnh số 13; trên máy bay xe lửa và ở mỗi hàng ghế đều không có ghế số 13. Người ta tiến hành những việc quan trọng cũng cố tránh ngày 13. Nhưng ở Việt Nam và Trung Hoa lại không tin như thế. Một vài tỉnh ở Trung Quốc người ta cho các số 3, 6, 9 là số đẹp, chọn những ngày 3, 6, 9, 13, 16, 26, 29 âm lịch làm lễ cưới. Ở Nhật, người ta cho số 4 là xấu, vì tiếng Nhật số 4 đọc lên nghe gần như chết (Xi = tứ, xi = tử) nên người Nhật thường kiêng số này. Nhiều bệnh viện Nhật không có tầng số 4, phòng số 4 và giường số 4. Tiếng trung Hoa cũng như vậy, tứ đọc lên theo phương ngữ nào nghe cũng gần giống với tử, nên nhiêu bệnh nhân nằm bệnh viên kiêng số đó. Ngay cả số điện thoại, người ta cũng không thích số 4. Gần đây vì ảnh hưởng Hương Cảng và Quảng Ðông, họ rất chuộng con số 8. Bát đọc lên gần như phát (tài), nên người ta rất thích số 8, nếu có số 168 là nhất lộ (lục) phát hay 598 đọc như ngã cửu phát (ngũ cửu bát) = tôi phát tài được lâu. Ở Việt Nam, người ta có quan niệm riêng về các con số, coi số lẻ là tốt đẹp. Làm đám cưới cũng có thói quen chọn ngày, có người kiêng ngày 3 và ngày 7, vì đã có câu: Chớ đi ngày bảy, chớ về ngày ba. Nhưng so với hai nước nói trên, quan niệm lành dữ về con số của người Việt vẫn nhẹ hơn. Người Việt chuộng nhất số 9 và kỵ nhất số l0, gọi là số bù, bảng số xe các loại, họ đều thích có số 9, hoặc cộng lại số thành là 9.
    4. Từ ngữ chỉ màu sắc
    Màu sắc có ảnh hưởng đến tâm lý con người điều đó đã được công nhận. Trong ngôn ngữ, các từ ngữ chỉ màu sắc có thể phản ảnh được tâm lý văn hóa dân tộc. Cho nên các từ ngữ chỉ màu sắc thường có nghĩa tượng trưng văn hóa rất phong phú.
    Từ xưa, người Việt chịu ảnh hưởng Trung Hoa có quan niệm tôn sùng màu vàng, vì từ đời Hán, lấy năm sắc tượng trưng cho ngũ hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ và ngũ phương là Ðông, Tây, Nam, Bắc. Vàng là tượng trưng cho Thổ và Trung ương và là màu của vương quyền. Từ đời Hán trở xuống, các nhà vua đều mặc áo vàng, và đó là độc quyền của nhà vua.
    Nhưng từ hơn chục năm nay, màu vàng lại có nghĩa tượng trưag cho khiêu dâm, dâm ô, vì mấy chữ điện ảnh màu vàng nghĩa là phim ảnh khiêu dâm; phòng khiêu vũ màu vàng, băng hình màu vàng là cùng nghĩa dó. Ở Việt Nam thì coi nhẹ hơn , nhạc vàng có nghĩa là nhạc buồn ủy mị, lãng mạn. Người Á đông cũng thích màu đỏ, cho đó là tượng trưng cho sự may mắn, hạnh phúc, vui vẻ, thành đạt. Vào các dịp ngày Tết, ngày lễ lớn thường treo câu đối đỏ, thắp nến đỏ... Ở Trung Hoa còn treo đèn ***g đỏ, trong đám cươi cô dâu mặc toàn màu đỏ, trang hoàng trong nhà toàn bằng màu đỏ. Trái lại ở Tây phương, cô dâu mặc bộ áo cưới màu trắng, họ cho rằng màu trắng tương trưng cho sự trong sạch, tinh khiết của cô dâu. Nhưng ở Trung Hoa dân gian lại kiêng màu trắng trong đám cuới, vì họ vẫn coi màu trắng là màu tang tóc. Người Á đông không thích màu đen cho rằng đó là vận không may, số đen, đen đủi trong khi vẫn có nhiều người Tây phương thích sơn cửa màu đen cổ điển.
    Các từ ngữ văn hóa còn rất nhiều, như những chữ kiêng kỵ, thành ngữ, tục ngữ, ca dao, tiếng lóng v. v.. Ví dụ một từ có cùng nghĩa nhưng lại thay đổi, hay thêm bớt nghĩa, tùy theo cáh dùng, cách đặt câu của từng quốc gia. Như từ nóng = chaud = hot của Việt, Pháp và Anh. Nóng của Việt Nam giống như hot của Anh có nghĩa nữa là nóng nảy; mới tinh, nhưng tiếng Anh còn thêm nghĩa là cay (hot pepper). Chaud (e), chaleur của Pháp là nóng, nhưng nếu nhầm lẫn nói một người đàn bà đang "en chaleur'' thì thật là nguy hiểm!
    Những điểm nói trên cho thấy yếu tố văn hóa có vai trò quan trọng trong giao thiệp, tiếp xúc đặc biệt là trong tiếp xúc văn hóa. Ðây cũng là vấn đề ngôn ngữ và vấn đề bối cảnh văn hóa. Chú tâm đến khía cạnh văn hóa khi nghiên cứu ngôn ngữ là cần thiết và là cách tìm hiểu mới, một địa hạt mới trong ngôn ngữ học.
    Vài chục năm nay, ở Mỹ, Nga, Trung Quốc, các nhà ngôn ngữ học đã làm nhiều việc nghiên cứu ngôn ngữ qua văn hóa và thu được một số thành quả. Chẳng hạn muốn học một ngoại ngữ, cần phải học qua về văn hóa của thứ tiếng đó. Ðặc biệt là phải hiểu phong tục, tập quán, sử, địa... của nước đó. Họ nghiên cứu các mặt ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng, ngữ nghĩa để kết hợp ngôn ngữ với các ngành khoa học xã hội khác và từ đó tạo dựng một số môn học liên ngành, trong đó có môn ngôn ngữ văn hóa (Cultural linguistics).
    bài trên đã post, nhưng tôi chuyển xuông dưới để ở đầu làm một số mục
  3. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7

    5. Lối khiêm tốn (nhún nhường)
    Khiêm tốn là một đức tính, nhưng mỗi dân tộc thường có cách thức riêng để tỏ ý khiêm nhường. Người Việt Nam và Á đông thường tỏ ý khiêm tốn bằng cách tự khiêm, là tự hạ mình xuống. Ví dụ trong một cuộc họp, người Á đông thường mở đầu bằng mấy câu như sau: "Trình độ của tôi không bằng ai, tôi chưa chuẩn bị kỹ, nếu có chỗ nào tôi sơ xuất thì mong quý vị thông cảm và bo åtúc cho" Nói như thế là lịch sự. Nhưng người Tây phương sẽ không hài lòng và phản ứng: nếu trình độ yếu, chưa chuẩn bị kỹ thì nói làm gì?" Họ không hiểu rằng khi nói thế chỉ là cách nhún mình thôi, thật ra người ấy rất giỏi, và chuẩn bị hết sức kỹ càng. Người Á Ðông không bao giờ tự khen mình tự tâng bốc mình, e bị chê cười. Trái lại người Tây phương cho rằng chúng ta thiếu tự tin, và tự tin không có nghĩa là tự khoe khoang. Khi tặng quà, người Việt thường muốn giảm giá trị món quà, dù món quà đó họ đã bỏ ra nhiều công sức tiền bạc mới mua được. Họ chỉ nói "Ðây là chút quà mọn chẳng đáng gì bao nhiêu". Nói thế để người nhận quà yên lòng. Người Âu Mỹ thì trái lại. Khi tặng quà họ thường nói rõ: Món quà này tôi đã có chủ ý đi mua cho bằng được, hoặc là: "Ðây là hàng nổi tiếng, hiếm có". Người phương Tây cho rằng nói thế mới tỏ lòng chân thành.
    Lối tự khiêm còn thể hiện ngay trong cách sử dụng ngôn ngữ. Ví dụ: "Ông lại chơi nhà chúng tôi; Ông cho tôi món quà" nhưng lại nói để nâng cao giá trị người đối thoại: "Tôi xin lại thăm ông bà"; "Tôi xin biếu ông bà món quà mọn".
    SỬ DỤNG CÁC TỪ NGỮ VĂN HÓA TRONG GIAO THIỆP
    Từ ngữ văn hóa có ý nghĩa văn hóa xã hội. Ý nghĩa văn hóa xã hội là chỉ nghĩa bóng, ẩn dụ, tượng trưng, biểu cảm.
    l. Từ ngữ tượng trưng
    Ðó là các từ ngữ có hàm nghĩa tựng trưng văn hóa, ngoài chức việc định danh ra, các từ ngữ gợi lên một sự liên tưởng nào đó. Ví dụ trong tiếng Việt, từ "con rồng" ngoài chức năng định danh là chỉ một con vật tưởng tượng ra, là biểu tượng của nhà vua thời xưa và tượng trưng của dân tộc Việt. Người Việt thường tự nhận là con rồng cháu tiên. Người Trung Hoa cũng thường nhận là con cháu của Rồng. Nhưng trong các tiếng Tây phương , Dragon (rồng) lại không có nghĩa đẹp như vậy. Ðó chỉ là con vật huyền thoại rất hung ác, luôn luôn làm hại con người. Bởi thế người Tây phương không hiểu tại sao tại sao người Việt, người Trung Hoa lại sùng bái một con ác thú như thế!
    Trong Hán ngữ con bò vàng già (lão hoàng ngưu) là chỉ tượng trưng những người làm việc cần cù, có góp công sức lớn lao và không bao giờ khoe khoang, là một danh hiệu rất quý Nhưng trong tiếng Việt, con bò là một biểu tượng cho ngu đần. Người ta nói: ngu như bò; đầu bò đầu bướu (bướng bỉnh, ngang ngạnh) con bò vàng già chỉ là người già yếu chậm chạp ngu dốt. Trong khi đó để chỉ người kém thông minh, người Mỹ nói: óc nó nhỏ như hạt đậu (bean).
    Ngôn ngữ Việt , tiếng lóng dê có nghĩa không đẹp, dùng để chỉ đàn ông đa dâm: nó có máu dê, nó là dê cụ, dê xồm! Nhưng trong Hán ngữ thì dê và cừu là hình ảnh dịu hiền, rất dễ thương. Ngoài ra vì đồng âm với dương (trái với Âm) và cùng vần với chữ may mắn, nên người Trung Hoa xem con dê và cừu là tượng trủng cho may mắn.
    Người Việt và Trung Hoa cho con chim khách là biểu tượng cho điềm lành, tin rằng nó đem đến tin vui. Người Âu Tây hình ảnh chim khách không quý báu gì, ở nước Nga người ta cho loại chim này là tượng trưng cho kẻ đâm bị thóc, chọc bị gạo và kẻ trộm.
    2.Hình thức tôn kính
    Ở Á Ðông như Nhật, Cao Ly và Tây tạng có hình thức nói và viết tôn kính đối với những bậc tu hành, lãnh đạo... Hình thức này được biến cải ngay vào trong ngôn ngữ. Ở Việt Nam và Trung Hoa không có lối viết như thế, nhưng dùng những từ đặt thêm vào để bày tỏ lòng quý trọng tôn kính. Ví dụ tiên sinh, tiền bôí; ông anh, đàn anh. Riêng Việt Nam có những có những chữ không dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp được, để bày tỏ kính trọng người hơn mình về tuổi tác, học vấn, tư tưởng... Ðó là thưa, trình, bẩm, ở đầu câu và ạ ở cuối câu. Người Mỹ chỉ có từ Sir và Mam đặt ở cuối hoặc đầu câu để bày tỏ sự tôn kính thôi.
    3.Con số
    Ngôn ngữ nào cũng phải có số đếm, nhưng có vài con số có những hàm nghĩa đặc biệt.
    Chính con số không có gì thần bí, nhưng từ chỗ sùng bái linh vật về ngôn ngữ, người ta đi đến sùng bái về con số. Người ta cho rằng có những số lành, may mắn, có những số dữ, xui xẻo.
    Ví dụ ở các nước phương Tây, số 13 bị coi là số xấu, người ta luôn luôn kiêng và cố lẩn tránh con số này Ở các nhà lầu, ngườii ta không lấy số 13, các bệnh viện và giường bệnh số 13; trên máy bay xe lửa và ở mỗi hàng ghế đều không có ghế số 13. Người ta tiến hành những việc quan trọng cũng cố tránh ngày 13. Nhưng ở Việt Nam và Trung Hoa lại không tin như thế. Một vài tỉnh ở Trung Quốc người ta cho các số 3, 6, 9 là số đẹp, chọn những ngày 3, 6, 9, 13, 16, 26, 29 âm lịch làm lễ cưới. Ở Nhật, người ta cho số 4 là xấu, vì tiếng Nhật số 4 đọc lên nghe gần như chết (Xi = tứ, xi = tử) nên người Nhật thường kiêng số này. Nhiều bệnh viện Nhật không có tầng số 4, phòng số 4 và giường số 4. Tiếng trung Hoa cũng như vậy, tứ đọc lên theo phương ngữ nào nghe cũng gần giống với tử, nên nhiêu bệnh nhân nằm bệnh viên kiêng số đó. Ngay cả số điện thoại, người ta cũng không thích số 4. Gần đây vì ảnh hưởng Hương Cảng và Quảng Ðông, họ rất chuộng con số 8. Bát đọc lên gần như phát (tài), nên người ta rất thích số 8, nếu có số 168 là nhất lộ (lục) phát hay 598 đọc như ngã cửu phát (ngũ cửu bát) = tôi phát tài được lâu. Ở Việt Nam, người ta có quan niệm riêng về các con số, coi số lẻ là tốt đẹp. Làm đám cưới cũng có thói quen chọn ngày, có người kiêng ngày 3 và ngày 7, vì đã có câu: Chớ đi ngày bảy, chớ về ngày ba. Nhưng so với hai nước nói trên, quan niệm lành dữ về con số của người Việt vẫn nhẹ hơn. Người Việt chuộng nhất số 9 và kỵ nhất số l0, gọi là số bù, bảng số xe các loại, họ đều thích có số 9, hoặc cộng lại số thành là 9.
    4. Từ ngữ chỉ màu sắc
    Màu sắc có ảnh hưởng đến tâm lý con người điều đó đã được công nhận. Trong ngôn ngữ, các từ ngữ chỉ màu sắc có thể phản ảnh được tâm lý văn hóa dân tộc. Cho nên các từ ngữ chỉ màu sắc thường có nghĩa tượng trưng văn hóa rất phong phú.
    Từ xưa, người Việt chịu ảnh hưởng Trung Hoa có quan niệm tôn sùng màu vàng, vì từ đời Hán, lấy năm sắc tượng trưng cho ngũ hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ và ngũ phương là Ðông, Tây, Nam, Bắc. Vàng là tượng trưng cho Thổ và Trung ương và là màu của vương quyền. Từ đời Hán trở xuống, các nhà vua đều mặc áo vàng, và đó là độc quyền của nhà vua.
    Nhưng từ hơn chục năm nay, màu vàng lại có nghĩa tượng trưag cho khiêu dâm, dâm ô, vì mấy chữ điện ảnh màu vàng nghĩa là phim ảnh khiêu dâm; phòng khiêu vũ màu vàng, băng hình màu vàng là cùng nghĩa dó. Ở Việt Nam thì coi nhẹ hơn , nhạc vàng có nghĩa là nhạc buồn ủy mị, lãng mạn. Người Á đông cũng thích màu đỏ, cho đó là tượng trưng cho sự may mắn, hạnh phúc, vui vẻ, thành đạt. Vào các dịp ngày Tết, ngày lễ lớn thường treo câu đối đỏ, thắp nến đỏ... Ở Trung Hoa còn treo đèn ***g đỏ, trong đám cươi cô dâu mặc toàn màu đỏ, trang hoàng trong nhà toàn bằng màu đỏ. Trái lại ở Tây phương, cô dâu mặc bộ áo cưới màu trắng, họ cho rằng màu trắng tương trưng cho sự trong sạch, tinh khiết của cô dâu. Nhưng ở Trung Hoa dân gian lại kiêng màu trắng trong đám cuới, vì họ vẫn coi màu trắng là màu tang tóc. Người Á đông không thích màu đen cho rằng đó là vận không may, số đen, đen đủi trong khi vẫn có nhiều người Tây phương thích sơn cửa màu đen cổ điển.
    Các từ ngữ văn hóa còn rất nhiều, như những chữ kiêng kỵ, thành ngữ, tục ngữ, ca dao, tiếng lóng v. v.. Ví dụ một từ có cùng nghĩa nhưng lại thay đổi, hay thêm bớt nghĩa, tùy theo cáh dùng, cách đặt câu của từng quốc gia. Như từ nóng = chaud = hot của Việt, Pháp và Anh. Nóng của Việt Nam giống như hot của Anh có nghĩa nữa là nóng nảy; mới tinh, nhưng tiếng Anh còn thêm nghĩa là cay (hot pepper). Chaud (e), chaleur của Pháp là nóng, nhưng nếu nhầm lẫn nói một người đàn bà đang "en chaleur'' thì thật là nguy hiểm!
    Những điểm nói trên cho thấy yếu tố văn hóa có vai trò quan trọng trong giao thiệp, tiếp xúc đặc biệt là trong tiếp xúc văn hóa. Ðây cũng là vấn đề ngôn ngữ và vấn đề bối cảnh văn hóa. Chú tâm đến khía cạnh văn hóa khi nghiên cứu ngôn ngữ là cần thiết và là cách tìm hiểu mới, một địa hạt mới trong ngôn ngữ học.
    Vài chục năm nay, ở Mỹ, Nga, Trung Quốc, các nhà ngôn ngữ học đã làm nhiều việc nghiên cứu ngôn ngữ qua văn hóa và thu được một số thành quả. Chẳng hạn muốn học một ngoại ngữ, cần phải học qua về văn hóa của thứ tiếng đó. Ðặc biệt là phải hiểu phong tục, tập quán, sử, địa... của nước đó. Họ nghiên cứu các mặt ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng, ngữ nghĩa để kết hợp ngôn ngữ với các ngành khoa học xã hội khác và từ đó tạo dựng một số môn học liên ngành, trong đó có môn ngôn ngữ văn hóa (Cultural linguistics).
    bài trên đã post, nhưng tôi chuyển xuông dưới để ở đầu làm một số mục
  4. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Tại sao một số thành ngữ,
    tục ngữ lại khó hiểu?

    HUỆ THIÊN



    Trong bài «Câu đối, nội dung của nó»,[1] Phan Ngọc đã có một phát hiện độc đáo: «Thành ngữ và tục ngữ phải học tập lối diễn đạt của thần linh để cho nó trở thành chân lý muôn thuở.» [2] Và một trong những «mánh khoé» (từ dùng của Phan Ngọc) để làm cho ngôn ngữ của thành ngữ, tục ngữ trở thành thiêng liêng là «hình thức phải hết sức giản dị, chữ nghĩa phải hết sức dễ hiểu, nhưng nội dung lại khó giải thích, bởi vì những chữ đơn giản này ghép với nhau theo một kiểu xa lạ so với ngữ pháp hàng ngày»,[3] tức là một kiểu ngữ pháp khó hiểu, «nhưng chính vì khó hiểu mà làm bá chủ trong thành ngữ để cấp cho thành ngữ sắc thái ngôn ngữ của thần linh.» [4]

    Về luận điểm trên đây của Phan Ngọc, chúng tôi (dưới bút hiệu An Chi) đã có nhận xét như sau: «Chúng tôi không tin rằng cá nhân hoặc cộng đồng đã lựa chọn (...) hoặc sáng tác những thành ngữ bốn tiếng (mà Phan Ngọc đề cập) lại muốn tự biến mình thành những thầy phù thuỷ bằng cách cấp cho chúng sắc thái ngôn ngữ của thần linh. Họ càng không muốn làm cho chúng trở nên khó hiểu bằng cách biến chúng thành những giáo điều của một thứ học thuyết hay tôn giáo bí truyền (...) Vậy những thành ngữ hữu quan không phải là khó hiểu ngay từ đầu mà chỉ trở nên khó hiểu theo thời gian. Chỗ khó hiểu của chúng: một là với thời gian, một số trong những tiếng cấu thành chúng đã trở thành từ cổ; hai là chúng đã bị tách khỏi hoàn cảnh lịch sử-xã hội trong đó chúng đã ra đời; và ba là chúng đã bị từ nguyên dân gian làm cho méo mó.» [5] Do tính chất và khuôn khổ của bài nên lúc đó chúng tôi đã không có điều kiện để phân tích những nguyên nhân trên đây và cũng chưa nêu hết những nguyên nhân còn lại. Trong bài này, chúng tôi xin bổ sung thêm ba nguyên nhân nữa như sau; bốn là phương thức cấu tạo chúng đã không còn được nhận ra nữa nên người ta cảm thấy chúng kỳ quặc hoặc bí hiểm; năm là đã xảy ra hiện tượng mà Pierre Guiraud gọi là những sự cố ngôn ngữ; và sáu là một số thành ngữ đã bị người viết văn thời nay làm cho dị dạng so với hình thái gốc nên mới trở thành kỳ quái. Dưới đây chúng tôi xin lần lượt phân tích từng nguyên nhân một.

    1. Trong quá trình phát triển của từ vựng, một số từ đã bị đào thải hoặc bị thay thế bằng những từ khác. Vì vậy mà chúng không còn được sử dụng trong lời ăn tiếng nói hằng ngày nữa. Một số thì chắc chắn là đã tuyệt tích; số khác thì hãy còn lưu lại dấu tích nơi một số tổ hợp cố định trong đó có những thành ngữ, tục ngữ. Thí dụ: «vóc» trong «ăn vóc học hay». Phan Ngọc đã mặc nhận rằng đây là một danh từ có nghĩa là «thân hình to lớn»,[6] nhưng ông lại lâm vào tình thế tự mâu thuẫn với mình vì đã cho rằng «ăn vóc» có quan hệ ngữ pháp giống hệt như «học hay» trong đó «hay» hiển nhiên là một tính từ. «Hay» đã là tính từ thì «vóc» cũng phải thuộc từ loại đó chứ không thể nào khác được vì chính Phan Ngọc đã hăng hái đề cao «ngữ pháp của đối xứng». Nguyễn Lân thì mặc nhận rằng «vóc» là một tính từ và cho rằng nó có nghĩa là ít. vậy «ăn vóc học hay» có nghĩa là ăn ít mà học giỏi.[7] Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Văn Hành chủ biên thì cho rằng đó là một từ đã được chuyển nghĩa, từ chỗ chỉ thân thể sang chỗ chỉ đặc tính khoẻ mạnh của con người và «ăn vóc» có nghĩa là ăn khoẻ. Thực ra, vóc là một từ Việt gốc Hán ?" và đúng là một tính từ ?" bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ f mà âm Hán Việt hiện đại là úc, có nghĩa là thơm, ngon. Vậy tất nhiên là vóc cũng có cùng nghĩa đó và «ăn vóc» tất nhiên có nghĩa là ăn ngon. Nếu người ta biết thêm rằng vóc trong vóc dáng cũng là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ mà âm Hán Việt hiện đại cũng là úc, có nghĩa là dáng dấp, dung mạo, thì người ta sẽ dễ dàng thấy rằng (ăn) vóc ~ úc f (= thơm, ngon) không phải là một điều do suy luận chủ quan mà ra: Khi mà hai từ đồng âm, trong quá trình biến đổi ngữ âm, lại tiếp tục trở thành hai từ đồng âm khác, thì sự biến đổi đó rõ ràng là một sự biến đổi có quy luật. Huống chi úc ~ vóc lại là những hình thanh tự (f) có cùng thanh phù là o?. Tóm lại, vóc trong «ăn vóc học hay» là một từ cổ và từ cổ này có nghĩa là thơm, ngon. Vậy «ăn vóc học hay» không có nghĩa nào khác hơn là ăn ngon, học giỏi. Đây là một thành ngữ dùng để nói về những người học trò mà cái sự học xứng đáng với cái sự ăn, nghĩa là sự dùi mài kinh sử xứng đáng với sự nuôi nấng chu đáo của cha mẹ.

    Sau đây là một thí dụ khác về từ cổ trong thành ngữ: «thiết» trong «đau thiết, thiệt van». Vì không rõ nghĩa của từ «thiết» nên Nguyễn Lân đã phải suy diễn theo chủ quan mà giảng câu đó là «Khi đau thì bản thân mình cảm thấy, còn khi bị thiệt thì phải yêu cầu người khác xét cho». Cứ như trên thì, theo tác giả, «thiết» là «tự mình cảm thấy». Thực ra đây là một biến thể ngữ âm của «siết» trong «rên siết» và là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 叱 mà âm Hán Việt hiện đại là sất (Xin chú ý rằng sất 叱 là một hình thanh tự mà thanh phù là f, cũng là thanh phù cho chữ thiết ^?), có nghĩa là la, hét. Bản thân từ «thiết» cũng có biến thể ngữ âm nữa là «thét», sụ tương ứng âm vị sất (~ siết ~ thiết) ~ thét ở đây còn được xác nhận bằng truờng hợp của tiếng Hán ghi bằng S mà Hán Việt hiện đại cũng là sất, có nghĩa là đánh bằng roi mà âm xưa cũng là «thét» như có thể thất trong Chinh phụ ngâm, câu 24: Thét roi cầu Vị ào ào gió thu.[8]

    Vậy «thiết» có nghĩa là ... thét, la hét và «đau thiết, thiệt van» có nghĩa là đau thì rên rỉ mà thiệt thì năn nỉ.

    Khá đặc biệt là trường hợp của từ «tai» trong «đầu cua, tai nheo». Hầu như mọi người đều hiểu «tai» ở đây là cơ quan của thính giác trong khi thực ra nó lại có nghĩa là cái mang của con cá. Đó là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ " mà âm Hán Việt hiện đại cũng là ... tai vì thiết âm của nó là «tô lai thiết» ~??^? hoặc «tang tài thiết» '?^? (xem Khang Hy tự điển), có nghĩa là mang cá. Âm và nghĩa đang xét đã được chứng thực một cách không thể nào phủ nhận được bằng một câu trong Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa: «Lô cư cá vức bốn tai.» [9] Theo kết cấu của quyển từ vựng Hán Việt đối chiếu này thì «lô cư» là từ được giảng còn lời giảng là «cá vức bốn tai». Cá vức bốn tai ở đây chẳng phải gì khác hơn là con cá vức có bốn mang mà tiếng Hán cũng còn gọi một cách cụ thể là «tứ tai lô» >>"鱸 (cá lô bốn mang) như đã được ghi nhận trong Từ nguyên và Từ hải. Đặc biệt, Từ hải đã giảng «tứ tai lô» như sau: «Một loại cá lô, dài khoảng bốn, năm tấc (tấc Tàu ?" HT), miệng rộng, đầu to, hai cái mang bành rộng ra, để lộ những đường vân đỏ tía, tựa như là có bốn mang (tứ tai) cho nên gọi là cá lô bốn mang (tứ tai lô), tục gọi là cá bốn mang (tứ tai ngư).» Từ hải còn dẫn thêm Chính tự thông như sau: «Cá lô ở mọi nơi đều [chỉ có] hai mang (lưỡng tai), riêng cá lô Tùng Giang thì [có] bốn mang (tứ tai).» Đã rõ «tai» ở đây là mang cá và «tai nheo» tất nhiên là mang của cá nheo.

    «Trăm» trong «trăm hay không bằng tay quen» cũng là một từ cổ thường bị hiểu nhầm là mười lần mười. Thực ra đây là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 譫mà âm Hán Việt hiện đại là chiêm, có nghĩa là nói nhiều, nói liến thoắng hoặc nói sảng trong khi bệnh. Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên đã giảng rằng trăm là một từ thuộc tiếng địa phương có nghĩa là «nói nhanh một thứ tiếng nước ngoài». A. de Rhodes cũng có ghi nhận từ này (dưới dạng tlăm) trong Từ điển An Nam - Bồ Đào Nha - La Tinh và giảng rằng: «Tlăm tiếng, nói tlăm tiếng» là «falar muitas linguas» (BĐN), «variis linguis loqui» (LT), nghĩa là nói nhiều thứ tiếng. Vậy «trăm» là nói nhiều và nhanh. Nghĩa này của nó còn được bằng câu «trăm hay xoay vào lòng» mà Nguyễn Lân giảng là «người nào cũng nghĩ rằng mình hay, mình giỏi» (có lẽ vì cho rằng một trăm cái hay của cá nhân đều được ghi gói kỹ trong lòng của đương sự chăng?). Câu này thực ra có nghĩa là hễ khéo nói thì dễ gây được lòng tin nơi người khác. Từ trên đây suy ra, «trăm hay không bằng tay quen» có nghĩa là nói lý thuyết suông dù có hay đến đâu cũng không bằng thực hành thông thạo.

    Vậy nguyên nhân thứ nhất làm cho một số thành ngữ trở nên khó hiểu là một số từ ngữ mà chúng bao hàm đã trở thành những từ cổ, từ lâu không còn được sử dụng trong lời ăn tiếng nói của người đương đại. Đây không chỉ là đặc điểm riêng của một số thành ngữ, tục ngữ mà còn là đặc điểm chung của nhiều từ ghép đẳng lập mà nhiều nhà nghiên cứu xếp vào hàng từ láy chỉ vì chúng gồm có một âm tiết (thậm chí cả hai âm tiết) mà chính họ không biết được nghĩa. Các yếu tố này tạo thành một lãnh vực hãy còn bị bỏ hoang vì chúng thực sự chưa được các nhà nghiên cứu ngó ngàng đến một cách nghiêm túc trong khi một số nhà thì lao vào lãnh vực của từ láy một cách quá nhiệt thành. Thật là chưa công bằng và cân bằng.

  5. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Tại sao một số thành ngữ,
    tục ngữ lại khó hiểu?

    HUỆ THIÊN



    Trong bài «Câu đối, nội dung của nó»,[1] Phan Ngọc đã có một phát hiện độc đáo: «Thành ngữ và tục ngữ phải học tập lối diễn đạt của thần linh để cho nó trở thành chân lý muôn thuở.» [2] Và một trong những «mánh khoé» (từ dùng của Phan Ngọc) để làm cho ngôn ngữ của thành ngữ, tục ngữ trở thành thiêng liêng là «hình thức phải hết sức giản dị, chữ nghĩa phải hết sức dễ hiểu, nhưng nội dung lại khó giải thích, bởi vì những chữ đơn giản này ghép với nhau theo một kiểu xa lạ so với ngữ pháp hàng ngày»,[3] tức là một kiểu ngữ pháp khó hiểu, «nhưng chính vì khó hiểu mà làm bá chủ trong thành ngữ để cấp cho thành ngữ sắc thái ngôn ngữ của thần linh.» [4]

    Về luận điểm trên đây của Phan Ngọc, chúng tôi (dưới bút hiệu An Chi) đã có nhận xét như sau: «Chúng tôi không tin rằng cá nhân hoặc cộng đồng đã lựa chọn (...) hoặc sáng tác những thành ngữ bốn tiếng (mà Phan Ngọc đề cập) lại muốn tự biến mình thành những thầy phù thuỷ bằng cách cấp cho chúng sắc thái ngôn ngữ của thần linh. Họ càng không muốn làm cho chúng trở nên khó hiểu bằng cách biến chúng thành những giáo điều của một thứ học thuyết hay tôn giáo bí truyền (...) Vậy những thành ngữ hữu quan không phải là khó hiểu ngay từ đầu mà chỉ trở nên khó hiểu theo thời gian. Chỗ khó hiểu của chúng: một là với thời gian, một số trong những tiếng cấu thành chúng đã trở thành từ cổ; hai là chúng đã bị tách khỏi hoàn cảnh lịch sử-xã hội trong đó chúng đã ra đời; và ba là chúng đã bị từ nguyên dân gian làm cho méo mó.» [5] Do tính chất và khuôn khổ của bài nên lúc đó chúng tôi đã không có điều kiện để phân tích những nguyên nhân trên đây và cũng chưa nêu hết những nguyên nhân còn lại. Trong bài này, chúng tôi xin bổ sung thêm ba nguyên nhân nữa như sau; bốn là phương thức cấu tạo chúng đã không còn được nhận ra nữa nên người ta cảm thấy chúng kỳ quặc hoặc bí hiểm; năm là đã xảy ra hiện tượng mà Pierre Guiraud gọi là những sự cố ngôn ngữ; và sáu là một số thành ngữ đã bị người viết văn thời nay làm cho dị dạng so với hình thái gốc nên mới trở thành kỳ quái. Dưới đây chúng tôi xin lần lượt phân tích từng nguyên nhân một.

    1. Trong quá trình phát triển của từ vựng, một số từ đã bị đào thải hoặc bị thay thế bằng những từ khác. Vì vậy mà chúng không còn được sử dụng trong lời ăn tiếng nói hằng ngày nữa. Một số thì chắc chắn là đã tuyệt tích; số khác thì hãy còn lưu lại dấu tích nơi một số tổ hợp cố định trong đó có những thành ngữ, tục ngữ. Thí dụ: «vóc» trong «ăn vóc học hay». Phan Ngọc đã mặc nhận rằng đây là một danh từ có nghĩa là «thân hình to lớn»,[6] nhưng ông lại lâm vào tình thế tự mâu thuẫn với mình vì đã cho rằng «ăn vóc» có quan hệ ngữ pháp giống hệt như «học hay» trong đó «hay» hiển nhiên là một tính từ. «Hay» đã là tính từ thì «vóc» cũng phải thuộc từ loại đó chứ không thể nào khác được vì chính Phan Ngọc đã hăng hái đề cao «ngữ pháp của đối xứng». Nguyễn Lân thì mặc nhận rằng «vóc» là một tính từ và cho rằng nó có nghĩa là ít. vậy «ăn vóc học hay» có nghĩa là ăn ít mà học giỏi.[7] Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Văn Hành chủ biên thì cho rằng đó là một từ đã được chuyển nghĩa, từ chỗ chỉ thân thể sang chỗ chỉ đặc tính khoẻ mạnh của con người và «ăn vóc» có nghĩa là ăn khoẻ. Thực ra, vóc là một từ Việt gốc Hán ?" và đúng là một tính từ ?" bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ f mà âm Hán Việt hiện đại là úc, có nghĩa là thơm, ngon. Vậy tất nhiên là vóc cũng có cùng nghĩa đó và «ăn vóc» tất nhiên có nghĩa là ăn ngon. Nếu người ta biết thêm rằng vóc trong vóc dáng cũng là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ mà âm Hán Việt hiện đại cũng là úc, có nghĩa là dáng dấp, dung mạo, thì người ta sẽ dễ dàng thấy rằng (ăn) vóc ~ úc f (= thơm, ngon) không phải là một điều do suy luận chủ quan mà ra: Khi mà hai từ đồng âm, trong quá trình biến đổi ngữ âm, lại tiếp tục trở thành hai từ đồng âm khác, thì sự biến đổi đó rõ ràng là một sự biến đổi có quy luật. Huống chi úc ~ vóc lại là những hình thanh tự (f) có cùng thanh phù là o?. Tóm lại, vóc trong «ăn vóc học hay» là một từ cổ và từ cổ này có nghĩa là thơm, ngon. Vậy «ăn vóc học hay» không có nghĩa nào khác hơn là ăn ngon, học giỏi. Đây là một thành ngữ dùng để nói về những người học trò mà cái sự học xứng đáng với cái sự ăn, nghĩa là sự dùi mài kinh sử xứng đáng với sự nuôi nấng chu đáo của cha mẹ.

    Sau đây là một thí dụ khác về từ cổ trong thành ngữ: «thiết» trong «đau thiết, thiệt van». Vì không rõ nghĩa của từ «thiết» nên Nguyễn Lân đã phải suy diễn theo chủ quan mà giảng câu đó là «Khi đau thì bản thân mình cảm thấy, còn khi bị thiệt thì phải yêu cầu người khác xét cho». Cứ như trên thì, theo tác giả, «thiết» là «tự mình cảm thấy». Thực ra đây là một biến thể ngữ âm của «siết» trong «rên siết» và là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 叱 mà âm Hán Việt hiện đại là sất (Xin chú ý rằng sất 叱 là một hình thanh tự mà thanh phù là f, cũng là thanh phù cho chữ thiết ^?), có nghĩa là la, hét. Bản thân từ «thiết» cũng có biến thể ngữ âm nữa là «thét», sụ tương ứng âm vị sất (~ siết ~ thiết) ~ thét ở đây còn được xác nhận bằng truờng hợp của tiếng Hán ghi bằng S mà Hán Việt hiện đại cũng là sất, có nghĩa là đánh bằng roi mà âm xưa cũng là «thét» như có thể thất trong Chinh phụ ngâm, câu 24: Thét roi cầu Vị ào ào gió thu.[8]

    Vậy «thiết» có nghĩa là ... thét, la hét và «đau thiết, thiệt van» có nghĩa là đau thì rên rỉ mà thiệt thì năn nỉ.

    Khá đặc biệt là trường hợp của từ «tai» trong «đầu cua, tai nheo». Hầu như mọi người đều hiểu «tai» ở đây là cơ quan của thính giác trong khi thực ra nó lại có nghĩa là cái mang của con cá. Đó là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ " mà âm Hán Việt hiện đại cũng là ... tai vì thiết âm của nó là «tô lai thiết» ~??^? hoặc «tang tài thiết» '?^? (xem Khang Hy tự điển), có nghĩa là mang cá. Âm và nghĩa đang xét đã được chứng thực một cách không thể nào phủ nhận được bằng một câu trong Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa: «Lô cư cá vức bốn tai.» [9] Theo kết cấu của quyển từ vựng Hán Việt đối chiếu này thì «lô cư» là từ được giảng còn lời giảng là «cá vức bốn tai». Cá vức bốn tai ở đây chẳng phải gì khác hơn là con cá vức có bốn mang mà tiếng Hán cũng còn gọi một cách cụ thể là «tứ tai lô» >>"鱸 (cá lô bốn mang) như đã được ghi nhận trong Từ nguyên và Từ hải. Đặc biệt, Từ hải đã giảng «tứ tai lô» như sau: «Một loại cá lô, dài khoảng bốn, năm tấc (tấc Tàu ?" HT), miệng rộng, đầu to, hai cái mang bành rộng ra, để lộ những đường vân đỏ tía, tựa như là có bốn mang (tứ tai) cho nên gọi là cá lô bốn mang (tứ tai lô), tục gọi là cá bốn mang (tứ tai ngư).» Từ hải còn dẫn thêm Chính tự thông như sau: «Cá lô ở mọi nơi đều [chỉ có] hai mang (lưỡng tai), riêng cá lô Tùng Giang thì [có] bốn mang (tứ tai).» Đã rõ «tai» ở đây là mang cá và «tai nheo» tất nhiên là mang của cá nheo.

    «Trăm» trong «trăm hay không bằng tay quen» cũng là một từ cổ thường bị hiểu nhầm là mười lần mười. Thực ra đây là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 譫mà âm Hán Việt hiện đại là chiêm, có nghĩa là nói nhiều, nói liến thoắng hoặc nói sảng trong khi bệnh. Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên đã giảng rằng trăm là một từ thuộc tiếng địa phương có nghĩa là «nói nhanh một thứ tiếng nước ngoài». A. de Rhodes cũng có ghi nhận từ này (dưới dạng tlăm) trong Từ điển An Nam - Bồ Đào Nha - La Tinh và giảng rằng: «Tlăm tiếng, nói tlăm tiếng» là «falar muitas linguas» (BĐN), «variis linguis loqui» (LT), nghĩa là nói nhiều thứ tiếng. Vậy «trăm» là nói nhiều và nhanh. Nghĩa này của nó còn được bằng câu «trăm hay xoay vào lòng» mà Nguyễn Lân giảng là «người nào cũng nghĩ rằng mình hay, mình giỏi» (có lẽ vì cho rằng một trăm cái hay của cá nhân đều được ghi gói kỹ trong lòng của đương sự chăng?). Câu này thực ra có nghĩa là hễ khéo nói thì dễ gây được lòng tin nơi người khác. Từ trên đây suy ra, «trăm hay không bằng tay quen» có nghĩa là nói lý thuyết suông dù có hay đến đâu cũng không bằng thực hành thông thạo.

    Vậy nguyên nhân thứ nhất làm cho một số thành ngữ trở nên khó hiểu là một số từ ngữ mà chúng bao hàm đã trở thành những từ cổ, từ lâu không còn được sử dụng trong lời ăn tiếng nói của người đương đại. Đây không chỉ là đặc điểm riêng của một số thành ngữ, tục ngữ mà còn là đặc điểm chung của nhiều từ ghép đẳng lập mà nhiều nhà nghiên cứu xếp vào hàng từ láy chỉ vì chúng gồm có một âm tiết (thậm chí cả hai âm tiết) mà chính họ không biết được nghĩa. Các yếu tố này tạo thành một lãnh vực hãy còn bị bỏ hoang vì chúng thực sự chưa được các nhà nghiên cứu ngó ngàng đến một cách nghiêm túc trong khi một số nhà thì lao vào lãnh vực của từ láy một cách quá nhiệt thành. Thật là chưa công bằng và cân bằng.

  6. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    2. Nguyên nhân thứ hai làm cho một số thành ngữ trở nên khó hiểu là chúng đã bị tách khỏi cái môi trường cụ thể và riêng biệt của ngành nghề có liên quan để trở thành những lối nói chung của toàn thể xã hội mà phần đông thì lại không biết hoặc không chú ý đến đặc điểm của hoạt động đã góp phần sản sinh ra chúng.

    Chẳng hạn, «sạch nước cản» là một lối nói của thuật đánh cờ, trong đó ba từ tạo thành đều vẫn còn thông dụng và dễ hiểu trong ngôn ngữ hiện nay. «Sạch» là sành, rành. «Sạch đời» là sành đời. «Nước» là sự lựa chọn bước đi cho con bài hoặc con cờ trong một thế bài hay thế cờ. «Sạch nước» là lối nói của dân cờ bạc để chỉ trình độ của những con bạc mới rành các nước bài chứ chưa được cao tay. «Cản» là ngăn chặn. «Sạch nước cản» là chỉ mới biết cản những nước tấn của đối phương trong một trận cờ chứ chưa phải đã là tay cao thủ. Chỉ vì không phải tất cả mọi người ai cũng là tay mê cờ hoặc rành cờ nên khi nghe nói đến «sạch nước cản» thì nhiều người mới hiểu «sạch» phản nghĩa với «bẩn», «nước» là chất lỏng không màu, không mùi, không vị và trong suốt, ? còn «cản» thì chỉ là một cái gì mơ hồ, rồi hiểu chung chung «sạch nước cản» là trông cũng tàm tạm để nói về nhan sắc của con gái hoặc phụ nữ.

    «Già kén kẹn hom» là một lối nói của nghề nuôi tằm. Đây là một câu đúc kết kinh nghiệm mà mục đích là nhắc nhở người nuôi tằm chớ để cho kén quá già, vì nếu kén quá già thì sẽ kẹn, nghĩa là không róc ra khỏi hom, tức là những thanh tre ngang dọc đan ken vào nhau để làm thành cái né tằm. câu này từ lâu đã bị tách khỏi nghề nuôi tằm nên không còn được hiểu đúng với ý nghĩa ban đầu của nó nữa. Ngày nay, người ta hiểu «già kén» là kén chọn quá lâu ngày, rồi không cần biết «kẹn hom» có nghĩa chính xác và cụ thể là gì, người ta hiểu chung chung cả câu thành ngữ là hễ kén chọn quá lâu thì sẽ dở dang hoặc không mãn nguyện trong hôn nhân.

    «Mài mực ru con, mài son đánh giặc» chủ yếu là một lối nói của nho sĩ và quan lại thời xưa, là những người thường dùng mực để viết và dùng son để phê bài của học trò hoặc phê công văn giấy tờ. Mực so với son thì dễ mài hơn nhiều vì son ngày xưa là một thứ đá rắn màu đỏ (chứ không phải là thứ sáp trơn để thoa môi như ngày nay) nên khó mài và mài lâu hơn. Câu này thực ra chỉ so sánh việc mài son với việc mài mực: việc sau thì êm nhẹ còn việc trước thì tốn công hơn. Chỉ vì nhà nho trớ trêu đã so sánh việc mài mực với việc ru con (êm ái) và việc mài son với việc đánh giặc (cực nhọc hơn) nên mới khiến cho Nguyễn Lân phải giảng câu đó như sau: «Nói các ông đồ ngày xưa ngày thường ngồi dạy học đồng thời giúp vợ làm việc vặt trong nhà, nhưng khi có giặc thì tham gia phục vụ quân sự.» Thật là một lời giảng hoàn toàn phản thực tế. Có thơ mộng lắm thì cũng chỉ là «Bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ» chứ làm gì có chuyện các ông đồ ngày xưa lại sẵn sàng và có dư thì giờ mà giúp đỡ các vị phu nhân trong việc ru con và các việc vặt ở nhà. Việc tham gia phục vụ quân sự cũng chẳng phải là phần của các ông. Nhưng vấn đề là ở chỗ người giảng đã không thấy được những hình thức so sánh trong câu cần giảng.

    Cũng Nguyễn Lân đã giảng câu «quyền thằng hủi» như sau: «Trong xã hội cũ, người bị bệnh phong bị xã hội ruồng bỏ. Ý nói: chẳng có quyền hành gì.» Thật là một sự nhầm lẫn tai hại. Trong quyển từ điển của Nguyễn Lân, câu đang xét được xếp sau các câu «quyền cao chức trọng»; «quyền huynh thế phụ»; «quyền thu, quyền phát»; «quyền rơm, vạ đá»; «quyền sinh, quyền sát». Có lẽ do «phản ứng dây chuyền» nên tác giả đã đánh đồng «quyền thằng hủi» với những thứ quyền có tính chất hành chính hoặc pháp lý kia chăng? Thực ra, «quyền» ở đây là cái nắm tay, cái nắm đấm, chữ Hán là <, còn được dùng theo hoán dụ để chỉ võ thuật nữa (quyền Anh, Thái cực quyền, ?). Cái nắm tay của thằng hủi không có ngón thì đấm thế nào được ! Vậy «quyền thằng hủi» là một lối nói của dân nhà nghề chê các tay võ kém cỏi. Nói rộng ra, thì nó dùng để chê chung những kẻ bất tài mà lại nắm (bằng cái bàn tay không ngón !) những cương vị chuyên môn «ngon lành».

    Nguyễn Lân cũng tiếp tục nhầm lẫn khái niệm mà giảng câu «thứ nhất thả cá, thứ nhì gá bạc» như sau: «Việc thả cá có lợi là đúng và cần khuyến khích, còn gá bạc thì ngày nay là một tội phạm, vì đó là một việc làm ăn bất chính.» Nhưng chẳng có lẽ việc «thả cá» ở đây lại là một việc làm ăn chân chính? «Thả cá» ở đây thực ra là «thách cá, nói trong một độ gà chọi hay ác lia thia, sau khi xem ?" xét kỹ lưỡng ?" con vật rồi, những người cầm chắc con của mình chọn sẽ thắng, bèn thách mọi người bắt số tiền cá của mình.» (Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ, Việt Nam tự điển). Vậy từ tổ «thả cá» theo cách hiểu của Nguyễn Lân (xin ghi là thả cá 1) chỉ là đồng âm với từ tổ «thả cá» trong câu đang xét (xin ghi là thả cá 2). Vì không biết đến từ tổ sau nên Nguyễn Lân mới xếp việc thả cá 1 cùng một ca-tê-gô-ri với việc gá bạc, mà lại cho nó đứng hàng thứ nhất nữa ! Không hiểu nhà nông làm cái công việc thứ hai trong công thức VAC [*] có muốn kêu nài gì hay không ?

    Lại cũng trong «nghề» cờ bạc, còn có một lối nói liên đới với «thả cá 2» là «bắt cá» (xin ghi là «bắt cá 2») mà cũng Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ giảng là «nhận đánh cuộc». Đây chính là từ tổ cố định thấy được trong thành ngữ «bắt cá hai tay» mà Vương Hồng Sển đã giảng rất đúng như sau: «Tiếng lóng của giới đổ bác: buổi sớm nơi trường gà tiếng bắt cá nghe xôm (tiếng phóng bắt đánh cuộc); bắt cá hai tay: ôm đồm, bên nào cũng có đánh (lội qua, lội lại) để khi ăn thì ăn được nhiều, khi thua thì thua ít.» [10]

    Cứ như trên thì rõ ràng là thả cá 2 và bắt cá 2 là hai từ tổ cố định hô ứng với nhau một cách chặt chẽ (có thả thì mới có bắt) và rõ ràng «bắt cá» trong «bắt cá hai tay» là «bắt cá 2». Nhưng dân «ngoài ngành» thì rất dị ứng với cách giải thích cho rằng «bắt cá hai tay» là một «phương thức» đánh cuộc vì họ thật tình không biết rằng «thả cá 2» và «bắt cá 2» là những biệt ngữ của dân cá cược. Và để chứng minh rằng đây là «bắt cá 1», có người thậm chí còn ngụy tạo ra câu ca dao sau đây:

    Xin đừng bắt cá hai tay,
    Cá lội dưới nước, chim bay trên trời.

    Người ta phải đặt câu hỏi: tại sao việc bắt cá hai tay mà lại có liên quan đến cả việc chim bay trên trời? Còn câu ca dao «chánh gốc» thì là:

    Chàng ràng nơm, ná hai tay,
    Cá lội dưới nước, chim bay trên trời.

    Luận lý ở đây rõ ràng là rất chặt chẽ.

    Tóm lại, trong kho thành ngữ tiếng Việt, có một số đơn vị vốn là những lối nói «chuyên ngành», những biệt ngữ, mà người ngoài nghề thường không hiểu được hoặc hiểu không được đúng nội dung cụ thể nên đã ứng dụng sai với công dụng ban đầu của chúng. Lối ứng dụng sai này làm cho những thành ngữ hữu quan mất đứt sợi dây liên lạc với nguồn gốc đích thực của chúng mà chỉ có một sự nghiên cứu khách quan và nghiêm túc mới có thể giúp phát hiện lại.
  7. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    2. Nguyên nhân thứ hai làm cho một số thành ngữ trở nên khó hiểu là chúng đã bị tách khỏi cái môi trường cụ thể và riêng biệt của ngành nghề có liên quan để trở thành những lối nói chung của toàn thể xã hội mà phần đông thì lại không biết hoặc không chú ý đến đặc điểm của hoạt động đã góp phần sản sinh ra chúng.

    Chẳng hạn, «sạch nước cản» là một lối nói của thuật đánh cờ, trong đó ba từ tạo thành đều vẫn còn thông dụng và dễ hiểu trong ngôn ngữ hiện nay. «Sạch» là sành, rành. «Sạch đời» là sành đời. «Nước» là sự lựa chọn bước đi cho con bài hoặc con cờ trong một thế bài hay thế cờ. «Sạch nước» là lối nói của dân cờ bạc để chỉ trình độ của những con bạc mới rành các nước bài chứ chưa được cao tay. «Cản» là ngăn chặn. «Sạch nước cản» là chỉ mới biết cản những nước tấn của đối phương trong một trận cờ chứ chưa phải đã là tay cao thủ. Chỉ vì không phải tất cả mọi người ai cũng là tay mê cờ hoặc rành cờ nên khi nghe nói đến «sạch nước cản» thì nhiều người mới hiểu «sạch» phản nghĩa với «bẩn», «nước» là chất lỏng không màu, không mùi, không vị và trong suốt, ? còn «cản» thì chỉ là một cái gì mơ hồ, rồi hiểu chung chung «sạch nước cản» là trông cũng tàm tạm để nói về nhan sắc của con gái hoặc phụ nữ.

    «Già kén kẹn hom» là một lối nói của nghề nuôi tằm. Đây là một câu đúc kết kinh nghiệm mà mục đích là nhắc nhở người nuôi tằm chớ để cho kén quá già, vì nếu kén quá già thì sẽ kẹn, nghĩa là không róc ra khỏi hom, tức là những thanh tre ngang dọc đan ken vào nhau để làm thành cái né tằm. câu này từ lâu đã bị tách khỏi nghề nuôi tằm nên không còn được hiểu đúng với ý nghĩa ban đầu của nó nữa. Ngày nay, người ta hiểu «già kén» là kén chọn quá lâu ngày, rồi không cần biết «kẹn hom» có nghĩa chính xác và cụ thể là gì, người ta hiểu chung chung cả câu thành ngữ là hễ kén chọn quá lâu thì sẽ dở dang hoặc không mãn nguyện trong hôn nhân.

    «Mài mực ru con, mài son đánh giặc» chủ yếu là một lối nói của nho sĩ và quan lại thời xưa, là những người thường dùng mực để viết và dùng son để phê bài của học trò hoặc phê công văn giấy tờ. Mực so với son thì dễ mài hơn nhiều vì son ngày xưa là một thứ đá rắn màu đỏ (chứ không phải là thứ sáp trơn để thoa môi như ngày nay) nên khó mài và mài lâu hơn. Câu này thực ra chỉ so sánh việc mài son với việc mài mực: việc sau thì êm nhẹ còn việc trước thì tốn công hơn. Chỉ vì nhà nho trớ trêu đã so sánh việc mài mực với việc ru con (êm ái) và việc mài son với việc đánh giặc (cực nhọc hơn) nên mới khiến cho Nguyễn Lân phải giảng câu đó như sau: «Nói các ông đồ ngày xưa ngày thường ngồi dạy học đồng thời giúp vợ làm việc vặt trong nhà, nhưng khi có giặc thì tham gia phục vụ quân sự.» Thật là một lời giảng hoàn toàn phản thực tế. Có thơ mộng lắm thì cũng chỉ là «Bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ» chứ làm gì có chuyện các ông đồ ngày xưa lại sẵn sàng và có dư thì giờ mà giúp đỡ các vị phu nhân trong việc ru con và các việc vặt ở nhà. Việc tham gia phục vụ quân sự cũng chẳng phải là phần của các ông. Nhưng vấn đề là ở chỗ người giảng đã không thấy được những hình thức so sánh trong câu cần giảng.

    Cũng Nguyễn Lân đã giảng câu «quyền thằng hủi» như sau: «Trong xã hội cũ, người bị bệnh phong bị xã hội ruồng bỏ. Ý nói: chẳng có quyền hành gì.» Thật là một sự nhầm lẫn tai hại. Trong quyển từ điển của Nguyễn Lân, câu đang xét được xếp sau các câu «quyền cao chức trọng»; «quyền huynh thế phụ»; «quyền thu, quyền phát»; «quyền rơm, vạ đá»; «quyền sinh, quyền sát». Có lẽ do «phản ứng dây chuyền» nên tác giả đã đánh đồng «quyền thằng hủi» với những thứ quyền có tính chất hành chính hoặc pháp lý kia chăng? Thực ra, «quyền» ở đây là cái nắm tay, cái nắm đấm, chữ Hán là <, còn được dùng theo hoán dụ để chỉ võ thuật nữa (quyền Anh, Thái cực quyền, ?). Cái nắm tay của thằng hủi không có ngón thì đấm thế nào được ! Vậy «quyền thằng hủi» là một lối nói của dân nhà nghề chê các tay võ kém cỏi. Nói rộng ra, thì nó dùng để chê chung những kẻ bất tài mà lại nắm (bằng cái bàn tay không ngón !) những cương vị chuyên môn «ngon lành».

    Nguyễn Lân cũng tiếp tục nhầm lẫn khái niệm mà giảng câu «thứ nhất thả cá, thứ nhì gá bạc» như sau: «Việc thả cá có lợi là đúng và cần khuyến khích, còn gá bạc thì ngày nay là một tội phạm, vì đó là một việc làm ăn bất chính.» Nhưng chẳng có lẽ việc «thả cá» ở đây lại là một việc làm ăn chân chính? «Thả cá» ở đây thực ra là «thách cá, nói trong một độ gà chọi hay ác lia thia, sau khi xem ?" xét kỹ lưỡng ?" con vật rồi, những người cầm chắc con của mình chọn sẽ thắng, bèn thách mọi người bắt số tiền cá của mình.» (Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ, Việt Nam tự điển). Vậy từ tổ «thả cá» theo cách hiểu của Nguyễn Lân (xin ghi là thả cá 1) chỉ là đồng âm với từ tổ «thả cá» trong câu đang xét (xin ghi là thả cá 2). Vì không biết đến từ tổ sau nên Nguyễn Lân mới xếp việc thả cá 1 cùng một ca-tê-gô-ri với việc gá bạc, mà lại cho nó đứng hàng thứ nhất nữa ! Không hiểu nhà nông làm cái công việc thứ hai trong công thức VAC [*] có muốn kêu nài gì hay không ?

    Lại cũng trong «nghề» cờ bạc, còn có một lối nói liên đới với «thả cá 2» là «bắt cá» (xin ghi là «bắt cá 2») mà cũng Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ giảng là «nhận đánh cuộc». Đây chính là từ tổ cố định thấy được trong thành ngữ «bắt cá hai tay» mà Vương Hồng Sển đã giảng rất đúng như sau: «Tiếng lóng của giới đổ bác: buổi sớm nơi trường gà tiếng bắt cá nghe xôm (tiếng phóng bắt đánh cuộc); bắt cá hai tay: ôm đồm, bên nào cũng có đánh (lội qua, lội lại) để khi ăn thì ăn được nhiều, khi thua thì thua ít.» [10]

    Cứ như trên thì rõ ràng là thả cá 2 và bắt cá 2 là hai từ tổ cố định hô ứng với nhau một cách chặt chẽ (có thả thì mới có bắt) và rõ ràng «bắt cá» trong «bắt cá hai tay» là «bắt cá 2». Nhưng dân «ngoài ngành» thì rất dị ứng với cách giải thích cho rằng «bắt cá hai tay» là một «phương thức» đánh cuộc vì họ thật tình không biết rằng «thả cá 2» và «bắt cá 2» là những biệt ngữ của dân cá cược. Và để chứng minh rằng đây là «bắt cá 1», có người thậm chí còn ngụy tạo ra câu ca dao sau đây:

    Xin đừng bắt cá hai tay,
    Cá lội dưới nước, chim bay trên trời.

    Người ta phải đặt câu hỏi: tại sao việc bắt cá hai tay mà lại có liên quan đến cả việc chim bay trên trời? Còn câu ca dao «chánh gốc» thì là:

    Chàng ràng nơm, ná hai tay,
    Cá lội dưới nước, chim bay trên trời.

    Luận lý ở đây rõ ràng là rất chặt chẽ.

    Tóm lại, trong kho thành ngữ tiếng Việt, có một số đơn vị vốn là những lối nói «chuyên ngành», những biệt ngữ, mà người ngoài nghề thường không hiểu được hoặc hiểu không được đúng nội dung cụ thể nên đã ứng dụng sai với công dụng ban đầu của chúng. Lối ứng dụng sai này làm cho những thành ngữ hữu quan mất đứt sợi dây liên lạc với nguồn gốc đích thực của chúng mà chỉ có một sự nghiên cứu khách quan và nghiêm túc mới có thể giúp phát hiện lại.
  8. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    3. Nguyên nhân thứ ba làm cho một số thành ngữ, tục ngữ trở nên khó hiểu là chúng đã bị từ nguyên dân gian làm cho méo mó; thành tố của chúng bị thay đổi một cách võ đoán theo cách hiểu chủ quan của người nói, làm cho sự liên hệ giữa các thành tố với nhau niều khi mất hẳn mạch lạc. Câu thành ngữ có khi trở nên ngớ ngẩn, chẳng hạn «giáo đa thành oán» thành «gáo tra dài cán» như vẫn truyền tụng trong Nam dạo nào.

    Câu «mũi dại lái phải chịu đòn», chẳng hạn, là một kết quả của từ nguyên dân gian trong đó «dại» là một kẻ tiếm lập đã chiếm chỗ của từ «vạy» vì hình thức nguyên thuỷ của câu tục ngữ là «mũi vạy lái phải chịu đòn». Đây vốn là lối nói của nghề ghe thuyền. «Mũi vạy» là mũi thuyền đi lệch hướng, thường là do ảnh hưởng của dòng nước xiết hoặc cơn nước xoáy. Trong tình thế khó khăn này, người cầm lái phải vững vàng thì mới có thể đưa con thuyền đi trở lại cho đúng hướng mà vượt qua chỗ nguy hiểm được. Chính vì thế mà anh ta phải «chịu đòn», nghĩa là phải ra sức ghị cây đòn lái cho thật chắc theo hướng đã định để cho con thuyền khỏi bị cuốn theo cơn nước xoáy hay dòng nước xiết. Động từ «chịu» ở đây chỉ là một với «chịu» trtrong «chịu mũi», «chịu lái», «đứng mũi chịu sào», ? chứ «chịu đòn» ở đây không phải là nhận hình phạt bằng roi vọt. Chỉ vì không hiểu lối nói này của nghề ghe thuyền nên người ta mới nói trại tiếng thứ hai của câu tục ngữ đang xét từ «vạy» thành «dại» rồi hiểu «đòn» ở đây là roi vọt mà thôi.

    «Lờ đờ như gà ban hôm» là một thành ngữ hoàn toàn rõ ràng và dễ hiểu về mặt ý nghĩa vì ai cũng biết là khi trời chạng vạng thì gà bị quáng mắt nên không còn trông thấy rõ ràng (nên mới có từ tổ cố định «quáng gà»). Ấy thế nhưng nó cũng bị từ nguyên dân gian bóp méo biến thành «lờ đờ như gà mang hòm» khiến cho Nguyễn Lân phải thắc mắc mà ghi chú rằng «không hiểu gà mang hòm là ở tích gì». Nhưng làm gì có tích «gà mang hòm», chỉ có hình ảnh của những con «gà ban hôm» mà thôi. Nhân tiện ?" vì có liên quan đến gà ?" xin liên hệ một chút với thành ngữ «fier comme un pou» trong tiếng Pháp, mà nếu dịch theo nghĩa đen của từng thành tố thì sẽ là «kênh kiệu như một con chấy». Nếu cứ quy xuất xứ vào sự tích thì biết đâu người Pháp sẽ chẳng cất công đi tìm trong kho thần thoại Hy-La. Nhưng Pierre Guiraud đã gợi ý rằng «pou» là cách ghi xuất phát từ hình thái phương ngữ «poul» [11] có nghĩa là con gà trống («poule» là gà mái), đồng nghĩa với danh từ «coq» trong tiếng Pháp toàn dân. Đây là một cách lý giải rất thoả đáng vì chính người Pháp cũng nói «fier comme un coq» (kênh kiệu như một con gà trống). Trở lại với câu thành ngữ tiếng Việt, xin nói thêm: có ngừơi cho rằng «gà mang hòm» là gà bị bỏ trong bồ đựng kín (nên không trông thấy gì). Nhưng nếu thế thì tại sao không nói «mang bồ» mà lại nói «mang hòm» trong khi hòm (=rương) chỉ dùng để đựng quần áo hay đồ vật? Thực ra đây chỉ là chuyện bóp méo bằng từ nguyên dân gian mà thôi: «ban hôm» đã bị nói trại thành «mang hòm».

    Ngay cả sách vở cũng lâm vào tình trạng bóp méo thành ngữ, tục ngữ chứ chẳng cứ gì dân gian mới bóp méo theo kiểu đó. Nguyễn Lân, chẳng hạn, đã ghi nhận câu «áo cứ chàng, làng cứ xã» và giảng như sau: «(Xã là chức dịch trong làng). Nói tính ỷ lại của người đàn bà, cũng như tính ỷ lại của những người dân trong thôn xóm, không thấy được vai trò làm chủ của mình.» Thật là chuyện quá đỗi bất ngờ khi mà một quyển từ điển lại có thể viết sai chính tả và giảng sai nghĩa đến thế: hình thức chính xác của câu đang xét là «áo cứ tràng, làng cứ xã». «Tràng» có nghĩa gốc là cái cổ áo, nay được hiểu là cái vạt trước của chiếc áo dài. (Tục ngữ còn có câu «áo rách phải giữ lấy tràng» mà chính Nguyễn Lân cũng đã có ghi nhận.) Cái tràng áo đã bị Nguyễn Lân hiểu thành đức lang quân («chàng» !) nên «nàng» mới mắc cái oan Thị Kính là hay ỷ lại vào đàn ông ! Rồi dân làng cũng mắc phải vạ lây mà bị quy là không biết phát huy quyền làm chủ ở nông thôn. Câu tục ngữ đang xét thực ra chỉ muốn nhấn mạnh vào vai trò và trách nhiệm của chức danh «xã» đối với địa phương do mình cai quản mà thôi. Cái được ám chỉ ở đây là trách nhiệm của cá nhân chứ không phải là quyền làm chủ tập thể.

    Vài thí dụ trên đây đã cho thấy từ nguyên dân gian bóp méo một số thành ngữ như thế nào cũng như cho thấy rằng không thể lệ thuộc vào hình thức đã bị bóp méo mà tìm ra được ý nghĩa đích thực của từng thành ngữ hữu quan. Chúng còn cho thấy tác giả của từ nguyên dân gian không phải bao giờ cũng là chính dân gian mà có khi lại là người trí thức và người viết văn như chúng tôi sẽ còn dẫn chứng thêm ở mục 6 khi nói về những thanh ngữ dỏm.

  9. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    3. Nguyên nhân thứ ba làm cho một số thành ngữ, tục ngữ trở nên khó hiểu là chúng đã bị từ nguyên dân gian làm cho méo mó; thành tố của chúng bị thay đổi một cách võ đoán theo cách hiểu chủ quan của người nói, làm cho sự liên hệ giữa các thành tố với nhau niều khi mất hẳn mạch lạc. Câu thành ngữ có khi trở nên ngớ ngẩn, chẳng hạn «giáo đa thành oán» thành «gáo tra dài cán» như vẫn truyền tụng trong Nam dạo nào.

    Câu «mũi dại lái phải chịu đòn», chẳng hạn, là một kết quả của từ nguyên dân gian trong đó «dại» là một kẻ tiếm lập đã chiếm chỗ của từ «vạy» vì hình thức nguyên thuỷ của câu tục ngữ là «mũi vạy lái phải chịu đòn». Đây vốn là lối nói của nghề ghe thuyền. «Mũi vạy» là mũi thuyền đi lệch hướng, thường là do ảnh hưởng của dòng nước xiết hoặc cơn nước xoáy. Trong tình thế khó khăn này, người cầm lái phải vững vàng thì mới có thể đưa con thuyền đi trở lại cho đúng hướng mà vượt qua chỗ nguy hiểm được. Chính vì thế mà anh ta phải «chịu đòn», nghĩa là phải ra sức ghị cây đòn lái cho thật chắc theo hướng đã định để cho con thuyền khỏi bị cuốn theo cơn nước xoáy hay dòng nước xiết. Động từ «chịu» ở đây chỉ là một với «chịu» trtrong «chịu mũi», «chịu lái», «đứng mũi chịu sào», ? chứ «chịu đòn» ở đây không phải là nhận hình phạt bằng roi vọt. Chỉ vì không hiểu lối nói này của nghề ghe thuyền nên người ta mới nói trại tiếng thứ hai của câu tục ngữ đang xét từ «vạy» thành «dại» rồi hiểu «đòn» ở đây là roi vọt mà thôi.

    «Lờ đờ như gà ban hôm» là một thành ngữ hoàn toàn rõ ràng và dễ hiểu về mặt ý nghĩa vì ai cũng biết là khi trời chạng vạng thì gà bị quáng mắt nên không còn trông thấy rõ ràng (nên mới có từ tổ cố định «quáng gà»). Ấy thế nhưng nó cũng bị từ nguyên dân gian bóp méo biến thành «lờ đờ như gà mang hòm» khiến cho Nguyễn Lân phải thắc mắc mà ghi chú rằng «không hiểu gà mang hòm là ở tích gì». Nhưng làm gì có tích «gà mang hòm», chỉ có hình ảnh của những con «gà ban hôm» mà thôi. Nhân tiện ?" vì có liên quan đến gà ?" xin liên hệ một chút với thành ngữ «fier comme un pou» trong tiếng Pháp, mà nếu dịch theo nghĩa đen của từng thành tố thì sẽ là «kênh kiệu như một con chấy». Nếu cứ quy xuất xứ vào sự tích thì biết đâu người Pháp sẽ chẳng cất công đi tìm trong kho thần thoại Hy-La. Nhưng Pierre Guiraud đã gợi ý rằng «pou» là cách ghi xuất phát từ hình thái phương ngữ «poul» [11] có nghĩa là con gà trống («poule» là gà mái), đồng nghĩa với danh từ «coq» trong tiếng Pháp toàn dân. Đây là một cách lý giải rất thoả đáng vì chính người Pháp cũng nói «fier comme un coq» (kênh kiệu như một con gà trống). Trở lại với câu thành ngữ tiếng Việt, xin nói thêm: có ngừơi cho rằng «gà mang hòm» là gà bị bỏ trong bồ đựng kín (nên không trông thấy gì). Nhưng nếu thế thì tại sao không nói «mang bồ» mà lại nói «mang hòm» trong khi hòm (=rương) chỉ dùng để đựng quần áo hay đồ vật? Thực ra đây chỉ là chuyện bóp méo bằng từ nguyên dân gian mà thôi: «ban hôm» đã bị nói trại thành «mang hòm».

    Ngay cả sách vở cũng lâm vào tình trạng bóp méo thành ngữ, tục ngữ chứ chẳng cứ gì dân gian mới bóp méo theo kiểu đó. Nguyễn Lân, chẳng hạn, đã ghi nhận câu «áo cứ chàng, làng cứ xã» và giảng như sau: «(Xã là chức dịch trong làng). Nói tính ỷ lại của người đàn bà, cũng như tính ỷ lại của những người dân trong thôn xóm, không thấy được vai trò làm chủ của mình.» Thật là chuyện quá đỗi bất ngờ khi mà một quyển từ điển lại có thể viết sai chính tả và giảng sai nghĩa đến thế: hình thức chính xác của câu đang xét là «áo cứ tràng, làng cứ xã». «Tràng» có nghĩa gốc là cái cổ áo, nay được hiểu là cái vạt trước của chiếc áo dài. (Tục ngữ còn có câu «áo rách phải giữ lấy tràng» mà chính Nguyễn Lân cũng đã có ghi nhận.) Cái tràng áo đã bị Nguyễn Lân hiểu thành đức lang quân («chàng» !) nên «nàng» mới mắc cái oan Thị Kính là hay ỷ lại vào đàn ông ! Rồi dân làng cũng mắc phải vạ lây mà bị quy là không biết phát huy quyền làm chủ ở nông thôn. Câu tục ngữ đang xét thực ra chỉ muốn nhấn mạnh vào vai trò và trách nhiệm của chức danh «xã» đối với địa phương do mình cai quản mà thôi. Cái được ám chỉ ở đây là trách nhiệm của cá nhân chứ không phải là quyền làm chủ tập thể.

    Vài thí dụ trên đây đã cho thấy từ nguyên dân gian bóp méo một số thành ngữ như thế nào cũng như cho thấy rằng không thể lệ thuộc vào hình thức đã bị bóp méo mà tìm ra được ý nghĩa đích thực của từng thành ngữ hữu quan. Chúng còn cho thấy tác giả của từ nguyên dân gian không phải bao giờ cũng là chính dân gian mà có khi lại là người trí thức và người viết văn như chúng tôi sẽ còn dẫn chứng thêm ở mục 6 khi nói về những thanh ngữ dỏm.

  10. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    4. Nguyên nhân thứ tư làm cho một số thành ngữ, tục ngữ trở nên khó hiểu là phương thức cấu tạo chúng đã không còn được nhận ra nữa nên làm cho người ta cảm thấy chúng có vẻ kỳ quặc hoặc bí hiểm. Chẳng hạn: «nghèo rớt mồng tơi»; «già cóp bình thiếc» (mà ngày nay nhiều người nói thành «già cúp thùng thiếc»); «say quắt cần câu»; «mê tít thò lò»; v.v?

    Những thành ngữ trên đây sẽ trở nên dễ hiểu nếu người ta biết rằng chúng được sản sinh do nhu cầu tạo ra sắc thái hài hước bằng cách phối hợp với một số yếu tố thực tế không có liên quan gì với nhau về mặt ngữ nghĩa. Chúng ra đời trên cơ sở của những từ tố gồm có hai từ đơn tiết (nghèo rớt, già cóp, say quắt, mê tít, ?), mà thành tố thứ hai (rớt, cóp, quắt, tít, ?) có tác dụng miêu tả và/hoặc nêu lên mức độ tối cao của thành tố thứ nhất (nghèo, già, say, mê, ?). Để tạo ra sắc thái hài hước, người ta đã ghép vào yếu tố thứ hai một thành phần thêm nghĩa (mồng tơi, bình thiếc, cần câu, thò lò, ?) mà thành phần này chỉ thích hợp về ngữ nghĩa với thành tố thứ hai của từ tổ cơ sở chứ không thích hợp với thành tố thứ nhất của từ tổ đó và/hoặc với toàn bộ từ tổ. Tính chất hài hước nói trên chính là hệ quả của sự không thích hợp đó, sự không thích hợp này thậm chí có khi còn trở nên kỳ quặc nữa và hễ tính chất kỳ quặc càng cao thì sắc thái hài hước càng tăng. Do phương thức cấu tạo đặc biệt đó mà những thành ngữ đang xét vô hình trung có thể được xem như là những đơn vị gồm có hai từ tổ ***g vào nhau (nghèo rớt mồng tơi = nghèo rớt + rớt mồng tơi; say quắt cần câu = say quắt + quắt cần câu; ?). Xin phân tích một thí dụ. Trong «say quắt cần câu», chẳng hạn, thì «quắt» vừa miêu tả vừa nêu lên mức độ tối cao của «say» (vì thế nên không thể nói «rất say quắt» hoặc «say quắt lắm»); «cần câu» thì chỉ có quan hệ ngữ nghĩa tự nhiên và hợp lý với «quắt» nhưng lại không có quan hệ ngữ nghĩa tự nhiên và hợp lý với «say». «Say quắt» là say đến quằn người lại còn «quắt cần câu» là cong như cái cần câu bị cá đớp mồi mà kéo xuống. Xét riêng thì hai từ tổ trên đây («say quắt», «quắt cần câu») vẫn hợp lý về ngữ nghĩa nhưng phối hợp chúng lại mà nói «say quắt cần câu» thì rõ ràng là đã làm phát sinh vấn đề về mặt luận lý và người ta cứ phải đặt câu hỏi không bao giờ trả lời được: say quắt cần câu là say như thế nào?

    Trong thí dụ vừa phân tích ở trên, sắc thái hài hước vẫn còn hoàn toàn rõ ràng nhưng ở một vài thành ngữ cùng loại thì sắc thái đó đã phai mờ đi nhiều hoặc phai mờ hẳn nên người ta càng dễ dàng cảm thấy chúng khó lý giải về mặt ngữ nghĩa, thí dụ: nghèo rớt mồng tơi. Thành ngữ này cũng được tạo ra bằng phương thức y hệt như «say quắt cần câu». Do đó mà câu hỏi «nghèo rớt mồng tơi là nghèo như thế nào?» sẽ không bao giờ trả lời được mặc dù người ta cũng đã đưa ra những cách trả lời thử nghiệm, chẳng hạn như trong Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ.

    Đối với một phương thức mà mục đích là tạo ra sắc thái hài hước bằng sự phi lý (cái cần câu mà lại liên quan đến sự say xỉn, cây mồng tơi mà lại liên quan đến sự nghèo túng, cái bình thiếc mà lại liên quan đến sự già cỗi, ?) thì tất nhiên không có cách nào giải thích kết quả của nó bằng sự hợp lý được. Ý tưởng đó là một điều viễn vông.

Chia sẻ trang này