1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Mục lục box Tiếng Việt-Từ điển tra cứu trực tuyến-Tuyển tập các bài viết(SƯU TẦM) về Tiếng Việt.

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi home_nguoikechuyen, 24/06/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    ::: Trúc Huy :::
    Mạn đàm về chữ và ngĩa

    Nhân đọc "Một Kỉ Niệm Đẹp" của Nguyễn Tấn Hưng
    MẠN ĐÀM VỀ CHỮ VÀ NGĨA
    Biên khảo của TRÚC HUY
    Mặc dầu được biết anh Nguyễn Tấn Hưng là một trong những cây bút phong phú hiện nay ở hải ngoại, đã cho xuất bản một số văn truyện được nhiều độc giả biết đến và khen ngợi, song tôi phải thú nhận là cho đến nay chỉ có cơ duyên đọc mỗi một tác phẩm gần đây của anh: đó là cuốn biên khảo ngiên cứu "Một Kỉ Niệm Đẹp"1.
    Tuy chỉ biết anh qua công trình ngiên cứu này, song tôi đã đọc một cách say sưa và thích thú vì giọng văn tự nhiên, tươi mát của anh và nhất là vì sự nhiệt tình, thiết tha của anh trong công cuộc tìm tòi và sáng tạo để tìm ra một phương pháp xếp chữ Việt bằng máy điện toán cá nhân. Sự cố gắng của anh trong công cuộc tìm tòi và sáng tạo này không ngoài mục đích tô điểm và làm đẹp thêm dòng chữ Việt mà anh tỏ ra hết sức nâng niu, trân tro.ng.
    Cuốn biên khảo "Một Kỉ Niệm Đẹp" của Nguyễn Tấn Hưng đã cho chúng ta cơ hội học hỏi được ít nhiều về các kĩ thuật xếp chữ Việt bằng máy điện toán. Anh Nguyễn Tấn Hưng đã thành công trong nỗ lực làm đẹp thêm dòng chữ Việt về phương diện kĩ thuật.
    ooOoo
    Sự thiết tha muốn làm đẹp thêm tiếng Việt còn đưa anh đi xa hơn nữa khi anh đề ngị bỏ dấu hỏi mà chỉ dùng toàn dấu ngã (xem chương "Đón Xuân, đem tâm tình viết tiếng Việt"2). Ở nơi chương này, anh đưa ra bàn cãi và thảo luận về một số í kiến và đề ngị của chính anh và của một số người khác về các phương thức nhằm giản dị hoá và thống nhất hoá cách viết tiếng Việt. Sở dĩ tôi đặc biệt chú trọng và thích thú khi đọc đến chương này, là vì chính bản thân tôi cũng đã từng thiết tha và mong muốn có một lối viết chữ Việt giản dị và thống nhất.
    Thật ra, nếu đem so sánh chữ viết của ta với một số chữ viết khác trên thế giới như Anh ngữ, Pháp ngữ chẳng hạn, chúng ta hẳn phải tự hào rằng chữ viết của chúng ta quả thật đã giản dị lắm rồi: phát âm sao, viết ra như vâ.y. Tuy nhiên, tôi thiết ngĩ cũng còn đôi ba điều chúng ta có thể sửa đổi được hầu làm cho chữ viết của chúng ta được giản dị và hoàn hảo hơn nữa.
    Sau đây là những í kiến và đề ngị mà tác giả Nguyễn Tấn Hưng đã đề cập đến và đem ra thảo luận trong chương kể trên:
    (1) - Trước hết là đề ngị của chính tác giả về việc bỏ dấu hỏi và chỉ dùng dấu ngã trong tất cả các trường hợp. Thí dụ: "biến đỗi" (biến đổi), "thưỡng thức" (thưởng thức) v. v... Anh đưa ra lí do vì hai dấu hỏi ngã phát âm gần như nhau (nhất là đối với người miền Nam như anh và cả người miền Trung). Hơn nữa, theo anh, dấu hỏi không có trong mẫu tự quốc tế.
    Cũng như sự nhận xét của ông Lê Văn Lân, trong bài Bạt in ở phần cuối sách3, tôi thấy lời đề ngị xướng xuất bỏ dấu hỏi của anh khó có thể được mọi người chấp nhận, vì lẽ trong chữ viết của ta, dấu nào cũng cần thiết và quan trọng cả. Mỗi một chữ, nếu viết sai dấu, không những sai lỗi chính tả, mà ngĩa lại thay đổi hoàn toàn. Lời văn viết ra cần sự trong sáng và í ngĩa cần được rõ ràng. Viết sai dấu hỏi ngã, ngĩa của chữ sẽ thay đổi khác đi, cũng như ngĩa một chữ sẽ thay đổi khi ta viết cuối chữ có "g" hay không "g", hay viết cuối chữ bằng "c" hay "t" v. v... Tóm lại, tuy khi phát âm, sự phân biệt nhiều lúc không được rõ ràng và minh bạch cho lắm, nhưng khi viết ra cần viết đúng chính tả để í ngĩa mỗi chữ được rõ ràng, sáng sủa, hầu tránh sự hiểu lầm sai lê.ch.
    (2) - Ngoài việc đề ngị bỏ bớt dấu hỏi, anh Nguyễn Tấn Hưng còn đề xướng thay thế chữ "đ" có nét ngang đặc biệt bằng chữ "d" thường, và thay chữ "d" thường bằng chữ "gi". Anh đưa ra các thí dụ: "giễ hiểu" (dễ hiểu), "khó dọc" (khó đọc) v. v...
    Thật ra đề ngị này không có gì mới la.. Việc thay thế chữ "đ" có nét ngang đặc biệt bằng chữ "d" thường, trên lí thuyết tôi cho là rất hợp lí và xác đáng, vì đa số các ngôn ngữ trên thế giới đều dùng chữ "d" (phát âm như chữ "đ" của ta). Còn chữ "d" thường của ta thì có thể thay thế bằng chữ "gi" (như đề ngị của anh Hưng), hay bằng chữ "z" (như đề ngị của một số người khác), hay bằng chữ "đ" (nhưng phát âm như chữ "d" thường), trên lí thuyết tôi thấy cũng hợp lí.
    Tuy nhiên, tiếc thay, lời đề ngị thay thế này lẽ ra phải được đặt ra cho các vị giáo sĩ tây phương ngay từ hồi thế kỉ thứ 17, lúc họ mới phát minh ra chữ viết của ta, hay ít ra cũng trong giai đoạn đầu, lúc mà chữ quốc ngữ còn đang phôi thai, chưa được phổ biến rộng rãi. Bây giờ, nếu muốn thay thế chữ "đ" có nét ngang đặc biệt bằng chữ "d" thường cho phù hợp với cách thức phát âm quốc tế, thì thử hỏi các sách vở, tài liệu viết bằng quốc ngữ mà chúng ta đã có từ hơn 100 năm nay, chúng ta phải giải quyết ra làm sao? Thôi thì đành nâng niu chữ "đ" có nét ngang đặc biệt của ta mà thương iêu nó vậy!

    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  2. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    (3) - Một vấn đề khác được tác giả đưa ra thảo luận: đó là việc nên dùng dấu gạch nối cho những tiếng phức vận hay những tiếng ghép, hay là nên viết dính chùm lại các thành phần của những tiếng này? Vấn đề này cho đến nay vẫn chưa được giải quyết một cách thoả đáng. Một số học giả (Trần Trọng Kim, Nguyễn Duy Cần v. v...) thích dùng dấu gạch nối, một số khác, rất ít, lại thích dùng lối viết dính lại (Hoàng Văn Chí, Phạm Hoàng Hộ v. v...), trong khi đó đa số bỏ hẳn dấu gạch nối, ngĩa là viết rời từng tiếng đơn vận trong bất cứ trường hợp nào.
    Tiếng Việt là một thứ tiếng đơn vận (monosyllabic). Cho nên dùng dấu gạch nối cho những tiếng phức vận hay những tiếng ghép xem ra không cần thiết cho lắm. Tuy nhiên, khi phiên âm những tiếng ngoại quốc, dùng dấu gạch nối là một điều cần thiết. Thí dụ: "a-xê-ti-len" (acetylene), "Ma-hô-mét" (Mahomet) v. v... Dấu gạch nối cũng thường hay dùng cho những tiếng Hán-Việt (Thí dụ: "giám-sát", "tiêu-chuẩn" v. v...).
    Điều phải công nhận là khi nhìn một bài viết hay một trang sách có chi chít những dấu gạch nối ở mỗi hàng, hay có những tiếng phức vận hay những tiếng ghép viết dính chùm lại nhau (Thí dụ: "hoảdiê.msơn", "pháthành" v. v...), cảm giác chung không được thoải mái cho lắm, vì thiếu tính cách thẩm mĩ, gọn gàn và sáng sủa.
    (4) - Trước đây, ông Nguiễn Ngu Í (còn kí biệt hiệu khác là Ngê Bá Lí) cũng có tham vọng cải tiến và đơn giản hoá chữ quốc ngữ. Trong những đề ngị của ông, có những đề ngị rất hữu lí, và cũng có những đề ngị khác mà anh Nguyễn Tấn Hưng cho là "cầu kì, quái đản"4.
    Trước hết, trong vần "ngh", ông đề ngị bỏ chữ "h" mà chỉ giữ "ng". Thí dụ: "ngẹn ngào" thay cho "nghẹn ngào", "ngề ngiệp" thay cho "nghề nghiệp" v. v... Đây là một đề ngị xét ra rất hữu lí và xác đáng. Tôi không tìm thấy một lí do nào buộc chúng ta phải viết "ngh" (khi nó đứng trước các nguyên âm "e", "ê" hoặc "i") thay vì "ng" (khi nó đứng trước các nguyên âm khác).
    Bỏ chữ "h" trong vần "ngh", sự phát âm hoàn toàn như nhau, không có gì thay đổi cả. Việc đơn giản hoá và cải tiến chữ viết của ta, ít ra trong trường hợp này, là một điều nên làm. Đứng trên bình diện quốc gia, việc bỏ bớt chữ "h" trong vần "ngh" lại đưa đến cho ta một lợi ích không thể chối bỏ: lợi thì giờ (khi viết hoặc đánh máy), lợi giấy mực (cho tổng số sách báo in ra hằng năm trong toàn quốc và tại hải ngoại), lợi sơn dầu (cho những tấm bích chương, quảng cáo) v. v...
    (5) - Một đề ngị khác của ông Nguiễn Ngu Í: thay thế "y" bằng "i". Thí dụ: "hi vọng" thay cho "hy vọng", "kỉ niệm" thay cho "kỷ niệm" v. v... Việc thay thế "y" bằng "i" cũng là một đề ngị hữu lí, và đã được một số học giả ưa dùng lâu nay (như Nguyễn Hiến Lê, Trúc Thiên v. v...).
    Phần đông trong chúng ta thường viết li - ly, qui - quy v. v... mà không theo một tiêu chuẩn nào nhất đi.nh. Thiết tưởng đã đến lúc chúng ta nên thống nhất hoá cách dùng "i" và "y" như sau đây:
    - viết "i" thay thế cho "y" trong trường hợp nguyên âm này đứng một mình hay đầu chữ (Thí dụ: "í kiến", "tình iêu" v. v...), hay đứng sau một phụ âm (Thí dụ: "hi vọng", "kỉ niệm", "li biệt", "mĩ thuật" v. v...). Riêng chữ "giặt gỵa" được xem như là một trường hợp đặc biệt, vì nếu viết "gịa" có thể đọc nhầm lẫn ra "giạ".
    - "y" vẫn được giữ nguyên khi đứng sau một nguyên âm khác như trong các vần -ay, -ây, -uy (kể cả các vần -uya, uyê-, -uyn(h), -uyt, -uyu v. v...), hoặc khi đứng sau vần qu- (kí hiệu phát âm là /kw-/). Thí dụ: "lay động", "bây giờ", "nguy hiểm"; "đêm khuya", "tuyên bố", "tuyết rơi", "màn tuyn", "lưu huỳnh", "xe buýt", "khuỷu tay"; "quy chế", "cam quýt" v. v...
    Ông Nguiễn Ngu Í đã sai lầm khi muốn thay thế hẳn "y" bằng "i". Sự thiếu căn bản về ngữ âm học đã khiến ông có lối viết mà tôi cho là lập dị, quái gở, khi ông viết tên họ của ông là "Nguiễn" thay vì "Nguyễn", hay là viết: "thai đổi" thay vì "thay đổi" v. v... Cũng vì tính lập dị đó mà ông còn đề xướng bỏ chữ "u" trong vần "qu": "qan trọng" thay cho "quan trọng", "qê hương" thay cho "quê hương" v. v... Chúng ta đều biết rằng "q" luôn luôn phải có "u" đi kèm theo để tạo thành vần "qu" khi ghép vào một chữ. Cho nên, cách viết lập dị và quái gở này chỉ có riêng mỗi một mình người chủ xướng là ông Nguiễn thực hành mà thôi.
    (6) - Hiện nay, có người ưa dùng "f" thay thế cho vần "ph". Thí dụ: "fi cơ" thay vì "phi cơ", "fúc đáp" thay vì "phúc đáp" v. v... Tôi công nhận là có phần giản dị thật. Song có vẻ lai căng, âu hoá quá, vì lẽ phụ âm "f" vốn không có trong mẫu tự của ta.
    (7) - Riêng về vấn đề bỏ dấu cho các vần "oa", "oe", và "uy" (kí hiệu phát âm là /wa/, /we/ và /wi/), trên phương diện ngữ âm học, tôi đề ngị chúng ta nên chọn tiêu chuẩn chung là bỏ dấu trên nguyên âm thứ hai. Thí dụ: "hoà bình" (thay vì "hòa bình"), "khoẻ mạnh" (thay vì "khỏe mạnh"), "huỷ bỏ" (thay vì "hủy bỏ") v. v...
    Trong các kí hiệu phát âm /wa/, /we/ và /wi/, ta thấy ngay rằng dấu nhấn (các thanh huyền, sắc, nặng, hỏi, ngã) chỉ có thể đặt trên các nguyên âm /a/, /e/ và /i/ mà không thể nào đặt trên phụ âm /w/ được. Tôi nhớ cách đây đã lâu đã có lần giáo sư ngôn ngữ học Nguyễn Đình Hoà biên thư cho tập san Thế Kỉ 21 lưu í về việc, trong chữ "toà" của "toà soạn", toà báo bỏ dấu trên nguyên âm "o" thay vì bỏ dấu trên nguyên âm "a", điều mà ông cho là không được đúng.
    ooOoo
    Việc đưa ra những í kiến, đề ngị để đổi mới hầu cải tiến và giản dị hoá tiếng Việt là một điều cần được khích lệ, nếu những í kiến, đề ngị đưa ra xét thấy có phần hữu lí và xác đáng.
    Cũng như tác giả "Một Kỉ Niệm Đẹp", tôi đã đưa ra trên đây một vài í kiến và đề ngị xây dựng ngõ hầu làm đẹp thêm cho tiếng Việt. Việc "làm đẹp" này, theo tôi, là nhiệm vụ chung của tất cả những ai trong chúng ta hằng có lòng ưu tư và thiết tha với ngôi nhà văn hoá Việt Nam.
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  3. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    (3) - Một vấn đề khác được tác giả đưa ra thảo luận: đó là việc nên dùng dấu gạch nối cho những tiếng phức vận hay những tiếng ghép, hay là nên viết dính chùm lại các thành phần của những tiếng này? Vấn đề này cho đến nay vẫn chưa được giải quyết một cách thoả đáng. Một số học giả (Trần Trọng Kim, Nguyễn Duy Cần v. v...) thích dùng dấu gạch nối, một số khác, rất ít, lại thích dùng lối viết dính lại (Hoàng Văn Chí, Phạm Hoàng Hộ v. v...), trong khi đó đa số bỏ hẳn dấu gạch nối, ngĩa là viết rời từng tiếng đơn vận trong bất cứ trường hợp nào.
    Tiếng Việt là một thứ tiếng đơn vận (monosyllabic). Cho nên dùng dấu gạch nối cho những tiếng phức vận hay những tiếng ghép xem ra không cần thiết cho lắm. Tuy nhiên, khi phiên âm những tiếng ngoại quốc, dùng dấu gạch nối là một điều cần thiết. Thí dụ: "a-xê-ti-len" (acetylene), "Ma-hô-mét" (Mahomet) v. v... Dấu gạch nối cũng thường hay dùng cho những tiếng Hán-Việt (Thí dụ: "giám-sát", "tiêu-chuẩn" v. v...).
    Điều phải công nhận là khi nhìn một bài viết hay một trang sách có chi chít những dấu gạch nối ở mỗi hàng, hay có những tiếng phức vận hay những tiếng ghép viết dính chùm lại nhau (Thí dụ: "hoảdiê.msơn", "pháthành" v. v...), cảm giác chung không được thoải mái cho lắm, vì thiếu tính cách thẩm mĩ, gọn gàn và sáng sủa.
    (4) - Trước đây, ông Nguiễn Ngu Í (còn kí biệt hiệu khác là Ngê Bá Lí) cũng có tham vọng cải tiến và đơn giản hoá chữ quốc ngữ. Trong những đề ngị của ông, có những đề ngị rất hữu lí, và cũng có những đề ngị khác mà anh Nguyễn Tấn Hưng cho là "cầu kì, quái đản"4.
    Trước hết, trong vần "ngh", ông đề ngị bỏ chữ "h" mà chỉ giữ "ng". Thí dụ: "ngẹn ngào" thay cho "nghẹn ngào", "ngề ngiệp" thay cho "nghề nghiệp" v. v... Đây là một đề ngị xét ra rất hữu lí và xác đáng. Tôi không tìm thấy một lí do nào buộc chúng ta phải viết "ngh" (khi nó đứng trước các nguyên âm "e", "ê" hoặc "i") thay vì "ng" (khi nó đứng trước các nguyên âm khác).
    Bỏ chữ "h" trong vần "ngh", sự phát âm hoàn toàn như nhau, không có gì thay đổi cả. Việc đơn giản hoá và cải tiến chữ viết của ta, ít ra trong trường hợp này, là một điều nên làm. Đứng trên bình diện quốc gia, việc bỏ bớt chữ "h" trong vần "ngh" lại đưa đến cho ta một lợi ích không thể chối bỏ: lợi thì giờ (khi viết hoặc đánh máy), lợi giấy mực (cho tổng số sách báo in ra hằng năm trong toàn quốc và tại hải ngoại), lợi sơn dầu (cho những tấm bích chương, quảng cáo) v. v...
    (5) - Một đề ngị khác của ông Nguiễn Ngu Í: thay thế "y" bằng "i". Thí dụ: "hi vọng" thay cho "hy vọng", "kỉ niệm" thay cho "kỷ niệm" v. v... Việc thay thế "y" bằng "i" cũng là một đề ngị hữu lí, và đã được một số học giả ưa dùng lâu nay (như Nguyễn Hiến Lê, Trúc Thiên v. v...).
    Phần đông trong chúng ta thường viết li - ly, qui - quy v. v... mà không theo một tiêu chuẩn nào nhất đi.nh. Thiết tưởng đã đến lúc chúng ta nên thống nhất hoá cách dùng "i" và "y" như sau đây:
    - viết "i" thay thế cho "y" trong trường hợp nguyên âm này đứng một mình hay đầu chữ (Thí dụ: "í kiến", "tình iêu" v. v...), hay đứng sau một phụ âm (Thí dụ: "hi vọng", "kỉ niệm", "li biệt", "mĩ thuật" v. v...). Riêng chữ "giặt gỵa" được xem như là một trường hợp đặc biệt, vì nếu viết "gịa" có thể đọc nhầm lẫn ra "giạ".
    - "y" vẫn được giữ nguyên khi đứng sau một nguyên âm khác như trong các vần -ay, -ây, -uy (kể cả các vần -uya, uyê-, -uyn(h), -uyt, -uyu v. v...), hoặc khi đứng sau vần qu- (kí hiệu phát âm là /kw-/). Thí dụ: "lay động", "bây giờ", "nguy hiểm"; "đêm khuya", "tuyên bố", "tuyết rơi", "màn tuyn", "lưu huỳnh", "xe buýt", "khuỷu tay"; "quy chế", "cam quýt" v. v...
    Ông Nguiễn Ngu Í đã sai lầm khi muốn thay thế hẳn "y" bằng "i". Sự thiếu căn bản về ngữ âm học đã khiến ông có lối viết mà tôi cho là lập dị, quái gở, khi ông viết tên họ của ông là "Nguiễn" thay vì "Nguyễn", hay là viết: "thai đổi" thay vì "thay đổi" v. v... Cũng vì tính lập dị đó mà ông còn đề xướng bỏ chữ "u" trong vần "qu": "qan trọng" thay cho "quan trọng", "qê hương" thay cho "quê hương" v. v... Chúng ta đều biết rằng "q" luôn luôn phải có "u" đi kèm theo để tạo thành vần "qu" khi ghép vào một chữ. Cho nên, cách viết lập dị và quái gở này chỉ có riêng mỗi một mình người chủ xướng là ông Nguiễn thực hành mà thôi.
    (6) - Hiện nay, có người ưa dùng "f" thay thế cho vần "ph". Thí dụ: "fi cơ" thay vì "phi cơ", "fúc đáp" thay vì "phúc đáp" v. v... Tôi công nhận là có phần giản dị thật. Song có vẻ lai căng, âu hoá quá, vì lẽ phụ âm "f" vốn không có trong mẫu tự của ta.
    (7) - Riêng về vấn đề bỏ dấu cho các vần "oa", "oe", và "uy" (kí hiệu phát âm là /wa/, /we/ và /wi/), trên phương diện ngữ âm học, tôi đề ngị chúng ta nên chọn tiêu chuẩn chung là bỏ dấu trên nguyên âm thứ hai. Thí dụ: "hoà bình" (thay vì "hòa bình"), "khoẻ mạnh" (thay vì "khỏe mạnh"), "huỷ bỏ" (thay vì "hủy bỏ") v. v...
    Trong các kí hiệu phát âm /wa/, /we/ và /wi/, ta thấy ngay rằng dấu nhấn (các thanh huyền, sắc, nặng, hỏi, ngã) chỉ có thể đặt trên các nguyên âm /a/, /e/ và /i/ mà không thể nào đặt trên phụ âm /w/ được. Tôi nhớ cách đây đã lâu đã có lần giáo sư ngôn ngữ học Nguyễn Đình Hoà biên thư cho tập san Thế Kỉ 21 lưu í về việc, trong chữ "toà" của "toà soạn", toà báo bỏ dấu trên nguyên âm "o" thay vì bỏ dấu trên nguyên âm "a", điều mà ông cho là không được đúng.
    ooOoo
    Việc đưa ra những í kiến, đề ngị để đổi mới hầu cải tiến và giản dị hoá tiếng Việt là một điều cần được khích lệ, nếu những í kiến, đề ngị đưa ra xét thấy có phần hữu lí và xác đáng.
    Cũng như tác giả "Một Kỉ Niệm Đẹp", tôi đã đưa ra trên đây một vài í kiến và đề ngị xây dựng ngõ hầu làm đẹp thêm cho tiếng Việt. Việc "làm đẹp" này, theo tôi, là nhiệm vụ chung của tất cả những ai trong chúng ta hằng có lòng ưu tư và thiết tha với ngôi nhà văn hoá Việt Nam.
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  4. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    ::: Cao Thế Dung :::
    Tìm Hiểu Cội Rễ Tiếng Việt: Hán Tự Và Hán Việt

    Tập San Tư Tưởng
    PO Box 246
    Croydon Park, NSW 2133 AUSTRALIA
    Email: tutuong@telstra.com
    Website: http://tutuong.hypermart.net
    TÌM HIỂU CỖI RỄ TIẾNG VIỆT:
    HÁN TỰ VÀ HÁN VIỆT

    CAO THẾ DUNG
    Lời Toà Soạn : Trong những tài liệu hưởng ứng việc tìm về cội nguồn tiếng nói và chữ viết của người Việt Cổ, đặc biệt nhất có loạt bài của GS. Cao Thế Dụng Đặc biệt không những vì tính cách bác học của bài viết mà còn vì những tài liệu hiếm quí được tác giả dẫn trong bàị Các tài liệu này được viết trong thời mà cái tròng (loof) Hoa Hán vẫn bao trùm lên nền học thuật Việt, trói buộc tư duy của cả những người Việt thông minh nhất, buộc người ta phải tin tộc Việt là do tộc Hoa từ phương Bắc di xuống và văn minh Việt chỉ có do học mót được từ văn minh Trung Hoạ Từ đó người ta cũng được học mọi điều, từ chuyện lớn như tổ chức quốc gia đến chuyện nhỏ như cái ăn cái mặc đều do học được từ phương Bắc. Tiếng nói và chữ viết của người Việt Cổ cũng không thoát khỏi lối tư duy đó. Tuy nhiên tác giả viết ra những tài liệu được dẫn trong bài hình như đã thấy lối suy nghĩ đó như có gì không ổn, đã có những nhận xét độc đáo như muốn vượt thoát ra khỏi cái tròng tư duy quái ác nọ. Và ta thấy được những mâu thuẫn, những tròng tréo nếu vẫn phải chấp nhận quan niệm văn minh Việt chỉ là con đẻ
    của văn minh Hoa Hán. Cũng những tài liệu này, nếu đặt trong bối cảnh khoa học ngày nay, khi người ta đã chứng minh có một nền văn hoá Đông Nam Á (Văn Hoá Hoà Bình, Văn Hoá Bách Việt) đã có trước văn minh Hoa Hán, người ta sẽ thấy những nhận xét tinh tế và thông minh của tác giả các tài liệu trên sẽ không còn tròng tréo mà rất .thuận chèo mát máị.
    Xin mời Quí vị đọc bài 2 trong loạt bài của GS. Cao Thế Dung đăng dưới đây để thấy rõ điều đó.
    ====
    Chưa kể đến chữ NÔM, một thành tựu lớn lao của dân
    tộc Việt Nam, chỉ mới nói đến Hán tự thì ta đã có riêng một
    nền Hán tự Việt Nam thật phong phú, khác âm đã đành mà
    về ngữ nghĩa nhiều chữ khác cả nghĩa nguyên tự của chữ
    Hán Trung Hoạ
    NGƯỜI VIỆT BIẾT CHỮ HÁN TỪ THỜI NAÒ
    Một số tài liệu cho rằng, dân tộc Bách Việt khi còn ở Lĩnh
    Nam chưa bị Hoa Hán đồng hoá và tiêu diệt thì đã biết chữ
    Hán hoặc đã có văn tự riêng như dân tộc Choang rất gần gụi với dân tộc Tày Nùng, cùng một dòng Bách Việt (khoảng 15 triệu người ở Quảng Tây) (xem Lý Quang Hồng - Hình bóng chữ Nôm Việt trong chữ vuông Choang - Tạp chí Hán Nôm số 1 (38), 1999, trg 35 - 41). Dân tộc Choang ngày nay, Bắc Kinh qui vào một khối thiểu số gồm cả dân tộc Nùng, có văn tự từ thời cổ cùng một tổng thể văn hoá và truyền thống của dòng Bách Việt. Dân tộc Choang có .Hán tự của Choạng trong Hán tự Trung Hoa và Nôm Choang mà hình tượng rất nhiều chữ na ná như Nôm Việt dù khác nghĩa (xem Lý Hạc Nghi - Nghiên Cứu so sánh chữ vuông Choang và chữ Nôm - Tạp chí Hán Nôm, số 1 (34), 1998, trg 90 - 99).
    Tác giả Phạm Huy Hổ, một nhà Nho được ca tụng là cẩn
    trọng, nghiên cứu công phu các vấn đề cổ sử, và văn minh
    cổ Việt Nam cho rằng : .Thiết tưởng ta biết chữ Hán ấy ngay từ khi họ Hồng Bàng mới dựng nên nước. Hồng Bàng là con cháu họ Thần Nông, biết chữ Hán rồi tất lấy dậy con cháụ
    Xem như hiệu nước, hiệu vua, tên mười tám đời, tên mười
    lăm bộ, và các bách thần đời Hùng, các làng di tích đời
    Hùng, đều phân minh bằng chữ Hán cả. Mười tám đời
    Hùng đều có đủ tên, như là Hùng Uy, Hùng Nghi, Hùng
    Minh, Hùng Duệ, v. v... Ông thần Tản Viên tên là Nguyễn
    Công Tuấn, hiệu Quí Minh, quê ở xã Lăng Xương, huyện
    Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ, hiện còn nhà cũ, làng lập đền
    thờ. Các làng chung quanh kinh đô Hùng Vương ở Việt Trì,
    như là hai bên Tràng Đông, Tràng Nam là kho lương, hai xã
    Lâu Thượng, Lâu Hạ là nhà các mệ các nàng, hai xã Vân
    Đội, Cẩm Đội là trại quân lính, hai xã Phú Nông, Minh
    Nông là sở canh nông, xã Thanh Miếu là nhà thờ vua, xã Nỗ
    Lực là tràng tập bắn. Nay ai đến các làng ấy, người làng
    đó còn ôn chuyện lại được cả.
    Có người cho rằng các danh hiệu trên ấy đời xưa đều bằng
    tiếng Nôm, sau mới đổi ra là chữ Hán. Nói thế thì không am
    hiểu tôn giáo, phong tục nước nhà. Nước nhà thận trọng
    nhất là việc đề bài vị thần. Nay xem các thần đời Hùng có
    nhiều vị duệ hiệu bán tự bán Nôm, có vị nôm na quá, như là
    Ông Cổng, Ông Chấu, Chàng Cả, Chàng Hai v. v... Những
    tên Nôm ấy nếu đổi ra chữ Hán thì có khó gì, thế mà các dân
    đề hiệu, Liệt Triều sắc phong, vẫn cứ để nguyên, là tục ta
    rất kính cẩn việc sự thần, không dám thay đổi một nét. Nhân
    thế lại biết thêm được rằng chữ Nôm ta cũng sinh ra tự bấy
    giờ.. (Phạm Huy Hổ - Việt Nam ta biết chữ Hán từ đời nào ?
    - Nam Phong, số 29, tháng 11/1919, trg 416 -419).
    Ở Quảng Đông tức Việt Đông khi chưa bị Tần xâm chiếm,
    thuộc Bách Việt, Lĩnh Nam, còn một ngôi thành cổ, người
    Việt xưa đặt tên là thành Nam Vũ. Thành này có từ trước khi
    Triệu Đà lấy Lĩnh Nam dựng nước Nam Việt năm 207 trước
    CN. Truyện Lý Ông Trọng cho biết, lúc ông còn trẻ làm kẻ
    tiểu lại bị đòn, ông than rằng : .Làm người mà lại chịu nhục
    thế ư!., ông mới sang Tần (lãnh thổ nước Tần) sau làm quan
    Tư Lệ Hiệu Uý. Lý Ông Trọng sinh trưởng ở Âu Lạc dưới
    triều Thục An Dương Vương (257 - 207 trước CN). Vậy thời
    có thể người đã biết chữ Hán từ thời Viễn Cổ.
    Hán Việt, nghĩa là chữ Hán của người Việt. Chữ Nôm là
    chữ riêng của người Việt, người Tầu không đọc được nếu
    không học chữ Nộm
    TIẾNG VIỆT VÀ GỐC HÁN TỰ TRUNG HOA
    Qua tác phẩm ngữ ngôn Cỗi rể tiếng An Nam, LM Souvignet
    cho rằng tuy gốc Hán nhưng bao nhiêu chữ người Việt dùng
    Hán tự trong văn học và dân gian đã Việt hoá và thành Hán
    Việt. Souvignet đưa ra một số dẫn chứng như sau :
    (Xem P. Souvignet - Cỗi rễ tiếng An Nam - Nam Phong tạp
    chí, số 107, tháng 7/1926, trg 22).
    Căn cứ vào công trình nghiên cứu tiếng Việt của học giả
    Pháp Maspéro và nhất là từ quyển Cỗi rễ tiếng An Nam của
    Souvignet, học giả Phạm Quỳnh tổng luận lại về một nền
    Hán tự riêng của ta gọi là Hán tự Việt Nam tức Hán Việt,
    Phạm học giả cho rằng : .Ngay từ thời kỳ đầu (dưới thời đô
    hộ Hán) tiếng Việt Nam ta đã có chịu ảnh hưởng của tiếng
    Tầụ Trong thứ tiếng .tối cổ Việt Ngữ. đã có nhiều tiếng
    mượn của Tầụ Những tiếng mượn đây là tự người bản dân
    mượn thẳng từ lưu dân Tầu sang ở bên này và đọc đúng
    theo tiếng Tầu về thời đại ấỵ Tự thế kỷ thứ 10 nước Nam
    không nội thuộc Tầu nữa, sự vãng lai hai nước mỗi ngày
    một thưa, những tiếng mượn của Tầu đọc không được đúng
    như của Tầu nữa, dần dần chuyển theo về âm vận An Nam,
    bấy giờ mới thành ra thứ tiếng Hán Việt, nghĩa là chữ Hán
    đọc theo thanh âm Nam Việt. Trong lịch sử ngôn ngữ văn tự
    nước ta, sự thành lập ra thứ tiếng Hán Việt đó cũng là một
    cái hiện tượng kỳ, nhân đó mà tiếng ta có mật thiết quan hệ
    với tiếng Tầu, không phải với tiếng Tầu ngày nay mà là
    tiếng Tầu cổ về thế kỷ thứ 10, vì như trên kia đã nói, tiếng
    Hán Việt tuyệt nhiên không giống cả các tiếng địa phương
    Tầu ngày nay, mà là tiếng Tầu về thế kỷ thứ 10 trong ngót
    nghìn năm biến hoá theo âm luật tiếng An Nạm Nay chữ
    của một thứ tiếng mà trong nghìn năm theo âm vận một thứ
    tiếng khác, thời còn là thuộc về tiếng thứ nhất nữa hay đã
    hẳn là thuộc về tiếng thứ nhì rồi ? Nếu không còn mặt chữ
    đó thời có thể cho là tiếng An Nam được, nhưng chữ viết còn
    đó thời chỉ là chữ Hán đọc theo tiếng Việt mà thội Song cứ
    thực thời cũng là tiếng Nam rồi, một thứ tiếng Nam không
    phải thiên thành, hơi có tính cách nhân tạo một chút, tuy cứ
    lý thuyết thời vừa thuộc tiếng Nam vừa thuộc tiếng Tầu,
    nhưng cứ thực tế thời là tiếng Nam hơn là tiếng Tầu, tức
    cũng như con dơi kia, nhác trông cho là chim cũng được mà
    cho là chuột cũng được, mà thực thời là thuộc về loài có vú
    hơn là loài có cánh.
    Nói tóm lại thì tự thế kỷ thứ 10 đến giờ chúng ta chỉ chung
    với người Tầu có chữ Hán mà thôi, là một thứ .dấu tượng
    ý. (signes ideographiques) chúng ta đọc ra tiếng chúng ta
    mà họ đọc ra tiếng của họ. Nhân đó mới thành ra tiếng Hán
    Việt, không phải là một cách đọc chữ mà thôi, hầu như một
    thứ tiếng riêng vậỵ Thứ tiếng ấy trong mấy thế kỷ ở nước ta
    là thứ tiếng học vấn. Ta vẫn coi là tiếng của ta gọi chữ Hán
    là .chữ tạ, chứ không ai học chữ Hán mà cho là mình học
    chữ ngoại quốc bao giờ.

    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  5. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    ::: Cao Thế Dung :::
    Tìm Hiểu Cội Rễ Tiếng Việt: Hán Tự Và Hán Việt

    Tập San Tư Tưởng
    PO Box 246
    Croydon Park, NSW 2133 AUSTRALIA
    Email: tutuong@telstra.com
    Website: http://tutuong.hypermart.net
    TÌM HIỂU CỖI RỄ TIẾNG VIỆT:
    HÁN TỰ VÀ HÁN VIỆT

    CAO THẾ DUNG
    Lời Toà Soạn : Trong những tài liệu hưởng ứng việc tìm về cội nguồn tiếng nói và chữ viết của người Việt Cổ, đặc biệt nhất có loạt bài của GS. Cao Thế Dụng Đặc biệt không những vì tính cách bác học của bài viết mà còn vì những tài liệu hiếm quí được tác giả dẫn trong bàị Các tài liệu này được viết trong thời mà cái tròng (loof) Hoa Hán vẫn bao trùm lên nền học thuật Việt, trói buộc tư duy của cả những người Việt thông minh nhất, buộc người ta phải tin tộc Việt là do tộc Hoa từ phương Bắc di xuống và văn minh Việt chỉ có do học mót được từ văn minh Trung Hoạ Từ đó người ta cũng được học mọi điều, từ chuyện lớn như tổ chức quốc gia đến chuyện nhỏ như cái ăn cái mặc đều do học được từ phương Bắc. Tiếng nói và chữ viết của người Việt Cổ cũng không thoát khỏi lối tư duy đó. Tuy nhiên tác giả viết ra những tài liệu được dẫn trong bài hình như đã thấy lối suy nghĩ đó như có gì không ổn, đã có những nhận xét độc đáo như muốn vượt thoát ra khỏi cái tròng tư duy quái ác nọ. Và ta thấy được những mâu thuẫn, những tròng tréo nếu vẫn phải chấp nhận quan niệm văn minh Việt chỉ là con đẻ
    của văn minh Hoa Hán. Cũng những tài liệu này, nếu đặt trong bối cảnh khoa học ngày nay, khi người ta đã chứng minh có một nền văn hoá Đông Nam Á (Văn Hoá Hoà Bình, Văn Hoá Bách Việt) đã có trước văn minh Hoa Hán, người ta sẽ thấy những nhận xét tinh tế và thông minh của tác giả các tài liệu trên sẽ không còn tròng tréo mà rất .thuận chèo mát máị.
    Xin mời Quí vị đọc bài 2 trong loạt bài của GS. Cao Thế Dung đăng dưới đây để thấy rõ điều đó.
    ====
    Chưa kể đến chữ NÔM, một thành tựu lớn lao của dân
    tộc Việt Nam, chỉ mới nói đến Hán tự thì ta đã có riêng một
    nền Hán tự Việt Nam thật phong phú, khác âm đã đành mà
    về ngữ nghĩa nhiều chữ khác cả nghĩa nguyên tự của chữ
    Hán Trung Hoạ
    NGƯỜI VIỆT BIẾT CHỮ HÁN TỪ THỜI NAÒ
    Một số tài liệu cho rằng, dân tộc Bách Việt khi còn ở Lĩnh
    Nam chưa bị Hoa Hán đồng hoá và tiêu diệt thì đã biết chữ
    Hán hoặc đã có văn tự riêng như dân tộc Choang rất gần gụi với dân tộc Tày Nùng, cùng một dòng Bách Việt (khoảng 15 triệu người ở Quảng Tây) (xem Lý Quang Hồng - Hình bóng chữ Nôm Việt trong chữ vuông Choang - Tạp chí Hán Nôm số 1 (38), 1999, trg 35 - 41). Dân tộc Choang ngày nay, Bắc Kinh qui vào một khối thiểu số gồm cả dân tộc Nùng, có văn tự từ thời cổ cùng một tổng thể văn hoá và truyền thống của dòng Bách Việt. Dân tộc Choang có .Hán tự của Choạng trong Hán tự Trung Hoa và Nôm Choang mà hình tượng rất nhiều chữ na ná như Nôm Việt dù khác nghĩa (xem Lý Hạc Nghi - Nghiên Cứu so sánh chữ vuông Choang và chữ Nôm - Tạp chí Hán Nôm, số 1 (34), 1998, trg 90 - 99).
    Tác giả Phạm Huy Hổ, một nhà Nho được ca tụng là cẩn
    trọng, nghiên cứu công phu các vấn đề cổ sử, và văn minh
    cổ Việt Nam cho rằng : .Thiết tưởng ta biết chữ Hán ấy ngay từ khi họ Hồng Bàng mới dựng nên nước. Hồng Bàng là con cháu họ Thần Nông, biết chữ Hán rồi tất lấy dậy con cháụ
    Xem như hiệu nước, hiệu vua, tên mười tám đời, tên mười
    lăm bộ, và các bách thần đời Hùng, các làng di tích đời
    Hùng, đều phân minh bằng chữ Hán cả. Mười tám đời
    Hùng đều có đủ tên, như là Hùng Uy, Hùng Nghi, Hùng
    Minh, Hùng Duệ, v. v... Ông thần Tản Viên tên là Nguyễn
    Công Tuấn, hiệu Quí Minh, quê ở xã Lăng Xương, huyện
    Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ, hiện còn nhà cũ, làng lập đền
    thờ. Các làng chung quanh kinh đô Hùng Vương ở Việt Trì,
    như là hai bên Tràng Đông, Tràng Nam là kho lương, hai xã
    Lâu Thượng, Lâu Hạ là nhà các mệ các nàng, hai xã Vân
    Đội, Cẩm Đội là trại quân lính, hai xã Phú Nông, Minh
    Nông là sở canh nông, xã Thanh Miếu là nhà thờ vua, xã Nỗ
    Lực là tràng tập bắn. Nay ai đến các làng ấy, người làng
    đó còn ôn chuyện lại được cả.
    Có người cho rằng các danh hiệu trên ấy đời xưa đều bằng
    tiếng Nôm, sau mới đổi ra là chữ Hán. Nói thế thì không am
    hiểu tôn giáo, phong tục nước nhà. Nước nhà thận trọng
    nhất là việc đề bài vị thần. Nay xem các thần đời Hùng có
    nhiều vị duệ hiệu bán tự bán Nôm, có vị nôm na quá, như là
    Ông Cổng, Ông Chấu, Chàng Cả, Chàng Hai v. v... Những
    tên Nôm ấy nếu đổi ra chữ Hán thì có khó gì, thế mà các dân
    đề hiệu, Liệt Triều sắc phong, vẫn cứ để nguyên, là tục ta
    rất kính cẩn việc sự thần, không dám thay đổi một nét. Nhân
    thế lại biết thêm được rằng chữ Nôm ta cũng sinh ra tự bấy
    giờ.. (Phạm Huy Hổ - Việt Nam ta biết chữ Hán từ đời nào ?
    - Nam Phong, số 29, tháng 11/1919, trg 416 -419).
    Ở Quảng Đông tức Việt Đông khi chưa bị Tần xâm chiếm,
    thuộc Bách Việt, Lĩnh Nam, còn một ngôi thành cổ, người
    Việt xưa đặt tên là thành Nam Vũ. Thành này có từ trước khi
    Triệu Đà lấy Lĩnh Nam dựng nước Nam Việt năm 207 trước
    CN. Truyện Lý Ông Trọng cho biết, lúc ông còn trẻ làm kẻ
    tiểu lại bị đòn, ông than rằng : .Làm người mà lại chịu nhục
    thế ư!., ông mới sang Tần (lãnh thổ nước Tần) sau làm quan
    Tư Lệ Hiệu Uý. Lý Ông Trọng sinh trưởng ở Âu Lạc dưới
    triều Thục An Dương Vương (257 - 207 trước CN). Vậy thời
    có thể người đã biết chữ Hán từ thời Viễn Cổ.
    Hán Việt, nghĩa là chữ Hán của người Việt. Chữ Nôm là
    chữ riêng của người Việt, người Tầu không đọc được nếu
    không học chữ Nộm
    TIẾNG VIỆT VÀ GỐC HÁN TỰ TRUNG HOA
    Qua tác phẩm ngữ ngôn Cỗi rể tiếng An Nam, LM Souvignet
    cho rằng tuy gốc Hán nhưng bao nhiêu chữ người Việt dùng
    Hán tự trong văn học và dân gian đã Việt hoá và thành Hán
    Việt. Souvignet đưa ra một số dẫn chứng như sau :
    (Xem P. Souvignet - Cỗi rễ tiếng An Nam - Nam Phong tạp
    chí, số 107, tháng 7/1926, trg 22).
    Căn cứ vào công trình nghiên cứu tiếng Việt của học giả
    Pháp Maspéro và nhất là từ quyển Cỗi rễ tiếng An Nam của
    Souvignet, học giả Phạm Quỳnh tổng luận lại về một nền
    Hán tự riêng của ta gọi là Hán tự Việt Nam tức Hán Việt,
    Phạm học giả cho rằng : .Ngay từ thời kỳ đầu (dưới thời đô
    hộ Hán) tiếng Việt Nam ta đã có chịu ảnh hưởng của tiếng
    Tầụ Trong thứ tiếng .tối cổ Việt Ngữ. đã có nhiều tiếng
    mượn của Tầụ Những tiếng mượn đây là tự người bản dân
    mượn thẳng từ lưu dân Tầu sang ở bên này và đọc đúng
    theo tiếng Tầu về thời đại ấỵ Tự thế kỷ thứ 10 nước Nam
    không nội thuộc Tầu nữa, sự vãng lai hai nước mỗi ngày
    một thưa, những tiếng mượn của Tầu đọc không được đúng
    như của Tầu nữa, dần dần chuyển theo về âm vận An Nam,
    bấy giờ mới thành ra thứ tiếng Hán Việt, nghĩa là chữ Hán
    đọc theo thanh âm Nam Việt. Trong lịch sử ngôn ngữ văn tự
    nước ta, sự thành lập ra thứ tiếng Hán Việt đó cũng là một
    cái hiện tượng kỳ, nhân đó mà tiếng ta có mật thiết quan hệ
    với tiếng Tầu, không phải với tiếng Tầu ngày nay mà là
    tiếng Tầu cổ về thế kỷ thứ 10, vì như trên kia đã nói, tiếng
    Hán Việt tuyệt nhiên không giống cả các tiếng địa phương
    Tầu ngày nay, mà là tiếng Tầu về thế kỷ thứ 10 trong ngót
    nghìn năm biến hoá theo âm luật tiếng An Nạm Nay chữ
    của một thứ tiếng mà trong nghìn năm theo âm vận một thứ
    tiếng khác, thời còn là thuộc về tiếng thứ nhất nữa hay đã
    hẳn là thuộc về tiếng thứ nhì rồi ? Nếu không còn mặt chữ
    đó thời có thể cho là tiếng An Nam được, nhưng chữ viết còn
    đó thời chỉ là chữ Hán đọc theo tiếng Việt mà thội Song cứ
    thực thời cũng là tiếng Nam rồi, một thứ tiếng Nam không
    phải thiên thành, hơi có tính cách nhân tạo một chút, tuy cứ
    lý thuyết thời vừa thuộc tiếng Nam vừa thuộc tiếng Tầu,
    nhưng cứ thực tế thời là tiếng Nam hơn là tiếng Tầu, tức
    cũng như con dơi kia, nhác trông cho là chim cũng được mà
    cho là chuột cũng được, mà thực thời là thuộc về loài có vú
    hơn là loài có cánh.
    Nói tóm lại thì tự thế kỷ thứ 10 đến giờ chúng ta chỉ chung
    với người Tầu có chữ Hán mà thôi, là một thứ .dấu tượng
    ý. (signes ideographiques) chúng ta đọc ra tiếng chúng ta
    mà họ đọc ra tiếng của họ. Nhân đó mới thành ra tiếng Hán
    Việt, không phải là một cách đọc chữ mà thôi, hầu như một
    thứ tiếng riêng vậỵ Thứ tiếng ấy trong mấy thế kỷ ở nước ta
    là thứ tiếng học vấn. Ta vẫn coi là tiếng của ta gọi chữ Hán
    là .chữ tạ, chứ không ai học chữ Hán mà cho là mình học
    chữ ngoại quốc bao giờ.

    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  6. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Tiếng .Hán Việt. ấy là tiếng học vấn, tiếng giáo dục, mỗi
    ngày một thấm nhập vào tiếng thông thường trong dân gian,
    mà chính tiếng thông thường trong dân gian, ngoài một cái
    gốc Nôm lõi, còn thời nhiều chữ cũng là chuyển lai tự tiếng
    Tầu mà âm vận biến hoá theo một cái phương pháp riêng sẽ
    giải sau này, cho nên tiếng .chữ.với tiếng .Nộm thời mất
    những cái đặc tính trong cú pháp Tầu mà cũng uốn theo
    hình thức tiếng An Nam, thành ra một thứ tiếng rất phong
    phú và rất phức tạp, chính là tiếng văn chương của ta, như
    tiếng truyện Kiều và các thơ truyện khác.. (Phạm Quỳnh -
    Hán Việt văn tự - Nam Phong số 107, tháng 7/1926, trg 12 -
    20, trích toàn văn).
    SỰ ĐA TẠP CUẢ TIẾNG VIỆT
    Học giả Maspéro nghiên cứu sâu xa về tiếng Việt, cho rằng,
    mỗi một thời kỳ, tiếng An Nam đều có sự thay đổi trong âm
    vận. Theo Maspéro, qua năm thời kỳ thì thời kỳ tối cổ Việt
    ngữ đã có nhiều tiếng mượn của Tầụ Trải qua cả ngàn năm,
    tiếng Việt ngày nay, gọi là Việt ngữ cận đại (l.Annamite
    moderne), đã trở thành Việt ngữ, ta chỉ còn chung với người
    Tầu chữ Hán mà thôi, một thứ dấu tượng ý (signes
    idéographiques) người Việt đọc ra tiếng Việt mà người Tầu
    đọc ra tiếng của họ nên mới thành Hán tự của Trung Hoa và
    Hán tự của Việt Nạm Những chữ Hán Việt, nghĩa dùng hẹp
    lại hay sai đi, nên viết thành thứ chữ Hán mà người Tầu
    cũng không hiểu được theo ngữ nghĩa của người Việt, do
    khác nguyên nghĩa vậỵ (Xem H. Maspéro - Etudes sur la
    phonétique historique de la langue annamite - Les Initiales
    - BEFEO, T.XII, No 1 -1912).
    Đó là những chữ do người Việt sáng tạo ra như chữ tiệt
    nhiên (tuyệt nhiên) trong bài thơ Nam Quốc Sơn Hà của Lý
    Thường Kiệt. Nhưng số chữ Hán Việt .chân chính. vẫn
    chiếm một số lượng khá lớn, chỉ đọc theo tiếng Việt mà vẫn
    giữ nguyên nghĩa của Hán tự Tầu, thí dụ như nhân, nghĩa,
    lễ, trí, tín, quân tử, tiểu nhận Có nhiều chữ đã quen dùng
    và quen tai cả ngàn năm, ta tưởng là tiếng Việt thuần tuý, là
    Nôm nhưng lại là tiếng Hán của Tầu đọc na ná âm Tầu hơn
    là âm Hán Việt.
    Nhà ngữ học Souvignet cho rằng tiếng Việt là sự pha trộn cả
    tiếng Miên, tiếng Khasi Đông bộ Ấn, tiếng Chiêm Thành,
    tiếng Mã Lai, tiếng Thái, tiếng Tầụ Souvignet so sánh các
    thứ tiếng ấy với nhau (chủ yếu là 4 loại) thấy tiếng Việt với
    tiếng Mã Lai có 1088 chữ đối chiếu giống nhau, ông kết
    luận rằng tiếng An Nam không thân thuộc với hai loại
    tiếngTầu và tiếng Thái mà chính là thân thuộc với loại
    tiếng Ấn Độ, Mã Lai vậỵ Tiếng Chàm và tiếng Tầu có quan
    hệ .chú bác anh ẹm trong khi tiếng Việt và tiếng Chàm với
    các phụ âm rất giống nhạu Dấu sắc của tiếng Việt tương
    đương với dấu pô-cá của tiếng Chàm, dấu huyền tương
    đương với dấu pà-lầu, dấu hỏi tương đương với dấu pô-thớ,
    dấu ngã tương đương với dấu pố-chà-ní, chỉ có dấu nặng
    tiếng Chàm không dùng dấu mà dùng những phụ âm đặc
    biệt. (Nguyễn Khắc Ngữ - Nguồn gốc dân tộc - Montréal
    1985, trg 132 - 133). Có vào khoảng vài trăm chữ Việt và
    Chàm giống nhau như băng (Chàm) = ăn; a râm = rậm; aw =
    áo; huyên = huyền (đen); mat = mặt; mek = mẹ; ni = này; hót
    = hóc ... (Xem Moussay Gérard Dictionnaire Cam Vietnam
    Francais - Centre Culturel Chạm Pharang 1971).
    Souvignet kết luận rất đúng khi cho rằng : .Tôi không dám
    cho tiếng An Nam là gốc tiếng Tầụ. Souvignet lại cho rằng,
    tiếng Tầu có vai trò điều hoà trong tiếng Việt : .Tiếng An
    Nam là hỗn hợp nhiều thứ tiếng mà thành ra, phiền phức
    tạp dạp như thế, mới nghe không khỏi lấy làm lạ. Ai cũng
    tưởng tiếng An Nam có cái vẻ thuần tuý nhất trí hợn Phàm
    tiếng nói, bao nhiêu chữ đều đúc theo một cái khuôn tự
    nhiên, cũng có một cái cỗi rễ chung; ấy ý kiến thông thường
    của người ta như thế. Nay tiếng An Nam lại khác hẳn : như
    món đồ thập cẩm thứ gì cũng có.
    Song, nói cho cùng, sự phức tạp đó không phải là không
    hay cho tiếng An Nam; nhờ đó mà tiếng An Nam được phong
    phú. Các tiếng lân cận không có tiếng nước nào hình thể
    sán lạn mà âm điệu véo von bằng tiếng An Nam ... Tiếng An
    Nam vừa mượn tiếng Tầu, vừa mượn tiếng Ấn Độ, Mã Lai -
    lại nhân đó tự chế tác thêm ra nữa - kể còn giàu hơn tiếng
    Hán Việt nhiềụ Xem như thế thì tiếng An Nam hình thể âm
    vận hay hơn tiếng Tầu biết bao nhiêu : tiếng Tầu quanh đi
    quẩn lại chỉ có 400 vần ...
    Tiếng An Nam tuy vốn không được nhất trí như thế, nhưng
    vẫn có cái vẻ thuần nhất. Nào Mon, nào Mên, nào Mã Lai,
    nào tiếng Thái, bấy nhiêu chất hình như hoá hợp cả là một,
    là nhờ cái ảnh hưởng của tiếng Tầu điều hoà.. (Nam Phong
    số 110, tháng 10/1926, trg 324).
    SỰ KHÁC BIỆT GIỮA HÁN TỰ TẦU VÀ HÁN TỰ VIỆT
    Qua hơn 1.000 năm Bắc thuộc, chữ Hán đã thành quốc tự
    của tạ Người Việt coi Hán tự là chữ của nước ta trước đây
    nhưng ta đã có riêng một nền Hán tự gọi là Hán Việt. Thí dụ
    một chữ bất đã ghép với nhiều từ thuần Việt như bất cần.
    Bất không còn nghĩa chính của nó là không như bất thình
    lình, bất chợt.
    Về âm ngữ, Trần Cương, Sứ thần nhà Nguyên đến Thăng
    Long năm 1293, trong An Nam Tứ sự, Sứ thần cho rằng :
    .Tiếng nói líu lo, nói nhanh mà bổng, rất giống tiếng chịm.
    (Lê Quí Đôn Toàn tập, Kiến Văn tiểu lục - Bản dịch của
    Phạm Trọng Điềm, trg 69). Ấy thế mà tổ tiên ta đã Việt âm
    hoá Hán tự thành Hán Việt. Đây là một thành tựu kỳ diệu
    của dân tộc Việt Nạm
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  7. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Tiếng .Hán Việt. ấy là tiếng học vấn, tiếng giáo dục, mỗi
    ngày một thấm nhập vào tiếng thông thường trong dân gian,
    mà chính tiếng thông thường trong dân gian, ngoài một cái
    gốc Nôm lõi, còn thời nhiều chữ cũng là chuyển lai tự tiếng
    Tầu mà âm vận biến hoá theo một cái phương pháp riêng sẽ
    giải sau này, cho nên tiếng .chữ.với tiếng .Nộm thời mất
    những cái đặc tính trong cú pháp Tầu mà cũng uốn theo
    hình thức tiếng An Nam, thành ra một thứ tiếng rất phong
    phú và rất phức tạp, chính là tiếng văn chương của ta, như
    tiếng truyện Kiều và các thơ truyện khác.. (Phạm Quỳnh -
    Hán Việt văn tự - Nam Phong số 107, tháng 7/1926, trg 12 -
    20, trích toàn văn).
    SỰ ĐA TẠP CUẢ TIẾNG VIỆT
    Học giả Maspéro nghiên cứu sâu xa về tiếng Việt, cho rằng,
    mỗi một thời kỳ, tiếng An Nam đều có sự thay đổi trong âm
    vận. Theo Maspéro, qua năm thời kỳ thì thời kỳ tối cổ Việt
    ngữ đã có nhiều tiếng mượn của Tầụ Trải qua cả ngàn năm,
    tiếng Việt ngày nay, gọi là Việt ngữ cận đại (l.Annamite
    moderne), đã trở thành Việt ngữ, ta chỉ còn chung với người
    Tầu chữ Hán mà thôi, một thứ dấu tượng ý (signes
    idéographiques) người Việt đọc ra tiếng Việt mà người Tầu
    đọc ra tiếng của họ nên mới thành Hán tự của Trung Hoa và
    Hán tự của Việt Nạm Những chữ Hán Việt, nghĩa dùng hẹp
    lại hay sai đi, nên viết thành thứ chữ Hán mà người Tầu
    cũng không hiểu được theo ngữ nghĩa của người Việt, do
    khác nguyên nghĩa vậỵ (Xem H. Maspéro - Etudes sur la
    phonétique historique de la langue annamite - Les Initiales
    - BEFEO, T.XII, No 1 -1912).
    Đó là những chữ do người Việt sáng tạo ra như chữ tiệt
    nhiên (tuyệt nhiên) trong bài thơ Nam Quốc Sơn Hà của Lý
    Thường Kiệt. Nhưng số chữ Hán Việt .chân chính. vẫn
    chiếm một số lượng khá lớn, chỉ đọc theo tiếng Việt mà vẫn
    giữ nguyên nghĩa của Hán tự Tầu, thí dụ như nhân, nghĩa,
    lễ, trí, tín, quân tử, tiểu nhận Có nhiều chữ đã quen dùng
    và quen tai cả ngàn năm, ta tưởng là tiếng Việt thuần tuý, là
    Nôm nhưng lại là tiếng Hán của Tầu đọc na ná âm Tầu hơn
    là âm Hán Việt.
    Nhà ngữ học Souvignet cho rằng tiếng Việt là sự pha trộn cả
    tiếng Miên, tiếng Khasi Đông bộ Ấn, tiếng Chiêm Thành,
    tiếng Mã Lai, tiếng Thái, tiếng Tầụ Souvignet so sánh các
    thứ tiếng ấy với nhau (chủ yếu là 4 loại) thấy tiếng Việt với
    tiếng Mã Lai có 1088 chữ đối chiếu giống nhau, ông kết
    luận rằng tiếng An Nam không thân thuộc với hai loại
    tiếngTầu và tiếng Thái mà chính là thân thuộc với loại
    tiếng Ấn Độ, Mã Lai vậỵ Tiếng Chàm và tiếng Tầu có quan
    hệ .chú bác anh ẹm trong khi tiếng Việt và tiếng Chàm với
    các phụ âm rất giống nhạu Dấu sắc của tiếng Việt tương
    đương với dấu pô-cá của tiếng Chàm, dấu huyền tương
    đương với dấu pà-lầu, dấu hỏi tương đương với dấu pô-thớ,
    dấu ngã tương đương với dấu pố-chà-ní, chỉ có dấu nặng
    tiếng Chàm không dùng dấu mà dùng những phụ âm đặc
    biệt. (Nguyễn Khắc Ngữ - Nguồn gốc dân tộc - Montréal
    1985, trg 132 - 133). Có vào khoảng vài trăm chữ Việt và
    Chàm giống nhau như băng (Chàm) = ăn; a râm = rậm; aw =
    áo; huyên = huyền (đen); mat = mặt; mek = mẹ; ni = này; hót
    = hóc ... (Xem Moussay Gérard Dictionnaire Cam Vietnam
    Francais - Centre Culturel Chạm Pharang 1971).
    Souvignet kết luận rất đúng khi cho rằng : .Tôi không dám
    cho tiếng An Nam là gốc tiếng Tầụ. Souvignet lại cho rằng,
    tiếng Tầu có vai trò điều hoà trong tiếng Việt : .Tiếng An
    Nam là hỗn hợp nhiều thứ tiếng mà thành ra, phiền phức
    tạp dạp như thế, mới nghe không khỏi lấy làm lạ. Ai cũng
    tưởng tiếng An Nam có cái vẻ thuần tuý nhất trí hợn Phàm
    tiếng nói, bao nhiêu chữ đều đúc theo một cái khuôn tự
    nhiên, cũng có một cái cỗi rễ chung; ấy ý kiến thông thường
    của người ta như thế. Nay tiếng An Nam lại khác hẳn : như
    món đồ thập cẩm thứ gì cũng có.
    Song, nói cho cùng, sự phức tạp đó không phải là không
    hay cho tiếng An Nam; nhờ đó mà tiếng An Nam được phong
    phú. Các tiếng lân cận không có tiếng nước nào hình thể
    sán lạn mà âm điệu véo von bằng tiếng An Nam ... Tiếng An
    Nam vừa mượn tiếng Tầu, vừa mượn tiếng Ấn Độ, Mã Lai -
    lại nhân đó tự chế tác thêm ra nữa - kể còn giàu hơn tiếng
    Hán Việt nhiềụ Xem như thế thì tiếng An Nam hình thể âm
    vận hay hơn tiếng Tầu biết bao nhiêu : tiếng Tầu quanh đi
    quẩn lại chỉ có 400 vần ...
    Tiếng An Nam tuy vốn không được nhất trí như thế, nhưng
    vẫn có cái vẻ thuần nhất. Nào Mon, nào Mên, nào Mã Lai,
    nào tiếng Thái, bấy nhiêu chất hình như hoá hợp cả là một,
    là nhờ cái ảnh hưởng của tiếng Tầu điều hoà.. (Nam Phong
    số 110, tháng 10/1926, trg 324).
    SỰ KHÁC BIỆT GIỮA HÁN TỰ TẦU VÀ HÁN TỰ VIỆT
    Qua hơn 1.000 năm Bắc thuộc, chữ Hán đã thành quốc tự
    của tạ Người Việt coi Hán tự là chữ của nước ta trước đây
    nhưng ta đã có riêng một nền Hán tự gọi là Hán Việt. Thí dụ
    một chữ bất đã ghép với nhiều từ thuần Việt như bất cần.
    Bất không còn nghĩa chính của nó là không như bất thình
    lình, bất chợt.
    Về âm ngữ, Trần Cương, Sứ thần nhà Nguyên đến Thăng
    Long năm 1293, trong An Nam Tứ sự, Sứ thần cho rằng :
    .Tiếng nói líu lo, nói nhanh mà bổng, rất giống tiếng chịm.
    (Lê Quí Đôn Toàn tập, Kiến Văn tiểu lục - Bản dịch của
    Phạm Trọng Điềm, trg 69). Ấy thế mà tổ tiên ta đã Việt âm
    hoá Hán tự thành Hán Việt. Đây là một thành tựu kỳ diệu
    của dân tộc Việt Nạm
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  8. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Hồ Hữu Tường cho rằng : .Trong tiếng Việt ngày nay, phần
    nhiều là tiếng mượn của Tầu, hoặc là tiếng Hán Việt vừa
    đơn, vừa kép, hoặc là tiếng đã Việt hoá. Những tiếng về
    loại này thì mỗi âm riêng đều có nghĩạ
    Còn một phần ít hơn, song cũng quan trọng, là những tiếng
    hoàn toàn Nộm Xét về phần này, người khảo cứu có thể
    đặt một câu hỏi vô cùng quan hệ. Ấy là, tiếng Việt là một
    thứ tiếng đơn âm hay là một thứ tiếng phức ậm.
    và : .Chẳng những tiếng Việt có những tiếng hai âm, những
    tiếng ba âm mới có nghĩa, mà ta còn thấy thêm một hiện
    tượng này rất quan hệ. Ấy là mỗi khi người Việt dùng một
    tiếng một âm, thì thấy chừng như có gì là lạ, ngượng ngùng,
    trơ trẽn, nên hay thêm một tiếng đệm. Tiếng đệm này không
    có nghĩa gì cả, mà chỉ dùng để đa âm hoá tiếng lẻ loi kia
    thội Như dễ, nhẹ, nặng ... đều có nghĩa, nhưng người ta hay
    nói dễ dàng, nhẹ nhàng, nặng nề ... Hình như trong bản
    năng của người Việt, dùng lối sau này thì có vẻ thuần là
    Việt Nam hợn. (Lịch sử văn chương Việt Nam, Lê Lợi, Paris
    1949, trg 28).
    Do Hán tự là chữ tượng hình (idéogrammes) chứ không phải
    là lối chữ ghi âm (écriture phonétique) nên khi nhìn chữ
    đọc rất dễ sai lầm. Hơn nữa, Trung Hoa gồm nhiều các dân
    tộc như Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng .giống nào cũng có
    thứ chữ riêng của mình. (xem Tăn Văn Hí - Nhận thức về
    chữ Hán - Văn Hoá tập san số 4, T. XXII, Saigon 1873, trg 1 -
    4), lại có tới khoảng 70 thổ ngữ, ấy là chưa kể thổ ngữ Đài
    Loan và Hải Nạm Mỗi thổ ngữ (dialectes) lại có thêm nhiều
    thổ âm (accent régional). Riêng Quảng Đông với trên 80
    triệu dân nói tiếng Quảng Đông nhưng lại có nhiều thổ âm
    khác nhạu Nhưng với sự phức tạp này, Hán tự du nhập vào
    ngôn ngữ Việt Nam mà .Việt ngữ thuộc vào hạng ngôn ngữ
    độc thể (P. langue isolante), mỗi tiếng lẻ là một ngữ tố (P.
    morphème), nên tiếng lẻ không có phân tích ra phần gốc (P.
    racine) và phần tiếp (P. affixes), nghĩa là phân tích ra nhiều
    ngữ tố, như tiếng lẻ trong Pháp ngữ hay Anh ngữ thuộc vào
    hạng ngôn ngữ phối thể. Vậy tiếng lẻ là đơn vị nhỏ nhất
    của Việt ngữ.. (Trương Văn Chỉnh và Nguyễn Hiến Lê -
    Một phương pháp nghiên cứu ngữ pháp Việt Nam - Đại học
    (Huế) số 6, tháng 12/1961, trg 63 - 82). Ta đã Việt âm hoá từ
    một yếu tố nhỏ nhất của Hán tự Tầu để thành Hán tự Việt và
    cuối cùng hàng ngàn từ Hán Việt lại là ngôn ngữ độc thể,
    thành Việt ngữ.
    Hán Việt, phân biệt làm ba loại, Hán Việt cổ, được dùng
    để chỉ những yếu tố gốc Hán du nhập lẻ tẻ vào tiếng Việt
    trước thời Trung Đường thế kỷ thứ 7, phân biệt với các từ
    Hán Việt, với yếu tố Hán du nhập có hệ thống vào cuối đời
    Đường, thế kỷ thứ 9 và 10 (nhà Đướng 618 - 906). Loại Hán
    Việt Việt hoá xuất hiện do kết quả Việt hoá các yếu tố Hán
    (Hán Việt cổ, vay mượn chữ Hán phản ảnh qua bộ Thiết Vận
    của Lục Pháp Ngôn ra đời vào năm 601). Riêng một Hán
    Việt cổ, vay mượn của từ Hán, kết quả khảo sát, theo nhà
    ngôn ngữ Vương Lộc cho thấy : Trong 332 đơn vị được xác
    nhận là Hán Việt cổ có : 158 danh từ chiếm tỷ lệ 47,5%; 142
    động từ chiếm tỷ lệ 42,8%; 29 tĩnh từ, chiếm tỷ lệ 8,7%; với
    hai phó từ (bèn, cùng), 1 giới từ (vì) chiếm tỷ lệ không đáng
    kể. Trên 1.000 năm tuổi thọ, Hán Việt cổ đã trở nên những
    từ cơ bản, tồn tại trong kho từ vựng tiếng Việt như những từ
    thuần Việt thực sự. (xem Vương Lộc - Một vài kết quả bước
    đầu trong việc khảo sát từ Hán Việt cổ - Tạp chí Ngôn Ngữ
    số 1, 1985, trg 24 - 31).
    Lẽ tự nhiên là ngữ pháp Việt ngữ khác ngữ pháp Tầụ Trong
    văn chương Hán Việt, từ hư từ đến phụ từ, Hán Việt cũng
    khác văn ngôn Hán tự. Thí dụ : về tiếng Việt thuần tuý, phụ
    từ là vốn là một hư từ do động từ mà ra, trong nhiều trường
    hợp, phụ từ là có thể dùng thay thế cho phụ từ rằng. Phụ từ
    mà dẫn đầu một mệnh đề chỉ định, có phận sự làm rõ thêm
    ý nghĩa của từ ngữ làm chủ hay túc từ của mệnh đề. (Lê Văn
    Lý, Tiến sĩ Văn chương - Sơ thảo Ngữ pháp Việt Nam - Dân
    Chúa tái bản, trg 138 -139). Chữ Hán thực từ có thể trở
    thành hư từ và phụ từ thì Hán Việt cũng như thế. Phụ từ đấy
    (đôi khi thế) thêm vào sau một số câu nghi vấn để nhấn
    mạnh và làm cho câu hỏi linh động hơn hoặc phụ từ đấy vào
    sau câu khẳng định làm cho câu khẳng định mạnh hơn (Lê
    Văn Lý - sđd, trg 145). Hán Việt cũng như thế, như phụ từ hà
    trong câu hà tư, là lự, thể nghi vấn mà lại trở thành khẳng
    định (Lo làm gì! Nghĩ làm gì!). Phó từ trong Hán Việt sử
    dụng linh động và phong phú hơn Hán tự Trung Hoạ
    Âm Hán tự như trên đã trình bầy, rất phức tạp. Người Việt
    mượn chữ Hán Trung Hoa, đọc theo âm Việt, ghi âm thành
    các chữ Hán khác nhau với các nghĩa khác nhau để trở thành
    một từ Hán Việt. Thí dụ chữ bảo : . Cũng như vậy, ta
    mượn chữ Hán rồi hợp dung với một số từ để tạo thành từ
    kép đa âm Hán Việt, thí dụ như chữ hàn (rét, lạnh) thành
    hàn vi, cơ hàn, bần hàn, hàn huyên, có khi ta mượn nguyên
    cụm từ của Hán tự như Hàn lâm viện. Ta lại khác Hán tự của
    Tầu : người Tầu dùng chữ hàn lưu, Hán Việt gọi chung là
    hải lưu (dòng nước đại dương chẩy theo một phương hướng
    nhất định, từ Nam cực hay Bắc cực chảy đến với ôn độ thấp
    gọi là hàn lưu mới đúng). Hán tự phức tạp hơn, dòng nước
    từ xích đạo chẩy tới ôn độ cao hơn gọi là noãn lưu, hàn lưu
    còn gọi là lưỡng cực lựu Hán Việt đơn giản gọi chung là
    hải lưu như hải lưu Bắc cực, Nam cực, hải lưu xích đạo).
    Tiếng đồng âm Hán tự Tầu phân biệt nghĩa nhờ vào dạng
    tự, Hán Việt lại do sự dung hợp của các tiếng đơn âm thành
    từ kép đa âm : thảo (cỏ), thành thảo luận, hiếu thảo, cam
    thảo, thảo nào (tán thán từ), thảo khấụ Nhiều chữ Hán của
    Tầu ta không dùng như thảo muội (thời kỳ sơ khai của thế
    giới) ta gọi là sơ khai hay bán khại Chữ thảo cứu của Tầu
    có nghĩa là nghiên cứu và học tập, ta không dùng chữ này
    mà gọi chung là nghiên cứụ Có khi ta mượn cả một cụm từ
    của Hán tự Tầu như .thảo trạch anh hùng. với nghĩa đẹp
    (chứ không có nghĩa là làm loạn) để chỉ người tài giỏi xuất
    thân từ chốn đồng quê nội cỏ như Lê Lợi, Quang Trung,
    cũng có khi là nổi loạn chống triều đình không thành công
    nhưng là người anh hùng vẫn gọi là .thảo trạch anh hùng..
    Cách đọc yếu tố Hán trong Hán Việt theo sự biến đổi phụ
    âm đầu, âm giữa, âm cuối theo qui luật cấu tạo âm và âm vị
    của tiếngViệt. Hán Việt giữ lại chung âm và thay phụ âm
    đầụ Thí dụ : (shui), thuỷ; (shải), sắt; (bei),
    bắc; (tian), thiên; (yuan), viện Rất nhiều từ giống
    nhau đến khoảng 50% về cả phụ âm đầu và khuôn âm tiết,
    thí dụ (an), yêu; (ben),bản; (hui), hoả; (nui),
    mộc; (tu), thổ. Do những cảm nhận riêng của người Việt,
    hoặc do tính tuỳ tiện, để vay mượn từ Hán làm thành Hán
    Việt, đơn giản hoá, không cần nghĩa gốc của từ Hán mà
    hiểu theo nghĩa Việt. Đó là sắc thái đặc biệt của Hán Việt.
    Thí dụ qui củ, theo nghĩa gốc Hán thì qui là dụng cụ để vẽ
    vòng tròn (cái com-pa), củ là dụng cụ để vẽ ô vuông (cái ê-
    ke). Qua Hán Việt, qui củ là khuôn thước, theo pháp độ, đâu
    ra đó. Mô và phạm theo nghĩa Hán tự thì mô là cái khuôn
    bằng gỗ, phạm là cái khuôn bằng trẹ Mô trong Hán Việt là
    khuôn phép, nhà giáo gọi là nhà mô phạm. Hán Việt gọi là
    Giám mục; Tầu gọi là Chủ giáo; Ta gọi là Linh mục; Tầu gọi
    là Thần phụ; Ta gọi là Giáng sinh, Tầu gọi là Thánh đản.
    Bài thơ Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt đọc bên
    sông Như Nguyệt mùa Xuân 1076 có ba từ ghép là tiệt
    nhiên, nghịch lỗ, bại hư, không thấy ghi trong các từ điển
    thường dùng của Trung Hoa như Từ Nguyên và Khang Hỵ
    Tìm trong thơ văn Lý Trần có rất nhiều từ Hán Việt khác
    nghĩa hay không có trong Hán tự Trung Hoạ Chữ Việt trong
    quốc hiệu Đại Việt viết ở Toàn thư cũng như Cương mục và
    Việt sử lược thì chữ Việt này gồm chữ tẩu chạy trốn và
    chữ Tuất giờ Tuất. Nhưng tra Khang Hy từ điển thì chữ
    Việt ở bộ tẩu bằng chữ tẩu cạnh chữ Việt . Chữ tẩu
    cạnh chữ tuất không đọc là Việt mà lại là chữ khác, âm đọc
    .hứa duật, huân nhập thạnh là chữ huật có nghĩa là tẩu,
    chạỵ Khang Hy từ điển còn ghi rõ .dữ Việt bất đồng. (khác
    với chữ Việt). Tự điển Hán Việt của Triều Chửu viết chữ
    Việt đúng như Khang Hy từ điển nhưng không có chữ .huật.
    (bộ tẩu bên chữ tuất). Trong từ điển Trung Hoa, bất tỉnh
    nhân sự có hai nghĩa, không rõ việc đời, hôn mê mất trí.
    Những từ Hán trong một số bài thơ của Nguyễn Khuyến mà
    người Tầu rất thông thạo cổ văn cũng không hiểu nổi như
    chữ hoà cước, châu lúạ (Vũ Tuấn Sán - Chữ Hán của người
    Việt - Tạp chí Hán Nôm số 1, 1996,trg 18 - 24).
    Tiếng Bạch thoại lại càng nhiều chữ khác nghĩa với Hán
    Việt. Sự tình cũng là sự việc nhưng Hán Việt thì sự tình là
    đầu đuôi công việc, sự việc (thí dụ : anh cho tôi biết sự tình
    việc ấy như thế nào). Chữ thâm tâm, Hán tự nghĩa là lòng
    sâu, hiểm; Hán Việt có nghĩa là tận đáy lòng. Thân hào,
    Hán tự chỉ hạng người tai mắt, giới trí thức; Hán Việt là hào
    trưởng trong làng, ở địa phương (thân hào nhân sĩ). Thần
    tượng, Hán tự là tượng một vị thần, di tượng : người đã qua
    đời; Hán Việt thì thần tượng là biểu tượng mà ta ái mộ (thí
    dụ : tài tử X là thần tượng của cô ta). Thất thố, Hán tự có
    nghĩa là sợ hãi đến nỗi lúng túng, lỡ làng; thất thố với Hán
    Việt là lỡ có sự lầm lẫn trong lời nói, cử chỉ (nếu tôi có thất
    thố điều chi). Hán tự gọi là thích nghị, chỗ tình bà con; Hán
    Việt gọi là thân thích. Hán tự gọi là thiết sử tức ví thử giả
    thử; Hán Việt gọi là giả thử. Thiết tha, Hán tự có nghĩa là
    bạn bè bàn luận với nhau để giúp nhau về đường học vấn;
    Hán Việt thì thiết tha hay tha thiết có nghĩa là khẩn khoản,
    tỏ ra rất quan tậm Tầu gọi là thiếu tiểu; Hán Việt gọi là
    thiếu niện Tầu gọi là tiểu hài; Hán Việt gọi là hài nhị Tầu
    gọi là thịnh niên; ta gọi là tráng niện Tầu gọi là thoát lạc;
    ta gọi là thất thoát. Tầu gọi là thô suất; ta gọi là thô sợ Hán
    tự viết là hôn phu, hôn thê sẽ không có nghĩa phải viết là vị
    hôn phu hay vị hôn thê (tức là chồng, vợ sắp cười). Việt
    Nam quen gọi giản lược là hôn thê (thí dụ : cô X là hôn thê
    của con tôi). Hán tự gọi là thù năng, có tài đặc biệt; Hán
    Việt gọi là biệt tàị Thụ mệnh, Hán tự có nghĩa là vâng
    lệnh, kính nghe lời dậy; Hán Việt lại là vâng lời vụa Thủ
    đoạn theo Hán tự là phương pháp làm việc; Hán Việt có
    nghĩa xấu là lươn lẹo, không thành thực, mưu mô cho cá
    nhận Thủ thuật, Hán tự chỉ thuật giải phẩu ngoại khoa;
    Hán Việt có nghĩa là mánh lới riệng Từ ưu ái có nghĩa là
    thương yêu và lo lắng đối với ai, không có trong từ điển
    Trung Hoạ Uư ái do chữ .ưu quân ái quốc. (lo cho vua,thương
    nước), ưu và ái trong câu .Tề vương nói : quả nhân ưu quốc,
    ái nhân, cố nguyện đắc sĩ dĩ trị chị, nghĩa là quả nhân (vua)
    lo việc nước, yêu dân nên muốn có được kẻ sĩ để trị nước.
    Hán tự không có từ băng hà. Vua chết dùng đơn giản một
    chữ băng và từ ghép thăng hà; Hán Việt ghép băng với hà
    thành băng hà, chỉ vua chết. Từ phương du trong từ điển
    Khai Trí Tiến Đức, chua chữ Hán với nghĩa .màn che dùng
    trong đám ma để che cho con cháu tang chủ.. Các xứ đạo
    Công giáo dùng phương du che cho Linh mục rước Thánh
    thể. Từ điển Trung Hoa không có chữ du viết với chữ do
    bên chữ câu ; chỉ có chữ du ở bộ phiếu với nghĩa
    ván ngăn để đắp tường. Phương du là chữ Hán do người
    Việt đặt rạ
    CAO THẾ DUNG


    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  9. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Hồ Hữu Tường cho rằng : .Trong tiếng Việt ngày nay, phần
    nhiều là tiếng mượn của Tầu, hoặc là tiếng Hán Việt vừa
    đơn, vừa kép, hoặc là tiếng đã Việt hoá. Những tiếng về
    loại này thì mỗi âm riêng đều có nghĩạ
    Còn một phần ít hơn, song cũng quan trọng, là những tiếng
    hoàn toàn Nộm Xét về phần này, người khảo cứu có thể
    đặt một câu hỏi vô cùng quan hệ. Ấy là, tiếng Việt là một
    thứ tiếng đơn âm hay là một thứ tiếng phức ậm.
    và : .Chẳng những tiếng Việt có những tiếng hai âm, những
    tiếng ba âm mới có nghĩa, mà ta còn thấy thêm một hiện
    tượng này rất quan hệ. Ấy là mỗi khi người Việt dùng một
    tiếng một âm, thì thấy chừng như có gì là lạ, ngượng ngùng,
    trơ trẽn, nên hay thêm một tiếng đệm. Tiếng đệm này không
    có nghĩa gì cả, mà chỉ dùng để đa âm hoá tiếng lẻ loi kia
    thội Như dễ, nhẹ, nặng ... đều có nghĩa, nhưng người ta hay
    nói dễ dàng, nhẹ nhàng, nặng nề ... Hình như trong bản
    năng của người Việt, dùng lối sau này thì có vẻ thuần là
    Việt Nam hợn. (Lịch sử văn chương Việt Nam, Lê Lợi, Paris
    1949, trg 28).
    Do Hán tự là chữ tượng hình (idéogrammes) chứ không phải
    là lối chữ ghi âm (écriture phonétique) nên khi nhìn chữ
    đọc rất dễ sai lầm. Hơn nữa, Trung Hoa gồm nhiều các dân
    tộc như Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng .giống nào cũng có
    thứ chữ riêng của mình. (xem Tăn Văn Hí - Nhận thức về
    chữ Hán - Văn Hoá tập san số 4, T. XXII, Saigon 1873, trg 1 -
    4), lại có tới khoảng 70 thổ ngữ, ấy là chưa kể thổ ngữ Đài
    Loan và Hải Nạm Mỗi thổ ngữ (dialectes) lại có thêm nhiều
    thổ âm (accent régional). Riêng Quảng Đông với trên 80
    triệu dân nói tiếng Quảng Đông nhưng lại có nhiều thổ âm
    khác nhạu Nhưng với sự phức tạp này, Hán tự du nhập vào
    ngôn ngữ Việt Nam mà .Việt ngữ thuộc vào hạng ngôn ngữ
    độc thể (P. langue isolante), mỗi tiếng lẻ là một ngữ tố (P.
    morphème), nên tiếng lẻ không có phân tích ra phần gốc (P.
    racine) và phần tiếp (P. affixes), nghĩa là phân tích ra nhiều
    ngữ tố, như tiếng lẻ trong Pháp ngữ hay Anh ngữ thuộc vào
    hạng ngôn ngữ phối thể. Vậy tiếng lẻ là đơn vị nhỏ nhất
    của Việt ngữ.. (Trương Văn Chỉnh và Nguyễn Hiến Lê -
    Một phương pháp nghiên cứu ngữ pháp Việt Nam - Đại học
    (Huế) số 6, tháng 12/1961, trg 63 - 82). Ta đã Việt âm hoá từ
    một yếu tố nhỏ nhất của Hán tự Tầu để thành Hán tự Việt và
    cuối cùng hàng ngàn từ Hán Việt lại là ngôn ngữ độc thể,
    thành Việt ngữ.
    Hán Việt, phân biệt làm ba loại, Hán Việt cổ, được dùng
    để chỉ những yếu tố gốc Hán du nhập lẻ tẻ vào tiếng Việt
    trước thời Trung Đường thế kỷ thứ 7, phân biệt với các từ
    Hán Việt, với yếu tố Hán du nhập có hệ thống vào cuối đời
    Đường, thế kỷ thứ 9 và 10 (nhà Đướng 618 - 906). Loại Hán
    Việt Việt hoá xuất hiện do kết quả Việt hoá các yếu tố Hán
    (Hán Việt cổ, vay mượn chữ Hán phản ảnh qua bộ Thiết Vận
    của Lục Pháp Ngôn ra đời vào năm 601). Riêng một Hán
    Việt cổ, vay mượn của từ Hán, kết quả khảo sát, theo nhà
    ngôn ngữ Vương Lộc cho thấy : Trong 332 đơn vị được xác
    nhận là Hán Việt cổ có : 158 danh từ chiếm tỷ lệ 47,5%; 142
    động từ chiếm tỷ lệ 42,8%; 29 tĩnh từ, chiếm tỷ lệ 8,7%; với
    hai phó từ (bèn, cùng), 1 giới từ (vì) chiếm tỷ lệ không đáng
    kể. Trên 1.000 năm tuổi thọ, Hán Việt cổ đã trở nên những
    từ cơ bản, tồn tại trong kho từ vựng tiếng Việt như những từ
    thuần Việt thực sự. (xem Vương Lộc - Một vài kết quả bước
    đầu trong việc khảo sát từ Hán Việt cổ - Tạp chí Ngôn Ngữ
    số 1, 1985, trg 24 - 31).
    Lẽ tự nhiên là ngữ pháp Việt ngữ khác ngữ pháp Tầụ Trong
    văn chương Hán Việt, từ hư từ đến phụ từ, Hán Việt cũng
    khác văn ngôn Hán tự. Thí dụ : về tiếng Việt thuần tuý, phụ
    từ là vốn là một hư từ do động từ mà ra, trong nhiều trường
    hợp, phụ từ là có thể dùng thay thế cho phụ từ rằng. Phụ từ
    mà dẫn đầu một mệnh đề chỉ định, có phận sự làm rõ thêm
    ý nghĩa của từ ngữ làm chủ hay túc từ của mệnh đề. (Lê Văn
    Lý, Tiến sĩ Văn chương - Sơ thảo Ngữ pháp Việt Nam - Dân
    Chúa tái bản, trg 138 -139). Chữ Hán thực từ có thể trở
    thành hư từ và phụ từ thì Hán Việt cũng như thế. Phụ từ đấy
    (đôi khi thế) thêm vào sau một số câu nghi vấn để nhấn
    mạnh và làm cho câu hỏi linh động hơn hoặc phụ từ đấy vào
    sau câu khẳng định làm cho câu khẳng định mạnh hơn (Lê
    Văn Lý - sđd, trg 145). Hán Việt cũng như thế, như phụ từ hà
    trong câu hà tư, là lự, thể nghi vấn mà lại trở thành khẳng
    định (Lo làm gì! Nghĩ làm gì!). Phó từ trong Hán Việt sử
    dụng linh động và phong phú hơn Hán tự Trung Hoạ
    Âm Hán tự như trên đã trình bầy, rất phức tạp. Người Việt
    mượn chữ Hán Trung Hoa, đọc theo âm Việt, ghi âm thành
    các chữ Hán khác nhau với các nghĩa khác nhau để trở thành
    một từ Hán Việt. Thí dụ chữ bảo : . Cũng như vậy, ta
    mượn chữ Hán rồi hợp dung với một số từ để tạo thành từ
    kép đa âm Hán Việt, thí dụ như chữ hàn (rét, lạnh) thành
    hàn vi, cơ hàn, bần hàn, hàn huyên, có khi ta mượn nguyên
    cụm từ của Hán tự như Hàn lâm viện. Ta lại khác Hán tự của
    Tầu : người Tầu dùng chữ hàn lưu, Hán Việt gọi chung là
    hải lưu (dòng nước đại dương chẩy theo một phương hướng
    nhất định, từ Nam cực hay Bắc cực chảy đến với ôn độ thấp
    gọi là hàn lưu mới đúng). Hán tự phức tạp hơn, dòng nước
    từ xích đạo chẩy tới ôn độ cao hơn gọi là noãn lưu, hàn lưu
    còn gọi là lưỡng cực lựu Hán Việt đơn giản gọi chung là
    hải lưu như hải lưu Bắc cực, Nam cực, hải lưu xích đạo).
    Tiếng đồng âm Hán tự Tầu phân biệt nghĩa nhờ vào dạng
    tự, Hán Việt lại do sự dung hợp của các tiếng đơn âm thành
    từ kép đa âm : thảo (cỏ), thành thảo luận, hiếu thảo, cam
    thảo, thảo nào (tán thán từ), thảo khấụ Nhiều chữ Hán của
    Tầu ta không dùng như thảo muội (thời kỳ sơ khai của thế
    giới) ta gọi là sơ khai hay bán khại Chữ thảo cứu của Tầu
    có nghĩa là nghiên cứu và học tập, ta không dùng chữ này
    mà gọi chung là nghiên cứụ Có khi ta mượn cả một cụm từ
    của Hán tự Tầu như .thảo trạch anh hùng. với nghĩa đẹp
    (chứ không có nghĩa là làm loạn) để chỉ người tài giỏi xuất
    thân từ chốn đồng quê nội cỏ như Lê Lợi, Quang Trung,
    cũng có khi là nổi loạn chống triều đình không thành công
    nhưng là người anh hùng vẫn gọi là .thảo trạch anh hùng..
    Cách đọc yếu tố Hán trong Hán Việt theo sự biến đổi phụ
    âm đầu, âm giữa, âm cuối theo qui luật cấu tạo âm và âm vị
    của tiếngViệt. Hán Việt giữ lại chung âm và thay phụ âm
    đầụ Thí dụ : (shui), thuỷ; (shải), sắt; (bei),
    bắc; (tian), thiên; (yuan), viện Rất nhiều từ giống
    nhau đến khoảng 50% về cả phụ âm đầu và khuôn âm tiết,
    thí dụ (an), yêu; (ben),bản; (hui), hoả; (nui),
    mộc; (tu), thổ. Do những cảm nhận riêng của người Việt,
    hoặc do tính tuỳ tiện, để vay mượn từ Hán làm thành Hán
    Việt, đơn giản hoá, không cần nghĩa gốc của từ Hán mà
    hiểu theo nghĩa Việt. Đó là sắc thái đặc biệt của Hán Việt.
    Thí dụ qui củ, theo nghĩa gốc Hán thì qui là dụng cụ để vẽ
    vòng tròn (cái com-pa), củ là dụng cụ để vẽ ô vuông (cái ê-
    ke). Qua Hán Việt, qui củ là khuôn thước, theo pháp độ, đâu
    ra đó. Mô và phạm theo nghĩa Hán tự thì mô là cái khuôn
    bằng gỗ, phạm là cái khuôn bằng trẹ Mô trong Hán Việt là
    khuôn phép, nhà giáo gọi là nhà mô phạm. Hán Việt gọi là
    Giám mục; Tầu gọi là Chủ giáo; Ta gọi là Linh mục; Tầu gọi
    là Thần phụ; Ta gọi là Giáng sinh, Tầu gọi là Thánh đản.
    Bài thơ Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt đọc bên
    sông Như Nguyệt mùa Xuân 1076 có ba từ ghép là tiệt
    nhiên, nghịch lỗ, bại hư, không thấy ghi trong các từ điển
    thường dùng của Trung Hoa như Từ Nguyên và Khang Hỵ
    Tìm trong thơ văn Lý Trần có rất nhiều từ Hán Việt khác
    nghĩa hay không có trong Hán tự Trung Hoạ Chữ Việt trong
    quốc hiệu Đại Việt viết ở Toàn thư cũng như Cương mục và
    Việt sử lược thì chữ Việt này gồm chữ tẩu chạy trốn và
    chữ Tuất giờ Tuất. Nhưng tra Khang Hy từ điển thì chữ
    Việt ở bộ tẩu bằng chữ tẩu cạnh chữ Việt . Chữ tẩu
    cạnh chữ tuất không đọc là Việt mà lại là chữ khác, âm đọc
    .hứa duật, huân nhập thạnh là chữ huật có nghĩa là tẩu,
    chạỵ Khang Hy từ điển còn ghi rõ .dữ Việt bất đồng. (khác
    với chữ Việt). Tự điển Hán Việt của Triều Chửu viết chữ
    Việt đúng như Khang Hy từ điển nhưng không có chữ .huật.
    (bộ tẩu bên chữ tuất). Trong từ điển Trung Hoa, bất tỉnh
    nhân sự có hai nghĩa, không rõ việc đời, hôn mê mất trí.
    Những từ Hán trong một số bài thơ của Nguyễn Khuyến mà
    người Tầu rất thông thạo cổ văn cũng không hiểu nổi như
    chữ hoà cước, châu lúạ (Vũ Tuấn Sán - Chữ Hán của người
    Việt - Tạp chí Hán Nôm số 1, 1996,trg 18 - 24).
    Tiếng Bạch thoại lại càng nhiều chữ khác nghĩa với Hán
    Việt. Sự tình cũng là sự việc nhưng Hán Việt thì sự tình là
    đầu đuôi công việc, sự việc (thí dụ : anh cho tôi biết sự tình
    việc ấy như thế nào). Chữ thâm tâm, Hán tự nghĩa là lòng
    sâu, hiểm; Hán Việt có nghĩa là tận đáy lòng. Thân hào,
    Hán tự chỉ hạng người tai mắt, giới trí thức; Hán Việt là hào
    trưởng trong làng, ở địa phương (thân hào nhân sĩ). Thần
    tượng, Hán tự là tượng một vị thần, di tượng : người đã qua
    đời; Hán Việt thì thần tượng là biểu tượng mà ta ái mộ (thí
    dụ : tài tử X là thần tượng của cô ta). Thất thố, Hán tự có
    nghĩa là sợ hãi đến nỗi lúng túng, lỡ làng; thất thố với Hán
    Việt là lỡ có sự lầm lẫn trong lời nói, cử chỉ (nếu tôi có thất
    thố điều chi). Hán tự gọi là thích nghị, chỗ tình bà con; Hán
    Việt gọi là thân thích. Hán tự gọi là thiết sử tức ví thử giả
    thử; Hán Việt gọi là giả thử. Thiết tha, Hán tự có nghĩa là
    bạn bè bàn luận với nhau để giúp nhau về đường học vấn;
    Hán Việt thì thiết tha hay tha thiết có nghĩa là khẩn khoản,
    tỏ ra rất quan tậm Tầu gọi là thiếu tiểu; Hán Việt gọi là
    thiếu niện Tầu gọi là tiểu hài; Hán Việt gọi là hài nhị Tầu
    gọi là thịnh niên; ta gọi là tráng niện Tầu gọi là thoát lạc;
    ta gọi là thất thoát. Tầu gọi là thô suất; ta gọi là thô sợ Hán
    tự viết là hôn phu, hôn thê sẽ không có nghĩa phải viết là vị
    hôn phu hay vị hôn thê (tức là chồng, vợ sắp cười). Việt
    Nam quen gọi giản lược là hôn thê (thí dụ : cô X là hôn thê
    của con tôi). Hán tự gọi là thù năng, có tài đặc biệt; Hán
    Việt gọi là biệt tàị Thụ mệnh, Hán tự có nghĩa là vâng
    lệnh, kính nghe lời dậy; Hán Việt lại là vâng lời vụa Thủ
    đoạn theo Hán tự là phương pháp làm việc; Hán Việt có
    nghĩa xấu là lươn lẹo, không thành thực, mưu mô cho cá
    nhận Thủ thuật, Hán tự chỉ thuật giải phẩu ngoại khoa;
    Hán Việt có nghĩa là mánh lới riệng Từ ưu ái có nghĩa là
    thương yêu và lo lắng đối với ai, không có trong từ điển
    Trung Hoạ Uư ái do chữ .ưu quân ái quốc. (lo cho vua,thương
    nước), ưu và ái trong câu .Tề vương nói : quả nhân ưu quốc,
    ái nhân, cố nguyện đắc sĩ dĩ trị chị, nghĩa là quả nhân (vua)
    lo việc nước, yêu dân nên muốn có được kẻ sĩ để trị nước.
    Hán tự không có từ băng hà. Vua chết dùng đơn giản một
    chữ băng và từ ghép thăng hà; Hán Việt ghép băng với hà
    thành băng hà, chỉ vua chết. Từ phương du trong từ điển
    Khai Trí Tiến Đức, chua chữ Hán với nghĩa .màn che dùng
    trong đám ma để che cho con cháu tang chủ.. Các xứ đạo
    Công giáo dùng phương du che cho Linh mục rước Thánh
    thể. Từ điển Trung Hoa không có chữ du viết với chữ do
    bên chữ câu ; chỉ có chữ du ở bộ phiếu với nghĩa
    ván ngăn để đắp tường. Phương du là chữ Hán do người
    Việt đặt rạ
    CAO THẾ DUNG


    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  10. minh_le

    minh_le Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    15/12/2002
    Bài viết:
    780
    Đã được thích:
    0
    Topic này hay lắm, mỗi tội chưa có thời gian để post lên thôi
    tôi thấy thể loại này nhiều lắm ,rải rác khắp nơi, báo nào cũng đăng 1 đến 2 bài ,nhất là cái vụ cải cách sách lớp 1 ấy, hầu như ngày nào mà chả nhắc đến lại còn thêm mắm muối vào nữa,thành thử tiếng việt vốn đã phong phú rồi lại rắc rối thêm mà thôi,hẹn mấy hôm nữa post nhá

    9399
    Welcome to Box Quảng Trị.. Click here,please!

Chia sẻ trang này