1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Mục lục box Tiếng Việt-Từ điển tra cứu trực tuyến-Tuyển tập các bài viết(SƯU TẦM) về Tiếng Việt.

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi home_nguoikechuyen, 24/06/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    SỰ ĐA TẠP CUẢ TIẾNG VIỆT
    Học giả Maspéro nghiên cứu sâu xa về tiếng Việt, cho rằng, mỗi một thời kỳ, tiếng An Nam đều có sự thay đổi trong âm vận. Theo Maspéro, qua năm thời kỳ thì thời kỳ tối cổ Việt ngữ đã có nhiều tiếng mượn của Tầụ Trải qua cả ngàn năm, tiếng Việt ngày nay, gọi là Việt ngữ cận đại (l.Annamite
    moderne), đã trở thành Việt ngữ, ta chỉ còn chung với người Tầu chữ Hán mà thôi, một thứ dấu tượng ý (signes idéographiques) người Việt đọc ra tiếng Việt mà người Tầu đọc ra tiếng của họ nên mới thành Hán tự của Trung Hoa và Hán tự của Việt Nạm Những chữ Hán Việt, nghĩa dùng hẹp
    lại hay sai đi, nên viết thành thứ chữ Hán mà người Tầu cũng không hiểu được theo ngữ nghĩa của người Việt, do khác nguyên nghĩa vậỵ (Xem H. Maspéro - Etudes sur la phonétique historique de la langue annamite - Les Initiales - BEFEO, T.XII, No 1 -1912).
    Đó là những chữ do người Việt sáng tạo ra như chữ tiệt nhiên (tuyệt nhiên) trong bài thơ Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt. Nhưng số chữ Hán Việt "chân chính" vẫn chiếm một số lượng khá lớn, chỉ đọc theo tiếng Việt mà vẫn giữ nguyên nghĩa của Hán tự Tầu, thí dụ như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, quân tử, tiểu nhận. Có nhiều chữ đã quen dùng và quen tai cả ngàn năm, ta tưởng là tiếng Việt thuần tuý, là Nôm nhưng lại là tiếng Hán của Tầu đọc na ná âm Tầu hơn là âm Hán Việt.
    Nhà ngữ học Souvignet cho rằng tiếng Việt là sự pha trộn cả tiếng Miên, tiếng Khasi Đông bộ Ấn, tiếng Chiêm Thành, tiếng Mã Lai, tiếng Thái, tiếng Tầụ. Souvignet so sánh các thứ tiếng ấy với nhau (chủ yếu là 4 loại) thấy tiếng Việt với tiếng Mã Lai có 1088 chữ đối chiếu giống nhau, ông kết luận rằng tiếng An Nam không thân thuộc với hai loại tiếngTầu và tiếng Thái mà chính là thân thuộc với loại tiếng Ấn Độ, Mã Lai vậỵ Tiếng Chàm và tiếng Tầu có quan hệ .chú bác anh em, trong khi tiếng Việt và tiếng Chàm với các phụ âm rất giống nhạu Dấu sắc của tiếng Việt tương đương với dấu pô-cá của tiếng Chàm, dấu huyền tương đương với dấu pà-lầu, dấu hỏi tương đương với dấu pô-thớ,
    dấu ngã tương đương với dấu pố-chà-ní, chỉ có dấu nặng tiếng Chàm không dùng dấu mà dùng những phụ âm đặc biệt. (Nguyễn Khắc Ngữ - Nguồn gốc dân tộc - Montréal 1985, trg 132 - 133).
    Có vào khoảng vài trăm chữ Việt và Chàm giống nhau như băng (Chàm) = ăn; a râm = rậm; aw =
    áo; huyên = huyền (đen); mat = mặt; mek = mẹ; ni = này; hót = hóc ... (Xem Moussay Gérard Dictionnaire Cam Vietnam Francais - Centre Culturel Chạm Pharang 1971).
    Souvignet kết luận rất đúng khi cho rằng: Tôi không dám cho tiếng An Nam là gốc tiếng Tầu. Souvignet lại cho rằng, tiếng Tầu có vai trò điều hoà trong tiếng Việt : Tiếng An Nam là hỗn hợp nhiều thứ tiếng mà thành ra, phiền phức tạp dạp như thế, mới nghe không khỏi lấy làm lạ. Ai cũng
    tưởng tiếng An Nam có cái vẻ thuần tuý nhất trí hợn Phàm tiếng nói, bao nhiêu chữ đều đúc theo một cái khuôn tự nhiên, cũng có một cái cỗi rễ chung; ấy ý kiến thông thường của người ta như thế. Nay tiếng An Nam lại khác hẳn: như món đồ thập cẩm thứ gì cũng có.
    Song, nói cho cùng, sự phức tạp đó không phải là không hay cho tiếng An Nam; nhờ đó mà tiếng An Nam được phong phú. Các tiếng lân cận không có tiếng nước nào hình thể sán lạn mà âm điệu véo von bằng tiếng An Nam ... Tiếng An Nam vừa mượn tiếng Tầu, vừa mượn tiếng Ấn Độ, Mã Lai -
    lại nhân đó tự chế tác thêm ra nữa - kể còn giàu hơn tiếng Hán Việt nhiềụ Xem như thế thì tiếng An Nam hình thể âm vận hay hơn tiếng Tầu biết bao nhiêu : tiếng Tầu quanh đi quẩn lại chỉ có 400 vần ...
    Tiếng An Nam tuy vốn không được nhất trí như thế, nhưng vẫn có cái vẻ thuần nhất. Nào Mon, nào Mên, nào Mã Lai, nào tiếng Thái, bấy nhiêu chất hình như hoá hợp cả là một, là nhờ cái ảnh hưởng của tiếng Tầu điều hoà.. (Nam Phong số 110, tháng 10/1926, trg 324).
    SỰ KHÁC BIỆT GIỮA HÁN TỰ TẦU VÀ HÁN TỰ VIỆT
    Qua hơn 1.000 năm Bắc thuộc, chữ Hán đã thành quốc tự của tạ Người Việt coi Hán tự là chữ của nước ta trước đây nhưng ta đã có riêng một nền Hán tự gọi là Hán Việt. Thí dụ một chữ bất đã ghép với nhiều từ thuần Việt như bất cần. Bất không còn nghĩa chính của nó là không như bất thình lình, bất chợt.
    Về âm ngữ, Trần Cương, Sứ thần nhà Nguyên đến Thăng Long năm 1293, trong An Nam Tứ sự, Sứ thần cho rằng: .Tiếng nói líu lo, nói nhanh mà bổng, rất giống tiếng chim. (Lê Quí Đôn Toàn tập, Kiến Văn tiểu lục - Bản dịch của Phạm Trọng Điềm, trg 69). Ấy thế mà tổ tiên ta đã Việt âm hoá Hán tự thành Hán Việt. Đây là một thành tựu kỳ diệu của dân tộc Việt Nạm
    Hồ Hữu Tường cho rằng: Trong tiếng Việt ngày nay, phần nhiều là tiếng mượn của Tầu, hoặc là tiếng Hán Việt vừa đơn, vừa kép, hoặc là tiếng đã Việt hoá. Những tiếng về loại này thì mỗi âm riêng đều có nghĩa.
    Còn một phần ít hơn, song cũng quan trọng, là những tiếng hoàn toàn Nộm Xét về phần này, người khảo cứu có thể đặt một câu hỏi vô cùng quan hệ. Ấy là, tiếng Việt là một thứ tiếng đơn âm hay là một thứ tiếng phức ậm.
    và : Chẳng những tiếng Việt có những tiếng hai âm, những tiếng ba âm mới có nghĩa, mà ta còn thấy thêm một hiện tượng này rất quan hệ. Ấy là mỗi khi người Việt dùng một tiếng một âm, thì thấy chừng như có gì là lạ, ngượng ngùng, trơ trẽn, nên hay thêm một tiếng đệm. Tiếng đệm này không
    có nghĩa gì cả, mà chỉ dùng để đa âm hoá tiếng lẻ loi kia thội Như dễ, nhẹ, nặng ... đều có nghĩa, nhưng người ta hay nói dễ dàng, nhẹ nhàng, nặng nề ... Hình như trong bản năng của người Việt, dùng lối sau này thì có vẻ thuần là Việt Nam hợn. (Lịch sử văn chương Việt Nam, Lê Lợi, Paris
    1949, trg 28).
    Do Hán tự là chữ tượng hình (idéogrammes) chứ không phải là lối chữ ghi âm (écriture phonétique) nên khi nhìn chữ đọc rất dễ sai lầm. Hơn nữa, Trung Hoa gồm nhiều các dân tộc như Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng .giống nào cũng có thứ chữ riêng của mình. (xem Tăn Văn Hí - Nhận thức về
    chữ Hán - Văn Hoá tập san số 4, T. XXII, Saigon 1873, trg 1 - 4), lại có tới khoảng 70 thổ ngữ, ấy là chưa kể thổ ngữ Đài Loan và Hải Nạm Mỗi thổ ngữ (dialectes) lại có thêm nhiều thổ âm (accent régional). Riêng Quảng Đông với trên 80 triệu dân nói tiếng Quảng Đông nhưng lại có nhiều thổ âm
    khác nhạu Nhưng với sự phức tạp này, Hán tự du nhập vào ngôn ngữ Việt Nam mà .Việt ngữ thuộc vào hạng ngôn ngữ độc thể (P. langue isolante), mỗi tiếng lẻ là một ngữ tố (P. morphème), nên tiếng lẻ không có phân tích ra phần gốc (P. racine) và phần tiếp (P. affixes), nghĩa là phân tích ra nhiều
    ngữ tố, như tiếng lẻ trong Pháp ngữ hay Anh ngữ thuộc vào hạng ngôn ngữ phối thể. Vậy tiếng lẻ là đơn vị nhỏ nhất của Việt ngữ.. (Trương Văn Chỉnh và Nguyễn Hiến Lê - Một phương pháp nghiên cứu ngữ pháp Việt Nam - Đại học (Huế) số 6, tháng 12/1961, trg 63 - 82). Ta đã Việt âm hoá từ một yếu tố nhỏ nhất của Hán tự Tầu để thành Hán tự Việt và cuối cùng hàng ngàn từ Hán Việt lại là ngôn ngữ độc thể, thành Việt ngữ.
    Hán Việt, phân biệt làm ba loại, Hán Việt cổ, được dùng để chỉ những yếu tố gốc Hán du nhập lẻ tẻ vào tiếng Việt trước thời Trung Đường thế kỷ thứ 7, phân biệt với các từ Hán Việt, với yếu tố Hán du nhập có hệ thống vào cuối đời Đường, thế kỷ thứ 9 và 10 (nhà Đướng 618 - 906). Loại Hán
    Việt Việt hoá xuất hiện do kết quả Việt hoá các yếu tố Hán (Hán Việt cổ, vay mượn chữ Hán phản ảnh qua bộ Thiết Vận của Lục Pháp Ngôn ra đời vào năm 601). Riêng một Hán Việt cổ, vay mượn của từ Hán, kết quả khảo sát, theo nhà ngôn ngữ Vương Lộc cho thấy: Trong 332 đơn vị được xác
    nhận là Hán Việt cổ có : 158 danh từ chiếm tỷ lệ 47,5%; 142 động từ chiếm tỷ lệ 42,8%; 29 tĩnh từ, chiếm tỷ lệ 8,7%; với hai phó từ (bèn, cùng), 1 giới từ (vì) chiếm tỷ lệ không đáng kể. Trên 1.000 năm tuổi thọ, Hán Việt cổ đã trở nên những từ cơ bản, tồn tại trong kho từ vựng tiếng Việt như những từ thuần Việt thực sự. (xem Vương Lộc - Một vài kết quả bước đầu trong việc khảo sát từ Hán Việt cổ - Tạp chí Ngôn Ngữ số 1, 1985, trg 24 - 31).
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  2. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Lẽ tự nhiên là ngữ pháp Việt ngữ khác ngữ pháp Tầu. Trong văn chương Hán Việt, từ hư từ đến phụ từ, Hán Việt cũng khác văn ngôn Hán tự. Thí dụ: về tiếng Việt thuần tuý, phụ từ là vốn là một hư từ do động từ mà ra, trong nhiều trường hợp, phụ từ là có thể dùng thay thế cho phụ từ rằng. Phụ từ mà dẫn đầu một mệnh đề chỉ định, có phận sự làm rõ thêm ý nghĩa của từ ngữ làm chủ hay túc từ của mệnh đề. (Lê Văn Lý, Tiến sĩ Văn chương - Sơ thảo Ngữ pháp Việt Nam - Dân Chúa tái bản, trg 138 -139). Chữ Hán thực từ có thể trở thành hư từ và phụ từ thì Hán Việt cũng như thế. Phụ từ đấy (đôi khi thế) thêm vào sau một số câu nghi vấn để nhấn mạnh và làm cho câu hỏi linh động hơn hoặc phụ từ đấy vào sau câu khẳng định làm cho câu khẳng định mạnh hơn (Lê Văn Lý - sđd, trg 145). Hán Việt cũng như thế, như phụ từ hà trong câu hà tư, là lự, thể nghi vấn mà lại trở thành khẳng định (Lo làm gì! Nghĩ làm gì!). Phó từ trong Hán Việt sử dụng linh động và phong phú hơn Hán tự Trung Hoa. Âm Hán tự như trên đã trình bầy, rất phức tạp. Người Việt mượn chữ Hán Trung Hoa, đọc theo âm Việt, ghi âm thành các chữ Hán khác nhau với các nghĩa khác nhau để trở thành
    một từ Hán Việt. Thí dụ chữ bảo: Cũng như vậy, ta mượn chữ Hán rồi hợp dung với một số từ để tạo thành từ kép đa âm Hán Việt, thí dụ như chữ hàn (rét, lạnh) thành hàn vi, cơ hàn, bần hàn, hàn huyên, có khi ta mượn nguyên cụm từ của Hán tự như Hàn lâm viện. Ta lại khác Hán tự của Tầu: người Tầu dùng chữ hàn lưu, Hán Việt gọi chung là hải lưu (dòng nước đại dương chẩy theo một phương hướng nhất định, từ Nam cực hay Bắc cực chảy đến với ôn độ thấp gọi là hàn lưu mới đúng). Hán tự phức tạp hơn, dòng nước từ xích đạo chẩy tới ôn độ cao hơn gọi là noãn lưu, hàn lưu
    còn gọi là lưỡng cực lựu Hán Việt đơn giản gọi chung là hải lưu như hải lưu Bắc cực, Nam cực, hải lưu xích đạo).
    Tiếng đồng âm Hán tự Tầu phân biệt nghĩa nhờ vào dạng tự, Hán Việt lại do sự dung hợp của các tiếng đơn âm thành từ kép đa âm: thảo (cỏ), thành thảo luận, hiếu thảo, cam thảo, thảo nào (tán thán từ), thảo khấụ Nhiều chữ Hán của Tầu ta không dùng như thảo muội (thời kỳ sơ khai của thế
    giới) ta gọi là sơ khai hay bán khai. Chữ thảo cứu của Tầu có nghĩa là nghiên cứu và học tập, ta không dùng chữ này mà gọi chung là nghiên cứụ Có khi ta mượn cả một cụm từ của Hán tự Tầu như .thảo trạch anh hùng. với nghĩa đẹp (chứ không có nghĩa là làm loạn) để chỉ người tài giỏi xuất
    thân từ chốn đồng quê nội cỏ như Lê Lợi, Quang Trung, cũng có khi là nổi loạn chống triều đình không thành công nhưng là người anh hùng vẫn gọi là .thảo trạch anh hùng..
    Cách đọc yếu tố Hán trong Hán Việt theo sự biến đổi phụ âm đầu, âm giữa, âm cuối theo qui luật cấu tạo âm và âm vị của tiếngViệt. Hán Việt giữ lại chung âm và thay phụ âm đầu. Thí dụ : (shui), thuỷ; (shải), sắt; (bei), bắc; (tian), thiên; (yuan), viện Rất nhiều từ giống nhau đến khoảng 50% về cả phụ âm đầu và khuôn âm tiết, thí dụ (an), yêu; (ben),bản; (hui), hoả; (nui), mộc; (tu), thổ. Do những cảm nhận riêng của người Việt, hoặc do tính tuỳ tiện, để vay mượn từ Hán làm thành Hán
    Việt, đơn giản hoá, không cần nghĩa gốc của từ Hán mà hiểu theo nghĩa Việt. Đó là sắc thái đặc biệt của Hán Việt. Thí dụ qui củ, theo nghĩa gốc Hán thì qui là dụng cụ để vẽ vòng tròn (cái com-pa), củ là dụng cụ để vẽ ô vuông (cái ê-ke). Qua Hán Việt, qui củ là khuôn thước, theo pháp độ, đâu ra đó. Mô và phạm theo nghĩa Hán tự thì mô là cái khuôn bằng gỗ, phạm là cái khuôn bằng trẹ Mô trong Hán Việt là khuôn phép, nhà giáo gọi là nhà mô phạm. Hán Việt gọi là Giám mục; Tầu gọi là Chủ giáo; Ta gọi là Linh mục; Tầu gọi là Thần phụ; Ta gọi là Giáng sinh, Tầu gọi là Thánh đản. Bài thơ Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt đọc bên sông Như Nguyệt mùa Xuân 1076 có ba từ ghép là tiệt
    nhiên, nghịch lỗ, bại hư, không thấy ghi trong các từ điển thường dùng của Trung Hoa như Từ Nguyên và Khang Hỵ Tìm trong thơ văn Lý Trần có rất nhiều từ Hán Việt khác nghĩa hay không có trong Hán tự Trung Hoạ Chữ Việt trong quốc hiệu Đại Việt viết ở Toàn thư cũng như Cương mục và
    Việt sử lược thì chữ Việt này gồm chữ tẩu chạy trốn và chữ Tuất giờ Tuất. Nhưng tra Khang Hy từ điển thì chữ Việt ở bộ tẩu bằng chữ tẩu cạnh chữ Việt. Chữ tẩu cạnh chữ tuất không đọc là Việt mà lại là chữ khác, âm đọc .hứa duật, huân nhập thạnh là chữ huật có nghĩa là tẩu, chạỵ Khang Hy từ điển còn ghi rõ .dữ Việt bất đồng. (khác với chữ Việt). Tự điển Hán Việt của Triều Chửu viết chữ
    Việt đúng như Khang Hy từ điển nhưng không có chữ .huật. (bộ tẩu bên chữ tuất). Trong từ điển Trung Hoa, bất tỉnh nhân sự có hai nghĩa, không rõ việc đời, hôn mê mất trí. Những từ Hán trong một số bài thơ của Nguyễn Khuyến mà người Tầu rất thông thạo cổ văn cũng không hiểu nổi như
    chữ hoà cước, châu lúạ (Vũ Tuấn Sán - Chữ Hán của người Việt - Tạp chí Hán Nôm số 1, 1996,trg 18 - 24).
    Tiếng Bạch thoại lại càng nhiều chữ khác nghĩa với Hán Việt. Sự tình cũng là sự việc nhưng Hán Việt thì sự tình là đầu đuôi công việc, sự việc (thí dụ : anh cho tôi biết sự tình việc ấy như thế nào). Chữ thâm tâm, Hán tự nghĩa là lòng sâu, hiểm; Hán Việt có nghĩa là tận đáy lòng. Thân hào, Hán tự chỉ hạng người tai mắt, giới trí thức; Hán Việt là hào trưởng trong làng, ở địa phương (thân hào nhân sĩ). Thần tượng, Hán tự là tượng một vị thần, di tượng : người đã qua đời; Hán Việt thì thần tượng là biểu tượng mà ta ái mộ (thí dụ : tài tử X là thần tượng của cô ta). Thất thố, Hán tự có nghĩa là sợ hãi đến nỗi lúng túng, lỡ làng; thất thố với Hán Việt là lỡ có sự lầm lẫn trong lời nói, cử chỉ (nếu tôi có thất thố điều chi). Hán tự gọi là thích nghị, chỗ tình bà con; Hán Việt gọi là thân thích. Hán tự gọi là thiết sử tức ví thử giả thử; Hán Việt gọi là giả thử. Thiết tha, Hán tự có nghĩa là bạn bè bàn luận với nhau để giúp nhau về đường học vấn; Hán Việt thì thiết tha hay tha thiết có nghĩa là khẩn khoản, tỏ ra rất quan tậm Tầu gọi là thiếu tiểu; Hán Việt gọi là thiếu niện Tầu gọi là tiểu hài; Hán Việt gọi là hài nhị Tầu gọi là thịnh niên; ta gọi là tráng niên. Tầu gọi là thoát lạc; ta gọi là thất thoát. Tầu gọi là thô suất; ta gọi là thô sợ Hán tự viết là hôn phu, hôn thê sẽ không có nghĩa phải viết là vị hôn phu hay vị hôn thê (tức là chồng, vợ sắp cười). Việt Nam quen gọi giản lược là hôn thê (thí dụ: cô X là hôn thê của con tôi). Hán tự gọi là thù năng, có tài đặc biệt; Hán Việt gọi là biệt tàị Thụ mệnh, Hán tự có nghĩa là vâng lệnh, kính nghe lời dậy; Hán Việt lại là vâng lời vụa Thủ đoạn theo Hán tự là phương pháp làm việc; Hán Việt có nghĩa xấu là lươn lẹo, không thành thực, mưu mô cho cá nhận Thủ thuật, Hán tự chỉ thuật giải phẩu ngoại khoa; Hán Việt có nghĩa là mánh lới riệng Từ ưu ái có nghĩa là thương yêu và lo lắng đối với ai, không có trong từ điển Trung Hoạ Uư ái do chữ .ưu quân ái quốc. (lo cho vua,thương nước), ưu và ái trong câu .Tề vương nói : quả nhân ưu quốc, ái nhân, cố nguyện đắc sĩ dĩ trị chị, nghĩa là quả nhân (vua) lo việc nước, yêu dân nên muốn có được kẻ sĩ để trị nước. Hán tự không có từ băng hà. Vua chết dùng đơn giản một chữ băng và từ ghép thăng hà; Hán Việt ghép băng với hà thành băng hà, chỉ vua chết. Từ phương du trong từ điển
    Khai Trí Tiến Đức, chua chữ Hán với nghĩa .màn che dùng trong đám ma để che cho con cháu tang chủ.. Các xứ đạo Công giáo dùng phương du che cho Linh mục rước Thánh thể. Từ điển Trung Hoa không có chữ du viết với chữ do bên chữ câu ; chỉ có chữ du ở bộ phiếu với nghĩa ván ngăn để đắp tường. Phương du là chữ Hán do người Việt đặt ra.
    CAO THẾ DUNG
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  3. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Lẽ tự nhiên là ngữ pháp Việt ngữ khác ngữ pháp Tầu. Trong văn chương Hán Việt, từ hư từ đến phụ từ, Hán Việt cũng khác văn ngôn Hán tự. Thí dụ: về tiếng Việt thuần tuý, phụ từ là vốn là một hư từ do động từ mà ra, trong nhiều trường hợp, phụ từ là có thể dùng thay thế cho phụ từ rằng. Phụ từ mà dẫn đầu một mệnh đề chỉ định, có phận sự làm rõ thêm ý nghĩa của từ ngữ làm chủ hay túc từ của mệnh đề. (Lê Văn Lý, Tiến sĩ Văn chương - Sơ thảo Ngữ pháp Việt Nam - Dân Chúa tái bản, trg 138 -139). Chữ Hán thực từ có thể trở thành hư từ và phụ từ thì Hán Việt cũng như thế. Phụ từ đấy (đôi khi thế) thêm vào sau một số câu nghi vấn để nhấn mạnh và làm cho câu hỏi linh động hơn hoặc phụ từ đấy vào sau câu khẳng định làm cho câu khẳng định mạnh hơn (Lê Văn Lý - sđd, trg 145). Hán Việt cũng như thế, như phụ từ hà trong câu hà tư, là lự, thể nghi vấn mà lại trở thành khẳng định (Lo làm gì! Nghĩ làm gì!). Phó từ trong Hán Việt sử dụng linh động và phong phú hơn Hán tự Trung Hoa. Âm Hán tự như trên đã trình bầy, rất phức tạp. Người Việt mượn chữ Hán Trung Hoa, đọc theo âm Việt, ghi âm thành các chữ Hán khác nhau với các nghĩa khác nhau để trở thành
    một từ Hán Việt. Thí dụ chữ bảo: Cũng như vậy, ta mượn chữ Hán rồi hợp dung với một số từ để tạo thành từ kép đa âm Hán Việt, thí dụ như chữ hàn (rét, lạnh) thành hàn vi, cơ hàn, bần hàn, hàn huyên, có khi ta mượn nguyên cụm từ của Hán tự như Hàn lâm viện. Ta lại khác Hán tự của Tầu: người Tầu dùng chữ hàn lưu, Hán Việt gọi chung là hải lưu (dòng nước đại dương chẩy theo một phương hướng nhất định, từ Nam cực hay Bắc cực chảy đến với ôn độ thấp gọi là hàn lưu mới đúng). Hán tự phức tạp hơn, dòng nước từ xích đạo chẩy tới ôn độ cao hơn gọi là noãn lưu, hàn lưu
    còn gọi là lưỡng cực lựu Hán Việt đơn giản gọi chung là hải lưu như hải lưu Bắc cực, Nam cực, hải lưu xích đạo).
    Tiếng đồng âm Hán tự Tầu phân biệt nghĩa nhờ vào dạng tự, Hán Việt lại do sự dung hợp của các tiếng đơn âm thành từ kép đa âm: thảo (cỏ), thành thảo luận, hiếu thảo, cam thảo, thảo nào (tán thán từ), thảo khấụ Nhiều chữ Hán của Tầu ta không dùng như thảo muội (thời kỳ sơ khai của thế
    giới) ta gọi là sơ khai hay bán khai. Chữ thảo cứu của Tầu có nghĩa là nghiên cứu và học tập, ta không dùng chữ này mà gọi chung là nghiên cứụ Có khi ta mượn cả một cụm từ của Hán tự Tầu như .thảo trạch anh hùng. với nghĩa đẹp (chứ không có nghĩa là làm loạn) để chỉ người tài giỏi xuất
    thân từ chốn đồng quê nội cỏ như Lê Lợi, Quang Trung, cũng có khi là nổi loạn chống triều đình không thành công nhưng là người anh hùng vẫn gọi là .thảo trạch anh hùng..
    Cách đọc yếu tố Hán trong Hán Việt theo sự biến đổi phụ âm đầu, âm giữa, âm cuối theo qui luật cấu tạo âm và âm vị của tiếngViệt. Hán Việt giữ lại chung âm và thay phụ âm đầu. Thí dụ : (shui), thuỷ; (shải), sắt; (bei), bắc; (tian), thiên; (yuan), viện Rất nhiều từ giống nhau đến khoảng 50% về cả phụ âm đầu và khuôn âm tiết, thí dụ (an), yêu; (ben),bản; (hui), hoả; (nui), mộc; (tu), thổ. Do những cảm nhận riêng của người Việt, hoặc do tính tuỳ tiện, để vay mượn từ Hán làm thành Hán
    Việt, đơn giản hoá, không cần nghĩa gốc của từ Hán mà hiểu theo nghĩa Việt. Đó là sắc thái đặc biệt của Hán Việt. Thí dụ qui củ, theo nghĩa gốc Hán thì qui là dụng cụ để vẽ vòng tròn (cái com-pa), củ là dụng cụ để vẽ ô vuông (cái ê-ke). Qua Hán Việt, qui củ là khuôn thước, theo pháp độ, đâu ra đó. Mô và phạm theo nghĩa Hán tự thì mô là cái khuôn bằng gỗ, phạm là cái khuôn bằng trẹ Mô trong Hán Việt là khuôn phép, nhà giáo gọi là nhà mô phạm. Hán Việt gọi là Giám mục; Tầu gọi là Chủ giáo; Ta gọi là Linh mục; Tầu gọi là Thần phụ; Ta gọi là Giáng sinh, Tầu gọi là Thánh đản. Bài thơ Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt đọc bên sông Như Nguyệt mùa Xuân 1076 có ba từ ghép là tiệt
    nhiên, nghịch lỗ, bại hư, không thấy ghi trong các từ điển thường dùng của Trung Hoa như Từ Nguyên và Khang Hỵ Tìm trong thơ văn Lý Trần có rất nhiều từ Hán Việt khác nghĩa hay không có trong Hán tự Trung Hoạ Chữ Việt trong quốc hiệu Đại Việt viết ở Toàn thư cũng như Cương mục và
    Việt sử lược thì chữ Việt này gồm chữ tẩu chạy trốn và chữ Tuất giờ Tuất. Nhưng tra Khang Hy từ điển thì chữ Việt ở bộ tẩu bằng chữ tẩu cạnh chữ Việt. Chữ tẩu cạnh chữ tuất không đọc là Việt mà lại là chữ khác, âm đọc .hứa duật, huân nhập thạnh là chữ huật có nghĩa là tẩu, chạỵ Khang Hy từ điển còn ghi rõ .dữ Việt bất đồng. (khác với chữ Việt). Tự điển Hán Việt của Triều Chửu viết chữ
    Việt đúng như Khang Hy từ điển nhưng không có chữ .huật. (bộ tẩu bên chữ tuất). Trong từ điển Trung Hoa, bất tỉnh nhân sự có hai nghĩa, không rõ việc đời, hôn mê mất trí. Những từ Hán trong một số bài thơ của Nguyễn Khuyến mà người Tầu rất thông thạo cổ văn cũng không hiểu nổi như
    chữ hoà cước, châu lúạ (Vũ Tuấn Sán - Chữ Hán của người Việt - Tạp chí Hán Nôm số 1, 1996,trg 18 - 24).
    Tiếng Bạch thoại lại càng nhiều chữ khác nghĩa với Hán Việt. Sự tình cũng là sự việc nhưng Hán Việt thì sự tình là đầu đuôi công việc, sự việc (thí dụ : anh cho tôi biết sự tình việc ấy như thế nào). Chữ thâm tâm, Hán tự nghĩa là lòng sâu, hiểm; Hán Việt có nghĩa là tận đáy lòng. Thân hào, Hán tự chỉ hạng người tai mắt, giới trí thức; Hán Việt là hào trưởng trong làng, ở địa phương (thân hào nhân sĩ). Thần tượng, Hán tự là tượng một vị thần, di tượng : người đã qua đời; Hán Việt thì thần tượng là biểu tượng mà ta ái mộ (thí dụ : tài tử X là thần tượng của cô ta). Thất thố, Hán tự có nghĩa là sợ hãi đến nỗi lúng túng, lỡ làng; thất thố với Hán Việt là lỡ có sự lầm lẫn trong lời nói, cử chỉ (nếu tôi có thất thố điều chi). Hán tự gọi là thích nghị, chỗ tình bà con; Hán Việt gọi là thân thích. Hán tự gọi là thiết sử tức ví thử giả thử; Hán Việt gọi là giả thử. Thiết tha, Hán tự có nghĩa là bạn bè bàn luận với nhau để giúp nhau về đường học vấn; Hán Việt thì thiết tha hay tha thiết có nghĩa là khẩn khoản, tỏ ra rất quan tậm Tầu gọi là thiếu tiểu; Hán Việt gọi là thiếu niện Tầu gọi là tiểu hài; Hán Việt gọi là hài nhị Tầu gọi là thịnh niên; ta gọi là tráng niên. Tầu gọi là thoát lạc; ta gọi là thất thoát. Tầu gọi là thô suất; ta gọi là thô sợ Hán tự viết là hôn phu, hôn thê sẽ không có nghĩa phải viết là vị hôn phu hay vị hôn thê (tức là chồng, vợ sắp cười). Việt Nam quen gọi giản lược là hôn thê (thí dụ: cô X là hôn thê của con tôi). Hán tự gọi là thù năng, có tài đặc biệt; Hán Việt gọi là biệt tàị Thụ mệnh, Hán tự có nghĩa là vâng lệnh, kính nghe lời dậy; Hán Việt lại là vâng lời vụa Thủ đoạn theo Hán tự là phương pháp làm việc; Hán Việt có nghĩa xấu là lươn lẹo, không thành thực, mưu mô cho cá nhận Thủ thuật, Hán tự chỉ thuật giải phẩu ngoại khoa; Hán Việt có nghĩa là mánh lới riệng Từ ưu ái có nghĩa là thương yêu và lo lắng đối với ai, không có trong từ điển Trung Hoạ Uư ái do chữ .ưu quân ái quốc. (lo cho vua,thương nước), ưu và ái trong câu .Tề vương nói : quả nhân ưu quốc, ái nhân, cố nguyện đắc sĩ dĩ trị chị, nghĩa là quả nhân (vua) lo việc nước, yêu dân nên muốn có được kẻ sĩ để trị nước. Hán tự không có từ băng hà. Vua chết dùng đơn giản một chữ băng và từ ghép thăng hà; Hán Việt ghép băng với hà thành băng hà, chỉ vua chết. Từ phương du trong từ điển
    Khai Trí Tiến Đức, chua chữ Hán với nghĩa .màn che dùng trong đám ma để che cho con cháu tang chủ.. Các xứ đạo Công giáo dùng phương du che cho Linh mục rước Thánh thể. Từ điển Trung Hoa không có chữ du viết với chữ do bên chữ câu ; chỉ có chữ du ở bộ phiếu với nghĩa ván ngăn để đắp tường. Phương du là chữ Hán do người Việt đặt ra.
    CAO THẾ DUNG
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  4. minh_le

    minh_le Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    15/12/2002
    Bài viết:
    780
    Đã được thích:
    0
    Tất cả các từ điển Tiếng Việt, và gần đây có từ điển tiếng Nghệ đều giải thích từ "Mệ" có nghĩa là "Mẹ" nhưng thường được dùng để xưng gọi, ví dụ như "Mệ Nhiêu", "Mẹ Hoe", ... Ở miền trung có vùng gọi"Bố mẹ" là "Bọ Mẹ". Riêng ở vùng Quảng Trị (và Huế) người ta dùng từ "mệ " thay cho từ bà:" Mệ nội","Mệ ngoại". Từ Triều Nguyễn, từ "Mệ" còn được dùng để chỉ tầng lớp Quý tộc , các Hoàng thân của nhà Nguyễn cư trú trong Thành Nội hoặc các phủ đệ quang Huế. Được xếp vào hàng " Các Mệ" vừa uy vừa oai, sang trọng quý phái.
    Có người nói: "Trong mỗi Mệ đều có một ông quan ". Đấy là cách nói để phân biệt đẵng cấp quý tộc của họ, nhưng đồng thời cũng chỉ ra một phần tính cách Huế một thời vàng son. Nhưng thời thế thay đổi, triều Nguyễn suy tàn,"các mệ" đứng trước nguy cơ sa sút về quyền uy và đời sống vật chất, các vầng hào quang của danh phận quý tộc trong xã hội quân chủ mờ nhạt. Đấy là một bi kịch lớn. Tuy vậy về tâm lý "các mệ" vẫn cố níu kéo danh phận của mình, nên phát sinh tâm lý cực đoan bảo thủ, không quan tâm dến những điều trần cải cách có tính tức thời như Nguyễn Tường Lộ, Nguyễn Lộ Trạch,... Đến khi thực dân Pháp thao túng toàn bộ triều đình Huế, thì tâng lớp "cành vàng lá ngọc ở đây " chỉ còn là ảo ảnh của vòng nguyệt quế con vua cháu chúa. Tuy vậy, " các mệ" vẫn tỏ ra đường bệ, đàng hoàng , trường thượng, bề trên. Cái nghịch lý "nghèo mà vẫn phải sang" đã khiến "các mệ" ứng xử bằng tự trào, hý lộng. Và hàng loạt câu chuyện tiếu lâm cười ra nước mắt đã ra đời để chỉ vào đời sống, thân phận của tầng lớp này vào cuối triều Nguyễn.
    Có thể nói tâm lý ứng xử của "các mệ" đã chi phối rất lớn đến tâm lý chung của Huế cũng như Quảng Trị mình, đó là tính bảo thủ, e ngại tiếp xúc với cái mới lạ, chống lại sự vọng ngoại và đề cao tinh thần hoài cổ. Tính cách này có cái hay và cũng có cái dở của nó. Trong tính bảo thủ có thiệt thòi khi tiếp nhận cái mới, nhưng nó tạo được rào chắn để thanh lọc cái mới, vì đã là cái mới, cái hay thì khó lòng mà từ chối; trái lại nó có điều kiện để bảo tồn, giử gìn những giá trị truyền thống.
    Nhìn chung từ "mệ" ngày nay đã trở thành một khái niệm không chỉ để cho tầng lớp quý tộc, hoàng thân nhà Nguyễn mà còn được dùng như một tính từ để chỉ tính cách và lối ững xử....
    9399
    Welcome to Box Quảng Trị.. Click here,please!
  5. minh_le

    minh_le Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    15/12/2002
    Bài viết:
    780
    Đã được thích:
    0
    Tất cả các từ điển Tiếng Việt, và gần đây có từ điển tiếng Nghệ đều giải thích từ "Mệ" có nghĩa là "Mẹ" nhưng thường được dùng để xưng gọi, ví dụ như "Mệ Nhiêu", "Mẹ Hoe", ... Ở miền trung có vùng gọi"Bố mẹ" là "Bọ Mẹ". Riêng ở vùng Quảng Trị (và Huế) người ta dùng từ "mệ " thay cho từ bà:" Mệ nội","Mệ ngoại". Từ Triều Nguyễn, từ "Mệ" còn được dùng để chỉ tầng lớp Quý tộc , các Hoàng thân của nhà Nguyễn cư trú trong Thành Nội hoặc các phủ đệ quang Huế. Được xếp vào hàng " Các Mệ" vừa uy vừa oai, sang trọng quý phái.
    Có người nói: "Trong mỗi Mệ đều có một ông quan ". Đấy là cách nói để phân biệt đẵng cấp quý tộc của họ, nhưng đồng thời cũng chỉ ra một phần tính cách Huế một thời vàng son. Nhưng thời thế thay đổi, triều Nguyễn suy tàn,"các mệ" đứng trước nguy cơ sa sút về quyền uy và đời sống vật chất, các vầng hào quang của danh phận quý tộc trong xã hội quân chủ mờ nhạt. Đấy là một bi kịch lớn. Tuy vậy về tâm lý "các mệ" vẫn cố níu kéo danh phận của mình, nên phát sinh tâm lý cực đoan bảo thủ, không quan tâm dến những điều trần cải cách có tính tức thời như Nguyễn Tường Lộ, Nguyễn Lộ Trạch,... Đến khi thực dân Pháp thao túng toàn bộ triều đình Huế, thì tâng lớp "cành vàng lá ngọc ở đây " chỉ còn là ảo ảnh của vòng nguyệt quế con vua cháu chúa. Tuy vậy, " các mệ" vẫn tỏ ra đường bệ, đàng hoàng , trường thượng, bề trên. Cái nghịch lý "nghèo mà vẫn phải sang" đã khiến "các mệ" ứng xử bằng tự trào, hý lộng. Và hàng loạt câu chuyện tiếu lâm cười ra nước mắt đã ra đời để chỉ vào đời sống, thân phận của tầng lớp này vào cuối triều Nguyễn.
    Có thể nói tâm lý ứng xử của "các mệ" đã chi phối rất lớn đến tâm lý chung của Huế cũng như Quảng Trị mình, đó là tính bảo thủ, e ngại tiếp xúc với cái mới lạ, chống lại sự vọng ngoại và đề cao tinh thần hoài cổ. Tính cách này có cái hay và cũng có cái dở của nó. Trong tính bảo thủ có thiệt thòi khi tiếp nhận cái mới, nhưng nó tạo được rào chắn để thanh lọc cái mới, vì đã là cái mới, cái hay thì khó lòng mà từ chối; trái lại nó có điều kiện để bảo tồn, giử gìn những giá trị truyền thống.
    Nhìn chung từ "mệ" ngày nay đã trở thành một khái niệm không chỉ để cho tầng lớp quý tộc, hoàng thân nhà Nguyễn mà còn được dùng như một tính từ để chỉ tính cách và lối ững xử....
    9399
    Welcome to Box Quảng Trị.. Click here,please!
  6. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Post tặng ha_vY_84. Có lẽ bé thích bài viết này:
    ::: Trần Ngọc :::
    Tình Yêu Nam Nữ Qua Ca Dao và Tục Ngữ

    Tình yêu là bản chất thiêng liêng và tự nhiên của con người cho nên dù ở thời đại nào, tình yêu bao giờ cũng là đề tài bất tận cho những áng văn chương.
    Việt Nam chúng ta từ ngàn xưa là một quốc gia nông nghiệp. Với hình thể chữ S mềm mại uốn cong ven bờ Thái Bình Dương, với cảnh vật thiên nhiên kỳ tú như cỏ cây hoa lá, như núi cả sông sâu, như lũy tre xanh, như đồng ruộng óng ả lúa vàng,... hòa với tâm tình và lịch sử của dân tộc, quê hương Việt Nam đã có một nền văn chương bình dân hay bác học hết sức phong phú đầy nét vẽ chân thành pha lẫn những điểm tế nhị và sâu sắc.
    Trong cái tình cảm đa dạng đó của dân tộc, tình yêu nam nữ đã vươn lên như cánh hoa nở trong vườn đời, tạo nên biết bao câu ca giao tình tứ , bao vần thơ truyền khẩu lãng mạn.
    I. Giai đoạn tỏ tình.
    Tình yêu đã nảy nở trong những buổi rạng đông khi sương mai còn ướt đẫm cỏ cây, khi chim muông còn đang ngại ngùng trong giấc ngủ, hay trong những buổi chiều tà khi mặt trời đã gác non đoài, với những đoàn trai gái trong làng vác cày rửa hái để trở về mái nhà tranh sau một ngày làm việc. Những làn khói cơm chiều lan tỏa vươn trong giải mây tím hòa lẫn với tiếng hát của trẻ mục đồng đang dắt trâu trở về, đã phác họa cho chúng ta hình ảnh một miền quê êm ả thanh bình.
    Trên trời dưới nước, thấp thoáng sau lũy tre xanh, quanh co bên bờ đê ấp yêu ruộng đồng, rì rào bên sóng lúa chín vàng, mênh mang trong tiếng sáo diều vi vu... tất cả những hình ảnh đẹp đó đã gợi nên những vần thơ trao hỏi ý tình giữa trai gái trong làng.
    Hãy nghe chàng trai mở đầu, hỏi người thôn nữ bằng một câu hỏi ỡm ờ, gợi ý xa xôi:
    Hôm qua tát nước đầu đình
    Để quên chiếc áo trên cành hoa sen
    Em được thì cho anh xin
    Hay là em để làm tin trong nhà.
    Người con trai thật sự chưa chắc đã để quên cái áo, nhưng chàng cố ý gài người thôn nữ vào thế phải trả lời khi tỏ ý ngờ rằng nàng đã giữ cái áo của mình để làm tin.
    Cũng có khi chỉ là một câu hỏi bâng quơ nhưng diễn đạt bằng những câu thơ thật trữ tình của một đêm trăng sáng, chàng trai có nhiều hi vọng để được cô gái trả lời:
    Hỡi cô tát nước đầu làng
    Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi
    Nhiều khi chàng mạnh dạn hơn:
    Cô kia cắt cỏ một mình
    Cho tôi cắt với chung tình làm đôi
    Cô còn cắt nữa hay thôi
    Cho tôi cắt với làm đôi vợ chồng
    Nhưng thường thì các chàng trai làng hỏi dọ ý một cách nhẹ nhàng hơn, không dùng hai chữ ?ovợ chồng? nghe có vẻ suồng sã, mà dùng hai chữ ?okết duyên?, có vẻ thơ mộng hơn:
    Hỏi xa anh lại hỏi gần
    Hỏi em phỏng độ đương xuân thế nào
    Thấy em là gái má đào
    Lòng anh chỉ muốn ra vào kết duyên
    Phía bên con gái, các thôn nữ không phải lúc nào cũng chỉ biết e lệ làm thinh, mà đôi khi cũng rất bạo dạn để ngỏ lời trước:
    Hỡi anh đi đường cái quan
    Dừng chân đứng lại em than vài lời.
    Các cô bạo dạn, nhưng bạo dạn trong hồn nhiên:
    Vào vườn hái quả cau xanh
    Bổ ra làm sáu mời anh xơi trầu
    Cử chỉ mời trầu đó không có tính cách lơi lả, mà chỉ chứng tỏ rằng người thôn nữ muốn sống thành thật với chính mình. Hai chữ ?ocau xanh? chỉ mối tình son trẻ, hai chữ ?oxơi trầu? có ý nghĩa trân trọng. Và bốn chữ ghép lại thành hai chữ ?otrầu cau? chỉ sự mong ước cho một mối duyên Tấn Tần. Người con trai chắc chắn không thể nào không nhận miếng trầu mời bởi người con gái trong cái cung cách lịch sự ấy.
    Nhưng các cô thôn nữ nhiều khi sợ mình yêu mà chưa chắc đã được yêu, hay sợ tình yêu của mình đến chậm chăng, nên đôi lúc các cô cũng quanh co rào trước đón sau:
    Anh đà có vợ con chưa
    Mà anh ăn nói ngọt ngào có duyên
    Mẹ già anh ở nơi nao
    Để em tìm vào hầu hạ thay anh.
    Những câu tỏ tình như đã kể trên thường chỉ là những câu mà trong lúc vắng vẻ, hai người đã hỏi ý cùng nhau. Tất cả đều là những câu mộc mạc chân tình, nhưng không kém vẻ lãng mạn trữ tình.
    Trong những dịp hội hè có hát đối giữa hai nhóm trai gái của hai làng kế cận, những câu tỏ tình được gợi ra thật nhẹ nhàng bóng bẩy, như có chất thơ.
    Bên con trai hỏi:
    Bây giờ mận mới hỏi đào
    Vườn hồng đã có ai vào hay chưa
    Bên con gái đáp:
    Mận hỏi thì đào xin thưa
    Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào
    Hay lãng mạn hơn:
    Thân em như tấm lụa đào
    Phất phơ trước gió biết vào tay ai

    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
    Được home_nguoikechuyen sửa chữa / chuyển vào 18:15 ngày 15/08/2003
  7. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Post tặng ha_vY_84. Có lẽ bé thích bài viết này:
    ::: Trần Ngọc :::
    Tình Yêu Nam Nữ Qua Ca Dao và Tục Ngữ

    Tình yêu là bản chất thiêng liêng và tự nhiên của con người cho nên dù ở thời đại nào, tình yêu bao giờ cũng là đề tài bất tận cho những áng văn chương.
    Việt Nam chúng ta từ ngàn xưa là một quốc gia nông nghiệp. Với hình thể chữ S mềm mại uốn cong ven bờ Thái Bình Dương, với cảnh vật thiên nhiên kỳ tú như cỏ cây hoa lá, như núi cả sông sâu, như lũy tre xanh, như đồng ruộng óng ả lúa vàng,... hòa với tâm tình và lịch sử của dân tộc, quê hương Việt Nam đã có một nền văn chương bình dân hay bác học hết sức phong phú đầy nét vẽ chân thành pha lẫn những điểm tế nhị và sâu sắc.
    Trong cái tình cảm đa dạng đó của dân tộc, tình yêu nam nữ đã vươn lên như cánh hoa nở trong vườn đời, tạo nên biết bao câu ca giao tình tứ , bao vần thơ truyền khẩu lãng mạn.
    I. Giai đoạn tỏ tình.
    Tình yêu đã nảy nở trong những buổi rạng đông khi sương mai còn ướt đẫm cỏ cây, khi chim muông còn đang ngại ngùng trong giấc ngủ, hay trong những buổi chiều tà khi mặt trời đã gác non đoài, với những đoàn trai gái trong làng vác cày rửa hái để trở về mái nhà tranh sau một ngày làm việc. Những làn khói cơm chiều lan tỏa vươn trong giải mây tím hòa lẫn với tiếng hát của trẻ mục đồng đang dắt trâu trở về, đã phác họa cho chúng ta hình ảnh một miền quê êm ả thanh bình.
    Trên trời dưới nước, thấp thoáng sau lũy tre xanh, quanh co bên bờ đê ấp yêu ruộng đồng, rì rào bên sóng lúa chín vàng, mênh mang trong tiếng sáo diều vi vu... tất cả những hình ảnh đẹp đó đã gợi nên những vần thơ trao hỏi ý tình giữa trai gái trong làng.
    Hãy nghe chàng trai mở đầu, hỏi người thôn nữ bằng một câu hỏi ỡm ờ, gợi ý xa xôi:
    Hôm qua tát nước đầu đình
    Để quên chiếc áo trên cành hoa sen
    Em được thì cho anh xin
    Hay là em để làm tin trong nhà.
    Người con trai thật sự chưa chắc đã để quên cái áo, nhưng chàng cố ý gài người thôn nữ vào thế phải trả lời khi tỏ ý ngờ rằng nàng đã giữ cái áo của mình để làm tin.
    Cũng có khi chỉ là một câu hỏi bâng quơ nhưng diễn đạt bằng những câu thơ thật trữ tình của một đêm trăng sáng, chàng trai có nhiều hi vọng để được cô gái trả lời:
    Hỡi cô tát nước đầu làng
    Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi
    Nhiều khi chàng mạnh dạn hơn:
    Cô kia cắt cỏ một mình
    Cho tôi cắt với chung tình làm đôi
    Cô còn cắt nữa hay thôi
    Cho tôi cắt với làm đôi vợ chồng
    Nhưng thường thì các chàng trai làng hỏi dọ ý một cách nhẹ nhàng hơn, không dùng hai chữ ?ovợ chồng? nghe có vẻ suồng sã, mà dùng hai chữ ?okết duyên?, có vẻ thơ mộng hơn:
    Hỏi xa anh lại hỏi gần
    Hỏi em phỏng độ đương xuân thế nào
    Thấy em là gái má đào
    Lòng anh chỉ muốn ra vào kết duyên
    Phía bên con gái, các thôn nữ không phải lúc nào cũng chỉ biết e lệ làm thinh, mà đôi khi cũng rất bạo dạn để ngỏ lời trước:
    Hỡi anh đi đường cái quan
    Dừng chân đứng lại em than vài lời.
    Các cô bạo dạn, nhưng bạo dạn trong hồn nhiên:
    Vào vườn hái quả cau xanh
    Bổ ra làm sáu mời anh xơi trầu
    Cử chỉ mời trầu đó không có tính cách lơi lả, mà chỉ chứng tỏ rằng người thôn nữ muốn sống thành thật với chính mình. Hai chữ ?ocau xanh? chỉ mối tình son trẻ, hai chữ ?oxơi trầu? có ý nghĩa trân trọng. Và bốn chữ ghép lại thành hai chữ ?otrầu cau? chỉ sự mong ước cho một mối duyên Tấn Tần. Người con trai chắc chắn không thể nào không nhận miếng trầu mời bởi người con gái trong cái cung cách lịch sự ấy.
    Nhưng các cô thôn nữ nhiều khi sợ mình yêu mà chưa chắc đã được yêu, hay sợ tình yêu của mình đến chậm chăng, nên đôi lúc các cô cũng quanh co rào trước đón sau:
    Anh đà có vợ con chưa
    Mà anh ăn nói ngọt ngào có duyên
    Mẹ già anh ở nơi nao
    Để em tìm vào hầu hạ thay anh.
    Những câu tỏ tình như đã kể trên thường chỉ là những câu mà trong lúc vắng vẻ, hai người đã hỏi ý cùng nhau. Tất cả đều là những câu mộc mạc chân tình, nhưng không kém vẻ lãng mạn trữ tình.
    Trong những dịp hội hè có hát đối giữa hai nhóm trai gái của hai làng kế cận, những câu tỏ tình được gợi ra thật nhẹ nhàng bóng bẩy, như có chất thơ.
    Bên con trai hỏi:
    Bây giờ mận mới hỏi đào
    Vườn hồng đã có ai vào hay chưa
    Bên con gái đáp:
    Mận hỏi thì đào xin thưa
    Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào
    Hay lãng mạn hơn:
    Thân em như tấm lụa đào
    Phất phơ trước gió biết vào tay ai

    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
    Được home_nguoikechuyen sửa chữa / chuyển vào 18:15 ngày 15/08/2003
  8. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Thật là những câu đối đáp hết sức thi vị, mượn ngoại cảnh để nói lên nỗi lòng. Bảo rằng văn chương bình dân, nhưng nhiều khi còn trữ tình và thơ mộng hơn văn chương bác học. Chẳng hạn như nói tới lứa tuổi đôi mươi của người thôn nữ, phong cảnh đồng nội hữu tình đã được ***g trong ước mộng vàng son của lứa đôi:
    Ngọc còn ẩn bóng cây tùng
    Thuyền quyên còn đợi anh hùng sánh vai.
    Người con gái cũng như bông hoa còn đang giấu nhụy để chờ ngày khoe sắc với chàng **** lang quân.
    II. Giai đoạn tình yêu.
    Sau giai đoạn tỏ tình là đến giai đoạn yêu đương và đây là thời gian thơ mộng nhất cũng như đầy thử thách nhất. Nào yêu thương, nào nhớ nhung, nào giận hờn, nào xa cách, nào đợi chờ...
    Hãy nghe chàng và nàng thủ thỉ bên nhau những lời âu yếm:
    Thương anh, em để ở đâu
    Để trong cuốn sách để đầu trang thơ
    Thương em, anh để ở đâu
    Để trong tay áo lâu lâu lại dòm
    Khi phải tạm xa nhau, chàng trai luyến tiếc những giây phút cận kề:
    Còn đêm nay nữa mai đi
    Lạng vàng không tiếc, tiếc khi ngồi kề.
    Trời đã sáng, những gặp gỡ hàn huyên đêm qua giờ chỉ còn là kỷ niệm mong manh để làm hành trang cho cuộc đăng trình.
    Còn nàng thôn nữ thì cũng nức nở trong ngấn lệ đầy vơi:
    Có đêm thơ thẩn một mình
    Ở đây thức cả năm canh rõ ràng
    Có đêm tạc đá ghi vàng
    Ngày nào em chả nhớ chàng, chàng ơi.
    Đi đâu, làm gì, nàng đều cảm thấy nỗi nhớ đeo đẳng và vương dấu tích khắp nơi khiến xao lãng cả công việc thường ngày:
    Chiều chiều mang giỏ hái dâu
    Hái dâu chả hái, nhớ câu ân tình
    Những nhớ nhung đó đã đong đầy thêm tình yêu, để khi gặp lại thì hai người vội vã ước hẹn cho những mộng ước mai sau:
    Nàng thì:
    Ước gì chung mẹ chung thầy
    Để em giữ cái quạt này làm thân
    Và tình tứ hơn nữa:
    Chải đầu chung cái lược ngà
    Soi gương chung cả cành hoa giắt đầu
    Còn chàng thì cũng dùng cái quạt để xẻ chia hương nồng:
    Quạt này anh để che đầu
    Đêm đêm đi ngủ chung nhau quạt này
    Hay vẽ ra những âu yếm trang trọng mà chàng sẽ dành cho nàng:
    Ước gì ta lấy được nàng
    Để ta mua gạch Bát Tràng về xây
    Xây dọc rồi lại xây ngang
    Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân
    Thật là cao sang, cầu kỳ và thơ mộng. Rồi thì cuối cùng cả hai cùng cầu nguyện cho một ngày vui mau pháo đỏ nhuộm đường:
    Nấu chè van vái Nguyệt hà
    Khiến cho sum hiệp một nhà phụng loan.
    III. Giai đoạn tình nghĩa phu thê.
    Rồi năm tháng qua, bánh xe tình yêu đã đưa đôi nam nữ đến bến bờ của yêu đương hạnh phúc. Bây giờ tình yêu không còn thuần túy là thương mây khóc gió hay vẩn vơ nhung nhớ nữa mà tình yêu đã đi chung với bổn phận và trách nhiệm.
    Có những cuộc hôn nhân đem lại hạnh phúc và thủy chung, nhưng cũng có những cuộc hôn nhân chỉ đem đến đắng cay và chán chường.
    1) Những cuộc hôn nhân hạnh phúc.
    Sau ngày cưới, có những cuộc sống chung vẫn luôn luôn tốt đẹp. Đó là nhờ sự cố gắng yêu thương và nhường nhịn của cả đôi bên, nhưng phần lớn là nhờ ở người vợ với những đức tính hiền hòa, nhu mì và biết lẽ thủy chung.
    Hãy ngắm nhìn hình ảnh đẹp của một đôi vợ chồng nông dân trong công việc đồng áng tuy vất vả nhưng luôn luôn có nhau để tạo dựng cuộc sống:
    Trên đồng cạn dưới đồng sâu
    Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.
    Hình ảnh đó đã phản ảnh lời cùng nhau hứa hẹn khi đang chuẩn bị cho cuộc hôn nhân
    Làm sao nên nghĩa phu thê
    Đó chồng đây vợ ra về có đôi.
    hoặc sự hòa thuận xẻ chia gánh nặng đường đời:
    Thuận vợ thuận chồng
    Tát bể đông cũng cạn.
    Nhưng để đi đến hạnh phúc ấy, cả hai vợ chồng đều phải nương cậy và nhường nhịn lẫn nhau:
    Tay bưng dĩa muối chấm gừng
    Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau.
    Nhất là người vợ, với ảnh hưởng của nền luân lý đạo Nho, đạo Khổng:
    Chồng ta áo rách ta thương
    Chồng người áo gấm xông hương mặc người.
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  9. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Thật là những câu đối đáp hết sức thi vị, mượn ngoại cảnh để nói lên nỗi lòng. Bảo rằng văn chương bình dân, nhưng nhiều khi còn trữ tình và thơ mộng hơn văn chương bác học. Chẳng hạn như nói tới lứa tuổi đôi mươi của người thôn nữ, phong cảnh đồng nội hữu tình đã được ***g trong ước mộng vàng son của lứa đôi:
    Ngọc còn ẩn bóng cây tùng
    Thuyền quyên còn đợi anh hùng sánh vai.
    Người con gái cũng như bông hoa còn đang giấu nhụy để chờ ngày khoe sắc với chàng **** lang quân.
    II. Giai đoạn tình yêu.
    Sau giai đoạn tỏ tình là đến giai đoạn yêu đương và đây là thời gian thơ mộng nhất cũng như đầy thử thách nhất. Nào yêu thương, nào nhớ nhung, nào giận hờn, nào xa cách, nào đợi chờ...
    Hãy nghe chàng và nàng thủ thỉ bên nhau những lời âu yếm:
    Thương anh, em để ở đâu
    Để trong cuốn sách để đầu trang thơ
    Thương em, anh để ở đâu
    Để trong tay áo lâu lâu lại dòm
    Khi phải tạm xa nhau, chàng trai luyến tiếc những giây phút cận kề:
    Còn đêm nay nữa mai đi
    Lạng vàng không tiếc, tiếc khi ngồi kề.
    Trời đã sáng, những gặp gỡ hàn huyên đêm qua giờ chỉ còn là kỷ niệm mong manh để làm hành trang cho cuộc đăng trình.
    Còn nàng thôn nữ thì cũng nức nở trong ngấn lệ đầy vơi:
    Có đêm thơ thẩn một mình
    Ở đây thức cả năm canh rõ ràng
    Có đêm tạc đá ghi vàng
    Ngày nào em chả nhớ chàng, chàng ơi.
    Đi đâu, làm gì, nàng đều cảm thấy nỗi nhớ đeo đẳng và vương dấu tích khắp nơi khiến xao lãng cả công việc thường ngày:
    Chiều chiều mang giỏ hái dâu
    Hái dâu chả hái, nhớ câu ân tình
    Những nhớ nhung đó đã đong đầy thêm tình yêu, để khi gặp lại thì hai người vội vã ước hẹn cho những mộng ước mai sau:
    Nàng thì:
    Ước gì chung mẹ chung thầy
    Để em giữ cái quạt này làm thân
    Và tình tứ hơn nữa:
    Chải đầu chung cái lược ngà
    Soi gương chung cả cành hoa giắt đầu
    Còn chàng thì cũng dùng cái quạt để xẻ chia hương nồng:
    Quạt này anh để che đầu
    Đêm đêm đi ngủ chung nhau quạt này
    Hay vẽ ra những âu yếm trang trọng mà chàng sẽ dành cho nàng:
    Ước gì ta lấy được nàng
    Để ta mua gạch Bát Tràng về xây
    Xây dọc rồi lại xây ngang
    Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân
    Thật là cao sang, cầu kỳ và thơ mộng. Rồi thì cuối cùng cả hai cùng cầu nguyện cho một ngày vui mau pháo đỏ nhuộm đường:
    Nấu chè van vái Nguyệt hà
    Khiến cho sum hiệp một nhà phụng loan.
    III. Giai đoạn tình nghĩa phu thê.
    Rồi năm tháng qua, bánh xe tình yêu đã đưa đôi nam nữ đến bến bờ của yêu đương hạnh phúc. Bây giờ tình yêu không còn thuần túy là thương mây khóc gió hay vẩn vơ nhung nhớ nữa mà tình yêu đã đi chung với bổn phận và trách nhiệm.
    Có những cuộc hôn nhân đem lại hạnh phúc và thủy chung, nhưng cũng có những cuộc hôn nhân chỉ đem đến đắng cay và chán chường.
    1) Những cuộc hôn nhân hạnh phúc.
    Sau ngày cưới, có những cuộc sống chung vẫn luôn luôn tốt đẹp. Đó là nhờ sự cố gắng yêu thương và nhường nhịn của cả đôi bên, nhưng phần lớn là nhờ ở người vợ với những đức tính hiền hòa, nhu mì và biết lẽ thủy chung.
    Hãy ngắm nhìn hình ảnh đẹp của một đôi vợ chồng nông dân trong công việc đồng áng tuy vất vả nhưng luôn luôn có nhau để tạo dựng cuộc sống:
    Trên đồng cạn dưới đồng sâu
    Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.
    Hình ảnh đó đã phản ảnh lời cùng nhau hứa hẹn khi đang chuẩn bị cho cuộc hôn nhân
    Làm sao nên nghĩa phu thê
    Đó chồng đây vợ ra về có đôi.
    hoặc sự hòa thuận xẻ chia gánh nặng đường đời:
    Thuận vợ thuận chồng
    Tát bể đông cũng cạn.
    Nhưng để đi đến hạnh phúc ấy, cả hai vợ chồng đều phải nương cậy và nhường nhịn lẫn nhau:
    Tay bưng dĩa muối chấm gừng
    Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau.
    Nhất là người vợ, với ảnh hưởng của nền luân lý đạo Nho, đạo Khổng:
    Chồng ta áo rách ta thương
    Chồng người áo gấm xông hương mặc người.
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  10. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Chiều chồng và lo lắng món ăn thức uống cho chồng cũng là đức tính của người phụ nữ Đông phương. Họ cảm thấy đó là niềm vui, là bổn phận tự nguyện và xa hơn nữa, là hạnh phúc:
    Đốt than nướng cá cho vàng
    Đem tiền mua rượu cho chàng uống chơi.
    Xem như thế, từ lúc gợi ý quen nhau đến lúc yêu thương và cuối cùng là cuộc sống chung lứa đôi, người dân Việt Nam đã hoàn toàn nêu gương tốt về sự yêu thương và chung thủy:
    Dẫu cho đá nát vàng phai
    Trăm năm duyên nợ chẳng phai chút nào.
    2) Những cuộc hôn nhân không hạnh phúc.
    Có những cuộc hôn nhân không đem lại hạnh phúc, do việc ép gả của mẹ cha, nhiều khi chỉ vì ?omôn đăng hộ đối? mà quên đi sự lựa chọn cần thiết của chính con mình:
    Mẹ em ham thúng xôi dền
    Tham con lợn béo tham tiền Cảnh Hưng
    Bây giờ kẻ thấp người cao
    Như đôi đũa lệch so sao cho bằng.
    Hay người chồng về sau bỗng sinh ?omèo chuột? và bỏ bê vợ con trong nỗi cô đơn mong chờ:
    Gió đưa bụi chuối sau hè
    Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ.
    Cũng đôi khi do tại người chồng bỗng nhiên va phải những thói hư tật xấu như cờ bạc hay rượu chè khiến hạnh phúc gia đình chỉ còn là hình ảnh đã phôi pha:
    Chồng em nó chẳng ra gì
    Tổ tôm xốc đĩa nó thì chơi hoang.
    Danh từ ?onó? dùng để chỉ người chồng, chứng tỏ rằng người vợ không còn tìm thấy ở chồng mình những điểm để nàng thương yêu hay kính trọng. Tuy nhiên vì sợ hàng xóm chê cười nên nàng đành cam chịu số phận hẩm hiu:
    Nói ra xấu thiếp hổ chàng
    Nó giận nó phá tan hoang cửa nhà
    Đắng cay ngậm quả bồ hòn
    Con nhà gia thế chồng con kém người.
    Về phần những người chồng hiền lành, nhiều khi cũng rất buồn vì người vợ đã thiếu mặn nồng trong tình yêu. Nguyên do cũng vì tục tảo hôn, được cha mẹ gả cho một người vợ không yêu mình vì nàng đã có trước một người yêu:
    Lấy chồng chẳng biết mặt chồng
    Đêm nằm tơ tưởng đến ông láng giềng.
    Hay có những bà vợ, tưởng rằng đã lấy nhau rồi thì không còn gì mà phải giữ gìn sắc đẹp, chỉ cần lo nội trợ là đủ. Họ đâu nghĩ rằng nếu ăn mặc bê bối hoặc để nhan sắc tàn phai, sẽ làm người chồng chóng chán và hạnh phúc gia đình cũng vì thế mà nhạt phai:
    Chửa chồng nón thúng quai thao
    Chồng rồi nón rách quai nào thì quai
    Chửa chồng yếm thắm đeo hoa
    Chồng rồi hai vú bỏ ra tày giành
    Và những lời thở than chung về những cuộc hôn nhân không đẹp mà hiện tại chỉ là một gánh nặng:
    Gái có chồng như gông đeo cổ
    Trai có vợ như nhợ buộc chân
    Hay:
    Chồng gì anh, vợ gì tôi
    Chẳng qua lá cái nợ đời chi đây
    IV. Phần kết luận.
    Tình yêu và hôn nhân, cũng như mọi chuyện trên thế gian, đều có những bề mặt trái không tốt đẹp. Tuy nhiên những bề mặt trái đó chỉ là thiểu số và so với các quốc gia Tây phương, tình yêu và hôn nhân của người Việt Nam chúng ta có rất nhiều điểm đáng ngưỡng mộ.
    Trước tiên, tình yêu của người Việt chúng ta nặng nhiều về mặt tình cảm và nhẹ nhiều hơn về mặt vật chất. Tình yêu của chúng ta lãng mạn hơn và trữ tình hơn. Nhục dục không phải là vấn đề trên trước. Cho nên đã có câu:
    Thấy em đẹp nói đẹp cười
    Đẹp người đẹp nết ra vào đoan trang
    Vậy nên anh gửi thư sang
    Dù sao anh quyết lấy nàng mà thôi.
    Về mặt hôn nhân, những đức tính nhường nhịn, dĩ hòa vi quý và thủy chung vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm trong lề lối suy nghĩ và cư xử của chúng ta. Phải chăng nền luân lý thâm sâu của Nho giáo từ ngàn xưa trong lịch sử 4000 năm văn hiến vẫn chưa nhạt mờ trong tâm huyết:
    Em ơi chua ngọt đã từng
    Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau
    hay:
    Trăm năm lòng gắn dạ ghi
    Dẫu ai đem bạc đổi chì cũng không.
    Người viết ước mong rằng bài soạn này sẽ là một đóng góp nhỏ bé trong phần sưu khảo và tìm hiểu về tình yêu nam nữ trong lãnh vực văn chương truyền khẩu Việt Nam mà các nhà phân tích văn học thường gọi là văn chương bình dân, để phân biệt với nền văn chương bác học mà những thi nhân hữu danh đã để lại bằng những văn bản cho đời sau.
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.

Chia sẻ trang này