1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Mục lục box Tiếng Việt-Từ điển tra cứu trực tuyến-Tuyển tập các bài viết(SƯU TẦM) về Tiếng Việt.

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi home_nguoikechuyen, 24/06/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Chiều chồng và lo lắng món ăn thức uống cho chồng cũng là đức tính của người phụ nữ Đông phương. Họ cảm thấy đó là niềm vui, là bổn phận tự nguyện và xa hơn nữa, là hạnh phúc:
    Đốt than nướng cá cho vàng
    Đem tiền mua rượu cho chàng uống chơi.
    Xem như thế, từ lúc gợi ý quen nhau đến lúc yêu thương và cuối cùng là cuộc sống chung lứa đôi, người dân Việt Nam đã hoàn toàn nêu gương tốt về sự yêu thương và chung thủy:
    Dẫu cho đá nát vàng phai
    Trăm năm duyên nợ chẳng phai chút nào.
    2) Những cuộc hôn nhân không hạnh phúc.
    Có những cuộc hôn nhân không đem lại hạnh phúc, do việc ép gả của mẹ cha, nhiều khi chỉ vì ?omôn đăng hộ đối? mà quên đi sự lựa chọn cần thiết của chính con mình:
    Mẹ em ham thúng xôi dền
    Tham con lợn béo tham tiền Cảnh Hưng
    Bây giờ kẻ thấp người cao
    Như đôi đũa lệch so sao cho bằng.
    Hay người chồng về sau bỗng sinh ?omèo chuột? và bỏ bê vợ con trong nỗi cô đơn mong chờ:
    Gió đưa bụi chuối sau hè
    Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ.
    Cũng đôi khi do tại người chồng bỗng nhiên va phải những thói hư tật xấu như cờ bạc hay rượu chè khiến hạnh phúc gia đình chỉ còn là hình ảnh đã phôi pha:
    Chồng em nó chẳng ra gì
    Tổ tôm xốc đĩa nó thì chơi hoang.
    Danh từ ?onó? dùng để chỉ người chồng, chứng tỏ rằng người vợ không còn tìm thấy ở chồng mình những điểm để nàng thương yêu hay kính trọng. Tuy nhiên vì sợ hàng xóm chê cười nên nàng đành cam chịu số phận hẩm hiu:
    Nói ra xấu thiếp hổ chàng
    Nó giận nó phá tan hoang cửa nhà
    Đắng cay ngậm quả bồ hòn
    Con nhà gia thế chồng con kém người.
    Về phần những người chồng hiền lành, nhiều khi cũng rất buồn vì người vợ đã thiếu mặn nồng trong tình yêu. Nguyên do cũng vì tục tảo hôn, được cha mẹ gả cho một người vợ không yêu mình vì nàng đã có trước một người yêu:
    Lấy chồng chẳng biết mặt chồng
    Đêm nằm tơ tưởng đến ông láng giềng.
    Hay có những bà vợ, tưởng rằng đã lấy nhau rồi thì không còn gì mà phải giữ gìn sắc đẹp, chỉ cần lo nội trợ là đủ. Họ đâu nghĩ rằng nếu ăn mặc bê bối hoặc để nhan sắc tàn phai, sẽ làm người chồng chóng chán và hạnh phúc gia đình cũng vì thế mà nhạt phai:
    Chửa chồng nón thúng quai thao
    Chồng rồi nón rách quai nào thì quai
    Chửa chồng yếm thắm đeo hoa
    Chồng rồi hai vú bỏ ra tày giành
    Và những lời thở than chung về những cuộc hôn nhân không đẹp mà hiện tại chỉ là một gánh nặng:
    Gái có chồng như gông đeo cổ
    Trai có vợ như nhợ buộc chân
    Hay:
    Chồng gì anh, vợ gì tôi
    Chẳng qua lá cái nợ đời chi đây
    IV. Phần kết luận.
    Tình yêu và hôn nhân, cũng như mọi chuyện trên thế gian, đều có những bề mặt trái không tốt đẹp. Tuy nhiên những bề mặt trái đó chỉ là thiểu số và so với các quốc gia Tây phương, tình yêu và hôn nhân của người Việt Nam chúng ta có rất nhiều điểm đáng ngưỡng mộ.
    Trước tiên, tình yêu của người Việt chúng ta nặng nhiều về mặt tình cảm và nhẹ nhiều hơn về mặt vật chất. Tình yêu của chúng ta lãng mạn hơn và trữ tình hơn. Nhục dục không phải là vấn đề trên trước. Cho nên đã có câu:
    Thấy em đẹp nói đẹp cười
    Đẹp người đẹp nết ra vào đoan trang
    Vậy nên anh gửi thư sang
    Dù sao anh quyết lấy nàng mà thôi.
    Về mặt hôn nhân, những đức tính nhường nhịn, dĩ hòa vi quý và thủy chung vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm trong lề lối suy nghĩ và cư xử của chúng ta. Phải chăng nền luân lý thâm sâu của Nho giáo từ ngàn xưa trong lịch sử 4000 năm văn hiến vẫn chưa nhạt mờ trong tâm huyết:
    Em ơi chua ngọt đã từng
    Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau
    hay:
    Trăm năm lòng gắn dạ ghi
    Dẫu ai đem bạc đổi chì cũng không.
    Người viết ước mong rằng bài soạn này sẽ là một đóng góp nhỏ bé trong phần sưu khảo và tìm hiểu về tình yêu nam nữ trong lãnh vực văn chương truyền khẩu Việt Nam mà các nhà phân tích văn học thường gọi là văn chương bình dân, để phân biệt với nền văn chương bác học mà những thi nhân hữu danh đã để lại bằng những văn bản cho đời sau.
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  2. minh_le

    minh_le Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    15/12/2002
    Bài viết:
    780
    Đã được thích:
    0

    .
    Cachmạng Chữ Viẹt
    Sự tiến hoá của ngôn ngữ
    Sự tiến hoá là lẽ tự nhiên, ngôn ngữ cũng thay đổi theo thời gian và hoàn cảnh. Từ xưa khi con người hiện diện trên trái đất đã có tiếng nói nhưng mãi dến khoảng 4.000 năm trước đây chữ viết mới bắt đầu xuât hiện. Thoạt đầu, người Trung Hoa dùng dây thắt gút để ghi lại những điều mình muốn nhớ. Tsang Chie là người Trung Hoa đầu tiên thay các gút dây bằng các gạch, mở đầu kỹ nguyên chữ viết. Cũng trong thời này, Chu Sung đã bổ túc hệ thống hoá chữ viết. Từ 3700 năm trước, dưới đời nhà Thang, người Trung Hoa đã bắt đầu viết trên vỏ rùa hoặc xương thú vật. Đến đời nhà Chu chữ viết theo hình tròn như con dấu triện. Thời chiến quốc ngôn ngữ Trung Hoa đã trải qua thay đổi lớn về lối chữ viết, về sau đời nhà Hán thì chữ đưọc viết thành hình vuông. Trải qua nhiều thay đổi chữ Trung Hoa đã hình thành như chúng ta thấy hiện nay.
    Ở Tây phương cũng phát minh chữ viết khoảng 3.000 năm trước, khởi đầu bằng chữ viết Ugarit (Syria), do người Do Thái sáng tạo. Khỏang 2,900 năm trước thành chữ Phoenician, tiến đến chữ Hy Lap cỗ cách đây 2.600 năm, thành chữ Etruscan và chữ Latin cách đây 2.500 năm, dó là các mẫu tự A B C v.v...
    Mặc dầu thay đổi chậm nhưng tất cả các ngôn ngữ đọc lẫn viết đều thay đổi theo nhu cầu tiến hoá con người, không ngôn ngữ nào đứng yên tại chổ. Chữ Hán phát triển tại nưóc ta cũng là lúc đánh dấu những ngày nô lệ đen tối trong lịch sử. Trước khi bị đô hộ, ngươi Việt Nam cũng đã có chữ viêt riêng của mình mặc dầu thô sơ gồm những gạch và vòng (tôi tình cờ dọc một bài nói hiẹn có viẹn bảo tàng tại Nhật còn lưu giữ). Tiéng Viẹt ngày xưa không có thanh ngữ nhưng vì gần Tàu và trải qua 1000 năm dô hộ, thanh ngữ Tàu đã ảnh hưỏng nên mièn Băc có 6 (không dấu, huyèn, săc, nặng, hỏi, ngã) và mièn Trung và Nam xa Tàu hơn nên chỉ có 5 (không có ngã).
    Ngay khi dành dưọc độc lập từ thế kỷthứ 10 dân tộc với tinh thần độc lậpViệt dã sáng tạo chữ viết của mình gọi là chữ Nôm, cấu tạo bởi 2 chữ Hán cho mỗi chữ Việt, một chữ chỉ nghĩa và một chữ chỉ cách phát âm. Người Nhật và Đại Hàn thì cắt bớt nét chữ Hán để làm thành chữ viết của họ dễ học hơn. Chữ nôm trên cột chùa Bảo an, Yen lãng, tỉnhVĩnh phú đã đưọc viết từ năm 1209 (dời Lý).
    Dến dời Trần vào thếkỷ 13 thì chữ nôm dưọc hệ thống hoá. Hàn Thuyen và Nguyẽn Si Cơ làm thơ chữ Nôm. Năm 1400 Hồ Quý Ly chính thức dùng chữ Nôm trong sach giáo khoa, công văn và chiéu chỉ. Dến thế kỷ 15 Nguyẽn Trãi dùng chữ Nôm sáng tác 250 bài thơ trong Quôc Âm Thi Tập. Sau này có truyẹn Kièu của Nguyẽn Du, bản dịch Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điẻm, các tác phẩm của Bà Huyện Thanh Quan, Cao Bá Quát , Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trư là những danh tác chữ Nôm. Dến đời Quang Trung thì chữ Nôm cực thịnh, tiếp tục cho dến khi chữ Đắc Lộ, tức chữ "quốc ngữ" thay thế. Chữ Đắc Lộ du nhập vào nước ta cũng cùng hoàn cảnh như chữ Hán ngày xưa, đánh dấu ssự bắt đầu của kỹ nguyên nô lệ mới cho thực dân Pháp và hậu quả trên 100 năm đau thương sau này. Không biêt có oan trái gì giữa chữ Đắc Lộ và vận mạng dân tộc VN hay không, nhưng chắc chắn chẳng có dân tộc nào hãnh diện khi chữ viết của chính mình cũng không sáng tạo nổi, một dân tổc tự kiêu hãnh với trên 4.000 năm văn hiến lại phải nhờ đến nhà truyền giáo ngoại quốc khai hoá chữ viết rất giản dị gần như ai có chut Tây học cũng dư khả năng ký âm tiếng nói của mình qua mẫu tự Latin một cách hợp lý hơn, giản di hơn. Ngay cả những bộ lạc Phi châu cũng Latin hoa chữ của họ mà không cần các dấu rườm rà. Đã thế, dân tộc VN cứ tiếp tục sử dụng chữ viết đó đến nay không ai dám hô hào thay đổi mặc dầu nó có rât nhiều khuyết diểm.
    Chữ quốc ngữ hay chữ Việt Nam thật ra không phải chữ của người VN sáng tạo, chỉ là thứ ký âm bằng mẫu tự Latin không được hệ thống và hợp lý lắm, nó chỉ là công trình thô thiển của ông Đắc Lộ, tức Alexandre de Rhodes nhằm mục đích duy nhất là giảng đạo Chúa mà thôi vì ông ta không thể kiên nhẫn học hết chữ Hán hoặc chữ Nôm để truyền đạo, hơn nửa đa số dân quê ông ta gặp lại mù chữ cả hai thứ đó. Ông Rhodes cũng không bao giờ nghĩ là chữ viết của ông sẽ trở thành chữ viết chính thức sau này của dân tộc Việt Nam 4.000 năm văn hién. Thật ra, không phải ông Rhodes là ngưòi duy nhât có công sáng tạo chữ quôc ngữ. Linhmục Francisco de Pina dến Thanh Chiêm (tức xả Điện Phưong, huyện Điện Bàn ngày nay thuộc tỉnh Quảngnam) vào năm 1617 là ngưòi thạo tiéng Viẹt dã để ý nghiên cứu văn phạm và cách phat âm. Alexandre de Rhodes và Antonio de Fontes theo học tiéng Viẹt với linh mục Pina. Lúc đó, Thanh Chiêm là dinh trấn cuả chuá Nguyễn Phước Nguyên, tổng trấn ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Binh Định nên các giáo sĩ đều phải qua đây.
    Những người cộng tác với ông trình độ ngôn ngữ kém nên cách câu tạo chữ viết có nhiều khuyết diểm nhưng đã thành tập quán nên chỉ có người khách quan mới thấy khó chịu. Đáng kể nhất trong công trình chuyển ngữ lúc đó có một cậu thiếu niên người Quảng Nam giúp ông Rhodes nhưng không nghe đề cập đến trong các tài liệu viết của ông Rhodes. Tiếng Việt có rất nhiều nhị âm, khoảng 24.500 chữ kép, nếu thiếu một chữ sẽ trở nên vô nghĩa, hoặc dầu một chữ tự nó đủ nghĩa nhưng cần thêm chữ dính liền để nghe xuôi tai, dã trở thành thói quen không thể thiếu được trong số có khoảng 2800 từ. Hai chữ kep đó phát âm liền nhau, không thể rời rạc sẽ mất đi ý nghĩa. Thế nhưng khi ký tự sang tiếng Latin thì ông Đắc Lộ lại viết thành từng tiếng một jống như chữ Nôm, chưa kể nhiều phụ âm, nguyên âm không cần thiết, nhiều dấu thừa thải làm phung phí nhiều. Cách viết này đã làm phung phí giấy, mực người viết và nhất là công người đọc và làm chậm hiểu nghĩa câu văn hơn. Nếu bạn có học qua phương pháp đọc nhanh, bạn sẽ thấy cách đọc nhanh là nhìn lướt qua toàn thể câu hoặc doạn văn cùng lúc để lấy y'' niệm thay vì đọc từng chữ làm chậm tiến trình am hiểu cuả trí óc. Dân VN mình rất dễ chấp nhận sự kiện đã rồi, nên mới xử dụng chữ quốc ngữ của ông Đắc Lộ trong suốt 350 năm qua mà không nghĩ đến việc thực hiện những cải cách quan trọng để hệ thống hóa hợp lý hơn. Tinh thần nô lệ cỗ nhân nhất là các bậc thánh hiền kiểu "Khổng Tử Viết" khiến cho những thế hệ qua chấp nhận và sợ sữa đổi sẽ đụng chạm thánh tổ Đắc Lộ, coi như điều cấm kỵ (taboo), ai can đảm hô hào sữa đổi chữ viết thì bị chỉ trích ngay.
    Tại Á châu, ngoài VN còn có 2 ngôn ngữ khác cũng đã Latin hoá trong thời kỳ thuộc địa là Malay-Indonesia và Tagalog (ngôn ngữ chính trong số 168 ngôn ngữ của Phi), nhờ không có ông Đắc Lộ nên chữ viết họ cũng hợp lý hơn, không có những dấu rườm rà ngay cả về ngữ thanh. Người Nhật,Tàu, Dại Hàn cũng đã có chữ viết theo mẫu tự Latinh không có dấu. Các nước Phi châu, các bộ lạc Nam Mỹ cũng đã Latin hoá ngôn ngữ của họ và không dùng dấu mặc dầu họ cũng có nhiều ngữ thanh. Tôi đã nhìn các chữ khác trên thế giới được Latinh hoắ nhưng chưa thấy chữ viết gôc Latin nào kỳ cục với những dấu đủ hình dạng từ trên đầu cho đến dấu dưới đit, thậm chí một nguyen âm có đến hai dấu, một chữ đến 3 dấu. Khổ nhất là nhìn chữ viet bởi những người không khéo tay, trông giống như mủ nón, lươĩ câu, dấu huyền, sắc lên xuống ngỗn ngang, dấu hàng dưới lấn át lên hàng trên rất khó đọc do đó phải viết cách xa hàng làm tốn thêm giấy. Sự cải cách tiếng Việt sẽ giúp tiết kiệm thì giờ quý báu của người viết lẫn người đọc.
    Với dân số đứng thứ 13 trên 226 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới, với ngôn ngữ VN được xếp 1 trong 10 ngôn ngữ lớn trên 6500 ngôn ngữ thế giới, với số kiều dân trên 2 triệu rải rác khắp mọi quốc gia và đội ngũ trí trí thức có tỉ lệ cao ở hải ngoại, với tiềm lực kinh tế trong tương lai có thể nằm trong số 30 quốc gia có kinh tế lớn nhất thế giới, với dân tộc được xếp hạng trong chủng tộc thông minh nhất thế giới, cần cù, khéo tay, bền chí, can đảm, vô địch quân sự đã từng đánh bại tất cả những đế quốc mạnh nhất lịch sử để bảo vệ đất nước, chắc chắn tương lai dân VN sẽ tươi sáng, vượt ra khỏi vi-trí nhược tiểu, tiến lên vị trí tiểu cường quốc Đông Nam Á và có thể sẽ thành trung cường quốc trên thế giới trong vòng thế kỷ này. Dân tộc VN xứng đáng tự hào để có chữ viết riêng do chính người VN hệ thống hóa hợp lý hơn chữ của Đắc Lộ. Nhiều người trên thế giới đang và sẽ học tiếng VN vì nhu cầu thương mại, văn hoá, giao tế v.v... và sẽ cảm thấy dễ học hơn vì tiéng Viẹt sẽ hơp lý hơn cac ngôn ngữ khac sau khi cải cách. Bìết đâu nhờ đó, ngôn ngữ VN trong tương lai có ngày sẽ trở thành ngôn ngữ tầm vóc quốc tế như Anh, Phap, Tây ban nha. Đã đến lúc người VN can đảm thực hiện cuộc cách mạng chữ viết cho hợp lý hơn. Tôi xin mạo muội trình bày, rất mong qúy vị cao minh trong và ngoài nước sữa chửa và bổ túc cho.
    TÂN VIET


    9399
    Welcome to Box Quảng Trị.. Click here,please!
  3. minh_le

    minh_le Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    15/12/2002
    Bài viết:
    780
    Đã được thích:
    0

    .
    Cachmạng Chữ Viẹt
    Sự tiến hoá của ngôn ngữ
    Sự tiến hoá là lẽ tự nhiên, ngôn ngữ cũng thay đổi theo thời gian và hoàn cảnh. Từ xưa khi con người hiện diện trên trái đất đã có tiếng nói nhưng mãi dến khoảng 4.000 năm trước đây chữ viết mới bắt đầu xuât hiện. Thoạt đầu, người Trung Hoa dùng dây thắt gút để ghi lại những điều mình muốn nhớ. Tsang Chie là người Trung Hoa đầu tiên thay các gút dây bằng các gạch, mở đầu kỹ nguyên chữ viết. Cũng trong thời này, Chu Sung đã bổ túc hệ thống hoá chữ viết. Từ 3700 năm trước, dưới đời nhà Thang, người Trung Hoa đã bắt đầu viết trên vỏ rùa hoặc xương thú vật. Đến đời nhà Chu chữ viết theo hình tròn như con dấu triện. Thời chiến quốc ngôn ngữ Trung Hoa đã trải qua thay đổi lớn về lối chữ viết, về sau đời nhà Hán thì chữ đưọc viết thành hình vuông. Trải qua nhiều thay đổi chữ Trung Hoa đã hình thành như chúng ta thấy hiện nay.
    Ở Tây phương cũng phát minh chữ viết khoảng 3.000 năm trước, khởi đầu bằng chữ viết Ugarit (Syria), do người Do Thái sáng tạo. Khỏang 2,900 năm trước thành chữ Phoenician, tiến đến chữ Hy Lap cỗ cách đây 2.600 năm, thành chữ Etruscan và chữ Latin cách đây 2.500 năm, dó là các mẫu tự A B C v.v...
    Mặc dầu thay đổi chậm nhưng tất cả các ngôn ngữ đọc lẫn viết đều thay đổi theo nhu cầu tiến hoá con người, không ngôn ngữ nào đứng yên tại chổ. Chữ Hán phát triển tại nưóc ta cũng là lúc đánh dấu những ngày nô lệ đen tối trong lịch sử. Trước khi bị đô hộ, ngươi Việt Nam cũng đã có chữ viêt riêng của mình mặc dầu thô sơ gồm những gạch và vòng (tôi tình cờ dọc một bài nói hiẹn có viẹn bảo tàng tại Nhật còn lưu giữ). Tiéng Viẹt ngày xưa không có thanh ngữ nhưng vì gần Tàu và trải qua 1000 năm dô hộ, thanh ngữ Tàu đã ảnh hưỏng nên mièn Băc có 6 (không dấu, huyèn, săc, nặng, hỏi, ngã) và mièn Trung và Nam xa Tàu hơn nên chỉ có 5 (không có ngã).
    Ngay khi dành dưọc độc lập từ thế kỷthứ 10 dân tộc với tinh thần độc lậpViệt dã sáng tạo chữ viết của mình gọi là chữ Nôm, cấu tạo bởi 2 chữ Hán cho mỗi chữ Việt, một chữ chỉ nghĩa và một chữ chỉ cách phát âm. Người Nhật và Đại Hàn thì cắt bớt nét chữ Hán để làm thành chữ viết của họ dễ học hơn. Chữ nôm trên cột chùa Bảo an, Yen lãng, tỉnhVĩnh phú đã đưọc viết từ năm 1209 (dời Lý).
    Dến dời Trần vào thếkỷ 13 thì chữ nôm dưọc hệ thống hoá. Hàn Thuyen và Nguyẽn Si Cơ làm thơ chữ Nôm. Năm 1400 Hồ Quý Ly chính thức dùng chữ Nôm trong sach giáo khoa, công văn và chiéu chỉ. Dến thế kỷ 15 Nguyẽn Trãi dùng chữ Nôm sáng tác 250 bài thơ trong Quôc Âm Thi Tập. Sau này có truyẹn Kièu của Nguyẽn Du, bản dịch Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điẻm, các tác phẩm của Bà Huyện Thanh Quan, Cao Bá Quát , Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trư là những danh tác chữ Nôm. Dến đời Quang Trung thì chữ Nôm cực thịnh, tiếp tục cho dến khi chữ Đắc Lộ, tức chữ "quốc ngữ" thay thế. Chữ Đắc Lộ du nhập vào nước ta cũng cùng hoàn cảnh như chữ Hán ngày xưa, đánh dấu ssự bắt đầu của kỹ nguyên nô lệ mới cho thực dân Pháp và hậu quả trên 100 năm đau thương sau này. Không biêt có oan trái gì giữa chữ Đắc Lộ và vận mạng dân tộc VN hay không, nhưng chắc chắn chẳng có dân tộc nào hãnh diện khi chữ viết của chính mình cũng không sáng tạo nổi, một dân tổc tự kiêu hãnh với trên 4.000 năm văn hiến lại phải nhờ đến nhà truyền giáo ngoại quốc khai hoá chữ viết rất giản dị gần như ai có chut Tây học cũng dư khả năng ký âm tiếng nói của mình qua mẫu tự Latin một cách hợp lý hơn, giản di hơn. Ngay cả những bộ lạc Phi châu cũng Latin hoa chữ của họ mà không cần các dấu rườm rà. Đã thế, dân tộc VN cứ tiếp tục sử dụng chữ viết đó đến nay không ai dám hô hào thay đổi mặc dầu nó có rât nhiều khuyết diểm.
    Chữ quốc ngữ hay chữ Việt Nam thật ra không phải chữ của người VN sáng tạo, chỉ là thứ ký âm bằng mẫu tự Latin không được hệ thống và hợp lý lắm, nó chỉ là công trình thô thiển của ông Đắc Lộ, tức Alexandre de Rhodes nhằm mục đích duy nhất là giảng đạo Chúa mà thôi vì ông ta không thể kiên nhẫn học hết chữ Hán hoặc chữ Nôm để truyền đạo, hơn nửa đa số dân quê ông ta gặp lại mù chữ cả hai thứ đó. Ông Rhodes cũng không bao giờ nghĩ là chữ viết của ông sẽ trở thành chữ viết chính thức sau này của dân tộc Việt Nam 4.000 năm văn hién. Thật ra, không phải ông Rhodes là ngưòi duy nhât có công sáng tạo chữ quôc ngữ. Linhmục Francisco de Pina dến Thanh Chiêm (tức xả Điện Phưong, huyện Điện Bàn ngày nay thuộc tỉnh Quảngnam) vào năm 1617 là ngưòi thạo tiéng Viẹt dã để ý nghiên cứu văn phạm và cách phat âm. Alexandre de Rhodes và Antonio de Fontes theo học tiéng Viẹt với linh mục Pina. Lúc đó, Thanh Chiêm là dinh trấn cuả chuá Nguyễn Phước Nguyên, tổng trấn ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Binh Định nên các giáo sĩ đều phải qua đây.
    Những người cộng tác với ông trình độ ngôn ngữ kém nên cách câu tạo chữ viết có nhiều khuyết diểm nhưng đã thành tập quán nên chỉ có người khách quan mới thấy khó chịu. Đáng kể nhất trong công trình chuyển ngữ lúc đó có một cậu thiếu niên người Quảng Nam giúp ông Rhodes nhưng không nghe đề cập đến trong các tài liệu viết của ông Rhodes. Tiếng Việt có rất nhiều nhị âm, khoảng 24.500 chữ kép, nếu thiếu một chữ sẽ trở nên vô nghĩa, hoặc dầu một chữ tự nó đủ nghĩa nhưng cần thêm chữ dính liền để nghe xuôi tai, dã trở thành thói quen không thể thiếu được trong số có khoảng 2800 từ. Hai chữ kep đó phát âm liền nhau, không thể rời rạc sẽ mất đi ý nghĩa. Thế nhưng khi ký tự sang tiếng Latin thì ông Đắc Lộ lại viết thành từng tiếng một jống như chữ Nôm, chưa kể nhiều phụ âm, nguyên âm không cần thiết, nhiều dấu thừa thải làm phung phí nhiều. Cách viết này đã làm phung phí giấy, mực người viết và nhất là công người đọc và làm chậm hiểu nghĩa câu văn hơn. Nếu bạn có học qua phương pháp đọc nhanh, bạn sẽ thấy cách đọc nhanh là nhìn lướt qua toàn thể câu hoặc doạn văn cùng lúc để lấy y'' niệm thay vì đọc từng chữ làm chậm tiến trình am hiểu cuả trí óc. Dân VN mình rất dễ chấp nhận sự kiện đã rồi, nên mới xử dụng chữ quốc ngữ của ông Đắc Lộ trong suốt 350 năm qua mà không nghĩ đến việc thực hiện những cải cách quan trọng để hệ thống hóa hợp lý hơn. Tinh thần nô lệ cỗ nhân nhất là các bậc thánh hiền kiểu "Khổng Tử Viết" khiến cho những thế hệ qua chấp nhận và sợ sữa đổi sẽ đụng chạm thánh tổ Đắc Lộ, coi như điều cấm kỵ (taboo), ai can đảm hô hào sữa đổi chữ viết thì bị chỉ trích ngay.
    Tại Á châu, ngoài VN còn có 2 ngôn ngữ khác cũng đã Latin hoá trong thời kỳ thuộc địa là Malay-Indonesia và Tagalog (ngôn ngữ chính trong số 168 ngôn ngữ của Phi), nhờ không có ông Đắc Lộ nên chữ viết họ cũng hợp lý hơn, không có những dấu rườm rà ngay cả về ngữ thanh. Người Nhật,Tàu, Dại Hàn cũng đã có chữ viết theo mẫu tự Latinh không có dấu. Các nước Phi châu, các bộ lạc Nam Mỹ cũng đã Latin hoá ngôn ngữ của họ và không dùng dấu mặc dầu họ cũng có nhiều ngữ thanh. Tôi đã nhìn các chữ khác trên thế giới được Latinh hoắ nhưng chưa thấy chữ viết gôc Latin nào kỳ cục với những dấu đủ hình dạng từ trên đầu cho đến dấu dưới đit, thậm chí một nguyen âm có đến hai dấu, một chữ đến 3 dấu. Khổ nhất là nhìn chữ viet bởi những người không khéo tay, trông giống như mủ nón, lươĩ câu, dấu huyền, sắc lên xuống ngỗn ngang, dấu hàng dưới lấn át lên hàng trên rất khó đọc do đó phải viết cách xa hàng làm tốn thêm giấy. Sự cải cách tiếng Việt sẽ giúp tiết kiệm thì giờ quý báu của người viết lẫn người đọc.
    Với dân số đứng thứ 13 trên 226 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới, với ngôn ngữ VN được xếp 1 trong 10 ngôn ngữ lớn trên 6500 ngôn ngữ thế giới, với số kiều dân trên 2 triệu rải rác khắp mọi quốc gia và đội ngũ trí trí thức có tỉ lệ cao ở hải ngoại, với tiềm lực kinh tế trong tương lai có thể nằm trong số 30 quốc gia có kinh tế lớn nhất thế giới, với dân tộc được xếp hạng trong chủng tộc thông minh nhất thế giới, cần cù, khéo tay, bền chí, can đảm, vô địch quân sự đã từng đánh bại tất cả những đế quốc mạnh nhất lịch sử để bảo vệ đất nước, chắc chắn tương lai dân VN sẽ tươi sáng, vượt ra khỏi vi-trí nhược tiểu, tiến lên vị trí tiểu cường quốc Đông Nam Á và có thể sẽ thành trung cường quốc trên thế giới trong vòng thế kỷ này. Dân tộc VN xứng đáng tự hào để có chữ viết riêng do chính người VN hệ thống hóa hợp lý hơn chữ của Đắc Lộ. Nhiều người trên thế giới đang và sẽ học tiếng VN vì nhu cầu thương mại, văn hoá, giao tế v.v... và sẽ cảm thấy dễ học hơn vì tiéng Viẹt sẽ hơp lý hơn cac ngôn ngữ khac sau khi cải cách. Bìết đâu nhờ đó, ngôn ngữ VN trong tương lai có ngày sẽ trở thành ngôn ngữ tầm vóc quốc tế như Anh, Phap, Tây ban nha. Đã đến lúc người VN can đảm thực hiện cuộc cách mạng chữ viết cho hợp lý hơn. Tôi xin mạo muội trình bày, rất mong qúy vị cao minh trong và ngoài nước sữa chửa và bổ túc cho.
    TÂN VIET


    9399
    Welcome to Box Quảng Trị.. Click here,please!
  4. ha_vy_84

    ha_vy_84 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    02/08/2002
    Bài viết:
    340
    Đã được thích:
    0
    Ông Tân Việt viết dài, đưa ra nhiều luận đề nhưng ông đã không chứng minh bất cứ luận đề nào cả.
    Cái này không có gì liên quan đến ngôn ngữ cả, mà là lịch sử, chính trị. Có hai điều nên biết:
    Một là ảnh hưởng của lịch sử, chính trị lên ngôn ngữ là tất yếu
    Hai là không phải dân tộc nào cũng tự sáng tạo ra chữ viết của mình, mà chỉ có vài dân tộc định cư ở những cái nôi văn minh lớn của thế giới mà thôi. Việt Nam ta không phải là cái nôi như vậy nên bây giờ đòi có một thứ chữ viết từ ngàn xưa là phi lý, đòi "sáng tạo" ra một thứ chữ hòan toàn mới lại càng phi lý hơn.
    Về khả năng "Tây học" của ông Tân Việt có hơn ông Đắc Lộ hay không, xin thưởng lãm bài viết Cải cách tiếng Việt của ông và bài trả lời của Vy ắt rõ.
    Nghĩa là nguời Việt cứ phải cải cách bỏ hết các dấu thanh của mình đi cho giống các bộ lạc Phi Châu, cho dù đặc điểm ngôn ngữ của mình thế nào đi chăng nữa?
    Tiết kiệm cho người viết thì còn chưa dám nói, còn cho người đọc thì chắc hẳn là không. Thay vì theo nguyên tắc "thấy sao đọc vậy" xưa nay thì lại phải thuộc lòng cách đọc từng chữ như tiếng Tàu, thế mà nhanh được sao?
    Hạ Vy
  5. ha_vy_84

    ha_vy_84 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    02/08/2002
    Bài viết:
    340
    Đã được thích:
    0
    Ông Tân Việt viết dài, đưa ra nhiều luận đề nhưng ông đã không chứng minh bất cứ luận đề nào cả.
    Cái này không có gì liên quan đến ngôn ngữ cả, mà là lịch sử, chính trị. Có hai điều nên biết:
    Một là ảnh hưởng của lịch sử, chính trị lên ngôn ngữ là tất yếu
    Hai là không phải dân tộc nào cũng tự sáng tạo ra chữ viết của mình, mà chỉ có vài dân tộc định cư ở những cái nôi văn minh lớn của thế giới mà thôi. Việt Nam ta không phải là cái nôi như vậy nên bây giờ đòi có một thứ chữ viết từ ngàn xưa là phi lý, đòi "sáng tạo" ra một thứ chữ hòan toàn mới lại càng phi lý hơn.
    Về khả năng "Tây học" của ông Tân Việt có hơn ông Đắc Lộ hay không, xin thưởng lãm bài viết Cải cách tiếng Việt của ông và bài trả lời của Vy ắt rõ.
    Nghĩa là nguời Việt cứ phải cải cách bỏ hết các dấu thanh của mình đi cho giống các bộ lạc Phi Châu, cho dù đặc điểm ngôn ngữ của mình thế nào đi chăng nữa?
    Tiết kiệm cho người viết thì còn chưa dám nói, còn cho người đọc thì chắc hẳn là không. Thay vì theo nguyên tắc "thấy sao đọc vậy" xưa nay thì lại phải thuộc lòng cách đọc từng chữ như tiếng Tàu, thế mà nhanh được sao?
    Hạ Vy
  6. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Trước tiên xin giới thiệu bài viết của ông Khải chính Phạm Thiên thư, để mọi người tham khảo và bàn luận nhé
    .I. Danh Xưng Dành Cho Mỗi Thứ Bậc về Liên Hệ Gia Đình
    Người sinh ra ta được gọi là cha mẹ. Cha mẹ của cha mẹ, cô, dì, chú, và bác của ta được gọi là ông bà. Cha mẹ của ông bà được gọi là cụ. Cha mẹ của cụ được gọi là kỵ. Các ông cha đời trước nữa được gọi là tổ tiên. Cha mẹ sinh ra các con. Những người con này là anh chị em ruột của nhau gồm có các anh trai, các chị gái, các em trai , và các em gái.
    Người con trai đầu lòng của cha mẹ mình gọi là anh cả (người Bắc và Trung) hay anh hai (người Nam). Anh hai còn có nghĩa là tiền trong nghĩa của câu: " Trong túi không có anh hai thì không làm gì được." Người con gái đầu lòng của cha mẹ mình gọi là chị cả (người Bắc và Trung) hay chị hai (người Nam). Từ chị cả còn có nghĩa là vợ cả trong ý của câu ca dao sau: " Thấy anh, em cũng muốn chào, / Sợ rằng chị cả giắt dao trong mình." Người con trai thứ hai gọi là anh thứ (người Bắc và Trung) hay anh ba (người Nam). Từ anh ba còn được dùng để gọi một người đàn ông con trai nào đó như trong trường hợp của câu ca dao sau:" Anh Ba kia hỡi anh Ba, /Đầu đội nón dứa tay bưng ba cơi trầu./ Trầu này em chẳng ăn đâu,/ Để thương để nhớ để sầu anh Ba, / Để em bác mẹ gả chồng xa,/ Thà rằng lấy quách anh Ba cho gần!" Từ anh Ba còn để chỉ người đàn ông Hoa kiều.
    Người con trai thứ bảy trong gia đình gọi là anh bảy (người Bắc). Từ anh bảy còn để gọi người Ấn Độ hay người Nam Dương.
    Khi ta lấy vợ hay lấy chồng và sinh ra các con (con trai và con gái), con của các con ta gọi là cháu (sẽ nói rõ trong phần sau), con của cháu ta gọi là chắt, con của chắt ta gọi là chút, và con của chút ta gọi là chít. Vợ của các con trai ta gọi là con dâu. Chồng của các con gái ta gọi là con rể.
    Các anh chị em của cha mẹ ta gồm có: chú, bác, cô, dì, cậu, mợ, và dượng (sẽ nói rõ ở mục sau).
    II. Cách Xưng Hô Trong Gia Đình
    Thứ bậc 10 đời trong gia đình gồm có: tổ tiên, kỵ, cụ, ông bà, cha mẹ, con, cháu, chắt, chút, và chít. Con của chúng ta gọi chúng ta là cha mẹ. Con của các con chúng ta gọi chúng ta là ông bà. Con của con gái chúng ta gọi chúng ta là ông bà ngoại, ông ngoại, bà ngoại, hay gọi tắt là ngoại. Con của con trai chúng ta gọi chúng ta là ông bà nội, ông nội, bà nội, hay gọi tắt là nội. Chắt của chúng ta gọi chúng ta là cụ. Chút của chúng ta gọi chúng ta là kỵ. Và chít của chúng ta gọi chúng ta là tổ tiên.
    Danh xưng của hai gia đình có con cái lấy nhau gồm có: thông gia, thân gia, hay sui gia. Tiếng xưng hô giữa hai sui gia với nhau hay với bạn bè: ông bà thông gia, ông bà thân gia, ông thân, bà thân, ông bà sui gia, ông sui, và bà sui.
    1. Xưng Hô Với Cha Mẹ:
    Tiếng gọi cha mẹ trong khi nói chuyện với bạn bè và trong lúc xưng hô với cha mẹ gồm có: bố mẹ, cha mẹ, ba má, ba me, cậu mợ, thầy me, thầy bu, thân sinh, song thân, các cụ chúng tôi, ông bà nội các cháu, và ông bà ngoại các cháu, v.v.
    Tiếng xưng hô với mẹ gồm có: má, mẹ, me, mệ, mợ, bu, u, vú, bầm, và đẻ, v.v Tiếng xưng hô với cha gồm có: bố, ba, thầy, cha, cậu, và tía, v.v.
    Tiếng xưng hô với mẹ nhiều hơn tiếng xưng hô với cha. Điều này chứng tỏ người mẹ gần gũi các con nhiều hơn bố. Nhờ đó mà tình cảm giữa các con và mẹ đằm thắm hơn và có nhiều tiếng để xưng hô hơn. Tiếng gọi cha mẹ vợ gồm có: ông bà nhạc, ông nhạc, bà nhạc, cha mẹ vợ, cha vợ, và mẹ vợ, v.v.
    Tiếng gọi cha vợ khi nói chuyện với bạn gồm có: nhạc phụ, nhạc gia, bố vợ, ông nhạc, cha vợ, ông ngoại các cháu, và trượng nhân, v.v.
    Tiếng gọi mẹ vợ khi nói chuyện với bạn bè gồm có: mẹ vợ, má vợ, bà nhạc, bà ngoại các cháu, nhạc mẫu, v.v.
    Tiếng gọi cha mẹ chồng gồm: cha mẹ chồng, cha chồng, mẹ chồng, các cụ thân sinh của nhà tôi, ông bà nội của các cháu, và những từ giống như phần dành cho cha mẹ mình. Khi nói chuyện với cha mẹ vợ hay cha mẹ chồng, tùy theo nề nếp gia đình, ta chỉ cần xưng hô như đã đề cập ở trên, trong phần xưng hô với mẹ cha. Người chồng sau của mẹ mình gọi là cha ghẻ, kế phụ, cha, cậu, hay dượng. Người vợ sau của cha mình gọi là mẹ ghẻ, mẹ kế, hay kế mẫu.
    2. Cách Xưng Hô Với Anh Chị Em của Cha Mẹ và Ông Bà
    Anh của cha gọi là bác, em trai của cha là chú, chị của cha còn được gọi là bác gái. Em gái của cha là cô hay o (ca dao có câu " Một trăm ông chú không lo, chỉ lo một nỗi mụ o nỏ mồm." ). Có nơi chị của cha cũng được gọi là cô hay o.
    Anh của mẹ gọi là bác hay cậu, em trai của mẹ là cậu, chị của mẹ là già hay bác gái, và em gái của mẹ là dì. Có những gia đình bắt con cái gọi cậu và dì bằng chú và cô vì muốn có sự thân thiết giống nhau giữa hai gia đình bên ngoại và bên nội, tức là bên nào cũng là bên nội cả.
    Vợ của bác (anh của cha hay mẹ) gọi là bác gái, vợ của chú gọi là thím, và chồng của cô hay dì gọi là chú hay chú dượng hay dượng, chồng của bác gái hay già gọi là bác hay bác dượng, và vợ của cậu là mợ.
    Anh trai của ông bà nội và ông bà ngoại mình gọi là ông bác (bác của cha hay mẹ mình), em trai của ông nội và ông ngoại là ông chú (chú của cha hay mẹ mình), chị của ông bà nội và ông bà ngoại hay vợ của ông bác gọi là bà bác, em gái của ông nội ông ngoại mình gọi là bà cô (cô của cha mẹ mình), em trai của bà nội bà ngoại gọi là ông cậu (cậu của cha hay mẹ mình), em gái của bà nội bà ngoại gọi là bà dì (dì của cha mẹ mình), và chồng của bà cô và bà dì gọi là ông dượng (dượng của cha hay mẹ mình). Tuy nhiên, trong lối xưng hô hàng ngày, người ta thường gọi giản tiện là chú, bác, ông hay bà để thay cho chú dượng, bác gái, ông bác, ông chú, ông cậu, ông dượng, bà bác, bà cô, hay bà dì.
    3. Xưng Hô Với Anh Chị Em:
    Anh của vợ hay anh của chồng gọi là anh hay bác, còn khi nói chuyện với người khác thì dùng ông anh nhà tôi, anh của nhà tôi, anh vợ tôi , hay anh chồng tôi. Tiếng anh chồng còn dùng để gọi chồng của một người đàn bà nào đó trong nghĩa của câu: Anh chồng thì đi vắng chỉ có chị vợ ở nhà mà thôi. Chị của chồng hay chị của vợ gọi là chị hay bác, còn khi nói chuyện thì dùng chị chồng, chị vợ, bà chị của nhà tôi,v.v. Em trai của chồng hay vợ gọi là em hay chú.
    Em gái của chồng hay vợ gọi là em, cô, hay dì. Các từ bác, chú, cô hay dì trong các trường hợp xưng hô với anh chị là cách chúng ta gọi thế cho con mình và có nghĩa là anh, chị, em của mình.
    - Các tiếng xưng hô về chị em còn gồm có: Chị em gái: chị em toàn là gái. Chị em ruột: chị em cùng cha mẹ trong đó có em trai. Chị gái hay chị ruột: người chị cùng cha mẹ. Chị họ: chị cùng họ với mình. Chị em chú bác, chị em con chú con bác, chị em thúc bá: các con gái và con trai của em trai và anh bố mình, trong đó người con gái là chị. Chị em con cô con cậu: con gái và con trai của em gái bố và em trai mẹ, trong đó người con gái là chị. Chị em bạn dì, chị em đôi con dì con già: các con gái và con trai của chị hay em gái mẹ trong đó con gái là chị. Chị em bạn dâu: chị em cùng làm dâu trong một nhà. Chị dâu: vợ của anh mình.
    - Các tiếng xưng hô về anh chị em gồm có: Anh chị là tiếng các em gọi anh chị hay cặp vợ chồng anh chị mình, tiếng cặp vợ chồng tự xưng với các em của họ, tiếng gọi cặp vợ chồng của bạn mình, tiếng cha mẹ dùng để gọi vợ chồng con trai hay con gái mình, và tiếng dùng để gọi những kẻ ăn chơi giang hồ, cờ bạc trong nghĩa của từ " dân anh chị." Anh chị em là tiếng người ta dùng để gọi các con trong gia đình như trong câu " Anh chị em nhà ấy có hiếu." Tiếng " anh chị em" còn dùng để gọi chung đàn ông đàn bà hay con trai con gái trong nghĩa của câu " Hỡi các anh chị em nghe đây!" Anh chị em bạn dì hay anh chị em đôi con dì con già để chỉ các con trai con gái của chị và em gái mẹ trong đó người con trai là anh. Anh em con chú con bác hay anh em thúc bá để chỉ con trai con gái của em và anh bố mình, trong đó người con trai là anh. Anh em con cô con cậu để chỉ con trai con gái của em gái bố và em trai mẹ trong đó người con trai là anh. Anh em bạn rể hay anh em cột chèo để chỉ các ông chồng của chị vợ hay em vợ. Anh rể : chồng của chị mình. Tất cả những người con của anh và chị của cha đều là anh và chị của ta ( anh chị họ nội). Các người con của anh và chị của mẹ cũng là anh và chị của ta (anh chị họ ngoại)
    - Các tiếng xưng hô về em gồm có: Em là tiếng chỉ các người con do cha mẹ sinh ra sau mình gồm có em trai em gái và là tiếng gọi các người con của cô, dì, và chú của mình. Em dâu: vợ của em mình. Em rể: chồng của em mình. Em út: tiếng để chỉ người em cuối cùng do cha mẹ mình sinh ra. Tiếng em út còn có nghĩa là đàn em, dùng để chỉ bộ hạ tay chân của người ta trong nghĩa của câu: " Đám em út của tôi sẽ giúp anh chuyện đó, đừng có lo." Họ nội và gia đình bên nội là họ và gia đình của cha mình. Họ ngoại và gia đình bên ngoại là họ và gia đình bên mẹ mình.
    4. Xưng Hô Với Vợ Chồng:
    Tiếng xưng hô với vợ gồm có: em, cưng, mình, bu nó, má, má mày, má nó, má thằng cu, mẹ, mẹ nó, mẹ đĩ, nhà, bà, bà xã, bà nó, ấy, mợ, mợ nó, đằng ấy, v.v.
    Tiếng gọi vợ trong khi nói chuyện với người khác gồm có: nhà tôi, bà nhà tôi, má tụi nhỏ, má sắp nhỏ, má bày trẻ, tiện nội, nội tướng tôi, bà xã, bà xã tôi, và vợ tôi, v.v. Tiếng xưng hô với chồng gồm có: anh, cưng, anh nó, ba, ba nó, bố, bố nó, ******, bố thằng cu, đằng ấy, ông xã, cậu, cậu nó, ông, ông nó, cụ, ấy, mình, v.v.
    Tiếng gọi chồng trong khi nói chuyện với người khác gồm: nhà tôi, ông nhà tôi, ba tụi nhỏ, ba sắp nhỏ, ba bày nhỏ, phu quân tôi, ông xã, ông xã tôi, chồng tôi, trượng phu tôi, anh ấy, v.v.
    Tình vợ chồng người Việt rất đằm thắm, họ yêu nhau với tất cả chân tình, đối đãi với nhau rất lịch sự và tương kính. Những cặp vợ chồng có giáo dục không bao giờ gọi nhau bằng mày và xưong tao. Họ tìm những lời lẽ dịu dàng đầy tình tứ yêu thương để gọi nhau. Chính vì thế mà tiếng xưng hô giữa vợ chồng người Việt có rất nhiều, hơn hẳn tiếng xưng hô của vợ chồng người Tây phương. Những cặp vợ chồng có giáo dục không bao giờ chửi thề và văng tục với nhau, nhất là trước mặt bạn bè.
    5. Xưng Hô Với Con Cháu:
    Con trai đầu lòng của mình gọi là con trai trưởng hay con trai trưởng nam (có người gọi một cách thân mật là cậu trưởng tôi, thằng trưởng nam nhà tôi). Vợ của con trai là con dâu. Vợ con trai trưởng nam là con dâu trưởng. Con gái đầu lòng gọi là trưởng nữ. Chồng của con gái là con rể. Chồng của con gái đầu lòng là con rể trưởng. Tất cả các con trai hay con gái kế tiếp được gọi la thứ nam hay thứ nữ. Người con được sinh ra trước tiên còn được gọi là con cả hay con đầu lòng. Con trai hay con gái cuối cùng của gia đình gọi là con út, út nam, hay út nữ. Nếu vợ chồng chỉ có một con, trai hoặc gái, thì người con đó được gọi là con một. Con của vợ hay của chồng có trước hay sau khi lấy nhau gọi là con ghẻ hay con riêng. Đứa con mới đẻ ra gọi là con đỏ. Con còn nhỏ gọi là con mọn. Khi người đàn ông già rồi mới có con, người ta gọi cảnh đó là cảnh cha già con mọn. Con gia đình quyền thế gọi là con ông cháu cha. Con của con trai mình gọi là cháu nội (cháu nội trai, cháu nội gái); con trai đầu lòng của con trai trưởng nam là cháu đích tôn, đích tôn thừa tự, hay đích tôn thừa trọng, tức là cháu trưởng nối nghiệp lớn của ông bà và giữ việc thờ cúng tổ tiên sau này. Con của con gái mình gọi là cháu ngoại (cháu ngoại trai, cháu ngoại gái).
    ------------------------------------
    [red]
    Nỗi đau ngày ấy là em ạ
    Là chút hao mòn của bể dâu
    Bể dâu sông bãi con thuyền bé
    Trong cõi vô thường nhẹ cánh chao[/size=4][/red]
  7. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Trước tiên xin giới thiệu bài viết của ông Khải chính Phạm Thiên thư, để mọi người tham khảo và bàn luận nhé
    .I. Danh Xưng Dành Cho Mỗi Thứ Bậc về Liên Hệ Gia Đình
    Người sinh ra ta được gọi là cha mẹ. Cha mẹ của cha mẹ, cô, dì, chú, và bác của ta được gọi là ông bà. Cha mẹ của ông bà được gọi là cụ. Cha mẹ của cụ được gọi là kỵ. Các ông cha đời trước nữa được gọi là tổ tiên. Cha mẹ sinh ra các con. Những người con này là anh chị em ruột của nhau gồm có các anh trai, các chị gái, các em trai , và các em gái.
    Người con trai đầu lòng của cha mẹ mình gọi là anh cả (người Bắc và Trung) hay anh hai (người Nam). Anh hai còn có nghĩa là tiền trong nghĩa của câu: " Trong túi không có anh hai thì không làm gì được." Người con gái đầu lòng của cha mẹ mình gọi là chị cả (người Bắc và Trung) hay chị hai (người Nam). Từ chị cả còn có nghĩa là vợ cả trong ý của câu ca dao sau: " Thấy anh, em cũng muốn chào, / Sợ rằng chị cả giắt dao trong mình." Người con trai thứ hai gọi là anh thứ (người Bắc và Trung) hay anh ba (người Nam). Từ anh ba còn được dùng để gọi một người đàn ông con trai nào đó như trong trường hợp của câu ca dao sau:" Anh Ba kia hỡi anh Ba, /Đầu đội nón dứa tay bưng ba cơi trầu./ Trầu này em chẳng ăn đâu,/ Để thương để nhớ để sầu anh Ba, / Để em bác mẹ gả chồng xa,/ Thà rằng lấy quách anh Ba cho gần!" Từ anh Ba còn để chỉ người đàn ông Hoa kiều.
    Người con trai thứ bảy trong gia đình gọi là anh bảy (người Bắc). Từ anh bảy còn để gọi người Ấn Độ hay người Nam Dương.
    Khi ta lấy vợ hay lấy chồng và sinh ra các con (con trai và con gái), con của các con ta gọi là cháu (sẽ nói rõ trong phần sau), con của cháu ta gọi là chắt, con của chắt ta gọi là chút, và con của chút ta gọi là chít. Vợ của các con trai ta gọi là con dâu. Chồng của các con gái ta gọi là con rể.
    Các anh chị em của cha mẹ ta gồm có: chú, bác, cô, dì, cậu, mợ, và dượng (sẽ nói rõ ở mục sau).
    II. Cách Xưng Hô Trong Gia Đình
    Thứ bậc 10 đời trong gia đình gồm có: tổ tiên, kỵ, cụ, ông bà, cha mẹ, con, cháu, chắt, chút, và chít. Con của chúng ta gọi chúng ta là cha mẹ. Con của các con chúng ta gọi chúng ta là ông bà. Con của con gái chúng ta gọi chúng ta là ông bà ngoại, ông ngoại, bà ngoại, hay gọi tắt là ngoại. Con của con trai chúng ta gọi chúng ta là ông bà nội, ông nội, bà nội, hay gọi tắt là nội. Chắt của chúng ta gọi chúng ta là cụ. Chút của chúng ta gọi chúng ta là kỵ. Và chít của chúng ta gọi chúng ta là tổ tiên.
    Danh xưng của hai gia đình có con cái lấy nhau gồm có: thông gia, thân gia, hay sui gia. Tiếng xưng hô giữa hai sui gia với nhau hay với bạn bè: ông bà thông gia, ông bà thân gia, ông thân, bà thân, ông bà sui gia, ông sui, và bà sui.
    1. Xưng Hô Với Cha Mẹ:
    Tiếng gọi cha mẹ trong khi nói chuyện với bạn bè và trong lúc xưng hô với cha mẹ gồm có: bố mẹ, cha mẹ, ba má, ba me, cậu mợ, thầy me, thầy bu, thân sinh, song thân, các cụ chúng tôi, ông bà nội các cháu, và ông bà ngoại các cháu, v.v.
    Tiếng xưng hô với mẹ gồm có: má, mẹ, me, mệ, mợ, bu, u, vú, bầm, và đẻ, v.v Tiếng xưng hô với cha gồm có: bố, ba, thầy, cha, cậu, và tía, v.v.
    Tiếng xưng hô với mẹ nhiều hơn tiếng xưng hô với cha. Điều này chứng tỏ người mẹ gần gũi các con nhiều hơn bố. Nhờ đó mà tình cảm giữa các con và mẹ đằm thắm hơn và có nhiều tiếng để xưng hô hơn. Tiếng gọi cha mẹ vợ gồm có: ông bà nhạc, ông nhạc, bà nhạc, cha mẹ vợ, cha vợ, và mẹ vợ, v.v.
    Tiếng gọi cha vợ khi nói chuyện với bạn gồm có: nhạc phụ, nhạc gia, bố vợ, ông nhạc, cha vợ, ông ngoại các cháu, và trượng nhân, v.v.
    Tiếng gọi mẹ vợ khi nói chuyện với bạn bè gồm có: mẹ vợ, má vợ, bà nhạc, bà ngoại các cháu, nhạc mẫu, v.v.
    Tiếng gọi cha mẹ chồng gồm: cha mẹ chồng, cha chồng, mẹ chồng, các cụ thân sinh của nhà tôi, ông bà nội của các cháu, và những từ giống như phần dành cho cha mẹ mình. Khi nói chuyện với cha mẹ vợ hay cha mẹ chồng, tùy theo nề nếp gia đình, ta chỉ cần xưng hô như đã đề cập ở trên, trong phần xưng hô với mẹ cha. Người chồng sau của mẹ mình gọi là cha ghẻ, kế phụ, cha, cậu, hay dượng. Người vợ sau của cha mình gọi là mẹ ghẻ, mẹ kế, hay kế mẫu.
    2. Cách Xưng Hô Với Anh Chị Em của Cha Mẹ và Ông Bà
    Anh của cha gọi là bác, em trai của cha là chú, chị của cha còn được gọi là bác gái. Em gái của cha là cô hay o (ca dao có câu " Một trăm ông chú không lo, chỉ lo một nỗi mụ o nỏ mồm." ). Có nơi chị của cha cũng được gọi là cô hay o.
    Anh của mẹ gọi là bác hay cậu, em trai của mẹ là cậu, chị của mẹ là già hay bác gái, và em gái của mẹ là dì. Có những gia đình bắt con cái gọi cậu và dì bằng chú và cô vì muốn có sự thân thiết giống nhau giữa hai gia đình bên ngoại và bên nội, tức là bên nào cũng là bên nội cả.
    Vợ của bác (anh của cha hay mẹ) gọi là bác gái, vợ của chú gọi là thím, và chồng của cô hay dì gọi là chú hay chú dượng hay dượng, chồng của bác gái hay già gọi là bác hay bác dượng, và vợ của cậu là mợ.
    Anh trai của ông bà nội và ông bà ngoại mình gọi là ông bác (bác của cha hay mẹ mình), em trai của ông nội và ông ngoại là ông chú (chú của cha hay mẹ mình), chị của ông bà nội và ông bà ngoại hay vợ của ông bác gọi là bà bác, em gái của ông nội ông ngoại mình gọi là bà cô (cô của cha mẹ mình), em trai của bà nội bà ngoại gọi là ông cậu (cậu của cha hay mẹ mình), em gái của bà nội bà ngoại gọi là bà dì (dì của cha mẹ mình), và chồng của bà cô và bà dì gọi là ông dượng (dượng của cha hay mẹ mình). Tuy nhiên, trong lối xưng hô hàng ngày, người ta thường gọi giản tiện là chú, bác, ông hay bà để thay cho chú dượng, bác gái, ông bác, ông chú, ông cậu, ông dượng, bà bác, bà cô, hay bà dì.
    3. Xưng Hô Với Anh Chị Em:
    Anh của vợ hay anh của chồng gọi là anh hay bác, còn khi nói chuyện với người khác thì dùng ông anh nhà tôi, anh của nhà tôi, anh vợ tôi , hay anh chồng tôi. Tiếng anh chồng còn dùng để gọi chồng của một người đàn bà nào đó trong nghĩa của câu: Anh chồng thì đi vắng chỉ có chị vợ ở nhà mà thôi. Chị của chồng hay chị của vợ gọi là chị hay bác, còn khi nói chuyện thì dùng chị chồng, chị vợ, bà chị của nhà tôi,v.v. Em trai của chồng hay vợ gọi là em hay chú.
    Em gái của chồng hay vợ gọi là em, cô, hay dì. Các từ bác, chú, cô hay dì trong các trường hợp xưng hô với anh chị là cách chúng ta gọi thế cho con mình và có nghĩa là anh, chị, em của mình.
    - Các tiếng xưng hô về chị em còn gồm có: Chị em gái: chị em toàn là gái. Chị em ruột: chị em cùng cha mẹ trong đó có em trai. Chị gái hay chị ruột: người chị cùng cha mẹ. Chị họ: chị cùng họ với mình. Chị em chú bác, chị em con chú con bác, chị em thúc bá: các con gái và con trai của em trai và anh bố mình, trong đó người con gái là chị. Chị em con cô con cậu: con gái và con trai của em gái bố và em trai mẹ, trong đó người con gái là chị. Chị em bạn dì, chị em đôi con dì con già: các con gái và con trai của chị hay em gái mẹ trong đó con gái là chị. Chị em bạn dâu: chị em cùng làm dâu trong một nhà. Chị dâu: vợ của anh mình.
    - Các tiếng xưng hô về anh chị em gồm có: Anh chị là tiếng các em gọi anh chị hay cặp vợ chồng anh chị mình, tiếng cặp vợ chồng tự xưng với các em của họ, tiếng gọi cặp vợ chồng của bạn mình, tiếng cha mẹ dùng để gọi vợ chồng con trai hay con gái mình, và tiếng dùng để gọi những kẻ ăn chơi giang hồ, cờ bạc trong nghĩa của từ " dân anh chị." Anh chị em là tiếng người ta dùng để gọi các con trong gia đình như trong câu " Anh chị em nhà ấy có hiếu." Tiếng " anh chị em" còn dùng để gọi chung đàn ông đàn bà hay con trai con gái trong nghĩa của câu " Hỡi các anh chị em nghe đây!" Anh chị em bạn dì hay anh chị em đôi con dì con già để chỉ các con trai con gái của chị và em gái mẹ trong đó người con trai là anh. Anh em con chú con bác hay anh em thúc bá để chỉ con trai con gái của em và anh bố mình, trong đó người con trai là anh. Anh em con cô con cậu để chỉ con trai con gái của em gái bố và em trai mẹ trong đó người con trai là anh. Anh em bạn rể hay anh em cột chèo để chỉ các ông chồng của chị vợ hay em vợ. Anh rể : chồng của chị mình. Tất cả những người con của anh và chị của cha đều là anh và chị của ta ( anh chị họ nội). Các người con của anh và chị của mẹ cũng là anh và chị của ta (anh chị họ ngoại)
    - Các tiếng xưng hô về em gồm có: Em là tiếng chỉ các người con do cha mẹ sinh ra sau mình gồm có em trai em gái và là tiếng gọi các người con của cô, dì, và chú của mình. Em dâu: vợ của em mình. Em rể: chồng của em mình. Em út: tiếng để chỉ người em cuối cùng do cha mẹ mình sinh ra. Tiếng em út còn có nghĩa là đàn em, dùng để chỉ bộ hạ tay chân của người ta trong nghĩa của câu: " Đám em út của tôi sẽ giúp anh chuyện đó, đừng có lo." Họ nội và gia đình bên nội là họ và gia đình của cha mình. Họ ngoại và gia đình bên ngoại là họ và gia đình bên mẹ mình.
    4. Xưng Hô Với Vợ Chồng:
    Tiếng xưng hô với vợ gồm có: em, cưng, mình, bu nó, má, má mày, má nó, má thằng cu, mẹ, mẹ nó, mẹ đĩ, nhà, bà, bà xã, bà nó, ấy, mợ, mợ nó, đằng ấy, v.v.
    Tiếng gọi vợ trong khi nói chuyện với người khác gồm có: nhà tôi, bà nhà tôi, má tụi nhỏ, má sắp nhỏ, má bày trẻ, tiện nội, nội tướng tôi, bà xã, bà xã tôi, và vợ tôi, v.v. Tiếng xưng hô với chồng gồm có: anh, cưng, anh nó, ba, ba nó, bố, bố nó, ******, bố thằng cu, đằng ấy, ông xã, cậu, cậu nó, ông, ông nó, cụ, ấy, mình, v.v.
    Tiếng gọi chồng trong khi nói chuyện với người khác gồm: nhà tôi, ông nhà tôi, ba tụi nhỏ, ba sắp nhỏ, ba bày nhỏ, phu quân tôi, ông xã, ông xã tôi, chồng tôi, trượng phu tôi, anh ấy, v.v.
    Tình vợ chồng người Việt rất đằm thắm, họ yêu nhau với tất cả chân tình, đối đãi với nhau rất lịch sự và tương kính. Những cặp vợ chồng có giáo dục không bao giờ gọi nhau bằng mày và xưong tao. Họ tìm những lời lẽ dịu dàng đầy tình tứ yêu thương để gọi nhau. Chính vì thế mà tiếng xưng hô giữa vợ chồng người Việt có rất nhiều, hơn hẳn tiếng xưng hô của vợ chồng người Tây phương. Những cặp vợ chồng có giáo dục không bao giờ chửi thề và văng tục với nhau, nhất là trước mặt bạn bè.
    5. Xưng Hô Với Con Cháu:
    Con trai đầu lòng của mình gọi là con trai trưởng hay con trai trưởng nam (có người gọi một cách thân mật là cậu trưởng tôi, thằng trưởng nam nhà tôi). Vợ của con trai là con dâu. Vợ con trai trưởng nam là con dâu trưởng. Con gái đầu lòng gọi là trưởng nữ. Chồng của con gái là con rể. Chồng của con gái đầu lòng là con rể trưởng. Tất cả các con trai hay con gái kế tiếp được gọi la thứ nam hay thứ nữ. Người con được sinh ra trước tiên còn được gọi là con cả hay con đầu lòng. Con trai hay con gái cuối cùng của gia đình gọi là con út, út nam, hay út nữ. Nếu vợ chồng chỉ có một con, trai hoặc gái, thì người con đó được gọi là con một. Con của vợ hay của chồng có trước hay sau khi lấy nhau gọi là con ghẻ hay con riêng. Đứa con mới đẻ ra gọi là con đỏ. Con còn nhỏ gọi là con mọn. Khi người đàn ông già rồi mới có con, người ta gọi cảnh đó là cảnh cha già con mọn. Con gia đình quyền thế gọi là con ông cháu cha. Con của con trai mình gọi là cháu nội (cháu nội trai, cháu nội gái); con trai đầu lòng của con trai trưởng nam là cháu đích tôn, đích tôn thừa tự, hay đích tôn thừa trọng, tức là cháu trưởng nối nghiệp lớn của ông bà và giữ việc thờ cúng tổ tiên sau này. Con của con gái mình gọi là cháu ngoại (cháu ngoại trai, cháu ngoại gái).
    ------------------------------------
    [red]
    Nỗi đau ngày ấy là em ạ
    Là chút hao mòn của bể dâu
    Bể dâu sông bãi con thuyền bé
    Trong cõi vô thường nhẹ cánh chao[/size=4][/red]
  8. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    III. Đặc Tính Lịch Sự và Lễ Phép Trong Cách Xưng Hô của Người Việt
    Từ lâu đời, người Việt mình có truyền thống về lễ phép và lịch sự trong cách xưng hô. Các con cháu có lễ phép và có giáo dục thường biết đi thưa về trình chứ không phải muốn đi thì đi muốn về thì về. Khi nói chuyện với bố mẹ và ông bà, con cháu thường dùng cách thưa gửi và gọi dạ bảo vâng chứ không bao giờ nói trống không với người trên. Người Việt chúng ta thường dùng tiếng thưa trước khi xưng hô với người ở vai trên của ta, chẳng hạn như: " Thưa mẹ con đi học. Thưa ông bà con đã về học. Thưa cô con về. Thưa ba, ba bảo con điều chi ạ?"
    Khi trả lời bố mẹ hay ông bà, con cháu thường dùng chữ " dạ, ạ, vâng ạ, vâng." Nếu bà mẹ gọi con: " Tư ơi?" thì khi nghe thấy, người con phải thưa: " Dạ." Nếu người mẹ nói tiếp: " Về ăn cơm!" người con phải nói: " Vâng." (người Bắc) hay " Dạ." (người Nam). Người ta còn dùng chữ " ạ" ở cuối câu để tỏ vẻ kính trọng và lễ phép. Thí dụ:" Chào bác ạ! Vâng ạ!"
    Trong cách xưng hô với người ở vai trên của ta, ta không bao giờ gọi tên tục (tên cha mẹ đạt cho) của ông bà, cha mẹ, cô cậu, dì dượng, và chú bác. Chúng ta chỉ xưng hô bằng danh xưng ngôi thứ trong gia đình mà thôi. Nếu ông có tên là Hùng, ba có tên là Chính, và chú có tên là Tài chẳng hạn, ta chỉ nói là:" Mời ông bà xơi cơm, mời ba má dùng trà, mời cô chú lại chơi."
    Đối với người trên, chúng ta không được dùng tiếng " cái gì" để hỏi lại một cách trống không vì nó nghe có vẻ vô lễ. Người ta thường thế từ " cái gì" bằng từ " điều chi" cho lịch sự và lễ độ. Thay vì hỏi: " Cái gì?" hay " Ba bảo con cái gì?" thì hỏi: " Ba bảo con điều chi ạ?" Từ " cái gì" chỉ sử dụng với người ngang hàng mà thôi. Thí dụ: " Anh hỏi tôi cái gì?" hay " Chị nói cái gì vậy?"
    Trong cách xưng hô với anh chị em, chúng ta dùng từ anh, chị, hay em đứng trước tên hay ngôi thư. Thí dụ: " Anh Hùng đi vắng, em An đang học bài, chị Kim ra má bảo, v.v."
    Các em không được phép gọi anh chị bằng tên trống không. Tuy nhiên, anh chị có thể gọi các em bằng tên trống không hay thêm từ em vào trước tên để gọi. Thí dụ: " Hải ra chị bảo cái này!" hay " Em Hải ra chị bảo cái này!"
    Anh chị em trong một gia đìng có giáo dục không gọi nhau bằng mày và xưng là tao bao giờ. Những người con gọi nhau bằng mày và xưng tao là do lỗi của bố mẹ không biết dạy bảo các con ngay từ khi chúng còn nhỏ. Các con gọi nhau bằng mày xưng tao mãi rồi thành thói quen. Khi đã thành thói quen thì chúng không thể đổi cách xưng hô cho đúng phép được.
    Cha mẹ phải dạy con cái về cách xưng hô ngay từ khi chúng còn nhỏ. Muốn chúng chào ai, cha mẹ phải nói cho chúng biết cách chào và bắt chúng lập lại, chẳng hạn như cha mẹ nói: " Chào bác đi con!" Các con sẽ nói: " Chào bác ạ!"
    Khi có bà con họ hàng thân thuộc đến chơi nhà, cha mẹ phải giới thiệu họ với các con mình và nhắc chúng cách chào. Nếu các con mình chơi ở ngoài sân hay ở trong buồng trong khi có thân nhân đến chơi nhà, ta phải gọi chúng ra để chào bà con.
    Khi cha mẹ đến chơi nhà con cái, nếu trong nhà đang có khách, các con phải giới thiệu cha mẹ với khách và giới thiệu khách với cha mẹ. Có như thế việc xưng hô trong câu chuyện mới tự nhiên và thân mật. Bận cho đến mấy hay bất cứ vì lý do gì, ta cũng phải thực hiện cho bằng được việc giới thiệu khi có khách đến chơi nhà để mọi người biết nhau hầu tiện cho việc xưng hô. Những người ở vai trên hay bậc trên phải được giới thiệu trước.
    Đối với trẻ, ta nên nhắc lại việc chào hỏi nhiều lần chứ đừng tưởng bảo chúng một lần mà chúng nhớ đâu. Chính vì thề mà một nhà giáo dục người Pháp đã viết " La répétition est l'' âme de l'' enseignement" (Việc nhắc lại là linh hồn của việc giáo huấn). Về phạm vi giáo dục, việc " nhắc lại" hay " lập đi lập lại" có nghĩa là ôn tập thường xuyên: văn ôn vũ luyện.
    Có biết xưng hô đúng cách, bà con mới thân cận nhau. Không biết cách xưng hô, dần dần bà con sẽ xa lánh nhau. Có săn đón nhau bằng câu chào lời mời đúng cách, tình gia đình họ hàng mới gắn bó lâu bền. Chính vì thế mà tục ngữ ta có câu: " Lời chào cao hơn mâm cỗ."
    Trong việc dạy trẻ về cách xưng hô và chào hỏi, ta không nên quá khắt khe với chúng. Giải thích và khuyến khích là cách tốt nhất để dạy trẻ. Nếu chúng quen cách xưng hô ở Bắc Mỹ này mà chào ta là " Hi Bác!" ta cũng đừng nổi giận mà chửi chúng. Trong trường hợp này, ta nên vui vẻ xoa đầu trẻ và chỉ cho chúng cách chào cho đúng cách của người Việt: " Chào Bác ạ!" Đừng bao giờ nổi nóng với trẻ vì chúng chưa hiểu và cần phải được dạy dỗ. Khi ta nổi nóng lên là phát cơn điên thì kẻ khôn hóa dại ngưới hiền hóa ngu.
    Việc xưng hô và chào hỏi còn tùy thuộc ở sự thân tình nữa. Nếu ta thường xuyên thăm trẻ hay chăm nom và săn sóc trẻ với tất cả chân tình, trẻ sẽ cảm thấy và tự nhiên chúng sẽ quí mến ta và vồn vã chào hỏi ta.
    Việc dạy trẻ trong vấn đề xưng hô và chào hỏi cần phải kiên nhẫn, khéo léo, và có nghệ thuật. Không miễn cưỡng được. Nếu trẻ không muốn chào, ta phải từ từ giải thích cho chúng hiểu. Khi hiểu, chúng sẽ vui vẻ chào khách. Đừng quá khắt khe với chúng kẻo ta mắc phải khuyết điểm " giáo đa thành oán."
    ------------------------------------
    [red]
    Nỗi đau ngày ấy là em ạ
    Là chút hao mòn của bể dâu
    Bể dâu sông bãi con thuyền bé
    Trong cõi vô thường nhẹ cánh chao[/size=4][/red]
  9. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    III. Đặc Tính Lịch Sự và Lễ Phép Trong Cách Xưng Hô của Người Việt
    Từ lâu đời, người Việt mình có truyền thống về lễ phép và lịch sự trong cách xưng hô. Các con cháu có lễ phép và có giáo dục thường biết đi thưa về trình chứ không phải muốn đi thì đi muốn về thì về. Khi nói chuyện với bố mẹ và ông bà, con cháu thường dùng cách thưa gửi và gọi dạ bảo vâng chứ không bao giờ nói trống không với người trên. Người Việt chúng ta thường dùng tiếng thưa trước khi xưng hô với người ở vai trên của ta, chẳng hạn như: " Thưa mẹ con đi học. Thưa ông bà con đã về học. Thưa cô con về. Thưa ba, ba bảo con điều chi ạ?"
    Khi trả lời bố mẹ hay ông bà, con cháu thường dùng chữ " dạ, ạ, vâng ạ, vâng." Nếu bà mẹ gọi con: " Tư ơi?" thì khi nghe thấy, người con phải thưa: " Dạ." Nếu người mẹ nói tiếp: " Về ăn cơm!" người con phải nói: " Vâng." (người Bắc) hay " Dạ." (người Nam). Người ta còn dùng chữ " ạ" ở cuối câu để tỏ vẻ kính trọng và lễ phép. Thí dụ:" Chào bác ạ! Vâng ạ!"
    Trong cách xưng hô với người ở vai trên của ta, ta không bao giờ gọi tên tục (tên cha mẹ đạt cho) của ông bà, cha mẹ, cô cậu, dì dượng, và chú bác. Chúng ta chỉ xưng hô bằng danh xưng ngôi thứ trong gia đình mà thôi. Nếu ông có tên là Hùng, ba có tên là Chính, và chú có tên là Tài chẳng hạn, ta chỉ nói là:" Mời ông bà xơi cơm, mời ba má dùng trà, mời cô chú lại chơi."
    Đối với người trên, chúng ta không được dùng tiếng " cái gì" để hỏi lại một cách trống không vì nó nghe có vẻ vô lễ. Người ta thường thế từ " cái gì" bằng từ " điều chi" cho lịch sự và lễ độ. Thay vì hỏi: " Cái gì?" hay " Ba bảo con cái gì?" thì hỏi: " Ba bảo con điều chi ạ?" Từ " cái gì" chỉ sử dụng với người ngang hàng mà thôi. Thí dụ: " Anh hỏi tôi cái gì?" hay " Chị nói cái gì vậy?"
    Trong cách xưng hô với anh chị em, chúng ta dùng từ anh, chị, hay em đứng trước tên hay ngôi thư. Thí dụ: " Anh Hùng đi vắng, em An đang học bài, chị Kim ra má bảo, v.v."
    Các em không được phép gọi anh chị bằng tên trống không. Tuy nhiên, anh chị có thể gọi các em bằng tên trống không hay thêm từ em vào trước tên để gọi. Thí dụ: " Hải ra chị bảo cái này!" hay " Em Hải ra chị bảo cái này!"
    Anh chị em trong một gia đìng có giáo dục không gọi nhau bằng mày và xưng là tao bao giờ. Những người con gọi nhau bằng mày và xưng tao là do lỗi của bố mẹ không biết dạy bảo các con ngay từ khi chúng còn nhỏ. Các con gọi nhau bằng mày xưng tao mãi rồi thành thói quen. Khi đã thành thói quen thì chúng không thể đổi cách xưng hô cho đúng phép được.
    Cha mẹ phải dạy con cái về cách xưng hô ngay từ khi chúng còn nhỏ. Muốn chúng chào ai, cha mẹ phải nói cho chúng biết cách chào và bắt chúng lập lại, chẳng hạn như cha mẹ nói: " Chào bác đi con!" Các con sẽ nói: " Chào bác ạ!"
    Khi có bà con họ hàng thân thuộc đến chơi nhà, cha mẹ phải giới thiệu họ với các con mình và nhắc chúng cách chào. Nếu các con mình chơi ở ngoài sân hay ở trong buồng trong khi có thân nhân đến chơi nhà, ta phải gọi chúng ra để chào bà con.
    Khi cha mẹ đến chơi nhà con cái, nếu trong nhà đang có khách, các con phải giới thiệu cha mẹ với khách và giới thiệu khách với cha mẹ. Có như thế việc xưng hô trong câu chuyện mới tự nhiên và thân mật. Bận cho đến mấy hay bất cứ vì lý do gì, ta cũng phải thực hiện cho bằng được việc giới thiệu khi có khách đến chơi nhà để mọi người biết nhau hầu tiện cho việc xưng hô. Những người ở vai trên hay bậc trên phải được giới thiệu trước.
    Đối với trẻ, ta nên nhắc lại việc chào hỏi nhiều lần chứ đừng tưởng bảo chúng một lần mà chúng nhớ đâu. Chính vì thề mà một nhà giáo dục người Pháp đã viết " La répétition est l'' âme de l'' enseignement" (Việc nhắc lại là linh hồn của việc giáo huấn). Về phạm vi giáo dục, việc " nhắc lại" hay " lập đi lập lại" có nghĩa là ôn tập thường xuyên: văn ôn vũ luyện.
    Có biết xưng hô đúng cách, bà con mới thân cận nhau. Không biết cách xưng hô, dần dần bà con sẽ xa lánh nhau. Có săn đón nhau bằng câu chào lời mời đúng cách, tình gia đình họ hàng mới gắn bó lâu bền. Chính vì thế mà tục ngữ ta có câu: " Lời chào cao hơn mâm cỗ."
    Trong việc dạy trẻ về cách xưng hô và chào hỏi, ta không nên quá khắt khe với chúng. Giải thích và khuyến khích là cách tốt nhất để dạy trẻ. Nếu chúng quen cách xưng hô ở Bắc Mỹ này mà chào ta là " Hi Bác!" ta cũng đừng nổi giận mà chửi chúng. Trong trường hợp này, ta nên vui vẻ xoa đầu trẻ và chỉ cho chúng cách chào cho đúng cách của người Việt: " Chào Bác ạ!" Đừng bao giờ nổi nóng với trẻ vì chúng chưa hiểu và cần phải được dạy dỗ. Khi ta nổi nóng lên là phát cơn điên thì kẻ khôn hóa dại ngưới hiền hóa ngu.
    Việc xưng hô và chào hỏi còn tùy thuộc ở sự thân tình nữa. Nếu ta thường xuyên thăm trẻ hay chăm nom và săn sóc trẻ với tất cả chân tình, trẻ sẽ cảm thấy và tự nhiên chúng sẽ quí mến ta và vồn vã chào hỏi ta.
    Việc dạy trẻ trong vấn đề xưng hô và chào hỏi cần phải kiên nhẫn, khéo léo, và có nghệ thuật. Không miễn cưỡng được. Nếu trẻ không muốn chào, ta phải từ từ giải thích cho chúng hiểu. Khi hiểu, chúng sẽ vui vẻ chào khách. Đừng quá khắt khe với chúng kẻo ta mắc phải khuyết điểm " giáo đa thành oán."
    ------------------------------------
    [red]
    Nỗi đau ngày ấy là em ạ
    Là chút hao mòn của bể dâu
    Bể dâu sông bãi con thuyền bé
    Trong cõi vô thường nhẹ cánh chao[/size=4][/red]
  10. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    ::: Nguyên Nguyên :::
    Khuôn trăng đầy đặn nét người nở nang

    Câu chuyện ?onét người nở nang? bắt đầu qua chuyến viễn du miệt dưới của maestro Phạm Duy trong khoảng thượng tuần tháng 9 năm nay. Ðầu tháng Chín là khởi điểm của mùa Xuân ở Nam Bán Cầu. Người ta thích ra ngoài, đi hí viện, xem ca nhạc kịch, xem chớp bóng, đi ăn uống, hơn lúc những tháng trước của mùa Ðông lạnh lẽo.
    Chuyến đi ?onhìn lại quảng đời? đã qua của Phạm Duy cũng là dịp giới thiệu nhạc Kiều - người nhạc sĩ lão thành đã dày công sáng tác trong những năm gần đây. Rất tiếc người viết tự nhiên quên bẵng đi một cơ hội hiếm có và chỉ biết được sau khi phái đoàn du ca của Phạm Duy đã rời Sydney đến trình diễn ở Melbourne. Biết được qua i-meo của một ông Anh đồng môn (Senior Lê Quý) qua diễn đàn mitchong trên mạng internet. Ðại khái anh Lê viết trên mitchong anh ấy hơi thất vọng vì buổi ca nhạc đó đã bỏ sót rất nhiều bản nhạc ?otiền chiến? của Phạm Duy.
    Senior Lê - một trong những người mê say truyện Kiều rất nồng nhiệt ở miệt dưới - cũng bày tỏ sửng sốt khi anh nghe một nữ sĩ ngâm câu thơ quen thuộc của Tiên Ðiền Nguyễn Du mô tả vẻ đẹp của Thúy Vân:
    Mai cốt cách, tuyết tinh thần
    Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
    Vân xem trang trọng khác vời
    Khuôn trăng đầy đặn nét người nở nang
    ?~Nét người nở nang?T thay vì ?onét ngài nở nang?T. Và anh hứa mai mốt anh sẽ biên i-meo cho maestro Phạm Duy nhắc nhở maestro nhớ sửa chữa ?onét người? trở lại thành ?onét ngài? cho nó đúng. Ðúng với những gì chúng ta đã được đọc, học được trong suốt quảng đời đã qua. Người viết tự thú không thích Kiều bằng Chinh Phụ Ngâm, và thường không để ý đến những cuộc tranh cãi về Kiều. Mặc dù đã đọc qua vài vụ ?~bút chiến?T nhất là cuộc ?~xung đột?T vào thời tiền chiến (1924) giữa Ngô Đức Kế và Phạm Quỳnh, rồi những đả kích gs Nguyễn Văn Trung hồi những năm đầu thập niên 1970, sau khi ông Trung cho một buổi nói chuyện về cuộc xung đột giữa Ngô và Phạm [1]. Và mặc dù cũng có đọc qua vài ba quyển sách về Chữ Nôm và vài trang Kiều viết bằng chữ Nôm đây đó, với sự hỗ trợ của một hai quyển tự điển chữ Nôm.

    Thế nhưng, người viết không hiểu vì sao ?" có thể trong trí nhớ mơ hồ đã đọc ở đâu đó - lập tức viết vài dòng i-meo nhắn với senior Lê: có thể từ Người ngày xưa ở nước An-Nam được đọc là Ngài. Do đó ?onét ngài nở nang? chính ra Nguyễn Du có thể mang ý: ?onét người nở nang? y như Phạm Duy đã táo bạo ?~cải cách?T. Trong khi ?onét ngài nở nang? đã được hàng ngàn các sách vở giải thích rằng ?onét lông mày / nét nga-my ? nở nang?, ?onét người nở nang? có thể được hiểu ?othân hình đẹp / dáng người nở nang, . . . có da có thịt?T và dịch nôm na sang tiếng Anh ?obeautiful body?. Rất dễ hiểu, có thể được chấp nhận ở cú pháp, ở văn phạm, ở vân vân, với điều kiện ?Nếu. Nếu ?~ngài?T chính là từ dùng để chỉ ?~người?T ngày xưa, và nếu ? ?~ngài?T mang nghĩa ?~người?Tđặt để vào chỗ đó hợp tình, hợp lý, hợp nghĩa, hợp cách mô tả ?~nôm na?T của những nhà thi văn ngày xưa.

    Thế rồi anh Lê liên lạc i-meo với Bố Già, và Phạm nhạc sư đã nhanh chóng hồi âm, xác nhận những điểm sau:

    · Ca sĩ đã không hát lầm ?onét ngài?T ra ?~nét người?T.
    · Phạm Duy cũng không giống như những người yêu truyện Kiều, thường ưa ngoan ngoãn phổ những câu thơ tuyệt vời của Nguyễn Du mà không có ý kiến riêng của mình.
    · Theo Phạm Duy, nếu chấp nhận ?~nét ngài?T như mọi người từng quen thuộc, Nguyễn Du đã tả lông mi của Thúy Vân vừa to vừa dài như hàng lông mi giả của các mỹ nữ ngày nay.
    · Ngoài ra, Phạm Duy cho biết người gốc Nghệ Tĩnh (như Nguyễn Du) thường đọc chữ ?~người?T là ?~ngài?T. Ở đó có câu châm ngôn: tốt con ngài hơn dài tấm áo?
    · Thêm vào đó, nhà nhạc sĩ lão thành cho biết trong một chuyến du lịch Trung Quốc, khi tới thăm hồ tắm Dương Quý Phi, ông được thấy pho tượng của Dương Quý Phi có vóc dáng của một người hết sức nở nang ? Và từ đó nhạc sư suy luận có thể vì ngày xưa, theo con mắt mỹ thuật, người đàn bà đẹp phải là người đàn bà có da có thịt, đẫy đà, ? và có thể hơi béo so với tiêu chuẩn ngày nay.
    · Dựa vào những nhận xét kể trên, và qua một dịp nhận định về Truyện Kiều cùng với nhà văn Vũ Hạnh, Phạm Duy, trong lúc phổ Nhạc Kiều, đã cố tình sửa hai câu lục bát giới thiệu Thuý Vân, thành ra:
    Vân xem trang trọng khác vời
    Khuôn trăng đầy đặn nét người nở nang

    Câu chuyện của bài viết này bắt đầu ở chỗ đó. Ở chỗ ?~nét người?T được ?~táo bạo?T dùng thay cho ?~nét ngài?T.

    Nhưng trước hết, xin mạn phép tường trình, một phần nào đó của bài này chính là thành quả tốt đẹp của một thí nghiệm mới. Một thí nghiệm trên internet. Cũng như bài ?~Da trắng vỗ bì bạch?T trước đây khoảng một năm, việc xử dụng ý kiến trao đổi trên mạng - giữa một nhóm bạn bè thân thuộc ?" đã gợi ý người viết nhìn thêm vào các khía cạnh khác của vấn đề, thông thường rất có thể dễ quên sót. So với ?~Da trắng vỗ bì bạch?T, ý kiến trao đổi về đề tài ?~nét ngài?T có vẻ ?~găng hơn?T và khó hơn. Găng hơn vì nó liên hệ kho tàng văn hoá của truyện ?~Đoạn Trường Tân Thanh?T, liên hệ đến chữ Nho, chữ Nôm, chữ quốc ngữ, đến vấn đề chữ nghĩa, vân vân. Dễ lôi cuốn nhiều người nhảy vào . . . vòng chiến. Khó hơn vì điểm cốt lõi của vấn đề ?~nét người?T có thể được phô trương, thể hiện qua hai khía cạnh, đều khó ngang nhau.
    (i) Nguyễn Du đã viết ?~Ngài?T ra sao? Có phải viết như ?~Người?T trong tương đương ở chữ quốc ngữ không?
    (ii) Nếu đúng vậy, ?~nét người?T viết chung với nhau, rồi viết luôn ra ?~nét người nở nang?T, có thật hợp lý hợp tình, và hợp nghĩa hay không. Hợp với cái ?~gu?T, hay gần đúng với ý định của thi hào Nguyễn Du hay chăng.

    Thoạt tiên nhiều người không muốn tham gia, viện dẫn lý do không biết gì về chữ Nôm. Nhưng rất may, có một hai người trong nhóm mitchong trên internet - tự nhận biết chút ít về Nôm na, Hán rộng kiểu quan thoại, và Nho chùm ?" kêu gọi anh chị em trong mạng hãy mạnh dạn tham gia. Bởi nói về thông thạo chữ Nôm, hiện nay trên thế giới, có thể đếm không quá 100 vị. Đa số những vị này đều đã về hưu, hoặc đã qua đi lứa tuổi tích cực nghiên cứu những vấn đề nhức đầu về Nôm học. Ở mặt khác, những nhà nôm-na mới trên mạng Mitchong được hơn một lợi điểm. Họ là những nhà internet guru, nói và viết được tiếng Việt, đã học và đọc qua truyện Kiều, và nhất là truy cập tài liệu trên mạng rất nhanh. Nhanh hơn các nhà Nôm-học chân chính gấp cả ngàn lần. Và họ có đầy mình . . . lòng yêu mến thi ca Việt Nam, và nhất là tinh thần khoa học Tây Phương.

    Vấn đề Ngài hay Người trong ?~Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang?T khảo sát trong bài này ?" sẽ được phân tích trên những góc cạnh khác nhau, nhưng không nằm ngoài phạm trù hỗ tương liên hệ với nhau. Với kiến thức về Nôm và quốc ngữ trong thế kỷ 21, nhất là dựa trên những cuộc nghiên cứu mới về quốc ngữ, về tiếng Mường tại Việt Nam, người ta tự nhiên sẽ thấy vấn đề sẽ không còn giản đơn như thường thấy từ trước đến nay. Người đọc lẫn người viết đều trở nên khó tính, đều mong mỏi một cái gì mới lạ. Nhìn xuôi nhìn ngược. Và nếu được, phải tổng hợp giải quyết thoả đáng những điểm gút mắt của Nôm, quốc ngữ, Kiều và cũng đồng thời dựa vào chất xám của tinh thần khoa học phương Tây.

    Trước hết xin sơ lược về nguyên ủy của hàng ngàn cuộc tranh cãi về truyện Kiều, cũng như về những sự bất đồng ý giữa nhiều nhà học giả về Kiều, về những áng thi văn bất hủ của tiền nhân viết bằng chữ Nôm rồi được chuyển ngữ sang chữ quốc ngữ, bắt đầu vào khoảng giữa đến cuối thế kỷ 19. Rồi sau đó thử xem có phải ngày xưa ?~người?T được phát âm như ?~ngài?T hay không. Và nếu vậy, ?~người?T thay thế cho ?~ngài?T, đặt vào cụm từ ?~nét người nở nang?T có ổn chăng?

    1. Thử tìm hiểu sơ lược về Chữ Nôm

    Tiếng nói của người Việt trước khoảng thế kỷ thứ 18 (năm 1700-1800) chính là tiếng Nôm. Nôm nói trại từ NAM. Tiếng Nôm là tiếng của người nước Nam. Tiếng Nôm có phát âm gần giống nhưng không giống y như tiếng Việt ngày nay. Tiếng Nôm có chữ viết gọi Chữ Nôm.

    Chữ Nôm và phát âm tiếng Nôm chính nó cũng biến chuyển qua nhiều thế kỷ. Cũng biến chuyển như tiếng Hán, hay bất cứ ngôn ngữ nào trên thế giới. Hiện nay các học giả Việt vẫn chưa xác nhận được chữ Nôm xuất hiện vào thời kỳ nào. Người ta chỉ biết chắc vài ba điểm quan trọng như sau:
    (i) Chữ Nôm xuất hiện sau khi nước Nam Việt bị nhà Hán xâm chiếm và đô hộ. Có lẽ xuất hiện trong khoảng từ thế kỷ thứ 3 đến thứ 8. Giả thuyết chữ Nôm ra đời ở thế kỷ thứ 3 cho rằng chữ Nôm do thái thú Sĩ Nhiếp sáng chế ra khi được nhà Hán bổ nhiệm sang cai trị nước Nam (187-226). Giả thuyết chữ Nôm xuất hiện ở thế kỷ thứ 8 nối liền chữ Nôm với danh xưng Bố Cái Đại Vương dành cho Phùng Hưng (năm 791). [Xem ghi chú [2]]
    (ii) Trước khi chữ Nôm xuất hiện, dân nước Nam có lối chữ viết thường gọi ?~chữ nòng nọc?T ?" bao gồm những nét nguấy nguấy giống hình con nòng nọc. Loại chữ này y như chữ người Mường còn giữ lại cho đến vài thế kỷ gần đây. Và có lẽ cùng gốc gác với thứ chữ viết của người Thái Lan. Trong các nhóm ngôn ngữ từ thời cổ đại của tất cả các khối dân tộc cư ngụ ở nước An-Nam, nhóm ngôn ngữ Việt-Mường là nhóm lớn nhất.
    (iii) Trong khi tiếng Nôm là tiếng nói của người nước Nam, số người biết đọc và biết viết chữ Nôm qua nhiều thế kỷ không bao giờ hơn quá 10 phần trăm của tổng dân số. Trong chốn quan trường, hành chánh và khoa bảng, chữ Hán qua cách phát âm gọi nôm-na là tiếng Hán Việt, mới là ngôn ngữ chính thức của cả nước Nam. Chữ Nôm qua nhiều thời đại lúc nào cũng mang địa vị của một phó thường dân. Không được ?~điển chế?T. Không chiếm được vị trí của một cơ viện. Nên chữ Nôm bị thả lỏng, một từ mang nhiều cách viết. Ai muốn viết kiểu nào thì viết! Chữ Nôm có ba đặc tính cơ bản. Thứ nhất bởi ở vị trí phó thường dân, Nôm thường bị các nhà Nho, nhà quan khinh thị. ?~Nôm na là cha mách qué?T là câu nói tiêu biểu cho việc hạ cấp chữ Nôm đó. Cũng ở lý do này, rất nhiều nhà Nho sáng tác những bản thi văn chữ Nôm rất hay nhưng thường lại thích ẩn danh không để lộ tên thật. ?~Chinh Phụ Ngâm?T không biết do Đoàn Thị Điểm hay Phan Huy Ích phiên dịch từ chữ Hán sang Nôm, là một trường hợp điển hình. Hoặc có giả thuyết cho rằng Hồ Xuân Hương có thể chỉ một bút danh do nhiều nhà Nho phái nam thích sáng tác thơ tả chân nhưng không dám lộ diện bởi nó vừa nôm na vừa .. . tục nên gán cho một nữ sĩ mang tên Hồ Xuân Hương [1], [7]. Thứ hai, chữ Nôm có rất nhiều từ mang tính đồng âm dị nghĩa. Thí dụ: ?~ngài?T cùng một phát âm, nhưng mang rất nhiều nghĩa: nghĩa con tằm, nghĩa ?~ngài?T để xưng hô người có chức, . . . ?~Đàng?T mang nghĩa ?~hướng?T, ?~vùng?T (đàng Trong / đàng Ngoài), mang nghĩa ?~Đường?T (lên đàng / lên đường). Đá có nghĩa ?~đá bằng chân?T và cũng mang nghĩa ?~Hòn đá?T. Loi thoi= từ rất cổ mang nghĩa ?~lẻ loi?T [8], rất dễ nhầm với ?~lôi thôi / lếch thếch?T. Vài - phát âm cổ của Vời (tuyệt vời) ?" trùng âm: ?~một vài bông hoa?T. Thứ ba, bởi không được triều đình nhìn nhận và hệ thống hoá, chữ Nôm mang đặc tính tai hại mạnh ai nấy viết. Một từ thông thường có ít lắm 3-4 cách viết khác nhau và có thể biến đổi theo thời đại, nhất là sau khi chữ quốc ngữ bắt đầu được thịnh hành và thay thế dần dần chữ Nôm.
    (iv) Bởi mang nhiều yếu điểm, và muôn phần phức tạp, chỉ trong vòng trên dưới 200 năm (từ khoảng 1651 đến 1850) chữ Nôm bị chữ quốc ngữ hoàn toàn thay thế. Điểm cần nhấn mạnh, trong quá trình chữ Nôm thay thế bằng quốc ngữ có rất nhiều từ phải biến đổi cách đọc - có lẽ để giải quyết cảnh đồng âm dị nghĩa đầy dẫy trong tiếng Nôm. Và cũng trong quá trình thay thế đó, theo thiển ý, có rất nhiều điểm biến chuyển, ngành ngôn ngữ học Việt Nam hiện vẫn chưa giải đáp thoả đáng. Sẽ trở lại vấn đề này ở phía dưới.
    (v) Một điểm khác cũng đáng để ý: Việc học hỏi chữ Nôm trong thế kỷ 20 vừa qua vẫn còn mang nặng tập tục ?~lão sư với đồ đệ?T như xưa. Thầy dạy sao học trò học y như vậy. Việc truyền tụng chữ Nôm trong khung cảnh riêng tư đó, thường thiếu thốn kiểm chứng, và lý luận theo tinh thần khoa học Tây Phương. Nhiều sai nhầm được truyền tụng từ đời này sang đời kia ?" và những sai nhầm đó vẫn được tưởng rằng chứa đầy tính xác thực. Thí dụ: Vũ mang nghĩa ?~lông chim?T phải được ký âm ?~Yũ?T mới đúng với cách yiết, cách phát âm chữ Nôm, chữ Tàu. ?~Việt?T trong Việt Nam chắc chắn đã được tiền nhân đọc Yiệt - mới phù hợp với cách phát âm người Mường, người Quảng Đông, Bắc Kinh, Nhật Bản, và cách viết của chữ Nôm [11].

    Chữ Nôm thông thường được viết bằng cách vay mượn một từ thẳng từ chữ Hán - hoặc phối hợp hai hoặc ba từ chữ Hán viết ?~chùm?T với nhau. THÍ DỤ:

    Một Nôm mượn Một Hán:
    - Vườn mượn từ Yiên (Hán), xuất phát từ Yuan của quan thoại
    - Mùa từ Vụ (Hán)
    - Chìm từ Zhầm (Hán, viết theo quốc ngữ: Trầm)
    - Chè từ Chà (Hán, theo quốc ngữ: Trà)
    - Tìm mượn từ chữ viết Tầm (Hán)
    - Đánh vay từ Đả
    - Việc vay từ Yịch
    - Bán (bán buôn) vay từ Bán (phân nửa)
    - Và vay từ Ba
    - Là viết tắt từ Hán tự ?~La?T


    ------------------------------------
    [red]
    Nỗi đau ngày ấy là em ạ
    Là chút hao mòn của bể dâu
    Bể dâu sông bãi con thuyền bé
    Trong cõi vô thường nhẹ cánh chao[/size=4][/red]

Chia sẻ trang này