1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Mục lục box Tiếng Việt-Từ điển tra cứu trực tuyến-Tuyển tập các bài viết(SƯU TẦM) về Tiếng Việt.

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi home_nguoikechuyen, 24/06/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    ::: Nguyên Nguyên :::
    Khuôn trăng đầy đặn nét người nở nang

    Câu chuyện ?onét người nở nang? bắt đầu qua chuyến viễn du miệt dưới của maestro Phạm Duy trong khoảng thượng tuần tháng 9 năm nay. Ðầu tháng Chín là khởi điểm của mùa Xuân ở Nam Bán Cầu. Người ta thích ra ngoài, đi hí viện, xem ca nhạc kịch, xem chớp bóng, đi ăn uống, hơn lúc những tháng trước của mùa Ðông lạnh lẽo.
    Chuyến đi ?onhìn lại quảng đời? đã qua của Phạm Duy cũng là dịp giới thiệu nhạc Kiều - người nhạc sĩ lão thành đã dày công sáng tác trong những năm gần đây. Rất tiếc người viết tự nhiên quên bẵng đi một cơ hội hiếm có và chỉ biết được sau khi phái đoàn du ca của Phạm Duy đã rời Sydney đến trình diễn ở Melbourne. Biết được qua i-meo của một ông Anh đồng môn (Senior Lê Quý) qua diễn đàn mitchong trên mạng internet. Ðại khái anh Lê viết trên mitchong anh ấy hơi thất vọng vì buổi ca nhạc đó đã bỏ sót rất nhiều bản nhạc ?otiền chiến? của Phạm Duy.
    Senior Lê - một trong những người mê say truyện Kiều rất nồng nhiệt ở miệt dưới - cũng bày tỏ sửng sốt khi anh nghe một nữ sĩ ngâm câu thơ quen thuộc của Tiên Ðiền Nguyễn Du mô tả vẻ đẹp của Thúy Vân:
    Mai cốt cách, tuyết tinh thần
    Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
    Vân xem trang trọng khác vời
    Khuôn trăng đầy đặn nét người nở nang
    ?~Nét người nở nang?T thay vì ?onét ngài nở nang?T. Và anh hứa mai mốt anh sẽ biên i-meo cho maestro Phạm Duy nhắc nhở maestro nhớ sửa chữa ?onét người? trở lại thành ?onét ngài? cho nó đúng. Ðúng với những gì chúng ta đã được đọc, học được trong suốt quảng đời đã qua. Người viết tự thú không thích Kiều bằng Chinh Phụ Ngâm, và thường không để ý đến những cuộc tranh cãi về Kiều. Mặc dù đã đọc qua vài vụ ?~bút chiến?T nhất là cuộc ?~xung đột?T vào thời tiền chiến (1924) giữa Ngô Đức Kế và Phạm Quỳnh, rồi những đả kích gs Nguyễn Văn Trung hồi những năm đầu thập niên 1970, sau khi ông Trung cho một buổi nói chuyện về cuộc xung đột giữa Ngô và Phạm [1]. Và mặc dù cũng có đọc qua vài ba quyển sách về Chữ Nôm và vài trang Kiều viết bằng chữ Nôm đây đó, với sự hỗ trợ của một hai quyển tự điển chữ Nôm.

    Thế nhưng, người viết không hiểu vì sao ?" có thể trong trí nhớ mơ hồ đã đọc ở đâu đó - lập tức viết vài dòng i-meo nhắn với senior Lê: có thể từ Người ngày xưa ở nước An-Nam được đọc là Ngài. Do đó ?onét ngài nở nang? chính ra Nguyễn Du có thể mang ý: ?onét người nở nang? y như Phạm Duy đã táo bạo ?~cải cách?T. Trong khi ?onét ngài nở nang? đã được hàng ngàn các sách vở giải thích rằng ?onét lông mày / nét nga-my ? nở nang?, ?onét người nở nang? có thể được hiểu ?othân hình đẹp / dáng người nở nang, . . . có da có thịt?T và dịch nôm na sang tiếng Anh ?obeautiful body?. Rất dễ hiểu, có thể được chấp nhận ở cú pháp, ở văn phạm, ở vân vân, với điều kiện ?Nếu. Nếu ?~ngài?T chính là từ dùng để chỉ ?~người?T ngày xưa, và nếu ? ?~ngài?T mang nghĩa ?~người?Tđặt để vào chỗ đó hợp tình, hợp lý, hợp nghĩa, hợp cách mô tả ?~nôm na?T của những nhà thi văn ngày xưa.

    Thế rồi anh Lê liên lạc i-meo với Bố Già, và Phạm nhạc sư đã nhanh chóng hồi âm, xác nhận những điểm sau:

    · Ca sĩ đã không hát lầm ?onét ngài?T ra ?~nét người?T.
    · Phạm Duy cũng không giống như những người yêu truyện Kiều, thường ưa ngoan ngoãn phổ những câu thơ tuyệt vời của Nguyễn Du mà không có ý kiến riêng của mình.
    · Theo Phạm Duy, nếu chấp nhận ?~nét ngài?T như mọi người từng quen thuộc, Nguyễn Du đã tả lông mi của Thúy Vân vừa to vừa dài như hàng lông mi giả của các mỹ nữ ngày nay.
    · Ngoài ra, Phạm Duy cho biết người gốc Nghệ Tĩnh (như Nguyễn Du) thường đọc chữ ?~người?T là ?~ngài?T. Ở đó có câu châm ngôn: tốt con ngài hơn dài tấm áo?
    · Thêm vào đó, nhà nhạc sĩ lão thành cho biết trong một chuyến du lịch Trung Quốc, khi tới thăm hồ tắm Dương Quý Phi, ông được thấy pho tượng của Dương Quý Phi có vóc dáng của một người hết sức nở nang ? Và từ đó nhạc sư suy luận có thể vì ngày xưa, theo con mắt mỹ thuật, người đàn bà đẹp phải là người đàn bà có da có thịt, đẫy đà, ? và có thể hơi béo so với tiêu chuẩn ngày nay.
    · Dựa vào những nhận xét kể trên, và qua một dịp nhận định về Truyện Kiều cùng với nhà văn Vũ Hạnh, Phạm Duy, trong lúc phổ Nhạc Kiều, đã cố tình sửa hai câu lục bát giới thiệu Thuý Vân, thành ra:
    Vân xem trang trọng khác vời
    Khuôn trăng đầy đặn nét người nở nang

    Câu chuyện của bài viết này bắt đầu ở chỗ đó. Ở chỗ ?~nét người?T được ?~táo bạo?T dùng thay cho ?~nét ngài?T.

    Nhưng trước hết, xin mạn phép tường trình, một phần nào đó của bài này chính là thành quả tốt đẹp của một thí nghiệm mới. Một thí nghiệm trên internet. Cũng như bài ?~Da trắng vỗ bì bạch?T trước đây khoảng một năm, việc xử dụng ý kiến trao đổi trên mạng - giữa một nhóm bạn bè thân thuộc ?" đã gợi ý người viết nhìn thêm vào các khía cạnh khác của vấn đề, thông thường rất có thể dễ quên sót. So với ?~Da trắng vỗ bì bạch?T, ý kiến trao đổi về đề tài ?~nét ngài?T có vẻ ?~găng hơn?T và khó hơn. Găng hơn vì nó liên hệ kho tàng văn hoá của truyện ?~Đoạn Trường Tân Thanh?T, liên hệ đến chữ Nho, chữ Nôm, chữ quốc ngữ, đến vấn đề chữ nghĩa, vân vân. Dễ lôi cuốn nhiều người nhảy vào . . . vòng chiến. Khó hơn vì điểm cốt lõi của vấn đề ?~nét người?T có thể được phô trương, thể hiện qua hai khía cạnh, đều khó ngang nhau.
    (i) Nguyễn Du đã viết ?~Ngài?T ra sao? Có phải viết như ?~Người?T trong tương đương ở chữ quốc ngữ không?
    (ii) Nếu đúng vậy, ?~nét người?T viết chung với nhau, rồi viết luôn ra ?~nét người nở nang?T, có thật hợp lý hợp tình, và hợp nghĩa hay không. Hợp với cái ?~gu?T, hay gần đúng với ý định của thi hào Nguyễn Du hay chăng.

    Thoạt tiên nhiều người không muốn tham gia, viện dẫn lý do không biết gì về chữ Nôm. Nhưng rất may, có một hai người trong nhóm mitchong trên internet - tự nhận biết chút ít về Nôm na, Hán rộng kiểu quan thoại, và Nho chùm ?" kêu gọi anh chị em trong mạng hãy mạnh dạn tham gia. Bởi nói về thông thạo chữ Nôm, hiện nay trên thế giới, có thể đếm không quá 100 vị. Đa số những vị này đều đã về hưu, hoặc đã qua đi lứa tuổi tích cực nghiên cứu những vấn đề nhức đầu về Nôm học. Ở mặt khác, những nhà nôm-na mới trên mạng Mitchong được hơn một lợi điểm. Họ là những nhà internet guru, nói và viết được tiếng Việt, đã học và đọc qua truyện Kiều, và nhất là truy cập tài liệu trên mạng rất nhanh. Nhanh hơn các nhà Nôm-học chân chính gấp cả ngàn lần. Và họ có đầy mình . . . lòng yêu mến thi ca Việt Nam, và nhất là tinh thần khoa học Tây Phương.

    Vấn đề Ngài hay Người trong ?~Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang?T khảo sát trong bài này ?" sẽ được phân tích trên những góc cạnh khác nhau, nhưng không nằm ngoài phạm trù hỗ tương liên hệ với nhau. Với kiến thức về Nôm và quốc ngữ trong thế kỷ 21, nhất là dựa trên những cuộc nghiên cứu mới về quốc ngữ, về tiếng Mường tại Việt Nam, người ta tự nhiên sẽ thấy vấn đề sẽ không còn giản đơn như thường thấy từ trước đến nay. Người đọc lẫn người viết đều trở nên khó tính, đều mong mỏi một cái gì mới lạ. Nhìn xuôi nhìn ngược. Và nếu được, phải tổng hợp giải quyết thoả đáng những điểm gút mắt của Nôm, quốc ngữ, Kiều và cũng đồng thời dựa vào chất xám của tinh thần khoa học phương Tây.

    Trước hết xin sơ lược về nguyên ủy của hàng ngàn cuộc tranh cãi về truyện Kiều, cũng như về những sự bất đồng ý giữa nhiều nhà học giả về Kiều, về những áng thi văn bất hủ của tiền nhân viết bằng chữ Nôm rồi được chuyển ngữ sang chữ quốc ngữ, bắt đầu vào khoảng giữa đến cuối thế kỷ 19. Rồi sau đó thử xem có phải ngày xưa ?~người?T được phát âm như ?~ngài?T hay không. Và nếu vậy, ?~người?T thay thế cho ?~ngài?T, đặt vào cụm từ ?~nét người nở nang?T có ổn chăng?

    1. Thử tìm hiểu sơ lược về Chữ Nôm

    Tiếng nói của người Việt trước khoảng thế kỷ thứ 18 (năm 1700-1800) chính là tiếng Nôm. Nôm nói trại từ NAM. Tiếng Nôm là tiếng của người nước Nam. Tiếng Nôm có phát âm gần giống nhưng không giống y như tiếng Việt ngày nay. Tiếng Nôm có chữ viết gọi Chữ Nôm.

    Chữ Nôm và phát âm tiếng Nôm chính nó cũng biến chuyển qua nhiều thế kỷ. Cũng biến chuyển như tiếng Hán, hay bất cứ ngôn ngữ nào trên thế giới. Hiện nay các học giả Việt vẫn chưa xác nhận được chữ Nôm xuất hiện vào thời kỳ nào. Người ta chỉ biết chắc vài ba điểm quan trọng như sau:
    (i) Chữ Nôm xuất hiện sau khi nước Nam Việt bị nhà Hán xâm chiếm và đô hộ. Có lẽ xuất hiện trong khoảng từ thế kỷ thứ 3 đến thứ 8. Giả thuyết chữ Nôm ra đời ở thế kỷ thứ 3 cho rằng chữ Nôm do thái thú Sĩ Nhiếp sáng chế ra khi được nhà Hán bổ nhiệm sang cai trị nước Nam (187-226). Giả thuyết chữ Nôm xuất hiện ở thế kỷ thứ 8 nối liền chữ Nôm với danh xưng Bố Cái Đại Vương dành cho Phùng Hưng (năm 791). [Xem ghi chú [2]]
    (ii) Trước khi chữ Nôm xuất hiện, dân nước Nam có lối chữ viết thường gọi ?~chữ nòng nọc?T ?" bao gồm những nét nguấy nguấy giống hình con nòng nọc. Loại chữ này y như chữ người Mường còn giữ lại cho đến vài thế kỷ gần đây. Và có lẽ cùng gốc gác với thứ chữ viết của người Thái Lan. Trong các nhóm ngôn ngữ từ thời cổ đại của tất cả các khối dân tộc cư ngụ ở nước An-Nam, nhóm ngôn ngữ Việt-Mường là nhóm lớn nhất.
    (iii) Trong khi tiếng Nôm là tiếng nói của người nước Nam, số người biết đọc và biết viết chữ Nôm qua nhiều thế kỷ không bao giờ hơn quá 10 phần trăm của tổng dân số. Trong chốn quan trường, hành chánh và khoa bảng, chữ Hán qua cách phát âm gọi nôm-na là tiếng Hán Việt, mới là ngôn ngữ chính thức của cả nước Nam. Chữ Nôm qua nhiều thời đại lúc nào cũng mang địa vị của một phó thường dân. Không được ?~điển chế?T. Không chiếm được vị trí của một cơ viện. Nên chữ Nôm bị thả lỏng, một từ mang nhiều cách viết. Ai muốn viết kiểu nào thì viết! Chữ Nôm có ba đặc tính cơ bản. Thứ nhất bởi ở vị trí phó thường dân, Nôm thường bị các nhà Nho, nhà quan khinh thị. ?~Nôm na là cha mách qué?T là câu nói tiêu biểu cho việc hạ cấp chữ Nôm đó. Cũng ở lý do này, rất nhiều nhà Nho sáng tác những bản thi văn chữ Nôm rất hay nhưng thường lại thích ẩn danh không để lộ tên thật. ?~Chinh Phụ Ngâm?T không biết do Đoàn Thị Điểm hay Phan Huy Ích phiên dịch từ chữ Hán sang Nôm, là một trường hợp điển hình. Hoặc có giả thuyết cho rằng Hồ Xuân Hương có thể chỉ một bút danh do nhiều nhà Nho phái nam thích sáng tác thơ tả chân nhưng không dám lộ diện bởi nó vừa nôm na vừa .. . tục nên gán cho một nữ sĩ mang tên Hồ Xuân Hương [1], [7]. Thứ hai, chữ Nôm có rất nhiều từ mang tính đồng âm dị nghĩa. Thí dụ: ?~ngài?T cùng một phát âm, nhưng mang rất nhiều nghĩa: nghĩa con tằm, nghĩa ?~ngài?T để xưng hô người có chức, . . . ?~Đàng?T mang nghĩa ?~hướng?T, ?~vùng?T (đàng Trong / đàng Ngoài), mang nghĩa ?~Đường?T (lên đàng / lên đường). Đá có nghĩa ?~đá bằng chân?T và cũng mang nghĩa ?~Hòn đá?T. Loi thoi= từ rất cổ mang nghĩa ?~lẻ loi?T [8], rất dễ nhầm với ?~lôi thôi / lếch thếch?T. Vài - phát âm cổ của Vời (tuyệt vời) ?" trùng âm: ?~một vài bông hoa?T. Thứ ba, bởi không được triều đình nhìn nhận và hệ thống hoá, chữ Nôm mang đặc tính tai hại mạnh ai nấy viết. Một từ thông thường có ít lắm 3-4 cách viết khác nhau và có thể biến đổi theo thời đại, nhất là sau khi chữ quốc ngữ bắt đầu được thịnh hành và thay thế dần dần chữ Nôm.
    (iv) Bởi mang nhiều yếu điểm, và muôn phần phức tạp, chỉ trong vòng trên dưới 200 năm (từ khoảng 1651 đến 1850) chữ Nôm bị chữ quốc ngữ hoàn toàn thay thế. Điểm cần nhấn mạnh, trong quá trình chữ Nôm thay thế bằng quốc ngữ có rất nhiều từ phải biến đổi cách đọc - có lẽ để giải quyết cảnh đồng âm dị nghĩa đầy dẫy trong tiếng Nôm. Và cũng trong quá trình thay thế đó, theo thiển ý, có rất nhiều điểm biến chuyển, ngành ngôn ngữ học Việt Nam hiện vẫn chưa giải đáp thoả đáng. Sẽ trở lại vấn đề này ở phía dưới.
    (v) Một điểm khác cũng đáng để ý: Việc học hỏi chữ Nôm trong thế kỷ 20 vừa qua vẫn còn mang nặng tập tục ?~lão sư với đồ đệ?T như xưa. Thầy dạy sao học trò học y như vậy. Việc truyền tụng chữ Nôm trong khung cảnh riêng tư đó, thường thiếu thốn kiểm chứng, và lý luận theo tinh thần khoa học Tây Phương. Nhiều sai nhầm được truyền tụng từ đời này sang đời kia ?" và những sai nhầm đó vẫn được tưởng rằng chứa đầy tính xác thực. Thí dụ: Vũ mang nghĩa ?~lông chim?T phải được ký âm ?~Yũ?T mới đúng với cách yiết, cách phát âm chữ Nôm, chữ Tàu. ?~Việt?T trong Việt Nam chắc chắn đã được tiền nhân đọc Yiệt - mới phù hợp với cách phát âm người Mường, người Quảng Đông, Bắc Kinh, Nhật Bản, và cách viết của chữ Nôm [11].

    Chữ Nôm thông thường được viết bằng cách vay mượn một từ thẳng từ chữ Hán - hoặc phối hợp hai hoặc ba từ chữ Hán viết ?~chùm?T với nhau. THÍ DỤ:

    Một Nôm mượn Một Hán:
    - Vườn mượn từ Yiên (Hán), xuất phát từ Yuan của quan thoại
    - Mùa từ Vụ (Hán)
    - Chìm từ Zhầm (Hán, viết theo quốc ngữ: Trầm)
    - Chè từ Chà (Hán, theo quốc ngữ: Trà)
    - Tìm mượn từ chữ viết Tầm (Hán)
    - Đánh vay từ Đả
    - Việc vay từ Yịch
    - Bán (bán buôn) vay từ Bán (phân nửa)
    - Và vay từ Ba
    - Là viết tắt từ Hán tự ?~La?T


    ------------------------------------
    [red]
    Nỗi đau ngày ấy là em ạ
    Là chút hao mòn của bể dâu
    Bể dâu sông bãi con thuyền bé
    Trong cõi vô thường nhẹ cánh chao[/size=4][/red]
  2. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Một Nôm mượn hai Hán tự viết chùm với nhau:
    - Tháng= Nguyệt + Thượng (Nguyệt tiếng Hán chỉ tháng, trăng + Thượng (thạng) dùng để mượn âm / xin xem phía sau: Thượng ngày trước đọc Thạng hay Shạng)
    - Bốn= Tứ + Bổn (Bản: gốc)
    - Voi= Khuyển + Uy (mượn âm) / tiếng Mường= Woi
    - Chó= Khuyển + Chú (âm quốc ngữ: Trú)
    - Trăng= Ba + Lăng (ngày trước đọc: Blăng)
    - Trái= Ba + Lại (ngày xưa: Blái)
    - Trăm (100)= Khẩu + Lâm (xưa: Klăm)
    - Trọn= Cự + Lòn (xưa đọc Klọn)
    - Năm (5)= Nam + Ngũ (5)
    - Năm (year)= Nam + Niên
    - Vua= Bố + Vương = Bố + Tư (ngày trước đọc: Bua)
    - Ngài (con ngài)= Trùng (chỉ loài côn trùng) + ½ Ngại

    Từ nào của chữ Nôm thường có ít lắm 3 lối viết khác nhau:
    - Nét= giả tá từ chữ Niết = Thổ + Niết = Khẩu + Niết {ghi chú [5]}
    - Nang= Âm Hán của NaN = Hoả + Nan
    - Nở= Thảo + Nữ = Khẩu + Thảo + Nữ
    - Đầy= giả tá âm Đài = Thủy + Đài = Sung + Đài = Thủ + Đài = Mãn + Đài
    - Đặn= mượn âm của Đạn = Doanh + Đạn

    2. Truyện Kiều và chữ Nôm

    Khi thẩm định vị trí của chữ Nôm trong văn hoá nước Nam, hầu hết các Nôm gia đều đồng ý với nhau rằng:

    (i) Chữ Nôm quá phức tạp và lâm vào tình cảnh hỗn độn tạp pín lù. Thiếu thốn điển chế, và không đến được với đa số quần chúng. Mặc dù tiếng nói của dân gian từ ngàn xưa vẫn là tiếng Nôm.
    (ii) Thế nhưng, nhờ ở chữ Nôm, các nhà Nho đã có phương tiện để sáng tác và ghi lại các tác phẩm thi ca bất hủ, gầy dựng nên kho tàng văn hoá dân tộc - tồn tại mãi đến ngày nay.

    Truyện Kiều và hàng trăm tác phẩm thi ca khác như Chinh Phụ Ngâm, Bích Câu Kỳ Ngộ, Lục Súc Tranh Công, Lục vân Tiên, cùng những bài thơ của Lê Thánh Tôn, Bà Huyện Thanh Quan, Trần Tế Xương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, v.v. đều được ghi lại và để đời bằng chữ Nôm.

    Tuy nhiên, cũng bởi ở mặc cảm ?~nôm na là cha mách qué?T rất ít khi những bài thơ phú của các thi hào ngày xưa được ghi lại đàng hoàng và in ấn trong lúc tác giả còn sống. Trước hết những tác phẩm đó được truyền tụng qua dân gian. Đầu tiên, chắc chắn qua những bạn bè họ hàng thân thuộc. Bởi tác giả lúc nào cũng ở trong trạng thái . . . nơm nớp dè dặt, do ở việc chữ Nôm bị dán vào một nhãn hiệu tầm thường, lô-can! Nếu thấy hay, tác phẩm sẽ được truyền rộng hơn, và xa hơn. Đến lúc tác phẩm được hàng ngàn hay hàng triệu người biết đến, qua truyền khẩu, một hoặc vài vị Nho gia sẽ bỏ công nhớ và ghi chép lại ?~toàn bộ?T tác phẩm đó. Một vài tác phẩm sẽ được in ấn thêm chừng vài trăm bản. In bằng những bản khắc bằng gỗ, khó giữ được lâu.

    Người ta sẽ dễ dàng suy luận ra những điểm đặc trưng sau đây của các ấn bản chữ Nôm nguyên thủy đó:

    (i) Trước hết, ở thời thế kỷ 18-19 dân chúng chưa có nhiều phương tiện giải trí. Chưa có sách vở, báo chí, radio, chớp bóng, ca kịch, Tivi và internet. Giải trí thông thường và duy nhất có lẽ việc truyền miệng, việc kể chuyện, việc ngâm nga cho nhau những truyện cổ tích, những bài thơ, chuyện thơ hay ho.
    (ii) Những di cảo viết bằng chữ Nôm chỉ xuất hiện sau khi tác phẩm được truyền kể, lan tràn mạnh mẽ trong chốn dân gian. Thông thường ít lắm cũng vài chục năm sau khi chính tác giả đã qua đời.
    (iii) Những bản này sẽ không bao giờ giống y như bản gốc do chính tác giả ngâm nga và sáng tác ra. Nó sẽ mang ảnh hưởng của sức lan truyền đến khu vực địa phương mà chính người ghi chú đang sinh sống. (Thí dụ Lục vân Tiên có vài ?~ghi bản?T sai biệt nhau đến hàng trăm chữ và vài chục vế).
    (iv) Điểm phức tạp hình như chưa được học giả nào nghiên cứu sâu rộng: Lúc tác giả bắt đầu sáng tác áng thi văn chữ Nôm, chữ quốc ngữ chưa phát triển. Đến lúc có người bắt đầu ghi lại áng thi văn đó bằng chữ Nôm, chữ quốc ngữ đã thay thế chữ Nôm. Và chữ quốc ngữ đã vô hình chung biến đổi một số khá nhiều cách phát âm của các từ Nôm ngày trước. Có khi rất nhiều người hiệu đính, hoặc ghi lại các bản chữ Nôm đầu tiên, đã được học chữ Nôm bằng chữ quốc ngữ - nhất là từ khoảng năm 1850 trở về sau. Như vậy thứ chữ Nôm người đời sau ghi lại ?" ít lắm chừng năm bảy chục năm sau khi chính tác giả đã qua đời như trường hợp truyện Kiều, nếu không nói hàng trăm năm nếu kể đến những áng văn cổ như Ức Trai Thi Tập ?" so với thứ chữ Nôm tác giả đã dùng trong lúc sáng tác, có thể khác nhau rất nhiều.

    ------------------------------------
    [red]
    Nỗi đau ngày ấy là em ạ
    Là chút hao mòn của bể dâu
    Bể dâu sông bãi con thuyền bé
    Trong cõi vô thường nhẹ cánh chao[/size=4][/red]
  3. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Một Nôm mượn hai Hán tự viết chùm với nhau:
    - Tháng= Nguyệt + Thượng (Nguyệt tiếng Hán chỉ tháng, trăng + Thượng (thạng) dùng để mượn âm / xin xem phía sau: Thượng ngày trước đọc Thạng hay Shạng)
    - Bốn= Tứ + Bổn (Bản: gốc)
    - Voi= Khuyển + Uy (mượn âm) / tiếng Mường= Woi
    - Chó= Khuyển + Chú (âm quốc ngữ: Trú)
    - Trăng= Ba + Lăng (ngày trước đọc: Blăng)
    - Trái= Ba + Lại (ngày xưa: Blái)
    - Trăm (100)= Khẩu + Lâm (xưa: Klăm)
    - Trọn= Cự + Lòn (xưa đọc Klọn)
    - Năm (5)= Nam + Ngũ (5)
    - Năm (year)= Nam + Niên
    - Vua= Bố + Vương = Bố + Tư (ngày trước đọc: Bua)
    - Ngài (con ngài)= Trùng (chỉ loài côn trùng) + ½ Ngại

    Từ nào của chữ Nôm thường có ít lắm 3 lối viết khác nhau:
    - Nét= giả tá từ chữ Niết = Thổ + Niết = Khẩu + Niết {ghi chú [5]}
    - Nang= Âm Hán của NaN = Hoả + Nan
    - Nở= Thảo + Nữ = Khẩu + Thảo + Nữ
    - Đầy= giả tá âm Đài = Thủy + Đài = Sung + Đài = Thủ + Đài = Mãn + Đài
    - Đặn= mượn âm của Đạn = Doanh + Đạn

    2. Truyện Kiều và chữ Nôm

    Khi thẩm định vị trí của chữ Nôm trong văn hoá nước Nam, hầu hết các Nôm gia đều đồng ý với nhau rằng:

    (i) Chữ Nôm quá phức tạp và lâm vào tình cảnh hỗn độn tạp pín lù. Thiếu thốn điển chế, và không đến được với đa số quần chúng. Mặc dù tiếng nói của dân gian từ ngàn xưa vẫn là tiếng Nôm.
    (ii) Thế nhưng, nhờ ở chữ Nôm, các nhà Nho đã có phương tiện để sáng tác và ghi lại các tác phẩm thi ca bất hủ, gầy dựng nên kho tàng văn hoá dân tộc - tồn tại mãi đến ngày nay.

    Truyện Kiều và hàng trăm tác phẩm thi ca khác như Chinh Phụ Ngâm, Bích Câu Kỳ Ngộ, Lục Súc Tranh Công, Lục vân Tiên, cùng những bài thơ của Lê Thánh Tôn, Bà Huyện Thanh Quan, Trần Tế Xương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, v.v. đều được ghi lại và để đời bằng chữ Nôm.

    Tuy nhiên, cũng bởi ở mặc cảm ?~nôm na là cha mách qué?T rất ít khi những bài thơ phú của các thi hào ngày xưa được ghi lại đàng hoàng và in ấn trong lúc tác giả còn sống. Trước hết những tác phẩm đó được truyền tụng qua dân gian. Đầu tiên, chắc chắn qua những bạn bè họ hàng thân thuộc. Bởi tác giả lúc nào cũng ở trong trạng thái . . . nơm nớp dè dặt, do ở việc chữ Nôm bị dán vào một nhãn hiệu tầm thường, lô-can! Nếu thấy hay, tác phẩm sẽ được truyền rộng hơn, và xa hơn. Đến lúc tác phẩm được hàng ngàn hay hàng triệu người biết đến, qua truyền khẩu, một hoặc vài vị Nho gia sẽ bỏ công nhớ và ghi chép lại ?~toàn bộ?T tác phẩm đó. Một vài tác phẩm sẽ được in ấn thêm chừng vài trăm bản. In bằng những bản khắc bằng gỗ, khó giữ được lâu.

    Người ta sẽ dễ dàng suy luận ra những điểm đặc trưng sau đây của các ấn bản chữ Nôm nguyên thủy đó:

    (i) Trước hết, ở thời thế kỷ 18-19 dân chúng chưa có nhiều phương tiện giải trí. Chưa có sách vở, báo chí, radio, chớp bóng, ca kịch, Tivi và internet. Giải trí thông thường và duy nhất có lẽ việc truyền miệng, việc kể chuyện, việc ngâm nga cho nhau những truyện cổ tích, những bài thơ, chuyện thơ hay ho.
    (ii) Những di cảo viết bằng chữ Nôm chỉ xuất hiện sau khi tác phẩm được truyền kể, lan tràn mạnh mẽ trong chốn dân gian. Thông thường ít lắm cũng vài chục năm sau khi chính tác giả đã qua đời.
    (iii) Những bản này sẽ không bao giờ giống y như bản gốc do chính tác giả ngâm nga và sáng tác ra. Nó sẽ mang ảnh hưởng của sức lan truyền đến khu vực địa phương mà chính người ghi chú đang sinh sống. (Thí dụ Lục vân Tiên có vài ?~ghi bản?T sai biệt nhau đến hàng trăm chữ và vài chục vế).
    (iv) Điểm phức tạp hình như chưa được học giả nào nghiên cứu sâu rộng: Lúc tác giả bắt đầu sáng tác áng thi văn chữ Nôm, chữ quốc ngữ chưa phát triển. Đến lúc có người bắt đầu ghi lại áng thi văn đó bằng chữ Nôm, chữ quốc ngữ đã thay thế chữ Nôm. Và chữ quốc ngữ đã vô hình chung biến đổi một số khá nhiều cách phát âm của các từ Nôm ngày trước. Có khi rất nhiều người hiệu đính, hoặc ghi lại các bản chữ Nôm đầu tiên, đã được học chữ Nôm bằng chữ quốc ngữ - nhất là từ khoảng năm 1850 trở về sau. Như vậy thứ chữ Nôm người đời sau ghi lại ?" ít lắm chừng năm bảy chục năm sau khi chính tác giả đã qua đời như trường hợp truyện Kiều, nếu không nói hàng trăm năm nếu kể đến những áng văn cổ như Ức Trai Thi Tập ?" so với thứ chữ Nôm tác giả đã dùng trong lúc sáng tác, có thể khác nhau rất nhiều.

    ------------------------------------
    [red]
    Nỗi đau ngày ấy là em ạ
    Là chút hao mòn của bể dâu
    Bể dâu sông bãi con thuyền bé
    Trong cõi vô thường nhẹ cánh chao[/size=4][/red]
  4. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Nếu nhớ lại ngày xưa người ta thường nói ?~tam sao thất bổn? (chỉ cần sao chép lại chừng 3 lần nguyên bản đã bị biến đổi rồi) ?" ta có thể thấy rất rõ việc ghi lại chữ Nôm các bản thi ca cổ xưa, như truyện Kiều chẳng hạn, là chuyện ?~tam thiên sao thất bổn?T. Tức ghi chép lại một tác phẩm đã từng truyền khẩu qua ít lắm cũng trên 3 ngàn người. Thí dụ điển hình nhất phải kể Lục Vân Tiên của Đồ Chiểu. Khi sáng tác Lục Vân Tiên, Đồ Chiểu đã lâm cảnh mù loà. Ông chỉ ngâm nga và đọc cho đám đồ đệ chép lại. Ngay công chuyện đó, cũng có thể hôm nay Nguyễn Đình Chiểu ngâm thế này, ngày mai ông có thể ngâm cách khác. Rồi mỗi người đồ đệ đi truyền lại cho nhiều người khác - truyền mãi cho đến vài mươi năm sau người ta thấy xuất hiện hai ba bản nổi tiếng của những học giả không phải đồ đệ, hay họ hàng gì với Đồ Chiểu hết. Bản thứ nhất của Abel des Michels, bản thứ hai của Petrus Trương Vĩnh Ký (1883) và bản thứ ba của Duy Minh Thị. Bản Abel des Michels có tất cả 2088 vế và bản Petrus Ký, 2076 vế!

    Còn truyện Kiều thì sao? Theo nhiều tài liệu, ngoài những bản ra đời vào giữa thế kỷ 20, truyện Kiều có tất cả 5 bản chữ Nôm khác nhau: (i) bản của Phạm Quý Thích - bạn thân của Nguyễn Du - sửa đổi và hiệu đính ?~bản gốc?T của Tiên Điền, thường được gọi bản Phường, thất lạc từ lâu; (ii) bản của Quán văn Đường và bản của Phúc văn Đường, dựa vào bản Phường; (iii) bản Kinh do gia đình của Nguyễn Du gởi vào Kinh ?" sau đó vua Tự Đức và nhóm triều thần đã ?~hiệu đính?T; (iv) bản của Duy Minh Thị (1872) - tức xuất hiện 52 năm sau khi Nguyễn Du qua đời (1820); Và (v) bản của Kiều Oánh Mậu (1902).

    Trong 5 bản chữ Nôm xưa cổ đó, tuyệt nhiên không có bản nào được gọi bản gốc do chính Nguyễn Du đề bút hết! Bản gần với bản gốc nhất chính là bản đã được Phạm Quý Thích sửa chữa và tuyệt tích giang hồ từ nhiều, nhiều năm. Chưa học giả nào ở thế kỷ 20 đã từng đọc qua nó hết. Tức không bao giờ người ta có thể xác nhận đoạn này hay vế này Nguyễn Du ?~chắc chắn?T viết thế này viết thế kia. Tất cả những thảo luận về Kiều ngay trong chính bản viết bằng chữ Nôm, và hoàn toàn chưa kể đến các bản quốc ngữ, có thể nói mang nhiều hình thức khoa bảng, ?~mua vui cũng được một vài trống canh?T mà thôi.

    3. Truyện Kiều và chữ quốc ngữ

    Chữ quốc ngữ, ngày nay thường gọi Việt ngữ hay tiếng Việt, đầu tiên được các giáo sĩ người Âu Châu, nhất là Bồ Đào Nha, đặt ra để ký âm tiếng Nôm bằng các mẫu tự La Tinh (tức alphabet hay A, B, C). Mục đích chính ban đầu là để truyền giáo, giảng đạo. Nó xuất hiện từ lúc nước Nam còn ở thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Quyển tự điển quốc ngữ đầu tiên, do giáo sĩ thuộc dòng Tên Alexandre de Rhodes soạn, được ra đời vào năm 1651 ?" chính là quyển tự điển AnNam-Bồ-LaTinh. Sau đó chữ quốc ngữ được nhiều giáo sĩ và học giả uyên bác tiếp tục phát triển [8], và chuỗi trình quốc ngữ thay thế chữ Nôm được xem như hoàn tất vào khoảng năm 1865 khi tờ Gia Định Báo xuất hiện ở Nam Kỳ. Huỳnh Ái Tông qua website của Đời Tỵ Nạn [8] đã cho một sơ lược về lịch sử thành lập chữ quốc ngữ.

    Những điểm đặc trưng sau đây của chữ quốc ngữ chúng ta cần biết đến trước khi phân tích về ?~nét ngài nở nang?T:

    (i) Tuy mang tiếng ký âm tiếng Nôm nhưng chữ quốc ngữ có rất nhiều phát âm hoàn toàn không giống phát âm ngày xưa của chữ Nôm. Thí dụ:
    - Vua: trước thời quốc ngữ hoàn chỉnh, đọc Bua (hay byua) ?" y như tự điển tiếng Mường [10] / và như tự điển năm 1651 của Alexandre de Rhodes.
    - Vương (như Vương Thúy Kiều) = đọc là Uuan, tức Wang, y hệt như pinyin tiếng quan thoại ngày nay. Như trong thư của Alexandre de Rhodes viết khoảng năm 1644 [8].
    - Về (đi về): đọc Wìa [11] (V thay cho W)
    - Thượng đế= đọc Xán Tí [8], gần giống với quan thoại Shang Tí
    - Đông= đọc Tung, y như phiên âm Wade-Giles: Mao Tse Tung (Mao Trạch Đông)
    - Trẻ= tlẽ [8] (quốc ngữ đã cho TR thay thế TL)
    - Tre= Tle [8] (TR thay TL)
    - Vui= Bui hoặc Bôi [11] {V thay cho B}
    - Văn= đọc Uuan [8] (tức Wan như quan thoại, V thay cho W)
    - Vũ (vũ khí)= đọc Uu (giống Hán ngữ: Wu)

    Ở khía cạnh này ta có thể kiểm chứng qua bất cứ tự điển chữ Nôm nào. Tức những cách phát âm do đánh vần quốc ngữ vào thời thế kỷ 17-18 đều có lối đánh vần tương đương ở chữ Nôm.
    Thí dụ: Vui = xưa đọc Bôi hay Bui / tự điển chữ Nôm viết Vui= Bôi + Tâm
    Trẻ= quốc ngữ cổ viết Tlẽ / tự điển Nôm viết Trẻ= Lễ + Tiểu (vần T + Lễ)
    Văn= quốc ngữ cổ Uuan / tự điển Nôm: Văn= Wen theo âm Hán Ngữ
    . . .
    Điểm quan trọng này người ta ít thấy các nhà nghiên cứu Việt Nam đề cập đến. Có lẽ bởi những nhà nghiên cứu Việt Nam khi tìm tòi khảo cứu chữ Nôm và quốc ngữ cổ đều dựa đơn thuần trên Việt ngữ hiện đại và . . . tiếng Hán Việt. Và có lẽ thường không để ý rằng tiếng Hán Việt cũng lại là một dạng của Việt ngữ ngày nay. Chữ quốc ngữ biến đổi ra sao thì tiếng Hán Việt thay đổi rập khuôn như vậy! Tìm hiểu phát âm chữ Nôm hoặc quốc ngữ cổ xuyên qua Việt ngữ hiện đại hoặc Hán Việt của thế kỷ 20 chắc chắn không khỏi vướng phải nhầm lẫn.

    Cũng ở biến đổi phát âm, ta để ý cho dù các tác giả quốc ngữ tạo đánh vần xa hơn cách chữ Nôm, nhưng nếu đối chiếu với quan thoại, cách phát âm tại Việt Nam theo từng khu vẫn giữ như xưa. Đây cũng là một điểm quan trọng các nhà ngữ học Việt Nam ?" có lẽ gần như dưới định kiến Hán Việt phải khác tiếng Tàu ?" đã thường nhanh chóng lướt qua. Thí dụ: Lưu: người phía Nam phát âm LƯU là LưU hay LƯu / nhưng người phía Bắc phát âm LIU giống y như tiếng quan thoại: Liu (họ Lưu). Ưu tiên= phía Nam đọc Ưu tiên / nhưng phía Bắc: Iu tiên. Iu rất gần với yIU của phát âm Quảng Đông. (Góp ý của PQ Tuấn thuộc diễn đàn mitchong {mc}). TRung quốc: phía Nam, thường phát âm TR theo kiểu tiếng Tây / nhưng người phía Bắc lại đọc như Tzchung quốc, gần với quan thoại ?~Zhong guo?T hơn. Trang Tử, phía Bắc đọc gần với quan thoại Zhang Zi hơn. ?~Viết lách?T: phía Bắc phát âm đơn thuần V như Tây phương / phía Nam đọc ?~byiết?T gần với quan thoại và quảng đông hơn: Yuế và Yuết (Chữ Nôm cũng đánh vần tương tự:
    Viết= Bút + Yiết chữ Hán, tức byiết). [12]

    ------------------------------------
    [red]
    Nỗi đau ngày ấy là em ạ
    Là chút hao mòn của bể dâu
    Bể dâu sông bãi con thuyền bé
    Trong cõi vô thường nhẹ cánh chao[/size=4][/red]
  5. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Nếu nhớ lại ngày xưa người ta thường nói ?~tam sao thất bổn? (chỉ cần sao chép lại chừng 3 lần nguyên bản đã bị biến đổi rồi) ?" ta có thể thấy rất rõ việc ghi lại chữ Nôm các bản thi ca cổ xưa, như truyện Kiều chẳng hạn, là chuyện ?~tam thiên sao thất bổn?T. Tức ghi chép lại một tác phẩm đã từng truyền khẩu qua ít lắm cũng trên 3 ngàn người. Thí dụ điển hình nhất phải kể Lục Vân Tiên của Đồ Chiểu. Khi sáng tác Lục Vân Tiên, Đồ Chiểu đã lâm cảnh mù loà. Ông chỉ ngâm nga và đọc cho đám đồ đệ chép lại. Ngay công chuyện đó, cũng có thể hôm nay Nguyễn Đình Chiểu ngâm thế này, ngày mai ông có thể ngâm cách khác. Rồi mỗi người đồ đệ đi truyền lại cho nhiều người khác - truyền mãi cho đến vài mươi năm sau người ta thấy xuất hiện hai ba bản nổi tiếng của những học giả không phải đồ đệ, hay họ hàng gì với Đồ Chiểu hết. Bản thứ nhất của Abel des Michels, bản thứ hai của Petrus Trương Vĩnh Ký (1883) và bản thứ ba của Duy Minh Thị. Bản Abel des Michels có tất cả 2088 vế và bản Petrus Ký, 2076 vế!

    Còn truyện Kiều thì sao? Theo nhiều tài liệu, ngoài những bản ra đời vào giữa thế kỷ 20, truyện Kiều có tất cả 5 bản chữ Nôm khác nhau: (i) bản của Phạm Quý Thích - bạn thân của Nguyễn Du - sửa đổi và hiệu đính ?~bản gốc?T của Tiên Điền, thường được gọi bản Phường, thất lạc từ lâu; (ii) bản của Quán văn Đường và bản của Phúc văn Đường, dựa vào bản Phường; (iii) bản Kinh do gia đình của Nguyễn Du gởi vào Kinh ?" sau đó vua Tự Đức và nhóm triều thần đã ?~hiệu đính?T; (iv) bản của Duy Minh Thị (1872) - tức xuất hiện 52 năm sau khi Nguyễn Du qua đời (1820); Và (v) bản của Kiều Oánh Mậu (1902).

    Trong 5 bản chữ Nôm xưa cổ đó, tuyệt nhiên không có bản nào được gọi bản gốc do chính Nguyễn Du đề bút hết! Bản gần với bản gốc nhất chính là bản đã được Phạm Quý Thích sửa chữa và tuyệt tích giang hồ từ nhiều, nhiều năm. Chưa học giả nào ở thế kỷ 20 đã từng đọc qua nó hết. Tức không bao giờ người ta có thể xác nhận đoạn này hay vế này Nguyễn Du ?~chắc chắn?T viết thế này viết thế kia. Tất cả những thảo luận về Kiều ngay trong chính bản viết bằng chữ Nôm, và hoàn toàn chưa kể đến các bản quốc ngữ, có thể nói mang nhiều hình thức khoa bảng, ?~mua vui cũng được một vài trống canh?T mà thôi.

    3. Truyện Kiều và chữ quốc ngữ

    Chữ quốc ngữ, ngày nay thường gọi Việt ngữ hay tiếng Việt, đầu tiên được các giáo sĩ người Âu Châu, nhất là Bồ Đào Nha, đặt ra để ký âm tiếng Nôm bằng các mẫu tự La Tinh (tức alphabet hay A, B, C). Mục đích chính ban đầu là để truyền giáo, giảng đạo. Nó xuất hiện từ lúc nước Nam còn ở thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Quyển tự điển quốc ngữ đầu tiên, do giáo sĩ thuộc dòng Tên Alexandre de Rhodes soạn, được ra đời vào năm 1651 ?" chính là quyển tự điển AnNam-Bồ-LaTinh. Sau đó chữ quốc ngữ được nhiều giáo sĩ và học giả uyên bác tiếp tục phát triển [8], và chuỗi trình quốc ngữ thay thế chữ Nôm được xem như hoàn tất vào khoảng năm 1865 khi tờ Gia Định Báo xuất hiện ở Nam Kỳ. Huỳnh Ái Tông qua website của Đời Tỵ Nạn [8] đã cho một sơ lược về lịch sử thành lập chữ quốc ngữ.

    Những điểm đặc trưng sau đây của chữ quốc ngữ chúng ta cần biết đến trước khi phân tích về ?~nét ngài nở nang?T:

    (i) Tuy mang tiếng ký âm tiếng Nôm nhưng chữ quốc ngữ có rất nhiều phát âm hoàn toàn không giống phát âm ngày xưa của chữ Nôm. Thí dụ:
    - Vua: trước thời quốc ngữ hoàn chỉnh, đọc Bua (hay byua) ?" y như tự điển tiếng Mường [10] / và như tự điển năm 1651 của Alexandre de Rhodes.
    - Vương (như Vương Thúy Kiều) = đọc là Uuan, tức Wang, y hệt như pinyin tiếng quan thoại ngày nay. Như trong thư của Alexandre de Rhodes viết khoảng năm 1644 [8].
    - Về (đi về): đọc Wìa [11] (V thay cho W)
    - Thượng đế= đọc Xán Tí [8], gần giống với quan thoại Shang Tí
    - Đông= đọc Tung, y như phiên âm Wade-Giles: Mao Tse Tung (Mao Trạch Đông)
    - Trẻ= tlẽ [8] (quốc ngữ đã cho TR thay thế TL)
    - Tre= Tle [8] (TR thay TL)
    - Vui= Bui hoặc Bôi [11] {V thay cho B}
    - Văn= đọc Uuan [8] (tức Wan như quan thoại, V thay cho W)
    - Vũ (vũ khí)= đọc Uu (giống Hán ngữ: Wu)

    Ở khía cạnh này ta có thể kiểm chứng qua bất cứ tự điển chữ Nôm nào. Tức những cách phát âm do đánh vần quốc ngữ vào thời thế kỷ 17-18 đều có lối đánh vần tương đương ở chữ Nôm.
    Thí dụ: Vui = xưa đọc Bôi hay Bui / tự điển chữ Nôm viết Vui= Bôi + Tâm
    Trẻ= quốc ngữ cổ viết Tlẽ / tự điển Nôm viết Trẻ= Lễ + Tiểu (vần T + Lễ)
    Văn= quốc ngữ cổ Uuan / tự điển Nôm: Văn= Wen theo âm Hán Ngữ
    . . .
    Điểm quan trọng này người ta ít thấy các nhà nghiên cứu Việt Nam đề cập đến. Có lẽ bởi những nhà nghiên cứu Việt Nam khi tìm tòi khảo cứu chữ Nôm và quốc ngữ cổ đều dựa đơn thuần trên Việt ngữ hiện đại và . . . tiếng Hán Việt. Và có lẽ thường không để ý rằng tiếng Hán Việt cũng lại là một dạng của Việt ngữ ngày nay. Chữ quốc ngữ biến đổi ra sao thì tiếng Hán Việt thay đổi rập khuôn như vậy! Tìm hiểu phát âm chữ Nôm hoặc quốc ngữ cổ xuyên qua Việt ngữ hiện đại hoặc Hán Việt của thế kỷ 20 chắc chắn không khỏi vướng phải nhầm lẫn.

    Cũng ở biến đổi phát âm, ta để ý cho dù các tác giả quốc ngữ tạo đánh vần xa hơn cách chữ Nôm, nhưng nếu đối chiếu với quan thoại, cách phát âm tại Việt Nam theo từng khu vẫn giữ như xưa. Đây cũng là một điểm quan trọng các nhà ngữ học Việt Nam ?" có lẽ gần như dưới định kiến Hán Việt phải khác tiếng Tàu ?" đã thường nhanh chóng lướt qua. Thí dụ: Lưu: người phía Nam phát âm LƯU là LưU hay LƯu / nhưng người phía Bắc phát âm LIU giống y như tiếng quan thoại: Liu (họ Lưu). Ưu tiên= phía Nam đọc Ưu tiên / nhưng phía Bắc: Iu tiên. Iu rất gần với yIU của phát âm Quảng Đông. (Góp ý của PQ Tuấn thuộc diễn đàn mitchong {mc}). TRung quốc: phía Nam, thường phát âm TR theo kiểu tiếng Tây / nhưng người phía Bắc lại đọc như Tzchung quốc, gần với quan thoại ?~Zhong guo?T hơn. Trang Tử, phía Bắc đọc gần với quan thoại Zhang Zi hơn. ?~Viết lách?T: phía Bắc phát âm đơn thuần V như Tây phương / phía Nam đọc ?~byiết?T gần với quan thoại và quảng đông hơn: Yuế và Yuết (Chữ Nôm cũng đánh vần tương tự:
    Viết= Bút + Yiết chữ Hán, tức byiết). [12]

    ------------------------------------
    [red]
    Nỗi đau ngày ấy là em ạ
    Là chút hao mòn của bể dâu
    Bể dâu sông bãi con thuyền bé
    Trong cõi vô thường nhẹ cánh chao[/size=4][/red]
  6. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7

    (ii) Chữ Việt ngày nay đã đánh mất khá nhiều các từ Nôm và Hán Việt cổ. Xem chương sách về ?oChuyện Ỷ Lan và Nôm Lục Bát của Trương Thị Ngọc Trong soạn năm 1759?T trong quyển ?~Hồ Xuân Hương ?" thiên tình sử?T của gs Hoàng Xuân Hãn [7] ta thấy hầu như bất cứ đoạn nào cũng có những từ Nôm và Hán Yiệt tối cổ, ngày nay người Việt rất khó nhận ra. Thí dụ:
    - loi thoi= lẻ loi
    - luống= gần như vô ích
    - bua= vua
    - bừng tưng= tờ mờ sáng
    - chợ= kinh kỳ (Kẻ Chợ= Thăng Long)
    - Đoài= phía Tây
    - khắn khắn= kiên trì
    - nắm nắm= nơm nớp, kinh sợ
    - sau xưa= trước sau
    - tây= riêng tư

    (iii) Việc biến đổi từ Nôm sang quốc ngữ tuyệt nhiên không phải hoàn toàn là một biến đổi 1-sang-1. Biến đổi đó có thể 1-sang-2, 1-sang-3, hoặc 2-sang-1, v.v.. Biến đổi đó mang nhiều lý do, nhưng đáng kể nhất, có lẽ: lớ giọng, không tránh được, của các Thầy quốc ngữ gốc Tây phương, và việc thay đổi cách phát âm, cách đánh vần để giải toả cảnh đồng âm dị nghĩa, để các Thầy phát âm dễ hơn. Nhưng trong việc giải toả cảnh đồng âm dị nghĩa đó, chữ quốc ngữ tạo ra thêm một loạt đồng âm dị nghĩa khác, bởi trong chữ Tàu, chữ Nôm, hai ba từ có thể đồng âm nhưng ?~viết?T ra khác nhau. Nhưng trong pinyin hoặc quốc ngữ, lại phải đánh vần như nhau.
    Thí dụ biến đổi 1 Nôm qua 1 quốc ngữ:
    - Cưa (âm Nôm: Cư) => Cưa (quốc ngữ) / Đuổi (âm Nôm: đối) => Đuổi (qn)
    Thí dụ về biến đổi từ Nôm sang quốc ngữ, không phải 1-qua-1:
    Tây= tư và Tây= phương Tây có 2 chữ Nôm khác / nhưng 1 quốc ngữ: Tây.
    Blăng chuyển sang Tlăng, rồi thành Trăng : 1 sang 2
    Ngài= con ngài / Ngài= thưa Ngài: ít lắm 2 sang 1 (2 lối Nôm/ 1 quốc ngữ)
    Yũ= lông chim/chuyển sang Vũ - đọc Vũ (phía Bắc) /đọc Byũ (Nam): 1 sang 2
    Yang= Dương (Yang Quí Phi) / đọc Dzương (Bắc) / Yương (Nam): 1 qua 2
    (xem ghi chú [21])

    Hai biến đổi đặc trưng sau sẽ cho thấy quốc ngữ biến đổi Nôm rất nhiều:
    · Biến đổi B & W của âm Nôm, cả hai gộp lại thành V:
    Như đã thấy, thời thế kỷ 17 các giáo sĩ đã viết Bua cho Vua, và Uuan (tức Wang) cho Vương. Rất nhiều âm Nôm B (bốn= vốn / bùng= vùng) và W (con Woi= con voi / con we= con ve) đều được thay thế bởi V. Âm Hán Y như công yiên (gong yuan), Mã Yiện (Ma Yuan), và W như Wang Yu, wu zhi cũng đều ký âm lại thành V: công viên, Mã Viện, Vương Vũ, vô tri. Số lượng V thay thế B (hoặc Y), và V thay thế W gần như bằng nhau 50:50 [11]. Bây giờ người Việt chỉ biết có vần V: Vua và Vương. Mặc dù lối phát âm phía Nam thiên về B (ông byua / đi byề / Byương Byũ) và phiá Bắc hoàn toàn ngả sang V (ông Vua / đi về / Vương Vũ) {Xem chi tiết và phân tích trong [11]}.
    · Biến đổi BL (blời), KL (klọn), và âm Tàu ZH (zhong) tất cả sang TR:
    Biến đổi BL (blời) => TRời, KL (klọn) => TRọn / đều là những biến đổi rất quen thuộc. Nhưng biến đổi từ ZH của các từ Hán Việt sang TR chỉ được tình cờ phát hiện ra trong lúc viết bài này!
    Cũng y như biến đổi 2 sang 1 của B & W qua V, biến đổi TR là một biến đổi ?~ngoại giới?T của những người không sinh trưởng tại xứ nói tiếng Nôm. Các vần (KL / TL và Hán ZH) phải biến đổi sang TR đều là những vần không có trong tiếng Pháp hay tiếng Bồ Đào Nha. Cũng giống như W và By, cả hai bị biến đổi sang V. Và cách gộp lại thành 1 TR cho mọi thứ (BL, KL, TL và ZH) đã gặp sức đối kháng của thói quen từng ?~miền?T y như B & W sang V.
    - Ở phía Bắc, y hệt như B & W qua V, người ta có khuynh hướng giữ cách phát âm Tzch cho âm TR từ ảnh hưởng tiếng Hán:
    Trà thường gọi Chè, tương ứng với Chà tiếng Tàu.
    Trần (họ Trần): đọc Tchần, gần giống Chan (HK) và Chen (Trungquốc)
    Trọng đọc Tzchong, rất gần quan thoại Zhong
    Vô Tri phát âm Vô Tzchi - gần gũi với Hán: Wu Zhi
    Trân (Trân châu cảng) đọc Tzchân, y hệt quan thoại Zhen
    Trưng (hai bà Trưng) đọc Zhưng, rất gần quan thoại Zheng
    Rồi tuốt luôn cho các từ ?~thuần Nôm?T chính ra không phải ZH và cũng không phải TR: Trời ơi => Tzchời ơi => Giời ơi. Bởi TRời ơi là một ?~phát minh mới?T và ngày xưa chỉ có Blời ơi. Trọn vẹn => Tchọn vẹn.
    - Ở phía Nam, giới cải lương và dân thành thị, thấy TR thường đọc như kiểu Tây phương, nên đọc tuốt luôn cho thuần Nôm lẫn Hán Việt: Trương Ánh Nguyệt / Trần Hưng Đạo / cá trê / cá tra. Tuy nhiên, giới nông thôn, có vẻ vẫn giữ thói quen ngàn đời xưa cũ: Ở chần ở chuồng / ông Chần Chừng (Trần Trừng) / Chời ơi đất hỡi.

    Bây giờ xin trở lại truyện Kiều và chữ quốc ngữ. Ta lại phải để ý một vài điểm quan trọng như sau:

    (i) Có rất nhiều bản truyện Kiều viết bằng quốc ngữ. Nhưng đa số dùng từ rất tân, rất hiện đại, so với truyện thơ lục bát chữ Nôm của Trương Phu Nhân [7], gần như cách vài ba câu là có một hai từ tối cổ. Mặc dù bài của Trương Phu Nhân về ?~Ỷ Lan hoàng hậu?T xuất hiện trước khi Nguyễn Du chào đời (1765) chỉ vài năm. Điểm khác cũng cần để ý: Một trong những bản quốc ngữ Kiều đầu tiên đã do Petrus Trương Vĩnh Ký soạn lục, ra đời ít lắm cũng trên dưới 50 năm sau khi Nguyễn Du hạ bút viết ra Kiều. Điều này có nghĩa tất cả các bản Nôm về sau đều rất có thể dựa trên những truyền khẩu dân gian và các ấn bản, qua môi trường của chữ quốc ngữ, chứ không phải tiếng Nôm. Và như phía trên đã phân tích, từ khoảng năm 1850 tức giữa thế kỉ 19, chữ quốc ngữ đã hoàn toàn phát triển, và biến đổi khác với chữ Nôm rất nhiều. Biến đổi ở các từ Nôm xưa, và cách phát âm của rất nhiều từ.
    (ii) Hiện nay, chưa có một cuộc nghiên cứu nào sâu rộng về biến đổi phát âm từ Nôm qua quốc ngữ, nhất là đối với truyện Kiều. Nhiều điểm gây tranh cãi sôi nỗi cũng đều phát xuất ở chỗ hiện nay chưa có một tiếng nói thẩm quyền nào xác định về lối phát âm của hàng ngàn, hàng chục ngàn từ - trong tiến trình biến dạng từ Nôm sang quốc ngữ. Thí dụ:
    - Vung và Vùng có cách viết Nôm giống nhau và phát âm như Bung / Bùng: ?~Một vÙng như thể cây quỳnh cành dao?T thường là đề tài tranh cãi sôi nỗi với ?~Một vUng như thể cây quỳnh cành dao?T.
    - Câu hỏi cần được đặt ra: Thế Nguyễn Du tiên sinh, khi ngâm nga chính thơ Kiều, đã ngâm như ngày nay ta đọc Kiều hay không? Có lẽ KHÔNG! Như đã trình bày ở trên, thời gian biến chuyển mạnh mẽ nhất - từ Nôm sang quốc ngữ - theo thiển ý nằm vào khoảng từ 1750 đến 1850. Cuộc đời của Tiên Điền (1765-1820) nằm trọn trong thời gian biến chuyển đó. Nhưng có một điểm ta có thể phỏng đoán với xác suất đúng rất cao: Tiên Điền chưa học qua chữ quốc ngữ. Như vậy Tiên Điền lúc ngâm nga truyện Kiều đã ngâm nga theo phát âm . . . chữ Nôm. Thí dụ:
    Nguyễn Du rất có thể đã phát âm Wang Shuí Kiều thay vì Vương Thúy Kiều.
    Tiên Điền và thế hệ của Ông đọc Wang ShuÍ Wân thay vì Vương Thúy Vân.
    ?~Khuông Blăng đài đạn niết ngài nữ nan?T (chiết lược từ [5]) thay vì
    ?~Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang?T như ta đọc ngày nay,

    ------------------------------------
    [red]
    Nỗi đau ngày ấy là em ạ
    Là chút hao mòn của bể dâu
    Bể dâu sông bãi con thuyền bé
    Trong cõi vô thường nhẹ cánh chao[/size=4][/red]
  7. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7

    (ii) Chữ Việt ngày nay đã đánh mất khá nhiều các từ Nôm và Hán Việt cổ. Xem chương sách về ?oChuyện Ỷ Lan và Nôm Lục Bát của Trương Thị Ngọc Trong soạn năm 1759?T trong quyển ?~Hồ Xuân Hương ?" thiên tình sử?T của gs Hoàng Xuân Hãn [7] ta thấy hầu như bất cứ đoạn nào cũng có những từ Nôm và Hán Yiệt tối cổ, ngày nay người Việt rất khó nhận ra. Thí dụ:
    - loi thoi= lẻ loi
    - luống= gần như vô ích
    - bua= vua
    - bừng tưng= tờ mờ sáng
    - chợ= kinh kỳ (Kẻ Chợ= Thăng Long)
    - Đoài= phía Tây
    - khắn khắn= kiên trì
    - nắm nắm= nơm nớp, kinh sợ
    - sau xưa= trước sau
    - tây= riêng tư

    (iii) Việc biến đổi từ Nôm sang quốc ngữ tuyệt nhiên không phải hoàn toàn là một biến đổi 1-sang-1. Biến đổi đó có thể 1-sang-2, 1-sang-3, hoặc 2-sang-1, v.v.. Biến đổi đó mang nhiều lý do, nhưng đáng kể nhất, có lẽ: lớ giọng, không tránh được, của các Thầy quốc ngữ gốc Tây phương, và việc thay đổi cách phát âm, cách đánh vần để giải toả cảnh đồng âm dị nghĩa, để các Thầy phát âm dễ hơn. Nhưng trong việc giải toả cảnh đồng âm dị nghĩa đó, chữ quốc ngữ tạo ra thêm một loạt đồng âm dị nghĩa khác, bởi trong chữ Tàu, chữ Nôm, hai ba từ có thể đồng âm nhưng ?~viết?T ra khác nhau. Nhưng trong pinyin hoặc quốc ngữ, lại phải đánh vần như nhau.
    Thí dụ biến đổi 1 Nôm qua 1 quốc ngữ:
    - Cưa (âm Nôm: Cư) => Cưa (quốc ngữ) / Đuổi (âm Nôm: đối) => Đuổi (qn)
    Thí dụ về biến đổi từ Nôm sang quốc ngữ, không phải 1-qua-1:
    Tây= tư và Tây= phương Tây có 2 chữ Nôm khác / nhưng 1 quốc ngữ: Tây.
    Blăng chuyển sang Tlăng, rồi thành Trăng : 1 sang 2
    Ngài= con ngài / Ngài= thưa Ngài: ít lắm 2 sang 1 (2 lối Nôm/ 1 quốc ngữ)
    Yũ= lông chim/chuyển sang Vũ - đọc Vũ (phía Bắc) /đọc Byũ (Nam): 1 sang 2
    Yang= Dương (Yang Quí Phi) / đọc Dzương (Bắc) / Yương (Nam): 1 qua 2
    (xem ghi chú [21])

    Hai biến đổi đặc trưng sau sẽ cho thấy quốc ngữ biến đổi Nôm rất nhiều:
    · Biến đổi B & W của âm Nôm, cả hai gộp lại thành V:
    Như đã thấy, thời thế kỷ 17 các giáo sĩ đã viết Bua cho Vua, và Uuan (tức Wang) cho Vương. Rất nhiều âm Nôm B (bốn= vốn / bùng= vùng) và W (con Woi= con voi / con we= con ve) đều được thay thế bởi V. Âm Hán Y như công yiên (gong yuan), Mã Yiện (Ma Yuan), và W như Wang Yu, wu zhi cũng đều ký âm lại thành V: công viên, Mã Viện, Vương Vũ, vô tri. Số lượng V thay thế B (hoặc Y), và V thay thế W gần như bằng nhau 50:50 [11]. Bây giờ người Việt chỉ biết có vần V: Vua và Vương. Mặc dù lối phát âm phía Nam thiên về B (ông byua / đi byề / Byương Byũ) và phiá Bắc hoàn toàn ngả sang V (ông Vua / đi về / Vương Vũ) {Xem chi tiết và phân tích trong [11]}.
    · Biến đổi BL (blời), KL (klọn), và âm Tàu ZH (zhong) tất cả sang TR:
    Biến đổi BL (blời) => TRời, KL (klọn) => TRọn / đều là những biến đổi rất quen thuộc. Nhưng biến đổi từ ZH của các từ Hán Việt sang TR chỉ được tình cờ phát hiện ra trong lúc viết bài này!
    Cũng y như biến đổi 2 sang 1 của B & W qua V, biến đổi TR là một biến đổi ?~ngoại giới?T của những người không sinh trưởng tại xứ nói tiếng Nôm. Các vần (KL / TL và Hán ZH) phải biến đổi sang TR đều là những vần không có trong tiếng Pháp hay tiếng Bồ Đào Nha. Cũng giống như W và By, cả hai bị biến đổi sang V. Và cách gộp lại thành 1 TR cho mọi thứ (BL, KL, TL và ZH) đã gặp sức đối kháng của thói quen từng ?~miền?T y như B & W sang V.
    - Ở phía Bắc, y hệt như B & W qua V, người ta có khuynh hướng giữ cách phát âm Tzch cho âm TR từ ảnh hưởng tiếng Hán:
    Trà thường gọi Chè, tương ứng với Chà tiếng Tàu.
    Trần (họ Trần): đọc Tchần, gần giống Chan (HK) và Chen (Trungquốc)
    Trọng đọc Tzchong, rất gần quan thoại Zhong
    Vô Tri phát âm Vô Tzchi - gần gũi với Hán: Wu Zhi
    Trân (Trân châu cảng) đọc Tzchân, y hệt quan thoại Zhen
    Trưng (hai bà Trưng) đọc Zhưng, rất gần quan thoại Zheng
    Rồi tuốt luôn cho các từ ?~thuần Nôm?T chính ra không phải ZH và cũng không phải TR: Trời ơi => Tzchời ơi => Giời ơi. Bởi TRời ơi là một ?~phát minh mới?T và ngày xưa chỉ có Blời ơi. Trọn vẹn => Tchọn vẹn.
    - Ở phía Nam, giới cải lương và dân thành thị, thấy TR thường đọc như kiểu Tây phương, nên đọc tuốt luôn cho thuần Nôm lẫn Hán Việt: Trương Ánh Nguyệt / Trần Hưng Đạo / cá trê / cá tra. Tuy nhiên, giới nông thôn, có vẻ vẫn giữ thói quen ngàn đời xưa cũ: Ở chần ở chuồng / ông Chần Chừng (Trần Trừng) / Chời ơi đất hỡi.

    Bây giờ xin trở lại truyện Kiều và chữ quốc ngữ. Ta lại phải để ý một vài điểm quan trọng như sau:

    (i) Có rất nhiều bản truyện Kiều viết bằng quốc ngữ. Nhưng đa số dùng từ rất tân, rất hiện đại, so với truyện thơ lục bát chữ Nôm của Trương Phu Nhân [7], gần như cách vài ba câu là có một hai từ tối cổ. Mặc dù bài của Trương Phu Nhân về ?~Ỷ Lan hoàng hậu?T xuất hiện trước khi Nguyễn Du chào đời (1765) chỉ vài năm. Điểm khác cũng cần để ý: Một trong những bản quốc ngữ Kiều đầu tiên đã do Petrus Trương Vĩnh Ký soạn lục, ra đời ít lắm cũng trên dưới 50 năm sau khi Nguyễn Du hạ bút viết ra Kiều. Điều này có nghĩa tất cả các bản Nôm về sau đều rất có thể dựa trên những truyền khẩu dân gian và các ấn bản, qua môi trường của chữ quốc ngữ, chứ không phải tiếng Nôm. Và như phía trên đã phân tích, từ khoảng năm 1850 tức giữa thế kỉ 19, chữ quốc ngữ đã hoàn toàn phát triển, và biến đổi khác với chữ Nôm rất nhiều. Biến đổi ở các từ Nôm xưa, và cách phát âm của rất nhiều từ.
    (ii) Hiện nay, chưa có một cuộc nghiên cứu nào sâu rộng về biến đổi phát âm từ Nôm qua quốc ngữ, nhất là đối với truyện Kiều. Nhiều điểm gây tranh cãi sôi nỗi cũng đều phát xuất ở chỗ hiện nay chưa có một tiếng nói thẩm quyền nào xác định về lối phát âm của hàng ngàn, hàng chục ngàn từ - trong tiến trình biến dạng từ Nôm sang quốc ngữ. Thí dụ:
    - Vung và Vùng có cách viết Nôm giống nhau và phát âm như Bung / Bùng: ?~Một vÙng như thể cây quỳnh cành dao?T thường là đề tài tranh cãi sôi nỗi với ?~Một vUng như thể cây quỳnh cành dao?T.
    - Câu hỏi cần được đặt ra: Thế Nguyễn Du tiên sinh, khi ngâm nga chính thơ Kiều, đã ngâm như ngày nay ta đọc Kiều hay không? Có lẽ KHÔNG! Như đã trình bày ở trên, thời gian biến chuyển mạnh mẽ nhất - từ Nôm sang quốc ngữ - theo thiển ý nằm vào khoảng từ 1750 đến 1850. Cuộc đời của Tiên Điền (1765-1820) nằm trọn trong thời gian biến chuyển đó. Nhưng có một điểm ta có thể phỏng đoán với xác suất đúng rất cao: Tiên Điền chưa học qua chữ quốc ngữ. Như vậy Tiên Điền lúc ngâm nga truyện Kiều đã ngâm nga theo phát âm . . . chữ Nôm. Thí dụ:
    Nguyễn Du rất có thể đã phát âm Wang Shuí Kiều thay vì Vương Thúy Kiều.
    Tiên Điền và thế hệ của Ông đọc Wang ShuÍ Wân thay vì Vương Thúy Vân.
    ?~Khuông Blăng đài đạn niết ngài nữ nan?T (chiết lược từ [5]) thay vì
    ?~Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang?T như ta đọc ngày nay,

    ------------------------------------
    [red]
    Nỗi đau ngày ấy là em ạ
    Là chút hao mòn của bể dâu
    Bể dâu sông bãi con thuyền bé
    Trong cõi vô thường nhẹ cánh chao[/size=4][/red]
  8. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Có tất cả chừng 5 bản Kiều bằng chữ quốc ngữ thường được kể đến trong các sách tài liệu về truyện Kiều:
    (a) Bản của Trương Vĩnh Ký: bản đầu tiên bằng chữ quốc ngữ, có trước ngay cả các bản chữ Nôm nổi tiếng.
    (b) Bản của Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim: khoảng 90 năm sau bản Trương Vĩnh Ký và 40-70 năm sau các bản chữ Nôm của Kiều Oánh Mậu và Duy Minh Thị.
    (c) Bản của Lê Văn Hoè, của Bùi Khánh Diễn, của Nguyễn Văn Vĩnh, v.v.

    Do ở tính chất truyền khẩu và chép lại hàng ngàn lần, không bản Kiều nào giống bản Kiều nào. Các từ dùng đều rất tân, và chải chuốt. Tất cả người Việt với căn bản Việt ngữ hiện đại đều có thể đọc và hiểu được toàn truyện! Nhưng các bản này có rất nhiều từ khác hẳn nhau và nhiều đoạn khác biệt với nhau.

    Ta có thể rút tỉa ra một kết luận tất yếu và hiển nhiên: Truyện Kiều trong bản chữ Nôm lẫn quốc ngữ đã bị sửa chữa thay đổi rất nhiều. Và thay đổi sau khi chữ quốc ngữ đã thay thế chữ Nôm. Nhắc lại, chữ quốc ngữ biến chuyển rất nhiều trong khoảng 1750-1850, truyện Kiều phát triển mạnh mẽ, in ấn rầm rầm trong khoảng 1850-1950.

    4. Ngài chính là phát âm cổ xưa của Người

    Bây giờ chúng ta hãy thử chứng minh bằng nhiều cách khác nhau rằng NGÀI chính là cách phát âm tiếng Nôm cho NGƯỜI dùng để chỉ người ta, như trong câu:

    Trăm năm trong cõi người ta
    (Phát âm Nôm đoán theo [5] và [9]: Blâm nam tlong gũi ngài ta)

    Kiểm chứng này rất thiết yếu trong thẩm định việc Phạm Duy thay đổi ?~ngài?T ra ?~người?T có cơ sở lí luận nào hay không. Bởi nếu ?~ngài?T chính là lối phát âm Nôm cho một từ nào đó dùng để chỉ ?~người?T, ?~Trăm năm trong cõi người ta?T đã được tác giả Kiều viết mang theo phát âm: ?~Trăm năm trong cõi ngài ta?T. Và ?~ngài?T trong ?~nét ngài nở nang?T bởi mang phát âm ?~ngài?T nên cũng rất có thể, qua cảnh đồng âm dị nghĩa, đã được tác giả Kiều mang hàm ý ?~người?T. Và những soạn giả Nôm lẫn quốc ngữ ?~hậu bối?T đã ghi lại ? sai. Đáng nhẽ phải ghi ?~nét người nở nang?T nhưng lại ghi ?~nét ngài nở nang?T do ở lầm lẫn biến chuyển qua lại giữa ?~ngài?T và ?~người?T, và trong tình huống của đồng âm dị nghĩa.

    (i) Kiểm chứng qua lối đánh vần trong chữ Nôm

    Theo Tự Điển chữ Nôm [5] và tất cả bản Nôm của Kiều:

    · ?~Người?T như trong ?~trăm năm trong cõi người ta?T được viết= Nhân + ½ Ngại, tức đọc NGÀI, có cách viết y như ?~Ngài?T để chỉ những người có chức, có địa vị.
    · ?~Ngài?T trong ?~nét ngài?T chỉ con tằm, chỉ lông mày (nga-mi) được viết theo = Trùng+1/2 Ngại. Trùng để ?~hội ý?T chỉ côn trùng. Phân nửa chữ Ngại để hài thanh âm cho NGÀI.

    Như vậy Ngài và Người có cách phát âm giống y như nhau theo cách viết chữ Nôm.

    (ii) Kiểm chứng qua tiếng Mường và ngôn ngữ của các dân tộc ít người

    Tự điển tiếng Mường [10] có ghi:
    Ngài= ngài. Tôi xin chào ngài= tôi xin chào ngài
    Ngài= người ta. Con pẫu con ngài= Con nhà người ta
    Ngài= nhộng (ong). Con ngài nì rang băng điênh ăn lẳm= Nhộng ong này rang măng chua thì ngon lắm.

    Ta thấy rõ tiếng Mường vẫn chưa thu nhập chữ ?~Người?T và vẫn giữ ?~Ngài?T để chỉ ?~người?T.

    Người Mường là ai? Đại khái họ là bà con họ hàng rất, rất gần với Việt tộc ở đồng bằng Bắc Việt từ thời Văn Lang xa xưa. Có nhiều giả thuyết lại nói họ chính là những bộ tộc Lạc Việt thuần tuý. Có lẽ không thấy thoải mái sống dưới ách đô hộ của Tàu, trong vài thế kỷ sau Công Nguyên, người Mường di dân vào những miền sơn cước và sống biệt lập với ngươi Kinh mãi cho đến thế kỷ hai mươi. Ngôn ngữ của họ trong thời cổ đại y hệt như ngôn ngữ của người Kinh. Theo một thống kê vào năm 1946 của bà Jeanne Cuisinier (tác giả quyển: Les Mường - Géographie humaine et sociologie) vào thời đó dân số người Mường có độ 300000, sống tập trung tại các khu vực Hoà Bình, Phú Thọ, Sơn Tây và Thanh Nghệ Tĩnh. (Góp ý của anh LB Hồng - thuộc diễn đàn mitchong {mc}- qua quyển Non Nước Việt Nam anh sưu tầm trong chuyến lữ du Sa-Pa: Nhóm Việt-Mường bao gồm 4 sắc tộc - Kinh (chiếm 90% dân số), Mường, Thổ, và Chứt - là nhóm lớn nhất trong 54 nhóm sắc tộc và 8 nhóm ngôn ngữ tại Việt Nam.)

    Tuy nhiên nếu dùng tiếng Mường đem ra đối chiếu ta cần phải thận trọng, hết sức thận trọng. Bởi tiếng Mường theo các sách xuất bản trong vòng, và nhất là cuối, thế kỷ 20 đều đã bị ?~nhuốm?T nặng ảnh hưởng của quốc ngữ. Tiếng Mường ở dạng ta đọc được ngày nay đều ?~bị?T Latinh hoá, y như quốc ngữ đã Latinh hoá chữ Nôm. Đáng để ý nhất là những từ bắt đầu bằng V (xin xem ghi chú [15]). Tuy nhiên, tiếng Mường viết theo a-b-c vẫn không đến nỗi cải biến nhiều như quốc ngữ. Ta thấy nhiều từ bắt đầu bằng B & W vẫn còn giữ phân biệt như xưa, chứ không bị tống hết vào V như quốc ngữ. Thí dụ:

    Wan nài (M)= Van nài (V) / Wan nghênh (M)= Hoan nghênh (V)
    Wàn hồn (M)= Hoàn hồn / Wàng lá (M)= Vàng lá (V) / Wành đỏn (M)= vành nón (V)
    Wòng cung (M)= Vòng cung (V) / Wy thể (M)= Uy thế (V)
    Wa= Hoa (wa: để ý giống phát âm Nam Bộ) / Wà hơp= Hoà hợp / Wè= con ve
    (Còn nhớ: ?~nghe vè nghe ve, nghe vè ??T chắc chắn xuất phát từ Mường, Wè= Ve)

    Bua (M)= Vua (V) / Biết (M)= Viết (V) (y như tiếng Hán: Yuết) /Bút lông= bút lông
    Bỡi lãi (M)= Với lại (V) / bài tlừ (M)= bài trừ / bải (M)= vái (V) (vái chào)
    Bất mãn= bất mãn / bất tlĩ (M)= bất trị / bất ngờ= bất ngờ.

    Cho dù rằng tiếng Mường có thay đổi ít nhiều, nhưng từ dùng để chỉ ?~người?T của tiếng Mường chỉ có 1: NGÀI ?" dùng luôn cho 2 nghĩa, ngài cho người, và ngài như trong ?~thưa Ngài?T.
    ------------------------------------
    [red]
    Nỗi đau ngày ấy là em ạ
    Là chút hao mòn của bể dâu
    Bể dâu sông bãi con thuyền bé
    Trong cõi vô thường nhẹ cánh chao[/size=4][/red]
  9. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Có tất cả chừng 5 bản Kiều bằng chữ quốc ngữ thường được kể đến trong các sách tài liệu về truyện Kiều:
    (a) Bản của Trương Vĩnh Ký: bản đầu tiên bằng chữ quốc ngữ, có trước ngay cả các bản chữ Nôm nổi tiếng.
    (b) Bản của Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim: khoảng 90 năm sau bản Trương Vĩnh Ký và 40-70 năm sau các bản chữ Nôm của Kiều Oánh Mậu và Duy Minh Thị.
    (c) Bản của Lê Văn Hoè, của Bùi Khánh Diễn, của Nguyễn Văn Vĩnh, v.v.

    Do ở tính chất truyền khẩu và chép lại hàng ngàn lần, không bản Kiều nào giống bản Kiều nào. Các từ dùng đều rất tân, và chải chuốt. Tất cả người Việt với căn bản Việt ngữ hiện đại đều có thể đọc và hiểu được toàn truyện! Nhưng các bản này có rất nhiều từ khác hẳn nhau và nhiều đoạn khác biệt với nhau.

    Ta có thể rút tỉa ra một kết luận tất yếu và hiển nhiên: Truyện Kiều trong bản chữ Nôm lẫn quốc ngữ đã bị sửa chữa thay đổi rất nhiều. Và thay đổi sau khi chữ quốc ngữ đã thay thế chữ Nôm. Nhắc lại, chữ quốc ngữ biến chuyển rất nhiều trong khoảng 1750-1850, truyện Kiều phát triển mạnh mẽ, in ấn rầm rầm trong khoảng 1850-1950.

    4. Ngài chính là phát âm cổ xưa của Người

    Bây giờ chúng ta hãy thử chứng minh bằng nhiều cách khác nhau rằng NGÀI chính là cách phát âm tiếng Nôm cho NGƯỜI dùng để chỉ người ta, như trong câu:

    Trăm năm trong cõi người ta
    (Phát âm Nôm đoán theo [5] và [9]: Blâm nam tlong gũi ngài ta)

    Kiểm chứng này rất thiết yếu trong thẩm định việc Phạm Duy thay đổi ?~ngài?T ra ?~người?T có cơ sở lí luận nào hay không. Bởi nếu ?~ngài?T chính là lối phát âm Nôm cho một từ nào đó dùng để chỉ ?~người?T, ?~Trăm năm trong cõi người ta?T đã được tác giả Kiều viết mang theo phát âm: ?~Trăm năm trong cõi ngài ta?T. Và ?~ngài?T trong ?~nét ngài nở nang?T bởi mang phát âm ?~ngài?T nên cũng rất có thể, qua cảnh đồng âm dị nghĩa, đã được tác giả Kiều mang hàm ý ?~người?T. Và những soạn giả Nôm lẫn quốc ngữ ?~hậu bối?T đã ghi lại ? sai. Đáng nhẽ phải ghi ?~nét người nở nang?T nhưng lại ghi ?~nét ngài nở nang?T do ở lầm lẫn biến chuyển qua lại giữa ?~ngài?T và ?~người?T, và trong tình huống của đồng âm dị nghĩa.

    (i) Kiểm chứng qua lối đánh vần trong chữ Nôm

    Theo Tự Điển chữ Nôm [5] và tất cả bản Nôm của Kiều:

    · ?~Người?T như trong ?~trăm năm trong cõi người ta?T được viết= Nhân + ½ Ngại, tức đọc NGÀI, có cách viết y như ?~Ngài?T để chỉ những người có chức, có địa vị.
    · ?~Ngài?T trong ?~nét ngài?T chỉ con tằm, chỉ lông mày (nga-mi) được viết theo = Trùng+1/2 Ngại. Trùng để ?~hội ý?T chỉ côn trùng. Phân nửa chữ Ngại để hài thanh âm cho NGÀI.

    Như vậy Ngài và Người có cách phát âm giống y như nhau theo cách viết chữ Nôm.

    (ii) Kiểm chứng qua tiếng Mường và ngôn ngữ của các dân tộc ít người

    Tự điển tiếng Mường [10] có ghi:
    Ngài= ngài. Tôi xin chào ngài= tôi xin chào ngài
    Ngài= người ta. Con pẫu con ngài= Con nhà người ta
    Ngài= nhộng (ong). Con ngài nì rang băng điênh ăn lẳm= Nhộng ong này rang măng chua thì ngon lắm.

    Ta thấy rõ tiếng Mường vẫn chưa thu nhập chữ ?~Người?T và vẫn giữ ?~Ngài?T để chỉ ?~người?T.

    Người Mường là ai? Đại khái họ là bà con họ hàng rất, rất gần với Việt tộc ở đồng bằng Bắc Việt từ thời Văn Lang xa xưa. Có nhiều giả thuyết lại nói họ chính là những bộ tộc Lạc Việt thuần tuý. Có lẽ không thấy thoải mái sống dưới ách đô hộ của Tàu, trong vài thế kỷ sau Công Nguyên, người Mường di dân vào những miền sơn cước và sống biệt lập với ngươi Kinh mãi cho đến thế kỷ hai mươi. Ngôn ngữ của họ trong thời cổ đại y hệt như ngôn ngữ của người Kinh. Theo một thống kê vào năm 1946 của bà Jeanne Cuisinier (tác giả quyển: Les Mường - Géographie humaine et sociologie) vào thời đó dân số người Mường có độ 300000, sống tập trung tại các khu vực Hoà Bình, Phú Thọ, Sơn Tây và Thanh Nghệ Tĩnh. (Góp ý của anh LB Hồng - thuộc diễn đàn mitchong {mc}- qua quyển Non Nước Việt Nam anh sưu tầm trong chuyến lữ du Sa-Pa: Nhóm Việt-Mường bao gồm 4 sắc tộc - Kinh (chiếm 90% dân số), Mường, Thổ, và Chứt - là nhóm lớn nhất trong 54 nhóm sắc tộc và 8 nhóm ngôn ngữ tại Việt Nam.)

    Tuy nhiên nếu dùng tiếng Mường đem ra đối chiếu ta cần phải thận trọng, hết sức thận trọng. Bởi tiếng Mường theo các sách xuất bản trong vòng, và nhất là cuối, thế kỷ 20 đều đã bị ?~nhuốm?T nặng ảnh hưởng của quốc ngữ. Tiếng Mường ở dạng ta đọc được ngày nay đều ?~bị?T Latinh hoá, y như quốc ngữ đã Latinh hoá chữ Nôm. Đáng để ý nhất là những từ bắt đầu bằng V (xin xem ghi chú [15]). Tuy nhiên, tiếng Mường viết theo a-b-c vẫn không đến nỗi cải biến nhiều như quốc ngữ. Ta thấy nhiều từ bắt đầu bằng B & W vẫn còn giữ phân biệt như xưa, chứ không bị tống hết vào V như quốc ngữ. Thí dụ:

    Wan nài (M)= Van nài (V) / Wan nghênh (M)= Hoan nghênh (V)
    Wàn hồn (M)= Hoàn hồn / Wàng lá (M)= Vàng lá (V) / Wành đỏn (M)= vành nón (V)
    Wòng cung (M)= Vòng cung (V) / Wy thể (M)= Uy thế (V)
    Wa= Hoa (wa: để ý giống phát âm Nam Bộ) / Wà hơp= Hoà hợp / Wè= con ve
    (Còn nhớ: ?~nghe vè nghe ve, nghe vè ??T chắc chắn xuất phát từ Mường, Wè= Ve)

    Bua (M)= Vua (V) / Biết (M)= Viết (V) (y như tiếng Hán: Yuết) /Bút lông= bút lông
    Bỡi lãi (M)= Với lại (V) / bài tlừ (M)= bài trừ / bải (M)= vái (V) (vái chào)
    Bất mãn= bất mãn / bất tlĩ (M)= bất trị / bất ngờ= bất ngờ.

    Cho dù rằng tiếng Mường có thay đổi ít nhiều, nhưng từ dùng để chỉ ?~người?T của tiếng Mường chỉ có 1: NGÀI ?" dùng luôn cho 2 nghĩa, ngài cho người, và ngài như trong ?~thưa Ngài?T.
    ------------------------------------
    [red]
    Nỗi đau ngày ấy là em ạ
    Là chút hao mòn của bể dâu
    Bể dâu sông bãi con thuyền bé
    Trong cõi vô thường nhẹ cánh chao[/size=4][/red]
  10. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Thế ngôn ngữ của các dân tộc ít người khác thì sao? Từ thiết yếu để chỉ NGƯỜi của các ngôn ngữ đó là gì? Xin ghi lại bản đối chiếu các từ chỉ NGƯỜI trích trong quyển sách về ngôn ngữ của Trần Trí Dõi [3]:
    - tiếng Nguồn: ngàj - tiếng Sách: ngàj
    - tiếng Mày: ngàj - tiếng Rục: ngàj
    - tiếng Xơ Đăng: mơngê - tiếng Kơ Tua: moi ngàj
    - tiếng Dêh: ngaj - tiếng Triêng: ngaj
    - tiếng Ba Na: ngaj (mơ-ngaj) - tiếng Hrê: ma ngaj
    - tiếng Gié Triêng: ma ngaj - tiếng Việt: người, ngài

    Điểm đáng để ý, ghi chú [3] hoàn toàn không xác định ?~ngài?T chính là từ cổ của ?~người?T trước khi quốc ngữ thay thế Nôm.

    (iii) Biến chuyển từ âm A sang ƯƠ qua tác động của quốc ngữ

    Biến chuyển từ Ngài sang Người thật ra chỉ là 1 trong hàng chục biến chuyển khác từ nguyên âm A sang nhị âm ƯƠ ?" trong lúc chữ Nôm rút vào bóng tối và nhường chỗ cho quốc ngữ. Đó là biến chuyển:

    Lên đàng => lên đường / tlàng học => tràng học => trường học
    Nàng => nường
    Nhà Thang => nhà Thương / Yang gui Fei => Yương quí Phi
    Mài => Mười (10) / Đài ai => đười ươi / Tai cài => tươi cười
    Trang (họ) => Trương (họ) {viết tiếng Tàu y như nhau}
    NGÀI biến sang NGƯỜI hoàn toàn nằm trong quy lệ này

    Kiểm chứng: Lật một quyển tự điển chữ Nôm ta thấy lối đánh vần của các âm ngày nay đọc ƯƠ (thí dụ: Mười ?" 10) luôn luôn dựa trên âm A (thí dụ: mÀi), và không có âm ƯƠ để tạo âm cốt yếu, hỗ trợ cho phát âm ƯƠ. Thí dụ:

    - Ươn (cá ươn)= tử + An (viết theo chữ Nôm) => ươn xưa đọc: An
    - Mường= Nhân + MAng = Di + mAng => Mường xưa đọc Màng
    - Mượn= tâm + mẠn => ?~mượn?T thời Nôm đọc mẠn
    - Mười (10)= Mại + Thập (Hán tự chỉ 10) => Mười = Mài
    - Nườm= Thủy + nAm / Nượp= Khẩu +nẠp => nườm nượp= nàm nạp
    - Tươi= Nhục + tAi / tưới (tưới cây)= thủy + tái. Tươi đọc Tai / tưới đọc tái

    Chỉ trừ các từ xuất phát từ tiếng Hán: thí dụ, ?~nương?T hài thanh từ chữ Hán ?~niang?T / ?~tưởng?T từ Hán ?~xiang?T, đa số các từ Nôm có âm ƯƠ thường xuất phát từ âm A. Cách viết chữ Nôm âm ƯƠ hoàn toàn độc lập và dựa trên âm A như các thí dụ phía trên đã minh chứng.

    Quyển ?~Tiếng Việt Tuyệt Vời?T của gs Đỗ Quang Vinh [13] có trích dẫn bản liệt kê các từ còn dùng trong thời gian gần đây ở khu Bắc Trung Bộ - thường dễ nhầm lẫn với phương ngữ - của Bs Lê Văn Lân. Trong đó có:
    hấng nÁc= hứng nước
    cho thấy rõ ràng ?~nƯỚc?T với âm ?~ươ?T tương đương với ?~nÁc?T (y hệt như phát âm theo đánh vần chữ Nôm: Nước= giả tá âm chữ Hán: NẶC), một cách phát âm thời cổ còn lưu lại, mà ta có thể lầm tưởng như phương ngữ.

    Biến chuyển từ A sang ƯƠ cũng được nhà nghiên cứu Nguyễn Tài Cẩn [4] đề cập đến. Nhưng công trình [4] không xác nhận biến chuyển này phát sinh sau khi quốc ngữ đang và đã thay thế chữ Nôm theo như giả thuyết ở đây - dựa trên phân tích đánh vần chữ Nôm.

    Do đó ?~ngÀi?T biến sang ?~ngƯỜi?T cũng chỉ một trường hợp trong vòng biến chuyển âm A sang ƯƠ, lúc Nôm bắt đầu thoái vị, nhường chỗ cho quốc ngữ mà thôi.

    (iv) Một vài điểm dễ nhầm

    Qua ba lối chứng minh trên ta có thể xác định chắc chắn:
    Ngày trước, ?~Người?T dùng để chỉ ?~con người, người ta?T được phát âm trên khắp nước An-Nam là NGÀI.

    ------------------------------------
    [red]
    Nỗi đau ngày ấy là em ạ
    Là chút hao mòn của bể dâu
    Bể dâu sông bãi con thuyền bé
    Trong cõi vô thường nhẹ cánh chao[/size=4][/red]

Chia sẻ trang này