1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

MỪNG VUI CÓ NGÀY HÔM NAY

Chủ đề trong 'Thi ca' bởi chimawan1988, 07/06/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. chimawan1988

    chimawan1988 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/09/2006
    Bài viết:
    86
    Đã được thích:
    0
    Thanh Thảo: Tự do thì đúng là cần, nhưng cũng có những nhà thơ khi bị đàn áp thì làm thơ hay, khi có tự do rồi thì không làm thơ được nữa.
    Tôi cho rằng điều quan trọng nhất là quan hệ giữa con người và con người chứ không phải là cái vỏ bọc hay là những thứ chủ nghĩa mà người ấy đeo. Thời tôi còn ở trong chiến khu Nam bộ, tôi bị một tai nạn văn học rất khó quên. Tôi viết bài thơ ?oMột người lính nói về thế hệ mình?. Bài thơ này nếu như không được in ra thì chỉ là chuyện lưu hành nội bộ, tiếc thay là nó lại được in ra trên tờ báo Văn nghệ Giải phóng. Sau đó tờ này cũng bị đánh luôn. Do tình hình chiến sự khó khăn tạp chí này bị đình bản khá lâu, đến năm 1973, tương đối có hoà bình, thì nó lại được tái xuất hiện. Tiếc thay ngay trong số đầu tiên nó lại có bài thơ của tôi. Tờ báo này lúc đó do Anh Đức phụ trách. Bài thơ của tôi bị Trần Bạch Đằng đánh rất nặng. Ông ta lúc đó là phó ban trực của Ban Tuyên huấn Trung ương, quyền hành rất lớn. Lúc đó ở trong rừng mà bị dính vào một vụ án văn học như thế thì nói chung là rất khó sống. Điều này nói ra thì ít người thông cảm, nhất là các anh em ở miền Nam trước đây. Tình hình gay cấn đến mức tinh thần tôi rất xuống dốc và bấn loạn. Đến một lúc tôi đã quyết định tuyệt thực. Khi tôi bắt đầu tuyệt thực thì có một người đến khuyên giải tôi là anh bí thư chi bộ. Tức là người của Đảng đấy. Tuy anh ấy là bí thư chi bộ nhưng là người rất thật thà hiền lành và rất quý tôi.
    Trần Mạnh Hảo: (cười) Tuy là bí thư chi bộ nhưng rất tốt.
    Thanh Thảo: Anh bí thư ấy hiện nay vẫn còn sống ở Sài Gòn, và rất là khổ, chứ không sung sướng gì đâu. Anh ấy đến nói với tôi rằng: ?oÔng mà tuyệt thực thì chúng nó bỏ cho ông chết luôn, chứ ở đây không ai biết đâu. Không ai biết đến cái chết của ông đâu. Ông cần phải sống để nói cái điều ấy. Chết như thế thì không nên?.
    Câu nói ấy đã đánh thức tôi.
    Đó là câu nói của một bí thư chi bộ. Mà đó cũng là câu nói của một con người với một con người. Đó thật sự là câu nói của một người đồng chí. Đồng chí với nghĩa thực sự của nó, chứ không phải là thứ đồng chí bố láo đâu. Mặc dù tôi lúc đó không phải là đảng viên.
    Tôi kể câu chuyện này vì muốn nói rằng mọi người Việt Nam đều có thể đến được với nhau. Dân tộc chúng ta hoàn toàn có thể hoà hợp được. Hoà hợp thực sự đấy, như những con người với nhau. Miễn là chúng ta bỏ hết các thứ vỏ bọc, nhãn hiệu, nhãn mác đi. Bỏ nhãn mác đi.
    Trần Mạnh Hảo: Bỏ ?omác? đi.
    Thanh Thảo: (cười) Ừ thì bỏ ?omác?. Ông thì cứ hay chêm vào. Thật ra chúng ta hoàn toàn có thể sống vui vẻ, nếu biết bỏ hết đi, chứ sao lại phải sống khốn khổ như thế này. Dân tộc chúng ta sống khốn khổ quá. Lâu nay chúng ta cứ sống theo kiểu tách biệt, người thì vin vào cái này, người thì vin vào cái khác, người thì trong nước, người thì hải ngoại. Gốc của mình là người Việt thì mình lại quên đi. Nếu ai cũng nhớ được như thế thì sẽ thấy ra cái cốt lõi của vấn đề.
  2. chimawan1988

    chimawan1988 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/09/2006
    Bài viết:
    86
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Đức Tùng: Anh Du Tử Lê đang muốn nói một điều quan trọng liên quan đến sự khác nhau về quan điểm giữa anh Trần Mạnh Hảo và anh Thanh Thảo trong vấn đề thơ ca và tự do. Xin mời anh.
    Du Tử Lê: Tôi hoàn toàn chia sẻ hai ý kiến, một của anh Trần Mạnh Hảo, và một của anh Thanh Thảo.
    Nhận định của tôi là để trả lời câu hỏi: khi không có tự do chúng ta làm thơ hay hơn, hay khi có tự do chúng ta làm thơ hay hơn? Tôi nghĩ rằng muốn như thế thì phải dùng đến khái niệm thơ phản kháng. Trong những xã hội mất dân chủ, bị đàn áp, khi chúng ta bị o ép, bị trù dập, chúng ta có thể có nhiều thơ hay, nhưng đó là những bài thơ mang tính phản kháng. Nhưng thơ ca không phải chỉ có phần thơ phản kháng, mà còn có cái phần lớn hơn là phần nhân loại, phần thế giới. Nó phải có phần nhân loại, chỉ có thế thì thế giới mới hiểu được chúng ta và đánh giá chúng ta ngang với cái tầm mức mà chúng ta có thể vươn tới.
    Vì vậy tôi vẫn hy vọng rằng trong một thời gian không xa, Việt Nam sẽ có tự do, ít nhất là tự do tối thiểu, để những người làm thơ không phải chỉ làm thơ phản kháng, mà họ còn có thể đi vào cái phần căn bản, là con người, như trong khái niệm mà anh Thanh Thảo đưa ra.
    Nguyễn Đức Tùng: Có lẽ anh Du Tử Lê muốn nói đến khái niệm phản ứng, và thơ có tính phản ứng. Như vậy ý anh muốn nói là khi không có tự do thì chúng ta sẽ có thơ hay nhưng là thơ phản ứng, khi có tự do thì chúng ta cũng sẽ có thơ hay nhưng là thơ? như mọi người.
    Du Tử Lê: Vì vậy tôi vẫn muốn có tự do, vì có tự do thì có thơ kiểu nhân loại. Hiện nay thơ của chúng ta trong hoàn cảnh bị đàn áp vẫn còn là thơ phản ứng, nghĩa là có tính cục bộ. Khi thoát ra được các hoàn cảnh hiện nay, thơ Việt Nam sẽ mở ra những cánh cửa mới. Khi đó các anh, chúng ta, sẽ được biết biên giới của thơ nhân loại đang ở đâu, và các cuộc vận động văn chương hiện nay là thế nào và tại sao. Chứ còn như hiện nay chúng ta cứ bị bó rọ trong góc tối. Chỉ trừ một vài người ưu tú, ví dụ như các anh ở đây, tôi tin rằng hầu hết người Việt Nam, các nhà thơ Việt Nam khác, đều không có được cái nhìn tổng quát đối với thơ thế giới. Chúng ta bị bỏ lại đằng sau. Bỏ lại không thương tiếc. Và điều ấy rất oan uổng cho dân tộc Việt Nam. Có thể là tôi hơi cường điệu. Vì tôi là người Việt Nam, tôi vẫn tin rằng văn học Việt Nam có thể so sánh được với các nền văn học khác, kể cả văn học Pháp. Văn học Pháp là một nền văn học lớn, cái nôi của nhiều nền văn học khác. Thế mà tại sao chúng ta không được thế giới biết đến. Tại vì chúng ta cứ mãi loay hoay, như anh Nguyễn Thuỵ Kha nói, là giằng xé lẫn nhau. Khổ quá, đói quá thì còn suy nghĩ gì được nữa.
    Khi tôi bị đàn áp, bị o ép, thì tôi vùng dậy, tôi làm thơ chống đối. Thơ như thế có thể hay và rất hay. Thế giới đọc nó cũng nhận ra và đánh giá cao. Nhưng thơ như thế thì vẫn cứ là thơ cục bộ, vẫn cứ thiếu tính nhân loại.
  3. chimawan1988

    chimawan1988 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/09/2006
    Bài viết:
    86
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Đức Tùng: Điều anh Du Tử Lê nói rất đặc biệt. Có thể có người đồng ý và có thể không. Tôi xin kể một chuyện riêng tư. Mỗi lần đi du lịch xa, nghĩa là ngồi trên máy bay nhiều tiếng đồng hồ, như lần về Việt Nam này, gần một ngày, tôi đều mang theo một hoặc hai cuốn sách để đọc. Tôi buộc phải chọn rất kỹ, vì mang theo nhiều thì nặng, mà mang theo ít cuốn thì có thể gặp những cuốn sách không hay, sợ không có gì để đọc cho qua thì giờ buồn chán. Tôi chợt nhận ra rằng những lần như thế tôi đều mang theo một cuốn sách tiếng Anh, mặc dù như các anh biết, tôi đọc và viết tiếng Việt văn chương. Tôi nhận ra rằng nền văn học của chúng ta chưa rơi được vào sự tuyển chọn cá nhân của tôi bên cạnh các nền văn học khác. Tôi tự hỏi phải chăng vì văn chương, trong đó có thơ, của những nước như Mỹ, Canada, Mexico, Ba Lan? đã chạm đến được cái mà anh Du Tử Lê nói, đó là tầm nhân loại. Mà điều này thì hình như không phải ở đề tài. Ví dụ người ta cũng viết về chiến tranh, nhưng họ viết khác chúng ta.
    Cuốn sách mà tôi cầm trên tay khi lên máy bay là một tuyển tập thơ của nhiều người trong đó có bài ?oKết thúc và Khởi đầu? của nhà thơ nữ Ba Lan Wislava Szymborska. Đoạn mở đầu như thế này:
    ?oSau mỗi cuộc chiến tranh
    Phải có người đi dọn dẹp
    Các mảnh vỡ
    Chúng không tự mình đứng lên được?

    Szymska nói lên một sự thực giản dị, ai cũng biết, ai cũng hiểu, nhưng trước bà không ai nói như thế. Không phải chỉ có vậy, bài thơ mới vào đã lập tức gây cảm giác nhân đạo, khiêm cung, hài hước, gây hiệu quả tức thì. Tôi mong các nhà thơ Việt Nam học tập ở bà nhiều điều.

    Thanh Thảo:
    Tôi hoàn toàn đồng ý với anh Nguyễn Đức Tùng.
    Tôi muốn nói thêm vì sau đây tôi xin phép rời cuộc trao đổi để đến cái hẹn với mấy người bạn cũ thời ở chiến trường.
    Về ý kiến của anh Du Tử Lê tôi thấy thế này. Đúng là có một dòng văn học phản kháng. Trong những hoàn cảnh bị đàn áp, nhà thơ có thể làm thơ phản kháng nhưng cũng có thể làm những loại thơ khác nhau, về các thứ tình cảm như khổ đau và yêu thương. Không nhất thiết chỉ là thơ phản kháng, chỉ là thơ thôi.
    Theo kinh nghiệm cá nhân của tôi, có những giai đoạn mà thơ phản kháng là quan trọng nhất, nhưng có những giai đoạn khác mà dòng thơ chìm lắng nổi bật lên. Người thi sĩ có thể làm nhiều thứ thơ khác nhau, nhưng điều quan trọng là nó phải xuất phát từ thứ tự do tuyệt đối của tâm hồn. Tự do cho mọi người trong xã hội dĩ nhiên là cần, nhưng đối với người nghệ sĩ, tự do tâm hồn là cái tiên quyết. Đối với tự do này không một nhà nước nào có thể ngăn cấm và đàn áp.
    Không một chế độ độc tài nào ngăn cản tự do tâm hồn của chúng ta, nhưng để thứ tự do tâm hồn đó đến được với người đọc và xã hội thì lại cần đến thứ tự do khác, đó là tự do cho toàn xã hội. Từ thứ tự do trước đến thứ tự do sau là cả một quá trình.
    Nói như kiểu Mỹ chúng ta cần có một lộ trình. Bây giờ thì theo Mỹ nhanh quá (cười). Mình thì lúc theo Tàu, lúc theo Nga, lúc theo Mỹ. Cái gì cũng nhanh.
    Quá trình nào cũng có cái cách riêng của nó. Đi từ cái tự do tâm hồn đến tự do xã hội, thì chúng ta phải phấn đấu. Phấn đấu cho một nền văn học tự do chứ không phải cho một nền văn học chửi bới (cười). Chửi bới thì không phải là văn học.
    Sự đau đớn chính là văn học phản kháng. Nó cần phải sâu xa. Như thơ của Đặng Đình Hưng, của Văn Cao, chính nó là phản kháng. Còn kiểu ?otao đập vào mặt mày? thì đó là viết báo rồi chứ không phải là thơ. Thơ cần phải xúc động.
    Thơ cần cho một số ít người đọc. Đám đông thì không mấy khi hiểu thơ.
  4. chimawan1988

    chimawan1988 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/09/2006
    Bài viết:
    86
    Đã được thích:
    0
    Gửi tới các bạn một bài viết về cuộc đàm đạo của các nhà thơ nổi tiếng: Trần Mạnh Hảo, Thanh Thảo, Du Tử Lê, Nguyễn Đức Tùng, Nguyễn Thuỵ Kha mà đã có một thời không cùng chiến tuyến.
    Đọc xong, cảm xúc đan xen lẫn lộn.
    Và có lẽ họ đã đúng khi nói đến vấn đề hoà hợp dân tộc.
  5. chimawan1988

    chimawan1988 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/09/2006
    Bài viết:
    86
    Đã được thích:
    0
    Tiếp...
    Nguyễn Đức Tùng: Tôi xin nhắc lại và diễn giải một ý của anh Thanh Thảo: thơ không phải dành cho đám đông, mà dành cho một số nhỏ người đọc. Thơ không đọc ở quảng trường mà dành cho sự sâu thẳm của tâm hồn và như thế chỉ có những người đọc tinh hoa mới hiểu được thơ mà thôi.
    Nguyễn Trọng Tạo: Câu hỏi của anh Nguyễn Đức Tùng rất thú vị. Nhân các anh đang nói về Thơ và Tự do. Vậy tôi xin nói về ý này trước. Có một số nhà thơ đòi tự do. Họ đi đòi tự do nhưng lại không làm thơ (bởi thơ họ có khi chỉ là vè). Có những nhà thơ không đi đòi tự do, họ chỉ đóng cửa lại để làm thơ, nhưng thơ họ lại là thơ đòi Tự do. Trong thơ của họ có sự đấu tranh đòi tự do. Và có những nhà thơ bị tù, bị cấm, nhưng họ lại làm ra những bài thơ hoàn toàn Tự do. Như vậy đối với một số nhà thơ, bất chấp hoàn cảnh, họ vẫn có tự do của mình để làm thơ như họ muốn.
    Trong khi đó đáng buồn thay có những nhà thơ đang hoàn toàn tự do, thậm chí nắm cả quyền lực trong tay, thì lại đi làm ra một thứ thơ nô lệ, thơ xu phụ.
    Như thế thì quan hệ giữa tự do và thơ ca nằm ở đâu? Trong bất cứ một thể chế nào, câu hỏi đó vẫn mãi mãi đặt ra. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhà thơ cũng không được quyền khước từ ý chí đi tới tự do, con đường đi tới tự do.
    Hôm nay có tự do, ngày mai có thể đã trở thành nô lệ rồi. Hôm nay ta thấy cái đang có, thì ngày mai nó lại biến mất. Sự vật luôn luôn vận động. Tôi nghĩ khái niệm của nhà Phật về sắc sắc không không chính là dạy ta một cách khác để tiếp cận với Tự do. Trong thơ ca cũng thế, chúng ta đi tới tự do như thế nào? Đó là những câu hỏi không thể một lúc trả lời xong. Những ý kiến của các anh Trần Mạnh Hảo, Du Tử Lê, Thanh Thảo, là những ý kiến mà tôi rất tâm đắc, và lúc nào cũng trăn trở. Đặc biệt trong những giai đoạn lịch sử vừa qua, cuối thế kỷ XX, tự do luôn luôn là nỗi bức xúc của chúng ta.
    Du Tử Lê: Tự do luôn luôn là nỗi bức xúc của chúng ta. Ý của anh Nguyễn Trọng Tạo tôi nghĩ rất hay.
  6. chimawan1988

    chimawan1988 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/09/2006
    Bài viết:
    86
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Trọng Tạo: Thế thì anh có tự do làm thơ hay không? Tôi nghĩ rằng dưới một số thể chế nào đấy, nếu anh không tự dành cho mình tự do, thì anh chẳng bao giờ có tự do. Có những thể chế mà cánh cửa tự do đang khép, nhưng không ai có thể khép được cánh cửa ở trong anh. Điều ấy mới là quan trọng. Cánh cửa tự do của nhà thơ lúc nào cũng mở ngay cả trong những thể chế mà chúng tìm cách đóng nó lại, chỉ lúc ấy chúng ta mới có tự do.
    Và nếu anh tài năng, thì anh sẽ tự mở cánh cửa Tự do ấy, và có thơ ca đích thực.
    Còn nếu anh đòi tự do mà anh lại không có thơ hay, thì thơ của anh chỉ là vè, và nó không phục vụ cho mục đích của anh.
    Gần đây cũng có những người dán cho mình nhãn hiệu là đi đòi tự do, nhưng họ lại đang tạo ra những xiềng xích mới. Tuy nhiên trong những hoàn cảnh bị đàn áp, dưới những thể chế hay những chính sách mất tự do, việc đấu tranh của những người đòi tự do dĩ nhiên bao giờ cũng là việc tốt, vấn đề là họ có đang làm văn học hay không.
    Hãy lấy ví dụ về Nhân văn-Giai phẩm (NVGP). Sau vụ đàn áp NVGP, Hoàng Cầm có tập thơ Về Kinh Bắc. Sau 1975, tôi đọc được bản đánh máy của tập thơ, tôi bần thần mất mấy ngày. Tôi thấy nền thơ chống Mỹ của miền Bắc, hay nền thơ của miền Nam trước 1975, không có điều ấy.
    ?oTa con bê vàng lạc dáng chiều xanh
    Đi mãi tìm sim chẳng chín
    Ta con chào mào khát nước
    Về vườn xưa
    Hạt nhãn đã đâm mầm?

    Sao lại có một thứ thơ xa xăm như thế. Những tài thơ của NVGP không hề có một chút tự do nào trong xã hội miền Bắc thời bấy giờ. Những nhà thơ NVGP tìm cách thoát ra bằng một loại thơ khác, lặng lẽ, sâu kín, một thứ thơ cảm giác. Mà thơ như thế thì khó bị đánh. Nếu như họ làm một thứ thơ trực tiếp, nói thẳng tâm trạng của họ ra, thì họ còn bị đánh tan tác hơn nữa.
    Nguyễn Đức Tùng: Anh gọi đó là thơ cảm giác?
    Nguyễn Trọng Tạo: Đúng, nó là thơ cảm giác. Nhưng trên cơ sở của một nền văn hoá thơ khá cao. Đối với Hoàng Cầm là một tiềm thức văn hoá Kinh Bắc
    Có lần tôi nói với anh Hoàng Cầm rằng tập thơ Về Kinh Bắc của anh là tập thơ xương sống, hay hơn những tập thơ khác của anh, hay hơn Bên kia Sông Đuống.
    Về Kinh Bắc đã đưa cả Hoàng Hưng lẫn Hoàng Cầm vào tù. Tức là thể chế này đã đưa một người viết ra tập thơ là Hoàng Cầm, và một người chỉ cầm tập thơ ấy trên tay là Hoàng Hưng, vào tù.
  7. chimawan1988

    chimawan1988 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/09/2006
    Bài viết:
    86
    Đã được thích:
    0
    Trần Mạnh Hảo: Nhưng bây giờ thì cái thể chế ấy lại tặng Giải thưởng Nhà nước (2007) cho người làm ra tập thơ ấy.
    Nguyễn Trọng Tạo: Đúng là tặng giải thưởng. Tặng thưởng cho người đã vào tù, chứ không phải sửa sai. Họ không sửa sai. Tức là họ nói: chúng tôi không sai. Nhưng chúng tôi tặng giải thưởng.
    Như thế là một nhà nước không đủ can đảm để nói lên một sự thật. Không sòng phẳng?
    Trần Mạnh Hảo: Không tử tế.
    Nguyễn Trọng Tạo: Một nhà nước không tử tế. Và tôi nhắc lại một lần nữa ý của tôi rằng tập thơ Về Kinh Bắc là tập thơ trụ cột của Hoàng Cầm. Nhưng trong phần tác phẩm giải thưởng họ không nhắc đến tác phẩm này. Về Kinh Bắc không được trao giải thưởng.
    Tôi muốn nói đến cách ứng xử của nhà nước đối với văn nghệ sĩ và đối với tác phẩm của họ. Tại sao Lý Bạch được vời vào cung vua rồi lại phải bỏ đi? đày. Pushkin cũng vào cung điện của Nga Hoàng rồi lại cũng bỏ đi. Tôi muốn nói là thể chế nào cũng tìm cách biến nhà thơ thành?
    Trần Mạnh Hảo: Thành nô bộc.
    Nguyễn Trọng Tạo: Nhà thơ nào muốn có tự do thì đều phải bỏ đi. Nếu anh không muốn trở thành một thứ nô bộc, thì anh phải bỏ đi. Tại sao bỏ đi? Ai cũng trả lời được, chỉ vua là không!
    Trần Mạnh Hảo: Đúng rồi, Nguyễn Trọng Tạo hôm nay nói rất hay.
  8. chimawan1988

    chimawan1988 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/09/2006
    Bài viết:
    86
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Trọng Tạo: (Cười: không phải hôm nay mới hay!). Phải ra khỏi cung vua thì mới có thơ hay. Ở nơi nào nhà thơ mở được cánh cửa tự do của mình, thì thơ họ mới có thể hay.
    Bây giờ nói về cái gọi là văn chương phản kháng. Tôi cho rằng phản kháng chính là tính chất căn bản của nhà thơ, chống lại những bất công của cuộc đời. Nhà thơ là những người có tính nhạy cảm rất cao. Trên cơ sở của sự nhạy cảm mà mầm mống phản kháng mọc lên rất nhanh.
    Nếu cụ thể hơn thì đó là sự chống đối, nhẹ hơn thì gọi là phản ứng. Phản kháng có mặt khắp nơi.
    Trần Mạnh Hảo: Phản kháng có tính liên tục.
    Nguyễn Trọng Tạo: Trước một cái đẹp mới, anh cảm thấy bị hấp dẫn và cố thoát khỏi sự ràng buộc của cái đẹp cũ. Thậm chí anh thấy buồn vì cái đẹp mới vừa xuất hiện, bởi anh biết trước là rồi nó sẽ cũ đi, nó rữa nát. Buồn như thế đã là phản kháng.
    Nhưng thơ và văn chương phản kháng cũng có thể mang tính chính trị, và như thế quả nhiên có một loại thơ phản kháng. Một dòng thơ phản kháng. Nó là một dòng. Hai mươi sáu năm trước tôi viết bài thơ ?oTản mạn thời tôi sống?, người ta cũng cho rằng đó là một bài thơ phản kháng.
  9. chimawan1988

    chimawan1988 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/09/2006
    Bài viết:
    86
    Đã được thích:
    0
    Tản mạn thời tôi sống
    1.
    Những bông hoa vẫn cứ nở đúng mùa
    Như thời đã đi qua như thời rồi sẽ đến
    Nhưng cái thời tôi sống
    hẳn khác xưa
    Trong bài hát thêm bom rơi và súng
    Anh yêu em ?" anh phải đi ra trận
    Vợ yêu chồng - biết chờ đợi nuôi con
    Đất yêu người - đất nhận làm lá chắn
    Hai mươi năm không nguôi lửa chiến trường
    Hai mươi năm không ngày nào vắng người chết đạn
    Khăn tang bay người sống trắng mái đầu
    Đâu cũng gặp những nghĩa trang liệt sĩ
    Chiến tranh chấm dứt rồi mà nào dễ tin đâu

    2.
    Những bông hoa vẫn cứ nở đúng mùa
    Nhưng màu hoa thời tôi thì có khác
    Xe đến công trường bay mù bụi cát
    Mùa hoa thường lấm bụi suốt mùa khô.
    Lúa ngậm đòng lụt bãi đến xô
    Nhà đang dựng thiếu xi măng, thiếu gạch
    Bao đám cưới chưa có phòng hạnh phúc
    Mây ngổn ngang lam lũ những dáng người.
    Anh nhớ em nhớ về phía cuối trời
    Nơi đất mới khai hoang chân em dầm trong đất
    Em nhớ anh nhớ về nơi bóng giặc
    Cứ rập rình nơi cột mốc đêm đêm.
    Gió thầm thào như chẳng thể ngồi yên
    Gạo thịt cửa hàng nhiều khi không đủ bán
    Con phe sục khắp ga tàu bến cảng
    Giá chợ đen ngoảnh mặt với đồng lương.
    Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi
    Câu trả lời thật không dễ dàng chi!...

    3.
    Những bông hoa vẫn cứ nở đúng mùa
    Chỉ vết thương rồi thời gian làm sẹo
    Vầng trăng mọc vào thơ mỗi ngày dường đổi mới
    Người lo toan vầng trăng chẳng yên tròn.
    Thời đã qua sẽ chẳng khỏi ngạc nhiên
    Nếu trở lại bây giờ vẫn quần nâu dạo phố
    Thời tôi sống cả đến bầy em nhỏ
    Diện quần bò nhảy theo điệu nhạc vui.
    Đài thêm nhiều những bài hát yêu nhau
    Những điệu múa ba-lê hồng hào thêm sân khấu
    Cái mới đến ngỡ ngàng rồi nhập cuộc
    Báo bớt trang, báo thêm chút thơ tình.
    Thơ chưa hay thì thơ nói thật lòng
    Ai giả dối rồi biết mình lầm lỗi
    Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi
    Câu trả lời thật không dễ dàng chi
    .
    4.
    Khi đang đắm yêu có tin được bao giờ
    Rồi một ngày người yêu ta đổi dạ
    Rồi một ngày thần tượng ta tan vỡ
    Bạn bè thân thọc súng ở bên sườn.
    Sau cái bắt tay xòe một lưỡi dao găm
    Kẻ tình nguyện giữ nhà muốn chiếm nhà ta ở
    Tấm ảnh Mao treo lẫn màu cờ đỏ
    Tay ta treo đâu nghĩ có một lần!...
    Như con chiên sùng đạo chợt bàng hoàng
    Nhận ra Chúa chỉ ghép bằng đất đá
    Thời tôi sống thêm một lần súng nổ
    Trái tim đau đang rỏ máu dọc biên thuỳ !

    5.
    Rồi thời gian qua đi rồi tuổi trẻ qua đi
    Ai sau tôi ở vào thời sắp đến
    Thời không còn khổ đau thời không còn nghèo túng
    Đọc thơ tôi xin bạn chớ chau mày.
    Bạn hãy quên vất vả những tháng ngày
    Bao lo lắng đời thường từng làm tuổi xanh bạc tóc
    Chỉ Hi vọng và Niềm tin giúp ta thêm sức lực
    Câu thơ này xin bạn nhớ giùm cho:
    Những bông hoa vẫn cứ nở đúng mùa!?
    (Hà Nội, tháng 6. 1981)

  10. chimawan1988

    chimawan1988 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/09/2006
    Bài viết:
    86
    Đã được thích:
    0
    Bài thơ của tôi không phải là một bài thơ chính trị, nhưng tôi nói những điều đó bằng linh cảm dự báo của một nhà thơ đối với các thay đổi của xã hội Việt Nam. Lúc ấy tôi đã nói ra được một Sự thật đau đớn, và xã hội Việt Nam phải thay đổi. Tôi tin rằng đó là quy luật.
    Nhưng khi họ đánh tôi, ép tôi, thì họ bảo: Ông nói Chúa như thế là ông đánh vào Đảng. Nói xấu thần tượng tức là nói xấu *****. Họ đem tôi ra kiểm điểm.
    Tôi có ý định tự tử.
    Nguyễn Đức Tùng: Thưa anh, đó là vào năm nào?
    Nguyễn Trọng Tạo: Năm 1981. Trong khu tập thể của các nhà văn quân đội, tôi và nhà thơ Nguyễn Hoa ở cạnh nhau, chung vách có cửa thông qua. Vì là sĩ quan, tôi và Nguyễn Hoa đều có súng ngắn, mỗi khẩu súng mười viên đạn. Lúc đó Nguyễn Hoa về quê. Tôi lục tủ lấy khẩu súng của anh ấy, thêm vào khẩu của tôi là hai.
    Tôi suy nghĩ nếu chỉ dùng khẩu súng của mình thì có thể không chết mà chỉ bị thương. Mà bị thương thì mệt quá. Tôi không sợ chết nhưng sợ bị thương. Chết thì không còn biết đau đớn là gì, còn bị thương thì đau. Tôi lắp đạn vào cả hai khẩu súng, trải khăn trắng lên gối, nằm dài trên chiếc giường cá nhân. Tôi nằm ngửa, kê hai khẩu súng vào hai bên thái dương.
    Tôi nghĩ mình làm thơ là để nói lên những cảm nghĩ trung thực của mình. Thế mà họ lại đàn áp một nhà thơ trung thực, mà lại là nhà thơ bộ đội, thì thà chết mẹ nó đi còn hay hơn. Cái chết của mình cũng là một lời cảnh tỉnh đối với người làm văn nghệ, người lãnh đạo văn nghệ.
    Tôi nằm nhìn trần nhà rất lâu, rồi lại nghĩ: sao lại vô lý thế này.
    Tôi bỏ ý định tự tử và ngồi dậy viết một mạch những ý thơ vừa xuất hiện trong đầu. Sau này đặt tên là ?oMười bài thơ và một lời ước muốn?. Tôi phải sống để tôi còn làm thơ như thế nữa. Vì trong xã hội, xấu đẹp gì thì nhà thơ cũng phải nói lên sự thật. Nếu mình không nói sự thật thì ai nói giúp mình?
    Nhà thơ phải nói lên sự thật, không chỉ là sự thật tâm trạng của anh, mà còn cả sự thật ở bên ngoài anh. Anh có thấy không, anh có nghe không, anh có ngửi thấy không? Tất nhiên là sự thật phải được nói bằng ngôn ngữ nghệ thuật. Ngay cả phim ảnh mà nếu làm giống hệt sự thật thì cũng là kém, huống gì thơ. Nghệ thuật là sự thật ở bên trên sự thật. Tại sao điện ảnh Việt Nam lại kém? Là bởi vì nó dùng một thứ ngôn ngữ của sự thật tầm thường, trong khi nghệ thuật lại là một sự thật cao hơn. Vì vậy mà nghệ thuật phim ảnh hiện nay ở Việt Nam, mới mở mắt ra đã thấy nó giả rồi.
    Trần Mạnh Hảo: Nó giả vì nó không phản ảnh sự thật của đời sống hiện nay.
    Nguyễn Trọng Tạo: Như vậy điều quan trọng là nhà thơ phải nói ra sự thật. Nói ra được sự thật là nhà thơ đã tìm được tự do. Tôi nghĩ, tự do đối với văn nghệ sĩ chẳng ở đâu xa. Tự do chính là lúc anh ta nói ra được sự thật.
    Trần Mạnh Hảo (đùa): Hôm nay ăn phải thứ gì Nguyễn Trọng Tạo nói hay quá

Chia sẻ trang này