1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Mỹ thất bại tại chiến trường Việt Nam là do đâu?

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Linhcabincrew, 26/01/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. altus

    altus Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/05/2003
    Bài viết:
    1.503
    Đã được thích:
    1
    Ý bác là sao cơ ?
  2. a2p2t

    a2p2t Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/05/2006
    Bài viết:
    925
    Đã được thích:
    2
    Em hỏi bác mrbtuan cơ
    Em nghe nói rằng (vì em không có cuốn sách đó), cuốn "The War in Indo-China 1945-54" của Jacques Dalloz cũng có đoạn tương tự nói về ông Diệm.
    Còn nhà em xem "Vietnam - The Ten Thousand Day War" (bản dịch) cũng có đoạn như vậy (tuy nhiên em không thích dùng nguồn này vì không có trong tay bản digital để trích dẫn)
  3. lehongphu

    lehongphu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    01/02/2002
    Bài viết:
    1.581
    Đã được thích:
    0

    Có cần quá cẩn thận như vậy đối với 1 ý kiến thiếu suy nghĩ đến thế không?
    TT VNCH đi đâu cũng mang theo dấu má bên mình chắc? Hay là bắt chuyên cơ làm 1 chuyến khứ hồi NY-SG-NY chỉ vì cái nguyên văn phát biểu sao mà chẳng có dấu má gì ?
    Thà cứ hỏi đại là sao người ta không bắt ông ta điểm chỉ (lăn tay) vô đó còn hơn
  4. do_re_mi

    do_re_mi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/04/2006
    Bài viết:
    1.160
    Đã được thích:
    4
    Thực sự từ trước tôi luôn nghi ngờ câu '' biên giới mỹ đến vĩ tuyến 17'' bởi mọt người làm chính trị không lẽ lại đi nói một câu dớ dẩn đến thế, nhưng cũng không khẳng định được.
    Cấu nói trên cũng tạm thời chưa xác đinh được.
    Nhưng đích thị ông Diệm này chỉ là bù nhìn của Mỹ mà thôi.
    có lẽ các bác đọc thêm sách của mấy ông Nga, Tàu, Anh, Pháp viết có thể khách quan hơn tài liệu tiếng Anh của bọn Mỹ.
  5. altus

    altus Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/05/2003
    Bài viết:
    1.503
    Đã được thích:
    1
    Văn bản lưu tại Lubbock là bản gốc press release của ĐSQ VNCH tại Washington cung cấp cho báo chí sau khi ông Diệm phát biểu tại New York.
    Các bác đặt vấn đề nghi ngờ về độ chính xác của tài liệu này xin cho biết tại sao tài liệu này chưa đủ tin cậy, và theo ý của các bác thì tài liệu kiểu như thế nào mới có thể coi là chính xác ?
  6. cavalryman

    cavalryman Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2007
    Bài viết:
    553
    Đã được thích:
    0
    Chuyện vặt, hành động còn kinh khủng hơn, sá gì lời nói!! Vả lại Diệm là độc tài, lên cầm quyền nhờ thân Mỹ và chống Cộng chứ không phải nhờ tài chính trị chính em gì, nói gì mà chả được!
  7. do_re_mi

    do_re_mi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/04/2006
    Bài viết:
    1.160
    Đã được thích:
    4
    Ông Ngô Đình Diệm này không biết có cuốn sách lý luận nào không nhỉ ?
    Nói về nước Mỹ, các bác có thể tham khảo tài liệu này của các bác nhà ta, về số người nghèo ở Mỹ hiện nay
    SỐ NGƯỜI CỰC NGHÈO Ở MỸ CAO KỶ LỤC
    Nao-mi Xpen-xơ
    (Cập nhật: 19/9/2007)
    Giàu nhất thế giới nhưng Mỹ lại là nước có rất nhiều người phải sống trong cảnh nghèo cùng cực. Các số liệu cho thấy, số người cực nghèo ở Mỹ hiện nay cao nhất trong 3 thập kỷ gần đây. Thậm chí, khi nền kinh tế Mỹ đã được phục hồi sau suy thoái, từ năm 2000 đến năm 2005, số người nghèo ở Mỹ vẫn tăng khoảng 26%. Tờ Thời báo Niu-oóc tính rằng, hiện ở Mỹ có 60 triệu người nghèo.
    Báo cáo phân tích số liệu của Cục Điều tra dân số Mỹ do công ty truyền thông M. Clát-chy (Mc Clatchy) xuất bản ngày 22-2-2007 cho biết, nghèo khổ cùng cực ở Mỹ đã tới điểm cao nhất trong 3 thập kỷ qua. Báo cáo này phản ánh tình trạng suy giảm chất lượng sống của đa số người dân Mỹ trong thời kỳ được gọi là "sự phục hồi của chủ nghĩa tư bản, kể từ năm 2001".
    Theo chuẩn nghèo năm 2005 ở Mỹ, những người Mỹ có thu nhập dưới 5.080 USD/năm được xem là cực nghèo; một gia đình 4 người với hai trẻ em được coi là cực nghèo nếu họ kiếm được ít hơn 9.903USD/năm. Các số liệu cho thấy, năm 2005 ở Mỹ có gần 16 triệu người phải sống ở mức cực nghèo, hoặc dưới một nửa ngưỡng nghèo. Con số này đại diện cho gần một nửa số người nghèo, là tỷ lệ người nghèo cao nhất ở Mỹ kể từ năm 1975. Thậm chí khi nền kinh tế Mỹ đã được phục hồi sau suy thoái, trong thời gian từ năm 2000 đến năm 2005, số người nghèo ở Mỹ vẫn tăng khoảng 26%. Theo Tô-ny Pu-gơ (Tony Pugh), tác giả của báo cáo, sự tăng tỷ lệ nghèo cùng cực là 56%, nhiều hơn sự tăng toàn bộ dân số nghèo khổ.
    Trong năm 2005, có 12,6% dân số Mỹ, hoặc 37 triệu người, bao gồm 13 triệu trẻ em, sống dưới chuẩn nghèo chính thức. Báo cáo của M. Clát-chy cho biết, cứ 1 trong 3 người cực nghèo ở Mỹ là dưới 17 tuổi và gần 2/3 số người nghèo là phụ nữ. Trong đó, các gia đình nghèo khổ nhất là các gia đình mà người chủ là phụ nữ. Người da đen cực nghèo thu nhập thấp hơn 3 lần so với người da trắng (không phải gốc La-tinh) cực nghèo; còn người Mỹ gốc La-tinh chịu sự nghèo cùng cực nhiều hơn 2 lần so với người da trắng. Trong năm 2005, có 4,3 triệu người Mỹ cực nghèo là người da đen, 3,7 triệu người cực nghèo là người gốc La-tinh.
    Những người cực nghèo phải làm việc hằng thập kỷ trong những nhà máy chế tạo hiện đã phải đóng cửa và phải chịu nhiều vấn đề về sức khỏe, những thương tổn có liên quan đến nghề nghiệp. Giáo sư chuyên về phúc lợi xã hội M. Ran-cơ (Mark Rank) ở Đại học Uy-xcon-xin (Wisconsin) nói, cứ 1 trong 3 người Mỹ phải trải qua một năm cực nghèo ở một lĩnh vực nào đó trong cuộc sống. Theo tính toán của Ran-cơ, có 58% số người Mỹ trong độ tuổi từ 20 đến 75 phải chịu ít nhất 1 năm nghèo khổ; 2 trong 3 người ở độ tuổi từ 20 đến 65 phải sống dựa vào một chương trình trợ cấp xã hội và có 40% số người Mỹ phải dựa vào trợ cấp cộng đồng, ít nhất trong 5 năm. Nếu tính cả số người nhập cư bất hợp pháp, con số này sẽ còn nhiều hơn.
    Báo cáo của M. Clát-chy cho thấy, 65 trong số 215 hạt lớn của Mỹ có sự tăng lớn về tỷ lệ người cực nghèo. Số lượng người cực nghèo không chỉ tăng lên ở đô thị lớn mà còn mở rộng tới các khu vực nông thôn và ngoại ô.
    Biên giới Mỹ - Mê-hi-cô và miền nam nước Mỹ có số người cực nghèo nhiều nhất - 6,5 triệu người. Nhiều người phải làm việc trong các nhà máy dệt, thêu và đồ gỗ là những nhà máy hiện đang phải đóng cửa hoặc đang chuyển đến những địa điểm mới, với mức lương thấp. Tương tự như vậy, số người cực nghèo đã tăng lên tại nhiều nơi ở Trung Tây và Đông Bắc nước Mỹ - những nơi mà hàng loạt nhà máy đã phải đóng cửa và hàng loạt công nhân bị sa thải.
    Số người cực nghèo ở Thủ đô Oa-sinh-tơn chiếm 10,8% dân cư thành phố này, nhiều hơn các bang khác, vượt cả Mi-xi-xi-pi và Lu-xi-a-na, những bang bị tàn phá bởi cơn bão Ka-tri-na. Ở Oa-sinh-tơn, cứ 6 trong 10 người nghèo là những người nghèo cùng cực. Tại trung tâm của một đất nước giàu nhất thế giới, nơi hàng nghìn tỉ USD được chi cho chiến tranh thì cắt giảm thuế và trợ cấp đoàn thể chỉ mang tính hình thức.
    Số liệu do Cục Điều tra dân số Mỹ thu thập mới chỉ sơ lược thực trạng nghèo khổ ở Mỹ và mới chỉ giải thích vì sao sự nghèo khổ tăng lên. Hơn nữa, chuẩn nghèo chính thức ở Mỹ hoàn toàn không thích hợp với tư cách là một phương tiện tính toán sự ổn định và thịnh vượng kinh tế. Ngoài ra, số liệu này cũng chưa phản ánh đúng sự suy giảm chất lượng sống.
    Gần nửa thế kỷ qua, chuẩn nghèo ở Mỹ được tính toán trên cơ sở mức dinh dưỡng tối thiểu cho một gia đình, với chi tiêu là 1/3 thu nhập cho bữa ăn. Nhưng trong khi lạm phát tăng lên, chuẩn này lại không tính đến những thay đổi lớn trong chi phí cho cuộc sống của những người lao động Mỹ, chẳng hạn như chi phí cho chăm sóc trẻ em và đi lại, cho sự tăng lên nhanh chóng giá thuê nhà, hoặc cho gánh nặng chi phí chăm sóc sức khỏe của những người Mỹ nghèo khổ phần lớn không có bảo hiểm.
    Chỉ một thiểu số những người giàu có được hưởng lợi từ sự phát triển kinh tế, còn đa phần người dân Mỹ phải chịu sự suy giảm chất lượng sống. Trong một tài liệu có tên là Tình trạng của nước Mỹ lao động 2006 - 2007, Viện chính sách kinh tế Mỹ nhận xét: "Bất chấp thực tế kinh tế phục hồi kể từ năm 2001, thu nhập thực tế của gia đình Mỹ trung bình đã bị giảm đi hằng năm. Trong thời kỳ 2000 - 2005, thu nhập thực tế của một gia đình Mỹ trung bình giảm 23%, khoảng 1.300 USD"[1].
    Trong khi lương không tăng, chi phí cho cuộc sống lại tăng lên nhanh chóng đã đẩy những người có thu nhập trung bình và thấp vào những hoàn cảnh ngày càng khó khăn; đồng thời, sự tiếp cận các chương trình xã hội của người nghèo đã bị cắt giảm rất lớn. Điều này khiến cho những người nghèo hoặc những người sắp lâm vào cảnh nghèo khổ trở nên dễ bị tổn thương nhất bởi "bản chất thất nghiệp" của sự phục hồi.
    Tháng 11-2006, tờ Thời báo Niu-Oóc sau khi phân tích thông tin thuế liên bang Mỹ năm 2004 đã thấy rằng, 1/5 số người đóng thuế nghèo nhất nước Mỹ chỉ kiếm được chưa tới 11.166 USD/năm, với thu nhập trung bình chưa tới 5.800 USD/năm. Theo cách xác định "người đóng thuế" của Cơ quan thu thuế và thi hành luật thuế ở Mỹ (Internal Revenue Service), nước Mỹ hiện có 26 triệu người đóng thuế nghèo nhất, là những người đại diện cho gần 48 triệu người lớn và khoảng 12 triệu trẻ em phụ thuộc. Bằng cách này, tờ báo tính rằng có 60 triệu người Mỹ nghèo nhất đang sống dưới mức 7 USD/ngày. So sánh với chuẩn nghèo năm 2002 là 27 USD/ngày cho một người lớn chưa đến tuổi về hưu và 42 USD/ngày cho một hộ gia đình có một trẻ em, sự giảm sút về thu nhập trung bình của số người nghèo khổ là một dẫn chứng quan trọng về thực trạng của nền kinh tế Mỹ. Cách tính này được gọi là "khoảng cách nghèo khổ".
    Trong năm 2005, khoảng cách nghèo khổ trung bình là một kỷ lục 8.000 USD. ý nghĩa của khoảng cách này là, các gia đình nghèo ở Mỹ hiện nay thực sự nghèo hơn những năm trước đây[2].
    Có những phân tích cho rằng, sự khốn khổ được phóng đại bởi vì các biện pháp tính toán không bao gồm giá của các dịch vụ xã hội chẳng hạn như phiếu lương thực và các sự trợ giúp y tế, hoặc chương trình phúc lợi xã hội như chương trình Trợ cấp tạm thời cho các gia đình nghèo túng (TANF). Nhưng báo cáo của M. Clát-chy lưu ý đến sản phẩm phụ của nghèo khổ, chẳng hạn như tỷ lệ tội phạm và bạo lực cao, các hậu quả về giáo dục, dinh dưỡng và sức khỏe kém - những điều tồi tệ cho những người nghèo cùng cực.
    Một nghiên cứu của Tạp chí thuốc phòng bệnh về xu hướng lan tràn nghèo cùng cực (tháng 11-2006), kết luận: "Tỷ lệ nghèo khổ tăng lên là điều rất phải quan tâm do những khó khăn to lớn mà người nghèo phải đối mặt trong việc đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất của con người, ví dụ như giáo dục, công ăn việc làm và tiền lương"[3].
    Nghiên cứu cho thấy, sự gia tăng tỷ lệ nghèo khổ ở Mỹ gần đây là do số người cực nghèo tăng đột ngột. Ngày càng có thêm nhiều người với mức thu nhập dưới 8.000 USD/năm, tức dưới ngưỡng nghèo khổ. Nghiên cứu liệt kê những hậu quả của cảnh sống nghèo khổ. Đó là mối quan hệ qua lại giữa sức khỏe cộng đồng và sự tăng lên của nghèo khổ, thông thường rất khó nhận biết, chẳng hạn như chết yểu, bệnh tật hoặc đau yếu tinh thần. Người nghèo không được bảo vệ trước các nhân tố rủi ro, như vô gia cư, nhà ở kém chất lượng, những chất gây ô nhiễm môi trường. Người nghèo cũng là mục tiêu của thuốc lá, đồ uống có cồn, thức ăn nhanh. Đối với 1/3 dân số nghèo không có bảo hiểm y tế và một số lớn không có tiền tiết kiệm, tất cả những nhân tố này sẽ hòa quyện vào nhau. Nghiên cứu cũng cho rằng, sự tăng số người cực nghèo đang sản sinh ra hậu quả "lỗ đắm" về sự phân phối thu nhập ở Mỹ, khiến cho có thêm hàng triệu người Mỹ phải chịu những hoàn cảnh thảm khốc.
    Trong khi đó, các thông cáo báo chí của Cục Điều tra dân số Mỹ là không đáng tin cậy, kể từ năm 2000 chỉ có một thông báo ngắn về số người nghèo khổ trong một nghiên cứu năm 2003 về số liệu của năm 2002. Sự đề cập này cũng chỉ trong một câu duy nhất: "14,1 triệu người (4,9% dân số) có thu nhập ít hơn một nửa nhu cầu cần thiết...", tỷ lệ không khác so với năm 2001[4].
    Bên cạnh đó, sự tăng số người cực nghèo và sự tập trung sự cực giàu vào một số người cũng tăng lên. Số người bần cùng hóa cùng cực tăng lên đã phản ánh sự bất bình đẳng không thể phủ nhận. Đó là kết quả của các chính sách đặt mục tiêu vào việc đưa các nguồn của cải xã hội vào tay giới tinh hoa tài chính. Trong khi 1% số hộ gia đình giàu nhất nước Mỹ nhận 17% toàn bộ thu nhập quốc gia, sở hữu hơn 33% toàn bộ giá trị thực và hơn 42% toàn bộ tài sản thực, thì gần 20% số hộ gia đình chỉ sở hữu 0% hoặc giá trị thực ít ỏi, 33% khác sở hữu chưa đến 10.000 USD[5].

    Trịnh Cường lược dịch

    --------------------------------------------------------------------------------
    * Nguồn: World Socialist Web Site (tháng 4-2007)
    ** Naomi Spencer
    [1] Mishel, Lawrence, Jared Bernstein and Sylvia: The State of Working America 2006 - 2007 (An Economic Policy Institute Book). Ithaca, NY: ILR Press, an imprint of Cornell University Press, 2007, p. 39
    [2] Sđd
    [3] Woolf S, Johnson R, Geiger H: The rising Prevalence of Severe Poverty in America: A Growing Threat toPublic Heath, Am J Prev Med 2006; 31 (4): 332 - 341
    [4]http://www.census.gov/hhes/www/income/income 02/prs03asc.html
    [5] Mishel, Lawrence, Jared Bernstein and Sylvia: The State of Working America 2006 - 2007 (An Economic Policy Institute Book). Ithaca, NY: ILR Press, an imprint of Cornell University Press, 2007, p. 257
  8. do_re_mi

    do_re_mi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/04/2006
    Bài viết:
    1.160
    Đã được thích:
    4

    Chiến tranh Việt Nam nhìn từ phía Mỹ
    TTCN - Chiến tranh Việt Nam (1954- 1975) là một trong khoảng 11 cuộc chiến tranh lớn trên thế giới thời hiện đại (đã, đang và sẽ được nhân loại nhìn nhận, đánh giá từ những góc nhìn).
    Đối với Mỹ, những cái ?onhất? trước hết và dĩ nhiên phải được biểu thị bằng những gam màu tối bởi chính Mỹ là thủ phạm gây ra cuộc chiến đẫm máu và cũng là kẻ chiến bại nhục nhã.
    Còn những gam màu sáng, phải chăng là những bài học cho hiện tại và tương lai được đúc rút từ kinh nghiệm đau lòng của quá khứ (mà trên thực tế người Mỹ đã làm được một số điều...)?
    1. Cuộc chiến tranh qui mô lớn nhất trong lịch sử hơn 200 năm của nước Mỹ
    Trước hết, về mặt thời gian, cuộc chiến này kéo dài ngày nhất với hơn hai mươi năm (từ tháng 7-1954 đến 4-1975) so với một năm bảy tháng của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (do Mỹ tham chiến muộn, từ tháng 4-1917), ba năm tám tháng của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai (tính từ khi Mỹ tuyên chiến với phe phát xít và chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ), ba năm một tháng của cuộc chiến tranh Triều Tiên (tính từ khi Mỹ can thiệp quân sự trực tiếp)...
    Thứ đến, cuộc chiến này huy động sức mạnh trí tuệ và sức người, sức của cao nhất của nước Mỹ.
    Năm đời tổng thống Mỹ, từ D. D. Eisenhower, John K. Kennedy đến Lyndon Johnson, Richard Nixon rồi Gerald Ford đã nối chân nhau điều hành bốn chiến lược chiến tranh thực dân mới ở chiến trường VN, từ chiến tranh đơn phương, chiến tranh đặc biệt đến chiến tranh cục bộ, (và chiến tranh phá hoại miền Bắc VN lần thứ nhất) rồi VN hóa chiến tranh (và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai). Bên cạnh đó là những ?obộ óc nước Mỹ? luôn luôn sát cánh cùng những người đứng đầu Nhà nước Mỹ để ?obày binh, bố trận? như Henry Kissinger, người được xem là ?ocây đại vĩ cầm về địa-chính trị? của Mỹ, Z. Bigniew Brzezinski, một chiến lược gia chống cộng nổi tiếng thế giới...
    Có đến 77% lục quân, 66% thủy quân lục chiên và không quân, 40% hải quân, 6,5 triệu lượt binh sĩ, 22.000 xí nghiệp của nước Mỹ đã được huy động để phục vụ chiến tranh VN. Chừng như chưa đủ, Mỹ còn lôi kéo năm nước phụ thuộc Mỹ bao gồm Úc, New Zealand (châu Đại Dương), Hàn Quốc (Đông Bắc Á) và Thái Lan, Philippines (Đông Nam Á) với số quân lúc cao nhất hơn 70.000 cùng tham chiến với 550.000 quân viễn chinh Mỹ, làm nòng cốt cho hơn 1 triệu quân ngụy Sài Gòn.
    Theo thống kê chưa đầy đủ, Mỹ đã chi trực tiếp cho cuộc chiến tranh VN tới 676 tỉ USD, so với 341 tỉ USD trong Chiến tranh thế giới thứ hai và 54 tỉ trong chiến tranh Triều Tiên, và nếu tính cả chi phí gián tiếp thì lên tới 920 tỉ USD (VN, con số và sự kiện (1945-1989), 1990-Sức mạnh VN, 1976). Những chi phí khổng lồ này tính theo thời giá hiện nay đủ sức vực cả các nước thế giới thứ ba vượt qua đói nghèo, lạc hậu để rút ngắn khoảng cách phát triển so với các nước thuộc ?ocâu lạc bộ nhà giàu? như các nhóm G7, OECD... (!).
    Kế đến chiến tranh VN là cuộc chiến tranh cục bộ lớn nhất mà Mỹ trực tiếp tham chiến trong thời kỳ chiến tranh lạnh và đối đầu Đông-Tây (từ năm 1945 đến thời điểm 1989-1991), một cuộc đụng đầu lịch sử không chỉ giữa hai nước Mỹ - VN mà còn giữa hai hệ thống chính trị-xã hội đối lập là chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Chiến tranh VN vì vậy được quốc tế hóa cao độ.
    2. Cuộc chiến tranh mang tính hủy diệt nhất của Mỹ, đã để lại những di chứng đầy tội ác ở VN.
    Để thực hiện mục đích ?ohủy diệt và nô dịch? dân tộc VN, Mỹ đã giội xuống hai miền Nam, Bắc hơn 7,8 triệu tấn bom đạn, một khối lượng bom đạn lớn hơn lượng bom đạn mà Mỹ đã sử dụng trong bất cứ cuộc chiến tranh nào trước đó. Trong chiến tranh phá hoại ở miền Bắc VN của Mỹ, bình quân một người dân phải chịu 45,5 kg bom đạn, 1km2 chịu 6 tấn bom đạn. Tỉ lệ này lớn hơn nhiều so với một số nước bị thiệt hại nặng nhất trong chiến tranh thế giới thứ hai, cụ thể là: Đức: 1 người/27 kg, 1km2/5,4 tấn; Nhật Bản: 1 người/1,6 kg, 1km2/0,43 tấn. Những con số thật khủng khiếp (!).

    Chỉ trong mười năm (1961-1971), quân đội Mỹ đã phun hơn 20 triệu gallon (1gallon = 3,78 lít) chất độc da cam cũng như nhiều thuốc ?odiệt cỏ? chứa hóa chất chết người dioxin đã làm cho hàng triệu người VN mắc bệnh, vô số thai nhi biến dạng và di chứng kéo dài cho đến tận ngày nay.
    Loài người có lương tri không thể không đau xót, căm phẫn khi phải chứng kiến hàng ngàn, hàng vạn người dân VN vô tội, nhất là trẻ em, hôm nay mang trong mình dị tật quái ác do hậu quả dioxin dù rằng chiến tranh đã qua đi 30 năm. Vì không ai khác hơn, chính các công ty hóa chất Mỹ và những người điều hành cuộc chiến tranh xâm lược đầy tội ác này phải là những kẻ chịu trách nhiệm chủ yếu và đầu tiên trước công lý.
    3. Cuộc chiến tranh mà Mỹ phải chịu thất bại lớn và nặng nề nhất trong lịch sử hơn 200 năm của nước Mỹ
    Chiến tranh đã cướp đi sinh mạng của khoảng 58.000 quân Mỹ, khoảng 304.000 người lính khác vĩnh viễn bị thương tật, tàn phế. (So với hai cuộc chiến tranh ở Afghanistan và Iraq vừa qua, Mỹ chỉ tổn thất 1.102 binh sĩ tính đến ngày 19-10-2004). Điều đáng nói là trong số đó có không ít người bị bắt lính và họ không biết mình chiến đấu trên đất Việt xa xôi này để làm gì (!).
    Thất bại của Mỹ trong cuộc chiến VN vào mùa xuân năm 1975 đã làm phá sản sự phản kích lớn nhất của Mỹ vào các lực lượng cách mạng sau Chiến tranh thế giới thứ hai, phá vỡ phòng tuyến ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản quan trọng ở Đông Nam Á mà Mỹ đã đổ nhiều công sức tạo dựng, góp phần làm đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách mạng của Mỹ, đẩy Mỹ vào tình thế khó khăn về nhiều mặt: quân sự, chính trị, kinh tế, xã hội. Và nói như tướng Taylor - một nhà chiến lược quân sự Mỹ: ?oTrong suốt cả cuộc chiến tranh này, chúng ta (người Mỹ) không có một anh hùng nào cả, chúng ta chỉ là những lũ ngốc... Giá như người Mỹ sớm nhận thức ra vấn đề này thì...?.
    4. Cuộc chiến tranh để lại vết thương lòng lớn nhất nước Mỹ: ?oHội chứng VN?
    Vào đầu năm 1988, lần đầu tiên Chính phủ Mỹ buộc phải chính thức thừa nhận rằng 15% cựu chiến binh Mỹ từ chiến tranh VN trở về, nghĩa là khoảng 50.000 người vẫn còn bị rối loạn tâm thần nghiêm trọng mà nguyên nhân của căn bệnh này là do họ đã tham chiến ở VN và tất nhiên đã từng gây tội ác dù là trực tiếp hay gián tiếp.
    Ngày càng có nhiều hồi ký chiến tranh về ?ongười thật, việc thật?, ghi chép lại cuộc chiến và những cơn ác mộng khủng khiếp từng ám ảnh những người lính viễn chinh Mỹ. Các nhà xã hội học Mỹ đã khẳng định bình quân mỗi ngày có ba cựu chiến binh Mỹ tự sát bằng những cách thức ghê rợn, có lẽ để xóa đi mặc cảm tội lỗi.
    Điều đáng lưu ý là hiện tượng nói trên chưa hề xảy ra trước đó, nhất là sau Chiến tranh thế giới thứ hai và cả sau cuộc chiến tranh Triều Tiên.
    *
    Hơn hai thế kỷ đã trôi qua kể từ khi Hợp chủng quốc Hoa Kỳ được thành lập, và người Mỹ có quyền tự hào về những vinh quang mà nước Mỹ gặt hái được trên mọi phương diện trong suốt tiến trình lịch sử của đất nước mình.
    Nhưng chiến tranh VN đã là vết thương hằn sâu trong lòng nước Mỹ, bởi chính nơi đây, niềm kiêu hãnh của đế quốc Hoa Kỳ đã bị dập tắt bởi dân tộc bé nhỏ mang tên VN.
    HOÀNG NGUYỄN (ĐH Khoa học Huế)
  9. starboard_side

    starboard_side Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/05/2003
    Bài viết:
    463
    Đã được thích:
    0
    Bác này tính thiếu ông Henry Truman rồi nên mới lôi ông Gerald Ford vào. Thật ra Ford chỉ dính vào CTVN trong giai đoạn cuối và ông ta chỉ dính dáng tới CTVN trong giai đoạn VNCH sụp đổ là chính thôi.
    Xem th6m:
    http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=128195&ChannelID=2
  10. thaonguyenvd

    thaonguyenvd Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/08/2003
    Bài viết:
    519
    Đã được thích:
    0
    Ông bạn có đi Mỹ chưa?
    Thay vì gởi những bài báo thế này, bạn nên sang Mỹ một chuyến để thấy sự ưu việt của tư bản Mỹ so với các quốc gia
    XHCN. Ngày nay, chúng ta đã hòa nhịp cùng cộng đồng quốc
    tế, WTO mở ra một sân chơi lớn & vận hội lớn cho VN. Đừng
    nên vì những sai lầm trong quá khứ mà mãi vờ vịt trong những bài báo khen chê tầm thường.
    Nước Mỹ rất tự do. Mọi người điều có quyền phát biểu chính kiến của riêng mình. Nhưng công dân Mỹ mới là người quyết định ai sai, ai đúng.
    Các bài báo kiểu này ở Mỹ đem gói bánh mì còn không hết.
    Thân,

Chia sẻ trang này