1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Na tiên vấn đáp. (kinh Na tiên)

Chủ đề trong 'Yoga - Khí công - Nhân điện - Thiền' bởi mrking_hoang, 23/11/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    c) Tinh tấn
    Vua hỏi:
    -- Bạch Ðại đức, còn như tinh tấn là như thế nào?
    -- Tâu Ðại vương, giữ gìn điều lành và tán trợ điều lành, đó là tinh tấn.
    -- Xin ví dụ cho dễ hiểu.
    -- Ví như trong việc ngăn ngừa một bức vách sắp đổ hay một ngôi nhà sắp sập, người ta dùng trụ chống để đỡ thì vách và nhà khỏi xiêu. Cũng thế, tinh tấn có công năng chống đỡ người tu hành, nhờ đó mà lòng lành khỏi ngã nghiêng. Lại ví như khi vua sai quân binh ra ngự giặc, thế giặc quá mạnh, quân binh sắp thua, vua phải phái thêm viện binh ra tiếp cứu và trợ chiến, nhờ đó mà thắng trận đuổi được quân giặc. Người có điều dữ như quân ít binh yếu trước thế giặc mạnh. Nếu không nhờ vào tinh tấn để níu giữ điều lành, làm cho vững và tiêu diệt điều dữ cho hết, thì không sao thắng được ác tâm mà thăng tiến trên con đường đạo. Như thế gọi là gìn giữ điều lành và tán trợ điều lành.
    Nói đến đây, Na Tiên bèn dẫn đọc một bài kệ:
    Tinh tấn giúp điều lành.
    Ðường lành ai đi xong,
    Ðường đời sẽ ra khỏi.
    Ba cõi chẳng trở lui.
    -- Hay thay! Hay thay!
  2. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    d) Niệm thiện
    Vua hỏi:
    -- Bạch Ðại đức, còn niệm thiện là như thế nào?
    -- Tâu Ðại vương, niệm thiện là ý luôn luôn nhớ nghĩ các việc lành. Nhớ nghĩ bằng hai cách: phân ra và hiệp lại. Giống như người hái hoa, trước phải chọn từng cánh hoa thơm mà cắt, cắt xong lại phải buộc chặt lại thành một bó. Bó kỷ thì gió thổi qua không làm chúng tản lạc hay bay mất đi được. Lại cũng ví như quan giữ kho của vua, sau khi được giao nhiệm vụ, trước phải chia đếm từng món vàng bạc châu báu, soát xét cẩn thận; soát xét xong từng món mới gộp chung lại để biết tổng số vàng bạc châu báu phải gìn giữ là bao nhiêu. Cũng thế, người tu hành muốn đắc đạo, phải thường tâm niệm 37 phẩm pháp để ghi nhớ. Như vậy gọi là niệm đạo lý xuất sanh tử. Ai tưởng niệm đạo lý như thế mới biết điều lành để theo và điều dữ nên tránh. Phân biệt rành rẽ đâu là trắng, đâu là đen, rồi sau đó mới tự mình quan sát suy tư mà mà bỏ ác hướng lành.
    -- Xin cho ví dụ.
    -- Ví như quan hầu giữ cửa cung vua, phải biết những ai được vua ưa chuộng, những ai không được vua ưa chuộng, những ai có ích cho vua, những ai không có ích cho vua. Người có ích được vua ưa chuộng thì mới rước vào; kẻ không có ích cũng không được vua chuộng hẳn phải ngăn lại hoặc xua đuổi đi. Người tu hành gìn giữ niệm thiện cũng giống như thế. Ðiều lành thì cho vào, điều không lành thì xua ra. Giữ gìn cái ý chế ngự cái tâm, phải như thế đó.
    Ðến đây Na tiên dẫn đọc một bài kệ:
    Tu hành cần giữ kỷ,
    Sáu giặc và tâm ý.
    Ái dục phải kềm chặt,
    Luân hồi chắc chắn thoát.
    -- Hay thay! Hay thay!
  3. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    e) Nhứt tâm
    Vua hỏi:
    -- Bạch Ðại đức, còn nhứt tâm là như thế nào?
    -- Tâu Ðại vương, nhứt tâm là quy cái tâm về một mối. Tức thiền định. Trong các điều lành, nhứt tâm là pháp tối thắng hơn hết. Ai quy nhứt được tâm mình thì khai thông được mọi điều lành. Vì mọi điều lành do nhứt tâm mà ra.
    -- Xin cho ví dụ.
    --Ví như nhà phải có nóc thì rui, mè, kèo, cột mới từ đó mà trùm xuống làm kín nhà. Cũng thế, người làm điều lành phải bắt gốc từ nhứt tâm thì điều lành mới trọn vẹn. Lại ví như vua xuất quân ra trận, các binh chủng như tượng binh, mã binh, xa binh, bộ binh thảy đều theo mệnh lệnh vua và do vua điều khiển, thì mới tiến đánh được quân giặc. Nếu không có chủ soái thì binh loạn. Các giới điều và các việc lành mà Phật nói trong kinh đều tùy nơi nhứt tâm hết. Nhứt tâm là chủ soái; giới điều và việc lành là quân binh.
    Ðến đây Na tiên dẫn đọc một bài kệ:
    Nhứt tâm là cội điều lành,
    Y vào cội ấy tu hành mới xong.
    Tử sanh nước chảy xuôi giòng,
    Trước sau tiếp nối khốn hòng nghỉ ngưng
  4. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    f) Trí tuệ
    Vua hỏi:
    -- Bạch Ðại đức, còn trí tuệ là như thế nào?
    -- Tâu Ðại vương, như đã nói ở đoạn trước, trí tuệ là "Ðoạn" và "Minh". Người có trí tuệ mới cắt đứt được (đoạn) các điều nghi ngờ và làm sáng tỏ được (minh) các điều lành. Trí tuệ là như thế đó.
    -- Xin cho ví dụ.
    -- Ví như đèn sáng thắp trong phòng tối. Ánh sáng ngọn đèn vừa toả ra, tức khắc bóng tối tiêu tan, phòng tự bừng rạng, trông rõ mồn một. Cũng thế trí tuệ soi suốt cả, như ánh sáng ngọn đèn soi sáng khắp phòng. Lại ví như dao bén chặt cây, lát dao đưa đến đâu, cắt đứt đến đó. Cũng thế, trí tuệ cắt đứt các điều dữ, giống như dao bén chặt ngọt. Trên thế gian nầy, trí tuệ là pháp tối thắng số một. Ai có trí tuệ mới mong độ thoát khỏi cái khổ sanh tử luân hồi.
    -- Bạch Ðại đức, các điều lành mà đại đức đã giải bày tường tận cho trẫm nghe nãy giờ gồm nhiều loại sai khác nhau, nhưng công hiệu của chúng trong việc xua đuổi các điều dữ có giống nhau không?
    -- Tâu Ðại vương, các điều lành nói trong kinh Phật thảy đều cùng một công hiệu như nhau là diệt trừ tất cả các điều dữ.
    -- Xin cho ví dụ.
    -- Ví như bốn binh chủng: Tượng, mã, xa, bộ mà vua đốc thúc ra trận để ngự địch, không binh chủng nào giống binh chủng nào, nhưng tất cả đều cùng nhằm một mục đích chung; chiến thắng quân địch. Cũng thế, các điều lành nói trong kinh Phật, tuy chủng loại có khác nhau, nhưng tất cả đều hướng đến một mục đích chung đua nhau công phá và tận diệt các điều dữ.
    -- Hay thay! Hay thay! Lời Ðại đức nói, quả có đúng như vậy.
  5. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    8. Tương quan giữa thân trước và thân sau.
    Vua hỏi:
    -- Bạch Ðại đức, kinh Phật nói con người sau khi chết, tiếp tục thác sanh trở lại theo nghiệp lành dữ đã gây, như vậy đó là con người cũ hay là một con người mới nào khác?
    -- Tâu Ðại vương, không phải con người cũ, nhưng cũng chẳng phải lìa con người cũ ra mà sanh một con người mới khác.
    -- Như thế nghĩa là thế nào?
    Na Tiên chụp hỏi lại:
    -- Bệ hạ hồi còn bú vú mẹ với bệ hạ cai trị trăm họ bây giờ có khác gì nhau không?
    -- Khác chứ! Hồi đó trẫm nhỏ dại, bây giờ trẫm lớn khôn.
    -- Như vậy thì lệnh mẫu hoàng hồi đó không phải mẫu hoàng ngày nay! Lệnh phụ hoàng cũng thế! Và bệ hạ cũng chẳng có phụ đạo. Vì ông thầy ấy chỉ dạy đứa bé mươi mười lăm tuổi cách đây mấy chục năm, chứ đâu có dạy bệ hạ bây giờ! Thân trước thân sau khác nhau thì mẹ đứa bé không phải là mẹ nhà vua! Người học trò thuở trước cũng không phải nhà vua trong hiện tại! Và kẻ phạm tội giết người năm ngoái không phải là người bị cáo ra tòa ngày nay! Bệ hạ làm sao buộc tội được người ấy?
    -- Bạch Ðại đức, không phải như thế. Nhưng có ai hỏi Ðại đức về khoản nầy thì Ðại đức giải đáp ra sao?
    -- Tâu Ðại vương, thân bần tăng lúc nhỏ với thân bần tăng bây giờ cũng là một thân mà thôi. Thân ấy từ nhỏ đến lớn, trải qua nhiều quảng đời khác nhau, nhưng vẫn được liên tục nuôi dưỡng bởi một sinh mạng.
    -- Xin cho thí dụ.
    -- Ví như một ngọn đèn thắp từ đầu hôm nó có thể cháy mãi cho tới sáng không?
    -- Có thể.
    -- Lửa ngọn đèn thắp lên từ đầu hôm với lửa ngọn đèn lúc nửa đêm và lửa ngọn đèn lúc gần sáng có phải là một không?
    -- Không.
    -- Trong ba khoảng thời gian khác nhau ấy, người ta có đốt ngọn đèn nào khác không?
    -- Vốn chỉ một ngọn đèn với một cái bấc và cùng một loại dầu từ đầu hôm cho đến tảng sáng.
    -- Trong con người cũng như thế đó, tâu Ðại vương. Pháp nầy đi thì pháp kia tới, trước sau tiếp nối nhau, không ngừng mà nuôi dưỡng tinh thần. Từ khi sinh ra cho đến lớn lên rồi già chết, nó lại thú hướng đến một kiếp sống khác, cứ thế triển chuyển tương tục hoài hoài. Cho nên nói rằng thân cũ sanh trở lại thì không đúng, nhưng nói lìa thân cũ ra mà có một thân mới khác cũng không được. Lại ví như sữa tươi mới vắt, để lâu thì thành sữa ôi, thành bơ... Nói sữa tươi là bơ thì hẳn không phải, nhưng nói bơ không do sữa tươi mà ra thì cũng sai. Cũng tương tợ như thế, con người sinh ra với tinh thần và sau khi sinh thì lớn, già, rồi chết. Chết rồi nó lại mang một thân mới mà sinh trở lại. Mất thân trước, nó liền thọ thân sau. Cho nên nói người đầu thai sinh trở lại và người đã chết là một thì không đúng, mà nói chúng tách lìa khỏi nhau cũng chẳng nhằm.
    -- Hay thay! Hay thay!
  6. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    9. Tự biết hết tái sanh
    Vua hỏi:
    -- Bạch Ðại đức, người không còn tái sanh nữa có thể tự mình xác tri việc đó được không?
    -- Tâu Ðại vương, có thể được.
    -- Bằng cách nào?
    -- Ai tự biết mình không còn ân ái, không còn tham dục, không có dụng tâm làm điều dữ, người đó tự biết chắc không còn tái sanh trên cõi đời nầy nữa.
    -- Xin cho ví dụ.
    -- Ví như người làm ruộng, đầu mùa lo cày bừa, gieo giống, cấy mạ thì đến cuối mùa thu hoạch nhiều lúa cất chứa trong vựa. Qua năm sau nếu người ấy không cày bừa, gieo giống và cấy mạ nữa, mà chỉ tiêu dùng số lúa còn dự trữ của năm trước, như vậy người ấy có thể tự biết rằng mình không gặt lúa nữa không?
    -- Biết chứ!
    -- Bằng cách nào?
    -- Không cày, không gieo, không cấy, tức nhiên không có lúa mà gặt.
    -- Bậc tu hành đắc đạo cũng giống như thế. Quên ân ái, xả khổ vui, không tham dục, tức như không cày, không gieo, không cấy. Ðương nhiên là sẽ không gặt quả tái sanh. Vì vậy, bậc đắc đạo biết chắc rằng đời sau mình không còn tái sanh trên thế gian nầy nữa.
  7. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    10. Trí và Minh.
    Vua hỏi:
    -- Bạch Ðại đức, người đắc đạo không còn tái sanh trong đời sau thì trí tuệ người ấy trong hiện tại có khác gì người thường không?
    -- Tâu Ðại vương, có khác chứ!
    -- Thế thì có sáng suốt (minh) không?
    -- Có chứ!
    -- Trí tuệ và sáng suốt giống và khác nhau chỗ nào?
    -- Ngang bằng như nhau.
    -- Người có trí tuệ và sáng suốt có biết hết vạn sự vạn vật không? hay là có điều còn không biết?
    -- Có điều biết mà cũng có điều không biết.
    -- Vì sao thế? Vậy những gì trí tuệ biết được và những gì nó không biết được?
    -- Những gì trước đã có học thì nay biết. Những gì trước chưa học thì nay không biết. Ðó là lẽ đương nhiên. Nhưng người có trí tuệ sở dĩ khác với người thường là chỉ ở các điểm sau đây: họ biết rõ người và muôn vật thảy đều quy không, không tự tại; biết rõ những ham muốn của con người gieo trồng đau khổ khiến nẩy sinh thêm nhiều đau khổ khác. Nói tóm lại là người có trí tuệ biết rõ mọi việc thành bại vô thường trên cõi đời nầy.
    -- Người có trí tuệ rồi thì bao nhiêu si ám, u mê trước kia đi đâu?
    -- Tự tiêu tan hết.
    -- Xin cho ví dụ.
    -- Ví như người cầm cây đèn đang cháy đi vào phòng tối, trọn phòng liền sáng, bóng tối tự nó tiêu tan không lưu dư dấu vết. Ấy người đắc đạo có trí tuệ cũng như vậy đó: Si ám, u mê tự dứt trừ.
    -- Rồi sau đó trí tuệ đi đâu?
    -- Nó lại cũng tự biến mất. Nhưng những gì mà nó tạo ra như sự hiểu biết về cuộc đời đau khổ, về bản ngã hư dối..., những cái ấy thì còn.
    -- Xin cho ví dụ.
    -- Ví như ban đêm thắp đèn lên để chép sách, sau khi đèn tắt, chữ trên trang giấy vẫn còn lưu lại dấu vết.
    -- Ðại đức bảo rằng trí tuệ sau khi thành tựu công việc lại tự biến đi, như thế là ra làm sao? Xin ví dụ cho nghe.
    -- Tâu Ðại vương, ví như để đề phòng một trận hỏa tai, người ta sắp sẵn năm chum đầy ấp nước. Kế đó, hỏa tai xảy ra nước trong năm chum được dùng để cứu lửa. Nước vào, lửa tắt. Tai qua, nạn khỏi, vĩnh viễn không còn sợ diễn lại nữa. Bãy giờ người ta có còn đem để năm chum nước ấy trở lại chỗ cũ nữa không?
    -- Hẳn là không, vì không còn ích lợi nữa.
    -- Cũng thế, người có trí tuệ dùng năm điều thiện để tiêu trừ các điều ác, giống như kẻ kia dùng năm chum nước để diệt trừ ngọn lửa. Năm điều thiện đó là: tín tâm, trì giới, tinh tấn, niệm thiện và nhứt tâm. Ai phụng hành được năm điều thiện ấy thì đắc đạo và có trí tuệ. Có trí tuệ thì biết rõ thân mình và muôn vật thảy đều vô thường, không tự tại, trống rỗng, không thật. Và cái trí tuệ sau khi thông đạt rồi thì tự nó lại tiêu biến, nhưng những gì mà nó đã thông đạt thì vẫn còn.
    -- Xin cho một ví dụ khác.
    -- Ví như ông thầy thuốc trị bệnh cho người ốm, dùng năm loại dược thảo mà bào chế rồi cho người ốm uống. Uống xong, người ốm lành bệnh. Sau đó ông thầy thuốc có còn đem năm thứ thuốc ấy mà tiếp tục cho người kia uống nữa không?
    -- Hẳn là không. Vì không còn ích lợi gì nữa.
    -- Năm loại dược thảo ví như năm điều thiện. Ông thầy thuốc ví như người tu hành đắc đạo. Căn bệnh ví như cắc điều ác. Người ốm ví như kẻ ngu si. Người ốm lành bệnh ví như kẻ được cứu ra khỏi sanh tử luân hồi. Sau khi thành tựu sứ mạng, trí tuệ của người đắc đạo tự tiêu biến, nhưng những gì nó tạo ra đều vẫn còn.
    -- Xin cho thêm một ví dụ nữa cho rõ nghĩa hơn.
    -- Ví như một tướng quân xuất trận tay cầm cung tên mà xông ra chống giặc. Tướng quân bắn ra năm mũi tên, giặc thua chạy. Vậy sau đó, ông ta có còn bắn thêm nữa không?
    -- Hẳn là không, vì không còn cần nữa.
    -- Năm điều thiện giống như năm mũi tên. Người tu hành đắc đạo giống như tướng quân xuất trận. Các điều ác giống như quân giặc. Tướng quân nhờ năm mũi tên mà chiến thắng quân giặc. Cũng thế, người tu hành dắc đạo nhờ năm điều thiện mà chiến thắng các điều ác, chúng không còn nẩy sanh trở lại nữa, mà cái trí tuệ diệt trừ các điều ác cũng tiêu biến luôn. Nhưng những gì nó tạo ra thì vẫn thường tại, bất diệt.
    -- Hay thay! Hay thay!
  8. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    11. Ðắc đạo rồi có còn đau khổ không?
    Vua hỏi:
    -- Bạch Ðại đức, bậc tu hành đắc đạo không còn tái sanh trong đời sau, nhưng trong đời nầy có còn thấy mình đau khổ nữa không?
    -- Tâu Ðại vương, tùy từng việc một. Có việc còn thấy đau khổ, có việc không.
    -- Có việc có, có việc không, là như thế nào?
    -- Ðau khổ của thân thì còn, đau khổ của tâm thì hết.
    -- Vì sao vậy?
    -- Sở dĩ thân còn đau khổ là vì nhân duyên sinh ra loại đau khổ nầy là thân, hễ nhân duyên ấy còn tồn tại thì đau khổ của thân còn. Sở dĩ tâm hết đau khổ là vì nhân duyên sinh ra loại đau khổ thứ hai là lòng tham dục, một khi tâm ý đã dứt trừ hết các điều dữ, tham dục không còn nữa, thì đau khổ của tâm hết.
    -- Bậc tu hành đã đắc đạo rồi mà không khiến thân lìa được khổ đau, như thế là chưa chứng đắc Niết Bàn chăng? Ðắc đạo rồi mà thân còn đau khổ thì làm sao gọi là đắc đạo? Còn nán ở lại trần thế làm gì để còn chịu khổ đau?
    -- Tâu Ðại vương, bậc đắc đạo không chuộng mà cũng không ghét, không tìm cầu mà cũng không xua đuổi. Bình thản mà sống giữa cõi đời nầy, không hấp tấp, không vội vả. Ví như chuối non không cần phải vú ép. Lại cũng không cần chờ chuối chín để chực hái. Vì vậy nên đức Xá Lợi Phất xưa có dạy rằng:
    Không cần tịch diệt,
    Cũng không cần trường sanh.
    Chưa phải lúc thì ở,
    Thời đến thì ra đi.
    Vua nói:
    -- Hay thay! Hay thay!
    (1) Theo bản Hán dịch đánh số 1670B trong Ðại Tạng đến đây thì hết quyển thượng.
  9. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    12. Vui khổ thiện và bất thiện
    Vua hỏi:
    -- Bạch Ðại đức, khi người ta cảm thấy vui thì cái ấy thiện hay bất thiện? Cũng như người ta cảm thấy khổ thì cái khổ ấy là bất thiện chăng?
    -- Tâu Ðại vương, lại cũng tùy trường hợp. Có khi là thiện, có khi là bất thiện, không chừng.
    -- Sao vậy? Ðã là thiện thì hẳn là không có cái khổ. Và ngược lại, trong khổ ắt không có cái thiện. Thiện và khổ, hai bên đâu có xứng hợp nhau.
    Na Tiên nạn lại rằng:
    -- Ví như có người bị đặt vào bàn tay mặt một hoàn sắt nung đỏ và vào bàn tay trái một cục băng đông cứng. Hoàn sắt nóng và cục băng lạnh ấy có cùng nung đốt kẻ kia không?
    -- Có, cả hai cùng nung đốt kẻ kia.
    -- Thế thì cả hai cùng nóng chăng? Hoặc cả hai cùng lạnh chăng?
    -- Thưa không.
    -- Một nóng, một lạnh khác nhau. Sao lại nói cả hai cùng nung đốt? Nếu bảo cái nóng nung đốt thì cả hai viên đâu có cùng nóng? Nếu bảo cái lạnh nung đốt thì cả hai viên đâu có cùng lạnh?
    -- Bạch Ðại đức, trí lự của trẫm nông cạn không theo kịp câu vấn nạn nầy. Mong Ðại đức dẫn giải cho trẫm lãnh hội cao kiến.
    Na Tiên dẫn lời Phật dạy mà giải đáp rằng:
    -- Có sáu sự vui mừng thô trược, sáu sự buồn lo thanh cao; lại có sáu sự không vui không buồn thô trược và sáu sự không vui không buồn thanh cao.
    Vua hỏi:
    -- Sáu sự vui buồn thô trược là những gì?
    -- Một là mắt nhìn sắc đẹp rồi móng lòng ham muốn. Hai là tai nghe tiếng hay rồi móng lòng ham muốn. Ba là ngửi mùi thơm rồi móng lòng ham muốn. Bốn là lưỡi nếm vị ngon rồi móng lòng ham muốn. Năm là thân chạm vật mịn rồi móng lòng ham muốn. Sáu là ý nhận những cảm thọ dễ chịu rồi móng lòng ham muốn. Như thế là sáu sự vui mừng thô trược.
    -- Sáu sự vui mừng thanh cao là những gì?
    -- Một là mắt thấy sắc đẹp, nghĩ rằng sắc ấy không bền, chẳng nên lưu luyến, rồi nhân đó tư duy lẽ thành bại đắc thất vô thường của vạn hữu khiến lòng thấy thanh thoát nhẹ nhàng. Hai là tai nghe tiếng hay, nghĩ rằng tiếng ấy không bền, chẳng nên lưu luyến, rồi nhân đó tư duy lẽ thành bại đắc thất vô thường của vạn hữu khiến lòng thấy thanh thoát nhẹ nhàng. Ba là mũi ngửi mùi thơm, nghĩ rằng mùi ấy không bền, chẳng nên lưu luyến, rồi nhân đó tư duy lẽ thành bại đắc thất vô thường của vạn hữu khiến lòng thấy thanh thoát nhẹ nhàng. Bốn là lưỡi nếm vị ngon, rồi nghĩ rằng vị ấy không bền, chẳng nên lưu luyến, rồi nhân đó tư duy lẽ thành bại đắc thất vô thường của vạn hữu khiến lòng thấy thanh thoát nhẹ nhàng. Năm là thân chạm vật mịn, nghĩ rằng vật mịn ấy không bền, chẳng nên lưu luyến, rồi nhân đó tư duy lẽ thành bại đắc thất vô thường của vạn hữu khiến lòng thấy thanh thoát nhẹ nhàng. Sáu là ý nhận những cảm thọ dễ chịu, nghĩ rằng những cảm thọ ấy không bền, chẳng nên lưu luyến, rồi nhân đó tư duy lẽ thành bại đắc thất vô thường của vạn hữu khiến lòng thanh thoát nhẹ nhàng. Như thế là sáu sự vui mừng thanh cao.
    -- Sáu sự buồn lo thô trược là những gì?
    -- Một là mắt thấy sắc xấu, không ưa mà vẫn phải nhìn. Hai là tai nghe tiếng ghê rợn, không thích mà vẫn không thể bịt tai. Ba là mũi ngửi mùi tanh hôi, không muốn mà mùi thối vẫn xông lên nồng nực. Bốn là lưỡi nếm vị cay đắng, không ưng mà miệng vẫn phải nhai nuốt. Năm là thân đụng vật nhám rích, không chịu mà xa tránh không được. Sáu là ý bị sầu khổ đoanh vây, muốn xua đuổi mà vẫn phải nhớ nghĩ hoài. Như thế là sáu sự buồn lo thô trược.
    -- Sáu sự buồn lo thanh cao là những gì?
    -- Mắt nhìn thấy sắc tàn tạ, không buồn vì cảnh tàn tạ ấy - vì đó là sự thành bại đắc thất đương nhiên giữa vạn hữu - nhưng buồn vì thấy chúng sinh đau khổ không ngộ được lẽ thành bại đắc thất kia nên không xả bỏ luyến tiếc trìu mến. Ðó là một sự buồn lo thanh cao. Ðối với những gì tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân chạm và ý nghĩ, cũng đều có một tâm trạng như thế. Như vậy là sáu sự buồn lo thanh cao.
    -- Còn sáu sự không vui không buồn thô trược?
    -- Là khi mắt thấy hình sắc, tai nghe âm thanh v.v., căn trần tiếp xúc nhau mà lòng ngây dại dửng dưng như vật vô tri vô giác.
    -- Thế còn sáu sự không vui không buồn thanh cao là như thế nào?
    -- Là mắt nhìn thấy sắc, tai nghe âm thanh v.v., bình thản mà thọ nhận, cảnh vui không đủ sức khiến phải say mê, cảnh buồn không đủ sức khiến phải rầu rĩ. Nếu có thọ nhận cảnh gì đi nữa là chỉ vì chúng sanh mà thọ nhận (1).
    -- Hay thay! Hay thay!
    (1) 36 Cảm thọ nầy, tạng Luận đem phối hợp với 3 đời chia thành 108 loại cảm thọ.
  10. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    13. Danh thân tái sanh
    Vua hỏi:
    -- Bạch Ðại đức, con người sau khi chết rồi, cái gì sanh trở lại?
    -- Tâu Ðại vương, đó là Danh (tên gọi) và Thân (hay Sắc, tức là đất, nước, lửa, gió).
    -- Phải chăng dó là danh và thân của người cũ sanh trở lại?
    -- Thưa không phải danh cũ cũng không phải thân cũ. Cái danh thân của đời nầy làm các việc thiện ác, do nghiệp thiện ác ấy, một danh thân khác chuyển sanh để thọ lãnh phước báo hay tội báo dã gây ra.
    -- Như vậy là không phải cái danh thân cũ sanh trở lại. Thế thì đời nầy làm điều ác, đời sau đâu có chịu quả báo? Và không sanh trở lại nữa thì tức là đã thoát khỏi luân hồi!
    -- Không phải như vậy. Nếu sống ở đời mà chỉ toàn làm điều thiện thì sau khi chết có thể không sanh trở lại. Nhưng thường thường thì làm điều thiện cũng có mà gây điều ác cũng nhiều, việc lành việc dữ tiếp nối xen nhau không ngừng, cho nên phải sanh trở lại mà thọ báo. Làm sao thoát khỏi luân hồi được.
    -- Xin cho thí dụ về sự liên hệ giữa danh thân cũ với danh thân mới.
    -- Ví như người hái trộm xoài của kẻ khác. Chủ vườn xoài bắt được quả tang đem đến đầu cáo với Ðại vương, yều cầu Ðại vương xử trị. Trước mặt Ðại vương bị cáo cãi rằng: "Tôi không hái xoài của anh ấy. Cây xoài của anh ấy trồng hồi trước là cây mầm tí xíu. Còn những trái xoài mà tôi hái bây giờ nằm trên một cành cây to lớn sum sê. Tôi đâu có ăn trộm!". Trước những lý lẽ viện ra như thế, Ðại vương có cho rằng anh ta vô tội và xử cho anh ta được kiện không?
    -- Không, anh ta có tội. Trẩm sẽ xử cho người trồng xoài được kiện. Vì trước kia nhờ người nầy ra công trồng trọt bón xới cây mầm, cho nên ngày nay mới có cây xoài to lớn đơm hoa kết trái.
    -- Tâu Ðại vương, con người tái sanh trở lại cũng giống như thế. Với cái danh thân nầy, người ta sống trên đời mà làm các việc thiện ác. Nghiệp thiện ác ấy nối tiếp không ngừng, triển chuyển hình thành một danh thân mới sẽ sanh ra. Cũng như do công phu đào lỗ bỏ hột và vun bón cây mầm nên về sau mới có cây xoài sum sê cành lá với trái chín trĩu cây. Làm việc thiện ác trong đời nầy tức là gieo hột xuống đất và bón xới cây mầm. Ðời sau không sao không thọ báo được!
    -- Xin cho ví dụ khác.
    -- Ví như có người gặt trộm lúa của kẻ khác. Bị bắt, anh ta cãi rằng lúa anh ta gặt hiện nay so với cây mạ kẻ kia trồng mấy tháng trước, không liên quan gì nhau. Như vậy đâu có được!
    -- Xin cho ví dụ khác.
    -- Ví như có người mùa đông ra đồng không chịu nổi lạnh, đốt lửa lên sưởi. Xong việc y bỏ ra về, quên dập tắt lửa. Gặp gió, lửa cháy lan qua cánh đồng kế cận, thiêu đốt hết mùa màng. Bị đầu cáo lên Ðại vương, y khăng khăng cãi rằng tí xíu lửa nhỏ y đốt lên để sưởi không phải ngọn lửa lớn đốt cháy cả cánh đồng kia. Như vậy Ðại vương xử ai thua kiện?
    -- Người đốt lửa để sưởi.
    -- Vì sao vậy?
    -- Vì nguồn gốc tai họa chính là y. Y có đốt lửa để sưởi rồi quên tắt, thì mới có hỏa hoạn sanh ra.
    -- Danh thân cũ với danh thân mới cũng như vậy đó.
    -- Xin cho ví dụ khác.
    -- Ví như có người trời tối cầm đuốc lên lầu ăn cơm. Vô ý y để tàn lửa bay ra cháy nóc nhà mình. Lửa lan sang nhà kế cận, cuối cùng thiêu rụi cả làng. Dân làng bắt tội y. Y cãi rằng: "Tôi không đốt làng, tôi chỉ đốt đuốc ăn cơm mà thôi. Ngọn lửa đuốc của tôi đốt lên để ăn cơm khác với ngọn lửa của cơn hỏa hoạn thiêu đốt cả làng". Cãi nhau chán chê, họ đưa nhau đến trước Ðại vương, yêu cầu xét xử. Vậy Ðại vương sẽ xử ai được ai thua?
    -- Dân làng được, người kia thua.
    -- Vì sao vậy?
    -- Vì nguồn gốc tai họa chính do y gây. Y có đốt đuốc lên ăn cơm mà không cẩn thận, thì mới có đại hỏa hoạn sanh ra. Lửa cháy làng bắt gốc từ ngọn đuốc của y.
    -- Danh thân cũ với danh thân mới cũng lại như vậy.
    -- Xin cho ví dụ khác.
    -- Ví như có người đàn ông nọ đã nạp đủ lễ để xin cưới một cô bé (1). Bất đồ sau đó, anh ta ra đi rồi biệt tích luôn. Khi cô nầy đến tuổi trưởng thành, có một người đàn ông khác xin cưới và cũng nạp đủ lễ. Thình lình người đàn ông trước trở về, quở trách người đàn ông sau sao dám lấy vợ mình. Người sau cãi lại: "Tôi đâu có cưới vợ anh. Cô bé mà anh trả lễ trước kia là khác. Còn thiếu nữ mà tôi trả lễ xin cưới ngày nay là khác". Không ai chịu ai, họ dẫn nhau đến xin Ðại vương phân xử. Vậy Ðại vương sẽ xử ai được kiện?
    -- Người đàn ông trước.
    -- Vì sao vậy?
    -- Vì cô bé thuở trước và thiếu nữ ngày nay cũng chỉ là một. Thân thiếu nữ ngày nay là do thân cô bé thuở trước mà ra. Ai cưới trước, người ấy được.
    -- Danh thân cũ với danh thân mới cũng như vậy đó.
    -- Xin cho ví dụ nữa.
    -- Ví như có người đến chủ nuôi bò, hỏi mua một bình sữa. Mua xong, người ấy gửi bình sữa lại, hẹn sau khi ra chợ về, sẽ ghé lại lấy. Bất đồ trở việc không về kịp. Hôm sau mới tới hỏi lấy sữa thì sữa đã ôi. Anh ta cự nự đòi lấy sữa mới, viện lẽ rằng anh ta không mua sữa ôi. Cãi vả nhau không ai chịu ai, họ dắt nhau kiện đến Ðại vương. Vậy Ðại vương sẽ xử ai được kiện.
    -- Chủ nuôi bò.
    -- Vì sao vậy?
    -- Sữa trong bình chính là sữa người kia đã mua hôm trước. Vì để cách đêm cho nên nó mới trở nên ôi. Chủ nuôi bò vô can.
    -- Tâu Ðại vương, người tái sanh trở lại cũng như vậy đó. Nương nơi danh thân, người ta sống ở đời mà làm các việc thiện ác. Nghiệp thiện ác ấy tiếp nối không ngừng, chiêu cảm một danh thân mới sau khi chết, để thọ quả khổ vui hết đời nầy sang đời khác. Nghiệp thiện ác chính là nguồn gốc của sự tái sanh vậy. Cho nên ai bảo rằng đời nầy làm ác mà đời sau không tái sanh để đền trả là không thể được.
    (1) Ấn Ðộ xưa có tục tảo hôn. Con gái khi mới sanh ra đã gã chồng, nhưng đợi đến khi trưởng thành mới thành hôn.

Chia sẻ trang này