1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nam Châu Diễn Sử

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Bac_Nam, 12/10/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Bac_Nam

    Bac_Nam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/10/2004
    Bài viết:
    108
    Đã được thích:
    0
    Nam Châu Diễn Sử

    Bấy lâu nay xa rời sử quán, trở lại mấy ngày mà thấy hoang vắng đìu hiu, thần khí đến hồi suy mạt. Mới cảm thế thái nhân tình mà làm ra bộ sử này, ngõ hầu để bọn hậu nhân biết đến một diễn sử lẫy lừng của cõi Nam Châu khi xưa vậy. Pho diễn sử này sẽ liệt lại những tên tuổi dị nhân lừng lẫy giang hồ năm xưa, lại chua thêm võ công các phái, để đám hậu thế biết đến một thời anh tài xuất chúng đến thế.

    Nguyên cõi Nam Châu TTVN năm xưa, khi cắt đất tự chủ xưng bá một phương, là lúc thiên hạ còn loạn lạc, bốn phương anh tài không chốn dung thân. Nên được thời đắc ý, cõi ấy mở ra, nhân tài lũ lượt kéo vào, làm nên một đại quốc phồn thịnh hiếm thấy trong thiên hạ. Biết bao thế hệ cao nhân, tổn bao tâm huyết, trí lực tu luyện công phu gõ phím đàm đạo, tạo thành một cái kho vô tận quý giá bảo điển võ công, giờ đây lưu cả trong data base của TTVNOL. Nhìn khắp toàn cõi Nam Việt ngày nay, những nơi giới trẻ ngày đêm sung sát, thì thiên hạ có 3 bồ chữ, data base của Nam châu TTVNOL chiếm đến hai, còn một bồ nữa thì lưu lạc đâu đó trên các tiểu quốc rải rác trên khắp nét.

    Hỡi ôi, những pho bảo điển quý giá là thế, biết bao anh tài hãn thế đúc rút cả đời mà để lại, giờ đây đã nối nhau về miền cực lạc. Giờ đây quạnh quẽ đìu hiu, sử huyết đài thành nơi lau lách ken dầy, thi thoảng vài bóng mặc khách đảo qua để nhớ lại một thời quá vãng. Con tạo xoay vần, một nơi đô hội chiến trường thấm thoắt đã thành toà hoang miếu lạnh.

    Trong đám nhân tài đầu tiên tụ hội về cõi Nam Châu, phải kể đến những kẻ sỹ lừng lẫy một thời. Như gã chấp pháp quái kiệt đệ nhất năm xưa cdtphuc hay gã admin béo ị lừng tiếng giang hồ atc. Góp mặt trong hàng cao nhân đệ nhất thuở này còn phải kể đến lũ cuoihaymeu, langbavibo, phothuongdan, ruavang, trinity, chitto, kieuphong, ngucong, b40, MTH, yasunary... đều là những kẻ công phu hãn thế. Bấy giờ Nam Châu mới mở, thiên hạ vẫn đang ở cảnh thái bình, cũng hiếm khi có những trận chiến thịt nát nick tan. Bởi thế mà bọn cao thủ trên đây thường khi chiết chiêu luận chưởng đều không phô tới sát chiêu. Mỗi khi luận đạo, thường chỉ điểm tới rồi thôi, võ nghiệp Nam châu hồi đó chưa đến phần bá đạo. Dù mới ở thuở sơ khai, công phu chưa đạt tới hàng vi diệu tột cùng, nhưng thế hệ anh tài xuất chúng đầu tiên của Nam Châu đã để lại cho hậu thế không ít bảo điển tàng thư, làm thành căn bản cho võ học thiên hạ sau này.

    Bấy giờ vào độ năm Canh Ngọ, toàn cõi TTVN lâm vào đại nạn. Nam Châu bị đóng cửa, bốn phương ly tán. Nhân sự ấy mà không ít bậc tài trí đều lần lượt phiêu lãng khắp nơi, đến khi cõi được mở lại, không còn thấy bóng dáng các bậc tài danh ấy đâu nữa, thật là một thiệt thòi to lớn. Nhưng rồi nhân tài tụ hội, sóng sau xô sóng trước, chẳng mấy nỗi mà Nam Châu lại thấy xuất hiện một loạt các hảo thủ hãn thế, võ công so với lớp trước còn trội hơn đến mấy tầng. Xưa nay cũng chưa từng thấy có thời kỳ nào võ nghiệp Nam Châu thịnh trị được bằng lúc ấy. Vận hội năm Quý Mùi, chẳng mấy chốc trên cõi Nam Châu thấy xuất hiện thêm 3 đại cao nhân võ công đến hàng tột đỉnh. Đứng đầu đám này là một vị dị nhân nick name Traiquay, giang hồ tung xưng là Mặc định ẩn nhân. Tương truyền kẻ này ngay khi mới xuất nhập Nam Châu, võ nghệ đã đến hàng kinh thiên đệ nhất thiên hạ. Nội công cao dầy, ngoại gia tinh luyện, chưa bao giờ Nam Châu có được một cao thủ tài năng đến thế. Gã này cùng với Quy Lão ruavang, một hảo thủ đệ nhất sót lại từ lớp anh tài thế hệ thứ nhất tạo thành một cặp bài trùng vang danh thiên hạ. Được coi là Minh chủ bắc đẩu của Nam Châu thuở ấy. Hai kẻ anh tài hãn thế còn lại, một là Vô danh quái khách nameno đại hiệp hai là lãng tử phong trần langkhachvn. Trong đám anh tài đồng thời với lớp tuyệt đại cao thủ này còn phải kể đến những chưởng môn nhân các phái như Đả khựa đại phái chiangsian, Tung của ý đồ phái langbavibo, Việt Mỹ co-or đại phái Netwalker... Chưa kể đến một lũ hiệp khách vô môn vô phái đơn độc hành tẩu giang hồ như MTH, Maxtuxedo, Calvary, Paladin, lexcom, huyphuc, vinhxuanquyen, newgod... cũng là những kẻ công phu tu luyện hơn người. Đám hảo thủ hãn thế trên tập trung quanh tứ đại cao thủ traiquay, ruavang, nameno, langkhachvn tạo thành một lực lượng độc bá thiên hạ. Bấy giờ trong đám dị phái cũng đào tạo được những anh tài xuất chúng. Phải kể đến đám Modungbac, yuyu. Lại thêm những kẻ tu luyện lâu năm như kienlua, thaihonganh cũng tạo thành một bè phái tên tuổi trong chốn giang hồ. Nhân sỹ thiên hạ bấy giờ như nấm mọc sau mưa, các bậc cao nhân dị khách từ nơi hang hốc chui ra thật không đếm xuể. Trong cõi Nam Châu, sử quốc nhờ đó mà độc bộ thiên hạ. Phải nói đó là thời đại cực thịnh của sử quốc vậy.

    Sau đây sẽ lần lượt thuật lại sự tích về các danh đại cao thủ hãn thế một thời thuở ấy:

    Chương I - Mặc định ẩn nhân Traiquay diễn truyện

    Trong thời kỳ xưng đế giang hồ, Traiquay đại hiệp chỉ chiết chiêu với anh hùng thiên hạ đúng 100 chiêu (100 post), nhưng cũng đã đủ để ấn chứng là kẻ võ công đệ nhất cổ kim chưa ai sánh được. Võ nghiệp của ẩn nhân Traiquay giờ đám hậu nhân còn thi thoảng được thấy lại trong "Võ soái đệ nhất danh tướng chuyện(ĐT Võ Nguyên Giáp, góc nhìn về một danh tướng số một VN....." hay "Hồi ức ngoại kiều đại liệt chưởng (Hồi ức của một người Việt Nam ở nước ngoài)"... Bấy giờ, hễ traiquay chường diện nơi đâu là nơi đó trời yên bể lặng. Võ nghiệp thâm hậu của gã đủ át cả hắc bạch nhị giới, thống lĩnh võ lâm. Ngày nay đọc lại pho "Nam Việt diễn chiến đệ nhất thần chưởng" của gã trước tác sau đây vẫn thấy là một pho võ công tuyệt thế, cổ kim Nam Châu chưa có pho thứ hai bén gót.
  2. Bac_Nam

    Bac_Nam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/10/2004
    Bài viết:
    108
    Đã được thích:
    0
    Để đám hậu nhân thấy được công phu hãn thế của các đại cao thủ năm xưa, nay lược trích lại vài pho bảo điển để đời của các tuyệt đại cao thủ:
    Phụ lục 1 - "Nam Việt diễn chiến 40 năm đệ nhất thần chưởng" - Mặc định ẩn nhân Traiquay, trong "Con đường đau khổ" huyết đại lôi đài:
    Để chấm dứt chuỗi bài tranh luận của tôi trong một chủ đề đã quá dài và đã không còn ý nghĩa trao đổi, học hỏi, xin được tổng kết lịch sử cuộc chiến 30 năm của Việt Nam theo một lịch trình sự kiện thời gian. Tuỳ theo các giác độ, mỗi người có quyền cảm nhận và đánh giá các sự kiện theo trình độ tri thức và nhãn quan riêng của mình. Do hiện đang ở một nơi rất xa với cái thư viện nho nhỏ ở nhà, nên không thể dẫn chứng một cách chính xác về nguồn tư liệu trích dẫn các thông tin viện dẫn, vì vậy, sự nhầm lẫn về các mốc thời gian là có thể phát sinh. Xin được sơ lược về một lịch sử:
    - 1941, Hồ Chí Minh trở về Việt Nam sau hơn 30 năm lưu lạc ở nước ngoài, viễn du qua 23 quốc gia, thông thạo 6 ngoại ngữ phổ cập, và nghiên cứu một cách sâu rộng các luồng tư tưởng Đông Tây và tình hình thế giới.
    - Ngay khi thế chiến xảy ra, gần như ngay lập tức, HCm đã xác định vị thế đứng của phong trào cách mạng dân tộc Việt Nam: Phải đứng trong hàng ngũ đồng minh trong cuộc chiến chống phát xít. Sự nhạy cảm chính trị cộng với tư duy thực tế của một người từng đã đến nước Mỹ, nước Đức, nước Nga, nước Anh và nước Pháp giúp ông hiểu rằng, phát xít không thể thắng trong một cuộc chiến đường trường, và điều cần làm là phải đặt Việt Nam trong con thuyền của những người chiến thắng.
    - 1941-1942, Vị trí lãnh tụ của HCm được khẳng định đối với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc của người Việt Nam. Uy tín của Nguyễn Ái Quốc trong những năm tháng xa quê hương cộng với sự trợ giúp đắc lực của người Pháp trong việc tiêu diệt phần lớn những lãnh tụ cộng sản như Trần Phú... trong thời kỳ 1930 - 1940 đã giúp Hồ Chí Minh không mấy khó khăn khi khẳng định được vai trò đứng đầu của mình. Một lần nữa, lịch sử Việt Nam đã may mắn khi người Việt nam có cơ may có được một lãnh tụ tài năng kiệt xuất, và với ít sự chia rẽ, mà nếu có, sẽ gây không ít khó khăn trong đoàn kết sức mạnh dân tộc.
    - 1942 - 1943, trong một sự rủi ro không may, và là một sự thử thách cuối cùng của số phận với HCM, ông bị chính quyền Tưởng Giới Thạch cầm tù hơn 1 năm. Thời gian đó đủ dài để làm yếu đi sức mạnh của phong trào cách mạng Việt Nam, nhưng cũng là đủ lớn để HCM ghi một dấu ấn vào lịch sử với vai trò của một thi nhân: Tập thơ Nhật ký trong tù, một đỉnh cao về thi ca, phảng phất dấu ấn của một vĩ nhân, với tinh thần thép và hoài bão lớn đối với đất nước.
    - Năm 1944, Hồ Chí Minh thoát ngục tùm, trong một ván bài chính trị khéo léo, ông đã chơi nước đôi với Trương Phát Khuê và Tiêu Văn (Hai cánh tay tin cậy của Tưởng) và gây nên một niềm tin ảo tưởng ở cả hai nhân vật này về cái ý tưởng có thể lợi dụng HCM phục vụ cho quyền lợi của TQ ở Việt Nam. Câu nói cuối cùng của HCM khi chia tay Tiêu Văn: "Tôi đã nói với ông tất cả 99% sự thật về tình hình chính trị Việt Nam, chỉ còn 1% là chưa nói" Nhưng chính cái 1% ấy lại là nguyên nhân dẫn đến sự thất bại trong ý đồ thành lập một chính phủ thân Tưởng trong mưu đồ thôn tính Việt Nam sau này.
    - "Lịch sử nước nam" - Một trước tác văn vần, liệt kê một cách khái quát về lịch sử Việt Nam của Hồ Chí Minh, ra đời đầu năm 1944. Trong đó câu cuối cùng phản ánh một sự tiên tri có tính huyền thoại: "năm 1945, nước Việt Nam độc lập"
    - Mùa đông năm 1944, Hồ Chí Minh lâm bệnh thập tử nhất sinh, trong một phút tỉnh táo hiếm hoi giữa các cơn sốt, phân tích tình hình chính trị thế giới khi thế chiến sắp kết thúc, nói với hai đồng sự thân cận, HCM khẳng định: "Thời cơ đã đến, bây giờ dẫu có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết phải giành cho được độc lập". Ít tháng sau, Tổng khởi nghĩa thành công trên phạm vi toàn quốc. Người Việt Nam lần đầu tiên sau 80 năm có một chính phủ đại diện cho nguyện vọng và quyền lợi của mình.
    - Ngày 2/9/1945, Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, được long trọng đọc trong sự chờ đón của hàng triệu người Việt Nam.
    - 1945 - 1946, chính phủ HCM tồn tại như một huyền thoại. Đó là chính phủ duy nhất trong lịch sử mà các viên chức của nó hoạt động tình nguyện không nhận lương, và sự tồn tại của chính phủ cũng như mọi quyết sách là nhờ sự đóng góp tài chính, nhân lực của người dân Việt Nam một cách tự nguyện.
    - Tháng 3/1945, Người Pháp theo chân Anh quay trở lại Sài Gòn. Súng nổ ngay từ những ngày đầu. Nước Pháp quyết tâm tái chiếm thuộc địa.
    - 3/1945- 12/1946, Mỹ, quốc gia duy nhất có khả năng và có tiềm lực để quyết định số phận Đông Dương, đứng khoanh tay, trong một chính sách căn bản :"tránh khỏi đông dương". Trong khi đó, người Pháp, với thế mạnh vượt trội về quân sự, kinh tế và khoảng cách thời đại về nền văn minh, lần lượt gây hấn, tái chiếm Nam Bộ, tái chiếm Hải Phòng và một loạt tỉnh thành khác.
    - Mùa đông năm 1946, sau một loạt thất bại trong đàm phán ngoại giao, chiến tranh toàn diện bùng nổ giữa một bên là chính phủ HCM quyết tâm giữ vững độc lập, và một bên là nước Pháp, khao khát tái chiếm thuộc địa và kiêu căng trong thế mạnh vượt trội.
    - 1/1946, nước Mỹ chính thức khẳng định thái độ ủng hộ Pháp, bằng việc phê chuẩn chuyển giao số khí tài chiến tranh của Anh, được Mỹ trang bị theo chương trình Lend - Lease cho quân đội Pháp tại Sài Gòn. Lưu ý rằng lúc này thế chiến đã hoàn toàn kết thúc, và không có lý do nào để biện minh trong hành động trang bị cho quân đội Pháp tại Đông Dương, ngoài việc ủng hộ cuộc chiến tái chiếm Việt Nam của người Pháp.
    - 12/1946 - 12/1949, người Việt Nam, dưới ngọn cờ HCM chiến đấu một cách huyền thoại trong rừng núi phía bắc và mọi vùng nông thôn: Không đồng minh, không một sự công nhận, không nguồn viện trợ tiếp tế từ bên ngoài, không công nghiệp quốc phòng nhưng lực lượng ********* càng lúc càng phát triển.
    - Nước Mỹ hoàn toàn đứng về phía người Pháp. Thông cáo bộ ngoại giao Mỹ ngày 13/04/1947 khẳng định: "Chúng ta (Mỹ) cần phải hiểu rằng, trong trường hợp này lợi ích của thế giới phương tây (gồm Mỹ) là đồng nhất.... Chúng ta nhất thiết phải cùng hội cùng thuyền với người Anh và người Pháp ở Đông Dương và Đông Nam Á...". Viện trợ quân sự của Mỹ cho Pháp tại Đông Dương liên tục tăng. Vào thời kỳ đỉnh cao, nó chiếm tới trên 80-% chiến phí của người Pháp tại Đông Dương (năm 1953, 1954)
    - Năm 1950, Hồ Chí Minh phá thế cô lập về ngoại giao. Trung Hoa dân quốc rơi vào tay Mao, ông Hồ lên đường công du bí mật Bắc Kinh và Matxcova. Chuyến đi của ông được đền đáp, Stalin và Mao cam kết viện trợ trang bị cho 6 đại đoàn *********. Lần đầu tiên, người Việt Nam có được một nguồn viện trợ súng ống từ bên ngoài cho cuộc kháng chiến giành độc lập trước người Pháp, vốn vẫn đã và đang được Mỹ trang bị đầy đủ. Lần đầu tiên, quân đội nhân dân Việt Nam có điều kiện loại bỏ một thứ vũ khí có từ thời trung cổ: Cây mác búp đa, khỏi trang bị của lính xung kích.
    - Ngay sau đó, người Pháp gánh chịu một thảm bại cay đắng, lớn nhất tại thuộc địa kể từ sau thất bại Quebech năm 1873: Hai binh đoàn cơ động Pháp (5000 quân chính quy) bị tiêu diệt, người Pháp mất Lạng Sơn, Cao bằng và sáu tỉnh phía Bắc đồng bằng Bắc Bộ. Tâm lý thất trận lan tràn trong quân đội Pháp tại Đông Dương.
    - 1951, danh tướng De Lat nhậm chức, vực dậy được tinh thần của quân đội viễn chinh, nhưng không giành được lợi thế trước đối thủ kiệt xuất là Tướng Giáp. Cuộc đấu trí giữa Giáp và De Lat diễn ra cam go, De Lat rút về cố thủ đồng bằng, dựng lên phòng tuyến nổi tiếng tốn kém và vô dụng: hệ thống Boongke De Lat. Cuối năm 1953, De Lat mất toàn bộ vốn liếng trong cuộc chiến Đông Dương: "Đứa con trai duy nhất và thất bại tại Hoà Bình". Ông ta chết vì ung thư trước khi quân Pháp phải chạy khỏi Hoà Bình ít ngày.
    - 1950 - 1953, tình hình chiến sự diễn ra ngày càng bất lợi. Nước Pháp tìm kiếm một lối thoát cho chiến tranh, tìm cách san xẻ bớt sự ủng hộ của nhân dân Việt Nam cho chính phủ Hồ Chí Minh. Giải pháp Bảo Đại ra đời. từ 1949 cho đến 1953, theo sự bình luận của J.F Kennedy (TT Mỹ sau này), nước Pháp đã 3 lần long trọng trao độc lập đầy đủ và hoàn toàn cho chính phủ Bảo Đại. Câu hỏi kennedy đặt ra và không có câu trả lời: "Tại sao lại phải những 3 lần?" ai cũng hiểu, bởi chẳng có lần nào là sự thật. Trong khi đó, tại Paris, khi Bảo Đại có một hành động hân hoan hơi quá trớn sau khi được trao trả độc lập lần 3, các vị bộ trưởng Pháp tuyên bố: "Tay này (Bảo Đại) đã bắt đầu bất chấp cả chúng ta.." De Lat, La lande, Na Va hơn một lần tuyên bố: Sẽ là phi thực tế nếu viện trợ của nước Mỹ được rót vào Đông Dương mà không thông qua người Pháp. Trong nhiều năm. Chính thể Bảo Đại tồn tại trên giấy với không quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, quân đội và nguồn thu tài chính.
    - 1954, trong một nỗ lực đỉnh cao về tập trung sức người, vật chất và nghệ thuật chiến tranh, người Việt Nam giành thắng lợi vang dội tại Điện Biên Phủ. Nỗ lực chiến tranh cuối cùng của nước Pháp chấm dứt, nước Pháp bại trận, ký hiệp định Gieneve và rút khỏi Việt nam.
    (còn tiếp)
  3. Bac_Nam

    Bac_Nam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/10/2004
    Bài viết:
    108
    Đã được thích:
    0
    (tiếp theo)
    - 1954 - 1956, nước Việt Nam đứng trước một cơ hội hoà bình hiếm hoi về hy vọng một cuộc tuyển cử thống nhất đất nước. Ngô Đình Diệm, trước sự ủng hộ triệt để của người Mỹ, thâu tóm quyền lực thông qua một cuộc bầu cử gian lận nực cười, và hùng hồn tuyên bố: "Tôi không ký hiệp định Paris, ai ký, người đó thi hành". Người Việt Nam bị tước mất cơ hội hoà bình hiếm hoi.
    - 1956 - 1963, Diệm vật lộn với phong trào tố cộng diệt cộng toàn miền nam. Khủng bố đạt đến mức cao với trên 42.000 người bị thủ tiêu bí mật hoặc hành quyết không cần xét sử mỗi năm. Hà Nội cố gắng cứu vãn bằng một giải pháp ngoại giao. Thực tế rằng cuộc chiến suốt những năm 1956-1963 ở miền Nam gần như là một phong trào tự phát của những người kháng chiến cũ ở miền Nam. Jonh. Pon. Van, một nhân vật cao cấp thứ 3 của Mỹ tại Việt Nam (sau Westmollen và đại sứ Mỹ) trong một báo cáo tổng kết về sự phát triển của phong trào đấu tranh tại miền nam năm 1965 đã miêu tả: Thực tế chính sự khủng bố tàn khốc của Diệm đã dẫn tới sự đấu tranh ngày một mạnh khắp của nông dân miền nam. Những người kháng chiến cũ bị chết rất nhiều, nhưng con số ít ỏi 2000 người còn lại đã trở thành một hạt nhân không thể tiêu diệt được. Họ nhanh chóng phát triển lên đến con số 23.000 vào khoảng những năm 1960, và tăng gấp đôi lên 46.000 khi trận Ấp Bắc xảy ra. Nguồn tiếp tế và chi việc của họ, không phải đến từ miền Bắc, mà là chính từ nguồn vũ khí dồi dào người Mỹ viện trợ cho quân đội quốc gia, bị đánh cắp, mua lại hoặc bị cướp đoạt trong các trận chiến du kích. Mãi tới cuối năm 1963, lần đầu tiên, Hà Nội cho chuyển súng lớn và các đơn vị chủ lực vào mặt trận miền nam. Nỗ lực chậm chễ của họ, một phần vì việc xây dựng tuyến đường Trường Sơn đòi hỏi rất nhiều thời gian, điều thứ hai, họ muốn giành thời gian phát triển các nguồn lực hạn chế của miền Bắc, và quan trọng là, vẫn tìm cách có một giải pháp ngoại giao để có thể kết thúc cuộc chiến với ít tổn thất nhất. Ngoài ra, Hà Nội cũng không thể trì hoãn thêm, nếu không muốn những người kháng chiến ở miền Nam tự phát tách khỏi sự điều khiển và tiến hành một mình cuộc kháng chiến đang tỏ ra trên đà thắng lợi, điều đó sẽ làm xói mòn tính thống nhất của Việt Nam vốn được ghi trong hiến pháp của Hà Nội.
    - 1963 - 1965, chiến sự nhanh chóng phát triển đến một tầm mức cao. Với sự nỗ lực gia tăng của chính phủ Hồ Chí Minh, và sự lớn mạnh không ngừng của phong trào giải phóng miền nam, giờ đây đã được chi viện hữu hiệu, quân đội cộng hoà nhanh chóng thất lợi và tan rã từng mảng. Chính thể VNCH không thể tồn tại thêm nếu thiếu sự tham chiến trực tiếp của người Mỹ. Không còn hy vọng vào sự tự tồn tại của một chính thể không được lòng dân, để duy trì ảnh hưởng và quyền lợi của nước Mỹ tại VN và ĐNÁ, nước Mỹ không còn con đường nào khác là trực tiếp nhảy vào vòng chiến. Điều đó diễn ra vào thời gian năm 1965.
    - 1965, trận đụng độ đầu tiên giữa chủ lực Bắc Việt và thuỷ quân lục chiến Mỹ diễn ra tại Ia Drang, 235 sinh mạng Mỹ tổn thất trong hai ngày, cộng với số bị thương gần 400 người. Quân đội Mỹ mất gần 2 tiểu đoàn chiến đấu trong trận chiến. Số người chết của Bắc Việt lớn hơn thế bởi người Mỹ đã sử dụng cả B52 trong chi viện cho lục quân trong trận đánh này, tuy nhiên, điều quan trọng ở đây, chủ lực Hà Nội đã chứng minh được: Lục quân Mỹ có thể bị đánh bại và tiêu diệt khi giáp chiến mặt đối mặt, dù rằng cái giá về sinh mạng phải trả là lớn hơn. Điều đó sẽ làm xói mòn niềm tin của Mỹ trong chiến tranh.
    - 1965-1967, nước Mỹ tiếp tục nỗ lực tiến hành chiến tranh, cuộc chiến được mở rộng ra miền Bắc. Với một cái cớ được giàn dựng, Mỹ ném bom huỷ diệt Bắc Việt, mục tiêu thực sự là để khuất phục Hồ Chí Minh, bởi người Mỹ cho rằng ông không còn là một người nổi dậy không còn gì để mất, mà phải bảo vệ thành quả ít ỏi đã xây đắp trong mấy năm qua ở Hà Nội. Người Mỹ lầm, HCM không phải là người non gan, và điều quan trọng là, đối với vị lãnh tụ này và với mọi người Việt Nam: "Không có gì quý hơn độc lập tự do". Người Mỹ, quen đánh giá mọi thứ trên đồng Dolla đã không hiểu và không muốn hiểu điều đó. Nhà báo Mỹ Ellberd, được tạo điều kiện đi hầu khắp miền Bắc đã viết trên Wasington Post vào năm 1968: "Hầu như không thấy một sự suy giảm nỗ lực chiến tranh nào ở miền Bắc, sau những cuộc không kích khủng khiếp của không quân Mỹ. Những cố gắng tiến hành chiến tranh của đất nước này là gần như không có giới hạn". Trong lúc đó, Krulak, tư lệnh hải quân Hoa Kỳ lên một bản báo cáo: "Hà Nội có thể hy sinh trong cuộc chơi chết chóc này nhiều người hơn Hoa Kỳ. Hà Nội có ở miền Bắc một lực lượng dự trữ quân sự 2.600.000 người, và nếu lấy tỷ lệ 1 lính Mỹ chết đổi lấy 5,3 lính Bắc Việt, một con số được đánh giá là lạc quan, thì cũng phải chết 10.000 lính Mỹ để làm suy giảm tiềm lực quân sự của Bắc Việt chưa đến 3%". Con số này gây ấn tượng với Mỹ, nhưng nước Mỹ chưa từ bỏ mọi nỗ lực chiến tranh.
    - Năm 1968 đánh giá một nỗ lực đỉnh cao đối với cả hai bên tham chiến. Nước Mỹ đưa vào Việt Nam một số quân kỷ lục trên 520.000 người cộng với số quân Nam triều Tiên và một số chư hầu lên tới con số 90 vạn quân. Lực lượng này, nếu như theo Westmollen là đủ lớn để tiến hành tiêu diệt 28 vạn quân của mặt trận giải phóng miền nam đang có. Đúng lúc đó, Hà Nội giáng một đòn mạnh mẽ bằng cuộc tổng tấn công năm mậu thân. Cuộc tấn công gây ra một sự kinh hoàng về khả năng tiến hành chiến tranh của Việt Nam, quân Mỹ tổn thất nặng nề, mặc dù tổn thất của Hà Nội là nhiều lần hơn thế. Cuộc chiến kết thúc với việc Mỹ tiếp tục củng cố được chỗ đứng tại Việt Nam, nhìn bề ngoài, hình như họ đã thắng, nhưng thực tế, điều quan trọng về mặt chiến lược Hà Nội đã làm được: "Dù ngay cả khi Mỹ đã tăng cường nỗ lực đạt đến đỉnh cao trong những năm chiến tranh Việt Nam, Hà nội vẫn có khả năng giáng cho họ những đòn mạnh mẽ, và điều quan trọng là, cuộc chiến sẽ tiếp tục là một cuộc chiến tiêu hao kéo dài khủng khiếp với nước Mỹ, và không nhìn thấy được ngày kết thúc. Ý chí tiến hành chiến tranh của nước Mỹ bị đánh quỵ kể từ mậu thân 1968".
    - Từ 1968 - 1972, nước Mỹ từng bước tìm kiếm lối thoát, triệt thoái dần quân Mỹ, tăng cường trang bị cho quân VNCH, nhưng điều đó tỏ ra không hiệu quả, đặc biệt sau trận đụng độ của chiến dịch đường 9, nam Lào. Sư 308 của Bắc Việt đã giáng một đòn chí tử vào lực lượng ưu tú nhất của VNCH, thực tế cho thấy, đội quân này không có khả năng chiến thắng.
    - Về mặt kinh tế, từ 1960 - 1972 là 12 năm ác mộng đối với nền kinh tế Mỹ. Theo thống kê của Viện nghiên cứu kinh tế Đông Dương, cơ quan trực thuộc BQP Mỹ, thì tính đến tháng 8/1971, nước Mỹ đã tiêu tốn ở Việt Nam 220 tỷ USD chiến phí trực tiếp. Mỹ đã dội xuống Việt Nam hơn 7 triệu tấn bom, 7,6 triệu tấn đạn các loại và trên 70 triệu lít chất độc hoá học. Nền kinh tế Mỹ bị xói mòn, liên tục là các giải pháp tăng thuế, và dân Mỹ trở nên nghèo đói. Jonhson thú nhận năm 1965: "Thực tế là nước Mỹ đang nghèo đi, và chúng ta phải chấp nhận một thực tế là có nhiều người Mỹ đang đói ăn. Nhiều, rất nhiều nam và nữ thanh niên Mỹ đang đói ăn. Mặc dù chúng ta có thể bàn cãi về quy mô của nạn đói, nhưng chúng ta phải chấp nhận một thực tế là nó đang tồn tại" và theo một viện nghiên cứu của Anh, thì thời điểm đó, có đến 15 triệu người Mỹ lâm vào tình trạng sinh hoạt không đầy đủ. Sự hưng phấn do tăng trưởng dựa vào sự gia tăng chi tiêu quốc phòng trong hai năm 1964, 1965 nhanh chóng qua đi. Nền công nghiệp Mỹ tỏ ra không thể đáp ứng cùng lúc cả nhu cầu sản xuất chiến tranh và nhu cầu thời bình đang ngày càng tăng ở một nước Mỹ ưa hưởng thụ. Tình trạng quá tải buộc Mỹ vải nhờ tới các nền kinh tế phụ thuộc như Nhật Bản đảm trách giúp một phần nhu cầu sản xuất quốc phòng. Nhật có được một cơn gió thần kỳ nhờ xuất hàng cho Mỹ, và nước Mỹ nhanh chóng lâm vào tình trạng nhập siêu với Nhật. Nước Nhật tận dụng rất tốt cơ hội này, và Mỹ không bao giờ còn xuất siêu với Nhật trong những năm sau này được nữa. Cán cân thanh toán của nước Mỹ nhanh chóng xấu đi. Nước Mỹ ngày càng phải chi nhiều tiền hơn, và số Dolla giấy phát hành vượt quá nhiều lần số vàng trong kho dự trữ của nước Mỹ. Tìm kiếm lối thoát bằng tăng thuế hàng nhập khẩu, lập tức các đồng minh thân cận là khối Tây Âu hợp sức trong một nỗ lực kháng cự. Tình hình kinh tế trở lên bi đát, các tay săn vàng theo đúng nghĩa của từ này giữ một khối lượng Dolla giấy lớn gấp 3 lần số lượng vàng dự trữ của Mỹ, và tìm mọi cơ hội săn số vàng dự trữ này. Cuộc chiến mậu thân 1968 giáng một đòn nặng nề khiến kinh tế Mỹ không thể cầm cự lâu thêm. Mỹ buộc phải tuyên bố từ bỏ đảm bảo vàng cho Dolla, một sự suy yếu cực kỳ lớn của tiền tệ Mỹ kể từ thế chiến thứ hai.
    - Nhân lực của nước Mỹ bị xói mòn, tổn thất về số phi công bị giết và bị bắt trên bầu trời Hà Nội trở nên không thể bù đắp kịp, vì việc đào tạo rất tốn thời gian và chi phí. Số Hạ sỹ quan và Sỹ quan cũng trở nên thiếu thốn. Trong nỗ lực tiến hành chiến tranh đỉnh cao trong năm 1968, nước Mỹ kinh hoàng nhận thấy rằng trong số 18 sư đoàn đóng ở chính quốc Mỹ (Mỹ có 27 sư đoàn chiến đấu, 7 tại Việt nam, 5 tại Tây Âu và một số lực lượng rải rác cỡ 2 sư đoàn tại Thái Lan, Philipin) không có sư đoàn nào được huấn luyện đầy đủ để đối phó với tình trạng khẩn cấp nếu có chiến tranh. Người ta đặt câu hỏi: "Nếu giả sử Thái Lan có chiến tranh thì nước Mỹ lấy đâu ra người"
    - 1960-1972 cũng là 12 năm đánh giá một chặng đường buồn trong quan hệ của Mỹ với các Đồng Minh. Tìm mọi cách quốc tế hoá cuộc chiến Việt Nam. Nhưng không một đồng minh lớn nào của Mỹ tỏ ra rằng có sự quan tâm. Thành ra, cuộc chiến Việt Nam là một sự trình diễn đơn phương của Mỹ với một vài đồng minh nhược tiểu như Nam Hàn, Thái Lan... Khác với cuộc chiến Triều tiên, Mỹ đã lãnh đạo một lực lượng quốc tế lớn để tham chiến. Lần này đã khác, người Anh, người Pháp, người Đức, Nhật Bản và nói chung là toàn thế giới khao khát được thâý lần đầu tiên nước Mỹ bị xói mòn bởi chiến tranh, thay vì ngồi nhìn và hưởng lợi như trong hai cuộc đại chiến, và chỉ nhảy vào vào giờ chót. Thực tế thì trong các cuộc chiến lớn, nước Mỹ gần như là một công xưởng nguyên vẹn duy nhất sản xuất theo đơn đặt hàng của toàn thế giới, và thu được vàng, tài nguyên của mọi quốc gia. Giờ đây người ta thấy rằng Nhật và một số nước đang đảm nhận vai trò đó cho Mỹ. Và trong lúc hệ thống vận tải, tài chính, Công nghiệp Mỹ đang bận rộn tập trung cho các đơn đặt hàng của Bộ Quốc Phòng, thì các hãng Nhật Bản và Tây Âu nhanh chóng kiếm chác được các hợp đồng béo bở ngay trên đất Mỹ để phục vụ cho các nhu cầu tiêu dùng của Mỹ. Đó là một sự chảy máu con tim, làm suy yếu tiềm lực của người Mỹ. Và dễ hiểu tại sao người Anh ngồi im, người Đức ngồi im và người Pháp, đương nhiên ngồi im khi đã nếm trải quá đủ trái đắng. Các nước văn minh này khôn và chờ đợi cơ hội để hồi phục trình độ văn minh của châu Âu cho ngang bằng nước Mỹ.
    - Cố gắng của người Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam ngày một suy giảm. Nó như một ngọn nến bùng lên trong 12 ngày cuối năm 1972, với một cuộc ném bom huỷ diệt tàn bạo nhất lịch sử loài người, với tổng sức công phá vượt hàng chục lần những trái bom nguyên tử ném xuống đất Nhật, người Mỹ thất bại. Đàm phán và rút lui. Bỏ lại chính thể VNCH trong sự thất bại không thể đảo ngược được. Lê Đức Thọ nói với Henry Kissingier tại Paris: "Với hơn một triệu quân Mỹ và chư hầu trực tiếp tham chiến tại Việt Nam, và đã thất bại, các ông còn có thể hy vọng gì ở cơ may chiến thắng?" Đương nhiên, không có câu trả lời. Và theo cách nói của người Mỹ: "I''''ve had enough". Nước Mỹ đã có quá đủ.
    - 1972 - 1975, Trung Quốc bộc lộ rõ ý đồ kiềm chế Bắc Việt, trong phương châm duy trì tình trạng chia cắt của Vn như Triều Tiên để dễ bề chi phối. Đặng chấm dứt viện trợ cho Bắc Việt nam, và Matxcova, trong các ván bài mặc cả với Mỹ ở Trung Đông, cũng chấm dứt việc viện trợ khí tài quân sự hiện đại cho Hà Nội. Bằng một cố gắng chiến tranh phi thường, và trước đà bại vong không cản nổi của chính quyền VNCH. Miền Bắc giải phóng thống nhất đất nước trong tháng 4/1975. Cuộc chiến tranh Việt Nam chấm dứt với tất cả các bên tham chiến.
    - Trong một cố gắng kỳ diệu, người Việt Nam đã đánh bại một lực lượng xâm lược mạnh nhất lịch sử, mà thời kỳ đỉnh cao của nó, lên tới gần 1 triệu người (năm 1968). Phải đương đầu với một khối lượng vũ khí huỷ diệt cao hơn bất cứ cuộc chiến tranh nào đã từng xảy ra trong lịch sử: Hơn 7 triệu tấn bom, hơn 7,6 triệu tấn đạn, hơn 70 triệu lít chất độc hoá học mà sức huỷ diệt tương đương với hơn 1000 quả bom nguyên tử đã được ném xuống đất Nhật, và tính trung bình, một người Nam Việt Nam (khoảng 15 triệu trong chiến tranh) phải gánh chịu gần 3 kg chất độc hoá học (hình như nguồn mà bạn langkhachvn khai thác thông tin cũng từ nguồn của BQP Mỹ, Viện nghiên cứu kinh tế Đông Dương.) Thống kê trên là mới chỉ tính đến tháng 8/1971, và chưa tính đến nỗ lực chiến tranh của Mỹ trong năm 1972 và đặc biệt là 12 ngày đêm huỷ diệt bầu trời Hà Nội cuối năm. Người Việt Nam, đã sử dụng một lượng vũ khí ít hơn thế vài chục nghìn lần, không một trái bom, không một tàu sân bay, không một gram chất độc hoá học, mà cộng chung sức huỷ diệt vũ khí chưa được vài kiloton, nhưng Việt nam đã thắng, và nước Mỹ đã buộc phải tháo chạy, để lại một vết thương lâu dài đối với niềm tự hào Mỹ.
    - Năm 1965, theo hồi ký của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp - "Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng", Hồ Chủ Tịch đưa cho Giáp một bài báo cắt ra từ báo chí phương tây, đăng hình chiếc máy bay ném bom chiến lược B52 và nói: "Đế Quốc Mỹ nhất định sẽ thua, nhưng trước khi thua ở Triều tiên, chúng ném bom huỷ diệt Bình Nhưỡng, ở Việt nam, chúng cũng chỉ chịu thua sau khi đã thua trên bầu trời Hà Nội" Lời tiên đoán định mệnh và sáng suốt này đã làm nên nỗ lực chiến tranh huyền thoại của Việt Nam: Bằng những vũ khí cổ lỗ mà Mỹ đã nắm được hết tính năng, người Việt nam đã huỷ diệt 15% (số liệu Mỹ) đến 32% (số liệu VN) lực lượng không quân chiến lược toàn cầu của nước Mỹ. Đó là một đòn chảy máu con tim, dù rằng sự huỷ diệt phải chịu đựng là nặng nề.
    - Sau năm 1975, nước Việt Nam độc lập và thống nhất. Và lịch sử đã ghi nhận có một nước Việt Nam bình đẳng tại LHQ trong năm 1977, và lịch sử lại ghi nhận tiếp tục một nước Việt nam đang tồn tại, và đang phát triển trong ngày hôm nay, dù rằng vẫn còn chưa vượt qua được nhiều căn bệnh trầm kha cần phải đương đầu. Nhưng, người ta có quyền tin vào một tương lai Việt nam, nhất là khi, người Việt Nam lại một lần nữa gặp lại người Mỹ, nhưng là trong tư thế bình đẳng và ngẩng cao đầu.
    Các sự kiện trên đây được tổng hợp từ nhiều nguồn thông tin tham khảo khác nhau. Và để khách quan, xin nhường lại sự đánh giá cho các bạn về mỗi sự kiện đã diễn ra. Đây sẽ là bài trao đổi cuối cùng của tôi trong chủ đề này, vì thú thực, việc này tốn không ít thời gian, trong khi lịch làm việc của tôi không cho phép.
    Mong rằng nếu bạn nào có thêm các tư liệu hay, xin được trao đổi thêm qua PM để cùng tìm hiểu.
  4. Bac_Nam

    Bac_Nam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/10/2004
    Bài viết:
    108
    Đã được thích:
    0
    Nguyên pho võ công hãn thế ở trên gồm cả yếu quyết chưởng, chỉ, kiếm, quyết, khinh, thế tổng cương võ lâm thiên hạ, đến giờ chưa thấy có pho nào sánh được.
    Đến khi traiquay đại hiệp post đến chiêu tuyệt nghệ thứ 100 thì đã thành thiên hạ vô địch thủ. Bởi thế mà trong đợt bầu cử cuối năm 2003 bình bầu đại cao nhân đệ nhất Nam Châu, anh tài thiên hạ đã tâm phục tung hô Mặc định ẩn nhân traiquay lên hàng minh chủ. Lại nhớ đến kỳ bầu cử lần đó, 4 ứng viên lọt vào vòng cuối cùng là traiquay, ruavang, yuyu, MDB. Kết quả đến khi đóng hòm kiểm phiếu vào hồi 24h00 ngày 31/12/2003 thì traiquay đại hiệp được đến 53 triệu phiếu bỏ xa người đứng thứ nhì là Nhập định ruavang đến 11 triệu phiếu. Còn đám MDB được 26 triệu phiếu, yuyu được 29 triệu phiếu xếp sau song tuyệt giang hồ đến gần 1 nửa. Bấy giờ lại thấy có một chuyện cười, vốn thuở đó quy lão ruavang hành tẩu giang hồ đã lâu, được không ít bóng hồng tơ tưởng. Trong đám ấy có một ả nick name thieu_iot, vốn là thánh cô của kiếm hiệp cốc si mê quy lão đã lâu. Ả cậy mình làm trong đám reporter, bèn ăn trộm password admin mà vào sửa kết quả bầu cử, khiến cuối cùng quy lão xếp trên traiquay vài phiếu. Chuyện ấy sau lộ ra, cũng thành một chuyện cười trong thiên hạ vì thói si tình của giới quần hồng.
    Than ôi, kẻ tài danh thì khó dừng chân lâu một chỗ, đến khi hiển thị đúng 100 pho tuyệt thế võ công thì Mặc định ẩn nhân traiquay tuyệt tích giang hồ. Tịnh từ đó đến nay không còn ló diện.
    Chương 2 - Nhập định quy lão (về lại phố xưa) ruavang chuyện:
    Ruavang vốn là kẻ cao thủ thuộc thế hệ đầu tiên của Nam Châu cõi. Sống lâu lên lão làng, nội lực thâm hậu, tu luyện lâu năm đã gần thành tinh. Bấy giờ là một hảo thủ thuộc hàng thế gia trong thiên hạ.
    (còn tiếp)
  5. Bac_Nam

    Bac_Nam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/10/2004
    Bài viết:
    108
    Đã được thích:
    0
    Rùa vàng thuở ban đầu xách bị xách gậy vào cõi Nam Châu, cũng e ấp thẹn thùng lắm. Đọc lại tàng thư thì thấy thuở đầu tiên mỗi khi xuất chiêu luận giải, bao giờ ruavang quy lão cũng dùng thế "Đồng tử bái quan âm" ( Xưng em gọi bác) để tỏ sự khiêm nhường. Ít ai biết rằng khiêm nhượng thế nhưng tuổi tác quy lão so với bọn hậu nhân trong đây thì không nhiều hơn một giáp thì cũng phải ít chục. Nhưng được cái, công lực và sở học quy lão thâm hậu lắm. Anh hùng thiên hạ nhanh chóng nhận ra đây là một tay quái kiệt.

    Võ lược của ruavang quy lão trải rộng từ nhân sinh, lối sống, sở thích cho đến ngọn nguồn văn hoá. Đọc nhiều hiểu rộng, nhớ dai đi lắm, lại thêm tâm tính điềm đạm khoan hoà, trong cả bạch phái lẫn hắc phái ruavang đều được hào kiệt ngưỡng trọng.
    So với công phu của bậc hảo thủ hãn thế traiquay, vốn toàn hàng huyền công sát phạt, nhất công nhất thắng, công phu của ruavang thiên về phần âm nhu nhiều hơn. Bởi thế mà khi xuống chiêu, thường nhất chiêu nhất thức của ruavang không mang nặng sát khí mà đượm vẻ khoan hoà. Thiên hạ vì thế mà cũng nể vì nhưng đôi khi võ lực quy lão cũng vì thế mà kém phần tiện nghi. Nhớ hồi trước có một gã quái nhân luyện thành được "Lý cùn sự đại pháp", hình như là daovh thì phải, ruavang chiết chiêu với gã, ý tứ thâm sâu mà gặp phải kẻ cùn, khiến giang hồ hào kiệt được một phen cười vỡ bụng. Trận tỷ đấu đó đến nay vẫn còn trong tàng thư Nam Châu sử quốc. Hình như tiêu đề là "Động lực phát triển của xã hội loài người" đại đả lôi đài trận.
    Phong độ khoan hoà quý phái, nên đôi khi ruavang bị bọn hào khách xiểm xúc là loại quý tộc áo gấm. Bởi ngoài việc là một tay hảo thủ siêu hạng hành tẩu giang hồ, ruavang còn đảm nhiệm trách nhiệm chấp pháp trong sử quốc cõi Nam Châu suốt cả một thời kỳ dài. Có tài lại làm quan to, nhà cao bổng hậu, âu lắm kẻ ghen ghét cũng là điều khó tránh.
    Bậc quân tử thì ắt có nhiều kẻ thục nữ tơ tưởng. Loại cân quắc nữ lưu trên Nam Châu cũng không phải là ít, số kẻ thầm mến trộm thương quy lão không nhiều thì cũng phải đến hàng chục. Âu đó cũng là chuyện thường thấy trong thiên hạ.
    Ấn chứng võ công và sở học cả đời của Nhập định quy lão về lại phố xưa ruavang có thể nói thu cả vào pho bảo điển: "Một số hình ảnh xưa về đất nước và con người Việt Nam". Đến giờ pho bảo điển này vẫn là một kỳ trân báu vật vào hàng đệ nhất của Nam Châu sử quốc. Bọn hậu nhân có thể thấy nó được dính ngay trên đầu bản quốc.
    Quy lão rùa vàng xét về tuổi tác, võ công có thể tính vào hàng nguyên lão trọng thần. Bấy giờ sau đợt Nam Châu anh hào tan tác, quy lão vẫn một mình trụ vững đem khí tiết mà cảm mến quần hào. Cũng nhờ có quy lão một thân chống trời, mà sau đám hảo thủ khét tiếng nameno, langkhachvn mới dần dần tìm đến. Đám này tung chiêu chiết chưởng, hoá giải nội công vẫy vùng với quần hùng quần tà toàn cõi khiến nhân tài bấy giờ kéo vào Nam Châu đông như kiến cỏ. Nhớ thuở ấy, mỗi ngày có cả nghìn kẻ kéo vào lôi đài sử quốc xem bọn anh hùng quyết đấu. Thật là một thời hoàng kim chưa từng thấy.
    Tiếc thay sau thiên hạ đệ nhất nhân traiquay tuyệt tích giang hồ, nhập định quy lão ít lâu sau cũng sinh trễ nải, từ chức chấp pháp, từ đó dấu mình về lặn sâu nơi đáy hồ, tịnh không thấy mặt.
    Chương 3 - Nameno Lão Nạp đả bại cao thủ chuyện.
    Giang hồ Nam Châu đến nay vẫn còn truyền tụng Vô danh quái khách nameno là một tay công phu đại trác tuyệt. Hành tẩu vô hình vô ảnh, xuất chiêu là khiến cát bay đá chạy, thân đầy chính khí, đến giờ không thấy có kẻ hậu nhân nào có được khí khái hiên ngang đến vậy. Nhắc đến Danh Vô nameno là phải nhắc đến những trận thư hùng khét tiếng với hảo thủ Phục quốc Modungbac. Hai tay đại cao thủ này triết chiêu hết bên đông lại đến bên tây, quần thảo làm đảo lộn giang hồ. Gây ra một trường náo nhiệt chưa từng thấy. Đám hào khách giang hồ thuở ấy thường hay đánh cá về các trận tỷ đấu giữa nameno với Modungbac, nhiều kẻ khuynh gia bại sản nhưng cũng lắm kẻ được to.. Danh vô Nameno ghét ác như thù, thuở ấy y tung hoàng khắp chốn Nam Châu, đả bại không ít hảo thủ hắc đạo, từ modungbac, yuyu, nguoithuongtramlang, nguoidautien... Hầu hết cuộc chiến mà nameno cầm đầu thì đều có vài chục mạng nick thân tan danh liệt. Duy cả quá trình hành tẩu tung hoành của y, nameno chưa từng bị del hay xoá bài. Số cô hồn dưới chưởng của y tính ra phải đến cả trăm. Đến giờ không thấy có cao thủ nào sánh được như thế.
    (còn tiếp)
    Được bac_nam sửa chữa / chuyển vào 23:02 ngày 12/10/2004
  6. Bac_Nam

    Bac_Nam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/10/2004
    Bài viết:
    108
    Đã được thích:
    0
    Tung hoành ngang dọc như thế, nhưng Danh vô nameno thực là một kẻ có khí tiết của kẻ quân tử. Hắn nhập sử quốc Nam Châu vì cảm mến đức độ tài năng của Tuyệt đại cao thủ traiquay. Kẻ kiêu hùng như nameno mà không ít lần trước bàn dân thiên hạ tự nhún mình tung traiquay làm hàng sư phụ. Phàm xưa nay kẻ có tài thì tất kiêu. Tài trí trác tuyệt như nameno trong thiên hạ đếm trên đầu ngón tay. Thế mà xem sự cầu thị của y đối với người tài hơn mình thì đủ thấy y là kẻ hơn người. Khí độ được như hắn nhìn khắp thiên hạ chẳng có mấy kẻ sánh được.
    Bấy giờ nameno ngày ngày hành tẩu giang hồ khắp đại nam giang bắc. Chỗ nào có tà khí là hắn có mặt xuất chiêu, khiến đám hảo thủ hắc đạo tối tăm mặt mũi. Võ học của nameno nhờ thọ giáo với traiquay mà càng lúc càng tinh tiến. Nhớ thuở ban đầu khi y thi thố ở Nam Châu, chiêu thức vẫn còn nhiều nét thô vụng, chưa có được nét ung dung của một tay đại cao thủ. Ngày tháng dần qua, y quán thông tuyệt học các nhà, nghiễm nhiên trở thành một đại tông sư một phái. Chiêu thức Danh vô nameno xuất thuở ấy cực kỳ khó chịu, kẻ muốn chiết chiêu với y chỉ lơ là một chút là bị đả bại. Y lập luận kín kẽ, nội công thâm hậu, lại luyện được khả năng soi tỏ nhược điểm trong võ học đối phương và cứ nhằm đó mà đánh vào. Ngay cả một tay đại cao thủ hắc đạo thuở ấy là yuyu cũng kiềng chả mấy khi dám đối chưởng với y. Chỉ có tay độc khách khét tiếng Modungbac là đối chưởng ngang tay được với nameno, tạo thành nhiều trận tỷ đấu kinh thiên động địa, ai quan chiến cũng phải rùng mình.
    Sau traiquay tuyệt tích, ruavang quy ẩn, Danh vô nameno cũng cảm thế thái nhân tình mà xuống tóc đi tu. Bấy giờ y chiếm lấy một toà cổ tự, tự xưng Lão Nạp mà tỷ đấu với hiệp khách giang hồ. Khốn nỗi võ công của y lúc đó đã đạt đến mức quán thống khiến chẳng cao thủ Hắc đạo nào chịu nổi quá mười hiệp. Tay cao thủ Modungbac sau cũng làm hoà với y mà ít khi đụng chạm quyền chưởng. Thiên hạ về sau dần đến chỗ thái bình.
    Võ nghiệp của nameno trải rộng khắp đại nam giang bắc. Toàn cõi Nam Châu hễ ở đâu có bóng dáng ma đầu là y tìm tới tiêu diệt. Y liên công với langkhachvn, thành một cặp bài trùng khét tiếng, đả bại không biết bao hảo thủ. Giờ bọn hậu nhân có thể thấy phần nào võ công vi diệu của y qua pho bảo điển hãn thế: "Chuyện về những nhân vật phản diện trong lịch sử".
    Nếu những hảo thủ đệ nhất traiquay, ruavang nối nhau tuyệt tích không rõ lý do, có lẽ tại võ nghiệp đã đến mức thông thần. Thì nameno rũ áo ra đi khỏi Nam Châu thật vì một lý do đáng tiếc. Bấy giờ chuyện lợi dụng Nam Châu để kiếm tiền của bọn admin bị lôi ra ánh sáng, những kẻ có tâm như nameno thấy rất bất bình vì hoá ra bảo điển võ nghệ của y phô ra xưa nay bị người lợi dụng. Y lớn tiếng trách hỏi, rồi sau rũ áo ra đi, tịnh từ đó tới nay không chiết lấy một chiêu chưởng pháp nào nữa.
    Pho chưởng trước tác của Vô danh quái khách nameno dưới đây đến giờ vẫn phải coi là một tuyệt học độc bộ thiên hạ:
    Được bac_nam sửa chữa / chuyển vào 15:44 ngày 14/10/2004
  7. Bac_Nam

    Bac_Nam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/10/2004
    Bài viết:
    108
    Đã được thích:
    0
    Phụ lục 2: "Phản diện đại ma đầu đại diệt chưởng" - Vô danh quái khách nameno:
    ------------------------------------------------------------------------------------
    Danh nhân trong lịch sử Việt Nam không ít. Từ thời mở nước đến nay, thời nào cũng có anh hùng, tên tuổi được ghi trong sách sử và được truyền tụng qua nhiều thế hệ. Nhưng có những cái tên khác, cũng được nhắc tới, nhưng là trong một khía cạnh khác, đó là về tài "bán nước" của họ.
    Nếu đem chuyện ngày nay ra mà khảo cứu thì ắt hẳn sẽ có khối chuyện bàn ra tán vào xem ai mới thực sự là yêu nước, và ai mới thực sự là bán nước. Thôi thì cứ đem chuyện xưa ra để bàn, mà cứ lấy cái tiêu chí ai ngồi lại tại Việt nam ăn đời ở kiếp với dân Việt, giữ gìn được đất đai cho dân Việt là yêu nước vậy.
    Lòng yêu nước đáng giá bao nhiêu??? Để đuổi được quân Nguyên, làm lên 3 lần chiến thắng ngoại xâm hiển hách, nhà Trần phải nhiều lần vườn không nhà trống, bốn phương phải ly tán, con lìa cha, vợ lìa chồng, xóm làng nơi đâu cũng điêu tàn, làng mạc nơi đâu cũng tàn phá, máu chảy thây phơi, mới hay cái giá cho độc lập thật là đắt đỏ.
    Đến khi nơi Lam Sơn Lê Lợi dấy binh, giao chiến đến 10 năm trời, quân thua tướng chết, nhiều lúc phải nhờ đến tâm phúc trá mình mà tuẫn tiết, mới bảo toàn được mạng sống, mà làm nên Xương Giang, Tốt Động mà đòi lại được đất nước cho người Việt. Trong 10 năm nằm gai nếm mật ấy, đã chết bao nhiêu người, để rồi lúc vinh hoa chỉ mình Lê Lợi hưởng, mà đám cận thần tâm phúc như bọn Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Trãi đều phải thọ hình?
    Mới hay, khi đất nước lâm vào cảnh ngoại xâm, người xưa luôn bất chấp mọi thứ để giành lại nó, mà không từng thốt ra câu hỏi "Cái giá ấy có đắt quá không"
    Vị vĩ nhân đương thời, có lời khẳng định "Không có gì quý hơn độc lập tự do". Nếu cứ đối chiếu với sách sử mà suy, thì đó không phải là một câu nói nhất thời, mà bắt nguồn rất sâu trong lịch sử người Việt vậy.
    Thế mới biết, lòng yêu nước thì không có cái giá nào đo lường được. Bởi để thực hiện cái quyền yêu nước, thời nào cũng thế, người Việt luôn bất chấp mọi thứ để bảo tồn đất nước của mình. Vậy còn những kẻ bán nước, họ đã bán nước với cái giá như thế nào?
    Ngày nay nếu bàn xem ai là "ông tổ" của cái nghề "bán nước" ở Việt Nam thì chắc cũng khó so đo, bởi biết đâu lũ hậu duệ lại tranh nhau kẻ nào cũng nói tổ mình mới là "tổ nghiệp". Thôi thì cứ lấy những nhân vật có tên trong chính sử mà bàn vậy.
    Lê Tắc thời Trần, một vị khoa bảng danh nho, tài hoa có tiếng. Đọc An Nam Chí Lược thì thấy quả thực là một vị khoa bảng chữ nghĩa đầy bụng. Nhưng lòng vị quốc thì lại không có được lấy một cắc. Lê Tắc theo Trần Kiện hàng giặc, từ đó cúc cung tận tuỵ phục vụ nhà Nguyên, kể cũng phải coi là một kẻ chung tình. Trong lúc Hưng Đạo Vương và quân tướng nhà Trần vườn không nhà trống, dân Việt bốn phương ly tán để kháng giặc, bất chấp mọi giá thì bọn Trần Kiện, Lê Tắc bán nước với cái giá bao nhiêu?
    ?oAn-nam từ đời Trung-Thống (1260-1263), trở về trước, trải bao năm thần-phục Thiên-Triều, cống-hiến phương-vật. Niên-hiệu Chí-Nguyên (1283), năm Quý-Mùi, có chiến dịch ở Chiêm-Thành, Hoàng Thượng khiến sứ dụ An-nam cho mượn đường và cấp quân, vận lương giúp Hữu-Thừa Toa-Đô. Thế-Tử chẳng chịu nghe theo. Qua mùa đông năm Giáp-Thân (1284), Trấn-Nam-Vương cùng quan Bình-Chương A-Lý-Hải-Nha, phụng mệnh tiến binh. Tháng 12, quân đến biên-cảnh, Thế-Tử [ từc là vua Trần Nhân Tông, Chút thìch của ĐH] cự địch bị đại bại. Mùa xuân tháng giêng năm Ất-Dậu (1285), Hoàng-thượng lại khiến Toa-Đô từ Chiêm-Thành tiến binh, Thế-Tử quẩn bách, khiến con người anh là Chương-Hiến-Hầu Trần-Kiện đem bọn Tắc và mấy vạn người, chống cự với Toa-Đô ở Thanh-Hóa. Đánh bị thua, Chương-Hiến bảo rằng: "Nước nhỏ chẳng địch nước lớn, kẻ yếu phải thua kẻ mạnh, cũng vì lẽ ấy mà Vi-Tử phải theo về nhà Chu; ta là cháu nhà vua, há nỡ ngồi nhìn cảnh nhà tan nước mất?". Bèn cùng bọn Tắc đem quân đầu hàng, được Trấn-Nam-Vương khen thưởng. Tháng 4, Vương khiến Minh-Lý-Tích-Ban đem bọn Chương-Hiến vào bệ-kiến Thiên- Tử. Đi đến trại Chi-Lăng, bị nam-quân chận đánh rất gấp. Đang đêm, quan-quân chiến đấu đột xuất vòng vây, viên quan hướng-dẫn gặp Chương Hiến đương kịch-chiến, bị địch-quân dồn ém giết chết trên lưng ngựa. Tắc ôm thây ruổi chạy mấy mươi dặm, ra Khâu-ôn an-táng. Những thuộc-lại đi theo Chương- Hiến, bị giết gần một nửa. Tắc theo Tích-Ban về đến Đế-Kinh, ở Hội-Đồng-Quán. Vua khiến dẫn vào điện Đại-Minh ban yến và cho tất cả mọi người một số tiền 5.000 quan, chia phần Tắc được 500 quan."
    Có đọc đoạn trích trên trong "An Nam Chí Lược" của Lê Tắc thì thấy rằng, bọn Tắc bán nước tất thảy được 5.000 quan và một bữa yến, phần Tắc được chia 500 quan. Cái giá thật là cao cho một đời danh nho bán nước.
    Chiêu Thống cầu Thanh, đem cả nước mà dâng cho người để mong giữ lấy cái ngai vàng hờ, những mong bảo tồn được cái chức vua. Vậy mà sau khi quân Thanh thất trận, phải bôn tẩu sang Tàu, thân làm vua một nước mà sang đến xứ người, cúi đầu xưng thần để đổi lấy cái hàm quan tam phẩm. Đem cả giang sơn ra để đổi, vậy mà cũng chỉ được kẻ kia cho một chức phận mọn hèn, sử chép lúc chết cải táng, duy trái tim Chiêu Thống không chịu tan, mới biết cái mối hận của ông vua vong quốc thật khó gì so được. Chiêu Thống dẫu ngu muội mà bị lừa, nhưng quả cứ xem cái giá mà kẻ mua trả cho kẻ bán trong cái nghề bán nước thì thấy thật không được hậu.
    Chuyện xưa đã chán thì xét đến chuyện nay. Diệm năm xưa dốc lòng thờ đạo, đem Jesu ra làm quốc tổ, lập ấp dồn dân mà huỷ hoại văn hoá người Việt, cúng đến vài tỷ USD cho tổ đạo??? hăm hở cắt đất, mong lập cõi cho riêng mình, rốt cuộc thân cũng không giữ được, mà kẻ giết Diệm lại không phải là bọn cộng sản Diệm luôn chống chết bỏ, lại chính là lính của Diệm và chủ của Diệm. Cái giá trả cho cái công bán nước của Diệm kể có thể nói là rẻ nhất vậy.
    Có lẽ đã nhìn thấu được tấm gương các bậc đàn anh, nên Thiệu sau này chọn một cách khác khôn ngoan hơn, đó là "tự trả giá cho mình". Bởi thế mà Sài Gòn thất thủ, Thiệu ra đi mang theo 17 tấn vàng, sau này khỏi cần kẻ mua trả công cho cái thành tích một thời bán nước của mình. Kể trong những kẻ bán nước, thì Thiệu phải xem là một kẻ đệ nhất thức thời vậy.
    Mấy câu chuyện gàn chắp nhặt trong chính sử về cái giá thu được khi bán nước. Vị nào có chuyện nào hay, thử lôi ra bình loạn xem sao?
    -------------------------------------------------------------------------------------
  8. Bac_Nam

    Bac_Nam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/10/2004
    Bài viết:
    108
    Đã được thích:
    0
    Chương 4: Phong trần hồ tử Langkhachvn diễn truyện
    Đám hảo thủ cạo gội trên Nam Châu còn sót lại đến giờ này hẳn không thể không ghi nhớ ấn tượng về gã lãng tử langkhachvn. Thuở đầu gia nhập Nam Châu gã đã có một nền tảng nội công thâm hậu. Công phu của gã thiên về các vấn đề dính dáng đến chiến trận và lịch sử. Sở học của gã về các chiến tướng lẫy lừng võ công thâm hậu của Việt Nam trong lịch sử là ít ai bì. Hắn cũng thâm hiểu thế cục các trận chiến tranh, am hiểu chiến thuật và binh pháp. Thật là một đại cao thủ của chiến chinh.
    Hắn cũng như nameno, được coi là một kẻ đầy thân chính khí, ghét ác như thù. Liên công với nameno trong nhiều trận chiến kinh thiên động địa, từ "Con đường đau khổ", đến "Võ soái trường thiên đại tuyệt chưởng" qua đến "Đụng độ chủ lực Việt Mỹ tuyệt đại bí kíp" hay "Quang Trung đại đế bách chiến chưởng" hắn đều tỏ ra là một tay nội ngoại kiêm tu võ công quán thế. Nhớ thuở hắn đại chiến với ma đầu yuyu trong trường thiên lôi đài chiến "Con đường đau khổ", sau khi yuyu bị dính một tuyệt diệt chưởng của traiquay khiến tẩu hoả nhập ma bốt bài không còn lý luận, thì langkhachvn đã bồi thêm một đòn tối hậu khiến yuyu sau trận đó phải mai danh ẩn tích dưỡng thương suốt một thời kỳ dài không thấy ló mặt.
    Công phu của Phong trần hồ tử langkhachvn trong tứ đại giang hồ được xếp vào hạng thứ 4. Huyền công văn sử hắn không bằng traiquay, điềm đạm nhàn nhã hắn không bằng ruavang, sắc sảo kín kẽ hắn không bằng nameno, nhưng hắn lại quán thống được sở trường tuyệt học riêng mình, biết lĩnh giáo kẻ hơn nên chẳng mấy chốc đã thành một trong tứ trụ danh trấn giang hồ.
    Mỗi chiêu nhất xuất của langkhachvn đều được hắn chỉnh lý kỹ càng, đầu đuôi đầy đủ, từ thế tấn thế xuất cho đến những đòn công kích tối hậu. Kẻ bại dưới chưởng của hắn cũng không ít hơn Đệ tam tuyệt khách danh vô nameno là mấy. Giờ đây lần giở trong bí kíp tàng thư TTVN data base, thấy mỗi chiêu nhất thức của langkhachvn đều được đầu tư công phu cẩn thận, hiếm kẻ sánh được với hắn.
    Công phu sở học của langkhachvn hiển thị khắp đại nam giang bắc. Hắn đúng là một lãng tử phong trần, hào hoa phóng khoáng xứng với danh tự. Tuyệt học của hắn sau được đúc kết trong bí kíp bảo điển "Những trận đụng độ giữa chủ lực Việt Nam và Mỹ trong chiến tranh" một bảo kíp võ công được hắn đầu tư cực kỹ, sưu tập kinh điển đông tây rất có giá trị.
    Trong tứ tuyệt giang hồ năm xưa, langkhachvn là kẻ duy nhất vẫn còn thỉnh thoảng hiện thân chiết chưởng với quần hùng quần tà. Duy có điều do các đại cao nhân huynh đệ của hắn năm xưa đều đã nối nhau quy ẩn, đâm langkhachvn cũng có phần cô đơn u uất.
    Gần đây thấy hẳn thỉnh thoảng hiện thân, chiết chiêu với quần hùng quần tà mà phong cách đã có nhiều đổi khác. Cứ xem thế chưởng tấn xuất của hắn thì thấy công phu gần đây đã tinh tiến vượt bậc lắm, nhưng ngoại gia cũng có nhiều nét biến ảo khó lường. Hắn vốn nổi tiếng lịch thiệp hào hoa, công phu quán thế xưa nay, hễ xuất chiêu là người người đều phục, thế mà gần đây không ít dịp thấy hắn cợt nhả, chọc đùa. Như trong đả lôi đài chiến "Thượng đế tầm thư phụ nữ kíp" (Thư thượng đế gửi phụ nữ) trong thảo luận quán gần đây, thấy hắn một thân hiển hách nghênh nam đả bắc uy lực kinh người khiến kẻ đối chưởng tối tăm mặt mũi không cách gì đáp trả. Thế mà trong lúc quyết đấu ác liệt đến thế, hắn vẫn điềm nhiên lúc thì bẹo má cô này, khi thì xoa đầu chú khác, thật là một kẻ công phu hiếm có.
    Nội ngoại công phu của langkhachvn nhìn khắp võ lâm Nam Châu giờ ít có ai bì. Những mong hắn không phẫn chí bỏ đi như nhiều đại cao thủ khác thì ắt võ lâm còn có phận nhờ. Nghe đồn trong đám giang hồ giờ hắn đã có hậu nhân, là một tiểu cô nương xuống tay cực kỳ bá đạo nick name lannokia. Chuyện về đám hảo thủ đương thời sẽ được nói ở phần sau cùng của bộ Nam Châu Diễn Sử này.
    Chương 5: Phục quốc tà khách Modungbac (MDB) diễn truyện
    Được bac_nam sửa chữa / chuyển vào 18:23 ngày 13/10/2004
  9. Bac_Nam

    Bac_Nam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/10/2004
    Bài viết:
    108
    Đã được thích:
    0
    Chương 5: Phục quốc tà khách Modungbac (MDB) diễn truyện
    Trong đám hảo thủ lừng lẫy cõi Nam Châu, Modungbac kể cũng phải nói là một tay kiệt hiệt. Hồi hắn mới xuất hiện, ăn nói nhỏ nhẹ khiêm tốn, gọi bác xưng em, gặp người lớn là khoanh tay chào, gặp người hơn là cúi mình ạ, ai cũng muốn xoa đầu cho quà cho kẹo. Có ai biết Modungbac là kẻ biết nhún mình, có tài tế thế mà lại biết dùng đến cái mưu luồn trôn của Hàn Tín năm xưa. Thật xứng với cái danh Phục Quốc Mộ Dung Bác.
    Công phu của Modungbac đến giờ trên giang hồ ít kẻ bì kịp. Bụng dạ hắn nửa chính nửa tà, âm thầm khó đoán khiến quần hào vừa ghét vừa yêu. Điểm đặc biệt của Modungbac là hắn luôn thích tìm cách nói ngược lại thiên hạ, bất kể điều đó là đúng hay sai. Nghe đồn hắn là truyền nhân của Tây Độc Âu Dương Phong, chuyên luyện công theo một ngạch riêng, khiến kinh mạch chạy ngược. Vì vậy trong mọi vấn đề, hắn đều thích nói ngược một mình một ý cả.
    Nếu chỉ có thế thì hẳn Modungbac cũng không thể vùng vẫy giang hồ, nơi cõi Nam Châu vốn đầm rồng hổ huyệt. Công phu hắn luyện ngược đường nhưng cao siêu khó dò, kẻ non cơ hễ đấu với hắn là bại. Khi Modungbac tung hoàng thiên hạ, chỉ có Tứ đại cao thủ của Nam Châu khi đó là chế phục được hắn.
    Modungbac chuyên môn ra chiêu kiểu ngược ngạo, nhưng nhất chiêu nhất thức, hắn đều luyện đến hoả hầu, trích dẫn rõ ràng, nguồn tài liệu nhiều như rác giấy, khiến những kẻ non cơ nhìn thấy là hãi. Có lần hắn thậm chí múa một bài quyền trông rất trẻ con, nhưng lại viện ra đến hơn mấy chục nguồn bảo kíp và nói rằng chiêu đó được tổng hợp từ từng ấy bảo kíp, khiến lắm kẻ hoa mắt sợ mất mật.. Đầu tư kỹ lưỡng nguồn mạch tư liệu bảo điển, ngoài ra, nếu thiểu bảo điển hắn còn có tài bịa ra bảo điển một cách ăn đứng dựng ngược. Kẻ tu vi kém cỏi, nghe hắn thao thao bất tuyệt rằng võ học của hắn trích từ nguồn A, nguồn B, nguồn C... mà thực ra toàn do hắn bịa ra cả, cũng lắm kẻ sái cổ. Thuở ấy, nếu không có tứ đại giang hồ trấn áp, thì Modungbac thành một đại ma đầu khuynh thiên đảo địa.
    Trong cõi giang hồ, Modungbac luyện thành hai tuyệt nghệ hãn thế, một là Loạn ngôn điêu toa công và Hai là Kim chung chảo thiết bì hộ thể thần công. Môn thứ nhất hắn chuyên dùng để vùng vẫy giang hồ, đả bại những kẻ công lực yếu hơn bất kể chính tà, môn thứ hai hắn chuyên dụng để phòng thủ khi bị các bậc cao thủ hơn truy sát. Vì thế mà trong nhiều trận lôi đài đại chiến còn lưu lại trong data base của cõi Nam Châu, có nhiều trận tỷ đấu kinh thiên mà cũng rất buồn cười: Trong những trận tỷ đấu dài đến cả ngàn hiệp, dạng như "Võ soái đệ nhất danh tướng thần kíp" hay "Phản diện đại ma đầu tuyệt đại nhược chưởng" Modungbac kiên trì tiếp chiến với quần hùng có đến dư ngàn hiệp. Cứ mỗi khi bị kẻ cao thủ hơn xuất chưởng đả bại, thì hắn lặn mất tăm để tránh hoả lực, xong hắn đợi cho võ đài lần giở sang vài trang là lại quay trở lại, chọn kẻ công lực yếu kém hơn để luộc. Bấy giờ giang hồ nhiều kẻ tức tối nhưng nhiều kẻ cũng thích thú với cái khả năng chịu đòn hiếm có của hắn. Phàm các bậc cao nhân thuở ấy mỗi khi xuất tuyệt chiêu thấy hắn lẩn mất thì đều dừng chưởng bỏ đi. Nào ngờ vừa mới quay lưng là hắn đã lại chường ra chiết chưởng với những kẻ võ nghệ kém hơn..
    Chiến thuật của Modungbac lúc đó được giang hồ ghi nhận là lối "Đánh du kích không dựa vào dân", nghĩa là hắn thấy địch mạnh thì chạy, sau đó lại quay lại đánh kẻ yếu hơn. Lập luận thì đầy tà ý khiến thiên hạ chẳng mấy kẻ ủng hộ. Nhưng bởi hắn sống dai, nội công cao dầy, nên những kẻ tầm thường chẳng thể trị được hắn. Nhờ vậy mà Modungbac dương danh một thân cực kỳ bá đạo.
    Trong cõi Nam Châu thuở ấy, chỉ có Tam tuyệt giang hồ Danh Vô nameno là đủ kiên nhẫn liên tục quay lại đối chưởng với hắn, và kẻ mà Modungbac kiềng nhất cũng chính là Danh vô Nameno.
    Hai tay đại cao thủ này đánh với nhau đến cả ngàn chiêu. Bấy giờ nameno thọ giáo Thiên hạ đệ nhất nhân Traiquay nên võ nghệ nội ngoại công phu ngày càng tinh tiến. Modungbac về sau hễ gặp nameno là như thấy Hải Đăng, phải tìm lối rẽ, không ít lần phải công khai tâm phục nameno là giỏi. Kể về mặt này, khí độ họ Mộ Dung cũng không phải là kẻ tầm thường.
    Tuy hay nói ngược ngạo, nhưng Modungbac thực là một kẻ nửa chính nửa tà. Nhiều lúc y xuất sát chiêu với lũ ma đầu khiến bọn này khôn đường tránh né. Do Modungbac hay đại chiến với Danh Vô nameno nên nhiều kẻ thường hay xếp hắn vào hàng ma đạo, nhưng phải nói cho đúng, Modungbac là một nhân vật kỳ dị trong giang hồ Nam Châu.
    Các bậc hảo thủ đệ nhất giang hồ lần lượt quy ẩn, khiến họ Mộ dung cũng chán đời chẳng thấy online. Thi thoảng mới thấy hắn chường mặt xuất vài chiêu chọc vui thiên hạ. Lần gần đây nhất, hắn chường mặt khiêu chiến giang hồ trong lôi đài đại chiến "Cách mạng tháng 8 thời cơ bí kíp chỉ". Hắn hoa quyền múa chưởng, sức bài sơn đảo hải khiến bọn hảo thủ hạng hai của Nam Châu hoa mắt chóng mặt. Tưởng lúc đó mình lý lẽ bá đạo của hắn đã độc bá giang hồ. Thảng may có gã Phong trần hồ tử Langkhachvn lúc đó cũng tạt qua, vào múa chưởng chặn hắn lại. Bị một đòn chí mạng của khách lãng tử, Modungbac lặn mất tăm từ đó đến giờ không thấy quay lại.
    Hỡi ôi, một kẻ võ công quái dị như Modungbac (MDB) nay cũng phong ẩn giang hồ khiến sinh khí võ lâm hao hụt, cũng là một tổn thất lớn đối với Nam Châu sử quốc.
  10. Katioucha

    Katioucha Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    06/10/2002
    Bài viết:
    247
    Đã được thích:
    0
    Tiểu nữ là hạng cắc ké, vào ra Sử quán cũng như loài chuồn chuồn, bươm ****..... đến rồi lại đi, chỉ mong nhặt nhạnh chút kiến thức, nội công rơi vãi của các anh hùng chính phái , lại cũng mong nương nhờ các Cao thủ Bạch đạo mà mở thêm tầm mắt, tránh được ma công của giới hắc đạo mà thôi.
    Nay quả thật thấy các Chính anh hùng như : RuaVang, NameNo ..... vắng bóng, lại cũng ít thấy các Nguỵ hảo hán như MoDung xuất chiêu, quả thật Sử quán cũng bớt náo nhiệt.
    Cũng may, các hảo hán hào kiệt vẫn còn nhiều, vẫn năng lui tới như Chiangshan hiệp khách, Spirou Bổ đầu, hay các bậc anh tài như TLV, Ptlinh.... lại có cả các tân đại biểu từ Hắc phái .....
    Cung kính mà nói, ngay như Bắc nam các hạ, tiểu nữ nghe tiếng nói mà đoán hình, nhìn bước quyền mà phỏng thế, cũng là một bậc đại cao thủ vậy !
    Rất mong các Cao thủ võ lâm, anh hùng hào kiệt cả hai phái Hắc Bạch tiép tục tranh tài, để cho những kẻ quanh năm lê la nhặt nhạn như tiểu nữ có thêm dịp mang tầm mắt
    Cung kính
    Được Katioucha sửa chữa / chuyển vào 14:01 ngày 14/10/2004

Chia sẻ trang này