1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nạn đói năm 1945

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi lonesome, 01/03/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Thôi nào các bác, đừng biền LSVH thành cái Thảo luận quán thứ 2 chứ... Bực mình hay căm hờn gì thì cũng đâu phải nói mấy câu trên này mà giải quyết được đâu... Các bác có tran luận thì cũng đừng đao to búa lớn quá ...
    Nạn đói năm 1945:nỗi đau không gì bù đắp
    TT - Đã từng đọc nhiều tài liệu nói về nạn đói năm 1945, đã từng nghe rằng có hơn 2 triệu người chết vì nạn đói năm đó, nhưng tôi không thể nào hình dung một cách đầy đủ và chi tiết rằng nạn đói ấy lại khủng khiếp đến thế.
    Vậy mà đó lại là sự thật. Một sự thật mà đến cả người dửng dưng nhất cũng thấy xốn xang. Tôi như thấy trước mắt mình cảnh người bác của ông Hằng nằm chết co rúm lại mà miệng vẫn còn vương mấy cọng rơm. Tôi không khỏi rùng mình khi đọc tới chi tiết người ta ăn cả đất, ăn bất cứ thứ gì có thể. Ôi, người ta có nắm gạo cũng phải giấu kín đi, phải ngày đêm canh chừng vì sợ cướp. Người ta chạy theo những chiếc xe ngựa, xe trâu để lượm phân, với mong mỏi biết đâu có mấy hạt đậu, hạt ngô còn sót trong đó. Hễ ra đường là thấy xác chết nằm la liệt, đến không còn chiếu để chôn... Còn cảnh tượng nào thương tâm hơn, xót xa hơn thế!
    Mà câu chuyện đâu phải ở thế kỷ nào xa xôi, nó xảy ra chỉ mới cách đây 60 năm thôi. Vậy mà sau 60 năm chúng ta đã dường như quên hẳn. Quên rằng có một thời kỳ đồng bào chúng ta vì đói mà chết. Có biết sâu sắc những gì ông cha ta đã trải qua mới thấy quí những gì chúng ta đang có hôm nay.
    Một bữa cơm no, đối với chúng ta bình thường quá, vậy mà đó từng là mơ ước rất xa vời của biết bao con người trong cảnh đói. Mới thấy tội ác chiến tranh đáng sợ quá! Đâu thể tính bằng bom đạn, thương vong. Nạn đói năm ấy, rồi hậu quả của chất độc da cam... sẽ mãi là niềm đau không gì có thể bù đắp được.
    ĐINH THỊ NGỌC THỦY (TP.HCM)
    Tôi xin được gửi lời thán phục đến người viết bài báo khiêm nhường này, đã chọn một đề tài vô cùng có tầm vóc (Tuổi Trẻ ngày 2-3). Những con số mà tác giả đưa ra để so sánh với thiên tai sóng thần hoặc trận bom nguyên tử là những con số vô cùng thuyết phục để người đọc có một nhận thức chính xác hơn về sự đau khổ mà những kẻ ngoại xâm đã gây ra cho dân ta.
    Con số 10% là một phỏng định và nếu chính xác, thảm họa nạn đói 1945 có thể dùng so sánh với tội ác diệt chủng. Người Việt và nhất là thế hệ trẻ Việt cần nhìn lại vấn đề này một cách trân trọng hơn và mãi mãi chúng ta không thể lãng quên nỗi đau của dân tộc...
    NVHN
  2. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Nạn đói năm 1945 (kỳ 4):
    Chặng cuối của cuộc đọa đày

    [​IMG]

    Những người chết đói ở trại Giáp Bát được cải táng về nghĩa trang Hợp Thiện (Hà Nội) - Ảnh: Võ An NinhTT - Đường Giải Phóng, yết hầu giao thông nối Hà Nội với các tỉnh phía Nam, vươn mình qua cây cầu vượt với hàng vạn chuyến xe. Phố xá sầm uất quay cuồng với nhịp sống đô thị, ngập tràn hàng hóa và tiền bạc. 
    Nơi đóng cửa trần gian
    Dưới chân cầu vượt là một ống cống lớn bắc qua sông Sét, chảy cắt ngang đường. Sau ống cống đó là một ngã ba có con phố rẽ tay phải dẫn đến những khu nhà đang hối hả xây dựng. Đó là những khu dân cư, các công ty và kho hàng. Ít ai biết 60 năm trước đây là điểm tụ tập đông nhất những sinh linh trước giờ chết đói: trại tế bần.
    Ông Đặng Văn Cự, người dân gốc ở làng Tám (Giáp Bát), nay 87 tuổi, kể lại: thời đó làng Tám là ngoại ô, thuộc tổng Thịnh Liệt, Thanh Trì. Khu bến xe, ga tàu, bệnh viện Bạch Mai bây giờ là cánh đồng mênh mông với con sông Sét chảy vắt ngang. Từ Hà Nội đi qua cống Phố Hàn (nay là cống sông Sét nằm trên đường Giải Phóng) khoảng 20m có khu gia binh rộng 25 mẫu.
    Theo Báo Bình Minh ra ngày 12-4-1945, những người VN hảo tâm khi thành lập đoàn khất thực để cứu trợ đồng bào đã chọn khu gia binh làm trại tế bần. Bắt đầu từ ngày 9-4, có 2.000 người ăn xin đã được đưa xuống đó, được phát cháo và nghỉ ngơi. Sau đó, những người ốm đau, hấp hối cũng được đưa về trại bằng xe bò.
    Khi người đói chưa nhiều, trại còn có ngày hai bữa phát chẩn. Nhưng chỉ sau vài tuần số người tự tìm đến đã đông hàng vạn. Lương thực dù có nhiều đến mấy cũng không đủ cho mỗi người một bát cháo/ngày.
    Ông Nguyễn Văn Điền ở Giáp Bát kể: mọi ngả đường chết đói của thành phố đều dồn về đây, từng đoàn từng đoàn những hình nhân tưởng như bất tận. Họ ngồi chật kín trại, kín cổng trại, kín cả đường vào trại và vật vờ, xiêu vẹo trên cống Phố Hàn, gặp ai cũng chìa tay xin ăn. Từ đây trại Giáp Bát trở thành nơi chứa người chết đói.
    Báo Tin Mới số ra ngày 29-4-1945 viết: ?oTấm bảng treo trước cổng trại ghi: ngày 26-4: buổi sáng số người còn lại 3.020 - số người chết 16. Buổi chiều, số người mới vào 2.000, số người chết 18?. Ông Điền kể: đó là số người trong trại, còn những người chờ chực bên ngoài thì nhiều vô kể và họ chết bất cứ lúc nào. Ông nhớ mãi hình ảnh một cụ già tuy đã đói khổ nhiều ngày nhưng nhìn rất quắc thước, đạo mạo.
    Cụ ngồi trên cống Phố Hàn giống mọi người. Nhưng điều rất đặc biệt là cụ không xin ai một câu nào. Ai cho thì nhận. Ánh mắt cụ rất buồn, long lanh chứ không vàng nhợt vô hồn. Cụ ngồi đó mấy ngày rồi không ai thấy nữa. Người  trong và ngoài trại chết ngày một nhiều. Khẩu phần lương thực phân phát cho người đói thành muối bỏ biển và tạo nên những cuộc tranh giành thảm khốc. Nhưng rồi hàng vạn sinh linh ấy cũng ?ogặp nhau? trong những cuộc mai táng đau thương...
    Những hố chôn tập thể
    Suốt 60 năm sau, bà Chén (Tây Lương, Tiền Hải, Thái Bình) vẫn sống trên mảnh đất quê nhà Tây Lương. Bao dâu bể đổi dời, tâm khảm không ngừng muốn xóa nhòa quá khứ đau thương, khiến nhiều câu chuyện, nhiều dấu tích của nạn đói đã không còn lưu giữ trong bà. Nhưng bà vẫn biết rằng dưới ba thước đất, trong lòng đất quê hương, những ánh mắt trẻ, những tiếng khóc già cùng sự quằn quại của những linh hồn đói khát vẫn còn đó.
    Còn đó trong những nấm mồ chôn vùi hàng chục, hàng trăm sinh mạng không hương khói, không mộ chí, không gỗ ván - ở quê hương bà đó là gò Ông Cảm, gò Lâu nằm giữa cánh đồng thôn Hiên bát ngát cánh cò...
    Bà nhớ khi người chết đói quá nhiều, trai đinh, lính tuần khuân xác người trong những manh chiếu, mảnh vó buộc túm hai đầu, quăng xuống những cái hố to như cái ao rồi lấp. Hôm nay lấp hố này, mai lại lấp hố khác. Khi không còn chiếu, còn vó, còn bao bố và không còn cả sức người thì họ lấy dây thừng, dây thép buộc vào cổ, vào tay, chân những thây người khô khẳng đó, cho trâu, bò kéo lê theo đường ruộng hoặc trên bùn ướt rồi quăng xuống hố.
    Trong tài liệu của Viện Sử học, rất nhiều địa phương như Hải Phòng, Thanh Hóa, Ninh Bình, Nam Định... đã đặt tên cho những hố chôn tập thể như thế thành cồn Ma,  mả Quán, mả Đói, gò Ma... Tuy nhiên nhắc đến hố chôn tập thể thì khủng khiếp nhất vẫn là ở Hà Nội.
    Ông Nguyễn Ngọc Liên (khu tập thể Kim Liên) kể: ngày ngày sếp đội mặc quần soóc, chạy ra phố huýt một tiếng, đám đông khất thực liền chạy ùa lại. Sếp chỉ tay vào chiếc xe kéo thùng gỗ hai bánh, nói vài câu rồi chia hai người một xe kéo rong ruổi suốt từ phố Hàm Long đến chợ Mơ, rồi dọc tuyến Hàng Đẫy, Tràng Tiền... về gần cầu Giấy đi nhặt xác người.
    Mới đầu người ta còn bọc chiếu, sau thì chỉ túm đầu, túm chân quẳng lên thùng xe. Trẻ con, người già, đàn bà, đàn ông, đầu, tay chân... lủng lẳng hoặc kéo lê trên đất. Ngày nào cũng vài chục xe như vậy rong ruổi. Mấy người kéo xe kể: nhiều hôm họ quăng xác chết lên xe, trong xe có tiếng thều thào? Có anh xe dừng lại bới đống xác thì không thấy ai kêu nữa. Có anh xe thì nói vọng vào: ?oThôi đằng nào cũng ra nghĩa địa thì đi đi kẻo mai không ai chôn?.
    Mọi chuyến xe đều đổ về hai nghĩa trang Hợp Thiện và Phúc Thiện nằm ở cánh đồng ngoại ô hai đầu nam - bắc thành phố. Nay Hợp Thiện thuộc quận Hai Bà Trưng, bám bên sông Kim Ngưu. Phúc Thiện nằm trong công viên Thủ Lệ. Tại nghĩa trang người ta đào những cái hố sâu 3-4m, dài rộng hàng chục mét, quẳng xác chết xuống đó rồi rắc vôi bột lên trên và lấp. Từ khi xuất hiện trại tế bần Giáp Bát với lượng người chết 30-50 người mỗi ngày thì cánh đồng xung quanh cũng trở thành những hố chôn người.
    Ông Điền kể rằng sau nạn đói, cánh đồng Giáp Bát lúa năm ấy không trồng nhưng từ những gốc rạ vẫn trổ đòng xanh ngăn ngắt. Người ta tranh nhau đi gặt. Gặt xong cày bừa, tung lên bao nhiêu đầu lâu, chân tay. Còn ở cánh đồng thôn Hiên, những đêm đông rét buốt hoặc những buổi trăng rằm sương lạnh trước vụ mùa, bà Chén vẫn như nghe thấy ngoài gò Ông Cảm xôn xao tiếng người như họp chợ. Phiên chợ của những hồn ma đói khát...
    Khi chúng ta no ấm

    [​IMG]

    Bia tưởng niệm nạn nhân chết đói tại đường Kim Ngưu   (Hà Nội) - Ảnh: Q.T.
    Cây số 3 trên đường từ Thái Bình đi Hà Nội nay là một cụm công nghiệp, thương mại sầm uất của thành phố Thái Bình với những hàng quán ăn uống đặc sản đủ món Tây, Tàu. Nếu không được nghe những câu chuyện của 60 năm trước thì không ai nghĩ từng có hàng vạn con người đói rách quằn quại tụ tập ở đây mà hy vọng một con đường sống.
    Bảo tàng tỉnh Thái Bình đang hoàn thành giai đoạn cuối những hạng mục xây dựng tân thời. Thật khang trang, quy mô và cũng khá phong phú các hiện vật trưng bày. Thế nhưng rất tiếc, về nạn đói đau thương nhất lịch sử dân tộc và lịch sử Thái Bình thì nơi này chỉ trưng bày 5-6 tấm ảnh của nhà nhiếp ảnh Võ An Ninh.
    Trở về Hà Nội, tìm đến nơi từng là nghĩa trang Phúc Thiện, nấm mồ tập thể chôn vùi hàng vạn con người không gỗ ván, không hương khói, mộ chí, tôi lạc vào công viên Thủ Lệ, được nhìn thấy những con người đang hạnh phúc nô cười trong tiết thanh xuân. Đi tìm nghĩa trang Hợp Thiện tôi phải mất mấy ngày dò hỏi mới đoán được khu vực cần  đến.
    Đó là khu tập thể Nhà máy dệt 8-3, quận Hai Bà Trưng. Nghĩa trang đã bị xóa dấu tích hoàn toàn. Những căn nhà cao tầng thi nhau mọc lên. Người bán nước nói: thỉnh thoảng người ta làm đường, xây nhà cũng gặp hàng núi đầu lâu, chân tay người chất chồng trong lòng đất. Họ thắp nén hương rồi gạt xương ra và tiếp tục đào...
    Theo lời chỉ dẫn của những người già, tôi tìm vào một hẻm nhỏ trên đường Kim Ngưu, rẽ vào ngách 559 với những dãy nhà cao vút nhưng chỉ chừa đủ chỗ cho một chiếc xe luồn lách. Bên phải cái ngách này là đường cụt. Nhìn thật kỹ mới thấy cổng vào rộng chừng 1,5m của khu tưởng niệm những nạn nhân 1945. Khu tưởng niệm lọt thỏm trong những bức tường nhà kiên cố.
    Công trình lớn nhất ở đây là tấm bia đá khắc bài tế của giáo sư Vũ Khiêu cho những vong hồn xấu số. Kế bên là bức tường đắp dòng chữ ?oNơi an giấc ngàn năm của đồng bào chết vì oanh tạc và nạn đói 1944 - 1945? và vài bệ đặt bát hương. Coi giữ nơi này là một người đàn bà luống tuổi, không ngớt mồm quảng cáo về chuyện âm hồn, linh ứng để mời khách đặt lễ...
    Có lẽ công việc công phu nhất của người còn sống khi ghi lại dấu ấn này chính là những tấm ảnh của nghệ sĩ Võ An Ninh và công trình khoa học đầy đặn của giáo sư Văn Tạo và các cộng sự. Tuy vậy công trình nghiên cứu trên mới chỉ in vài trăm cuốn một lần vào năm 1995.
    Nước ta nay đã là một trong những quốc gia xuất khẩu lương thực hàng đầu thế giới. Xóm Trại, xã Tây Lương - nơi đã chết gần hết số dân sở tại - nay cũng đã là một làng quê giàu có, thanh bình. Bữa cơm của gia đình ông Tô Nuôi hôm nay dù đã hết dư vị ngày tết nhưng vẫn thịnh soạn, thơm ngon. Lịch sử dân tộc cũng như cuộc sống mỗi người đã sang trang mới tốt lành, sáng đẹp. Nhưng như giáo sư Văn Tạo nói: chúng ta không được quyền quên kỷ niệm đau thương và rùng rợn nhất đó của lịch sử!
    Không quên được, không cách gì tan biến được nỗi đau ấy trong ký ức của người từng đói cơn đói Ất Dậu. GS Phong Lê - nguyên viện trưởng Viện Văn học, năm ấy 7 tuổi, nhưng nỗi khổ nhục của cả làng xã đã mãi mãi khắc dấu vào tâm trí ông. Ông gọi đó là ?otri thức của tôi trong năm đói 1945? - một ?otri thức? đau đớn, chỉ dạy con người cái cách phải ăn những gì để sống.
    http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/PrintView.aspx?ArticleID=68927&ChannelID=89
    Được TLV sửa chữa / chuyển vào 08:20 ngày 04/03/2005
  3. metamodel

    metamodel Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/12/2004
    Bài viết:
    283
    Đã được thích:
    2
    Tôi chỉ cón thắc mắc một điều là tại sao sách giáo khoa lịch sử của chúng ta viết về nạn đói năm 1945 sơ sài đến thế.
  4. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Nạn đói năm 1945, chúng tôi không quên
    TT - Tôi là một người trẻ (30 tuổi), không phải chịu cảnh chiến tranh như cha ông, lại càng không thể chứng kiến cảnh nạn đói năm Ất Dậu 1945. Thế nhưng, từ hồi bé chúng tôi đã biết đến thảm kịch này qua câu mắng của cha mẹ: ?oNhìn mày cứ như chết đói năm 45?.
    Chính những câu nói đó đã hằn vào đầu óc trẻ thơ của tôi mấy chữ ?ochết đói năm 45?. Vậy thì ?ochết đói năm 45? là gì? Hồi đó, chúng tôi chỉ biết đến hình ảnh năm 1945 và cảnh nghèo khổ trước Cách mạng Tháng Tám qua những bộ phim được chiếu trên truyền hình như Sao tháng tám, Chị Dậu - phim trắng đen nên nhìn càng thê lương...
    Cộng với những câu chuyện của ông bà, chúng tôi cũng chắp nhặt lại mà hiểu được rằng: "Năm 1945 Nhật bắt trồng đay không cho trồng lúa nên người ta đói, người ta chết đầy đường. Hằng ngày có những chiếc xe bò đi dọc các phố Hà Nội để nhặt xác người chết, đem bỏ vào những hố chôn tập thể, rắc sơ sài ít vôi bột rồi lấp đất lại. Tối tối các nhà ở phố lấy nước đổ ra vỉa hè trước nhà để người ta sợ lạnh không đến nằm và chết trước cửa nhà mình. Có làng chết hết, người ta ôm nhau mà chết, mẹ nhìn con, con nhìn cha, cả nhà chết dần chết mòn trong cơn đói, người ta lăn lóc đầy đường nhiều đến mức chẳng ai buồn dọn, người chết đói cứ đen quắt lại... Ở làng của ông bà may là còn một số nhà có gạo đem nấu cháo phát chẩn nên mới ít người chết...?.
    Thế nhưng càng lớn lên chúng tôi càng thấy ít người nhắc tới cụm từ ?ochết đói năm 45? - đặc biệt là ở miền Nam - mà thay vào đó là ?oXômali? (mà ở Somalia người ta bị chết bao nhiêu người nhỉ?). Các bạn của tôi ngồi nghe tôi kể lại những chuyện tôi biết về ?ochết đói năm 45? đều nở nụ cười nghi hoặc. Họ có vẻ thích thú với những tin như ?oQ.D. lấy T.T.?, ?oM.T. tổ chức liveshow?... hơn là những chuyện kiểu ?obiết rồi, khổ lắm, nói mãi? như thế.
    Ngoại trừ một ?onghĩa trang người chết đói? nằm khuất đâu đó giữa các ngõ Hà Nội, ngoại trừ vài bài báo ?ođiểm tin? vào các dịp kỷ niệm, ngoại trừ những bức ảnh của cụ Võ An Ninh, hình như số phận bi thương của hàng triệu con người đã bị chúng ta lãng quên. Bởi vậy, xin cảm ơn Tuổi Trẻ đã cho đăng loạt phóng sự về nạn đói năm 1945. Bài học bi thương đó của lịch sử cần phải được mọi người ghi nhớ.
    Người Nhật sau năm 1945 đã luôn dạy nhau hãy nhìn vào thất bại của mình trong Thế chiến thứ 2 để vươn lên. Hi vọng qua bài học lịch sử về nạn đói năm 1945, chúng ta cũng rút ra được điều gì đó có ích hơn.
    THANH TÙNG (TP.HCM)
    Nên có ngày để tưởng nhớ
    Hiện nay có một số bạn trẻ đang có tư tưởng "xét lại" kiểu như: nếu chúng ta không đánh Pháp, không đánh Mỹ thì chúng ta vẫn được tự do, vẫn được giàu có như Hàn Quốc và Thái Lan...; hay tại sao ta phải hi sinh nhiều người như vậy để giành độc lập... Họ không hiểu được nỗi nhục mất nước, làm nô lệ cho chủ nghĩa đế quốc thực dân...
    Nhà nước nên có một ngày để tưởng nhớ những người dân bị chết vì nạn đói năm 1945 để giáo dục các thế hệ sau. Gia đình tôi có khoảng 10 người đã hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc. Ông bà ngoại và ông nội tôi hi sinh khi ba mẹ tôi mới được 1 tuổi. Ba tôi hiện nay đang thờ cúng hai bà mẹ VN anh hùng và những liệt sĩ.
    Tôi tự hào được sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng. Những người thân của tôi đã hi sinh vì đất nước, vì độc lập tự do của Tổ quốc, và còn rất nhiều người khác đã xả thân để đất nước chúng ta được như ngày hôm nay và mong muốn sẽ trở thành một nước có nền kinh tế hùng cường trên thế giới, nhưng mọi người vẫn không quên những năm tháng khổ đau của lịch sử dân tộc... Do vậy nên có thêm ngày tưởng niệm lịch sử này.
    TẠ ĐỨC MẠNH (Công ty Phần mềm Hà Nội)Copyright (C) 2004 Tuoi Tre Online
  5. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11

    Chúng ta không thể lãng quên 



    [​IMG]


    Nhiếp ảnh gia Võ An Ninh, chứng nhân và cũng là tác giả những bức ảnh vô giá về nạn đói năm Ất Dậu
    Sau bài viết "Chẳng lẽ chúng ta lãng quên" được đăng tải như một bức thư ngỏ nhắc nhở về nạn đói của 60 năm trước, nhà sử học Dương Trung Quốc, đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Nai đã có bức thư trả lời đầy đồng cảm với tác giả Sơn Trà.Gửi: bạn Sơn Trà (Đồng Nai)Tôi đã đọc bức thư ?oChẳng lẽ chúng ta lãng quên?? của bạn đăng trên Tuổi Trẻ ngày 3/2. Tôi rất trân trọng và chia sẻ sự đồng cảm của mình với bức thư bạn gửi cho tôi. Điều chắc chắn là tất cả những người thuộc thế hệ đã từng chứng kiến hay chịu đựng sự mất mát của nạn đói năm Ất Dậu 1945 sẽ không bao giờ quên nỗi đau và lòng căm hận trước thảm trạng đồng bào của mình. Tuy nhiên cũng có một sự thật như nỗi lo của bạn nêu ra về sự lãng quên quá khứ. Trong một thời gian dài, tuy trong sử sách hay sách giáo khoa có đề cập tới đôi dòng nhưng ít ai quan tâm đến số phận cụ thể của những đồng bào xấu số ấy. Chính anh em trong giới sử học chúng tôi và một số người quan tâm đã từng có lúc nhắc nhở đến việc tìm lại và sửa sang phần mộ của những đồng bào chết đói 1945 nhưng đã có lúc nó bị rơi vào sự lãng quên thật sự.Tôi nhớ, đến đầu những năm 1990, không phải ai khác lại chính là những bạn Nhật Bản là người khởi động mạnh mẽ cho việc tìm hiểu lại sự kiện này nhằm mục đích vừa bày tỏ tình cảm với nhân dân Việt Nam, vừa nhằm lên án chủ nghĩa phát xít Nhật. Chính giáo sư sử học Furuta Motoo lúc đó là chủ tịch Hội Hữu nghị Nhật - Việt đã triển khai một đề tài nghiên cứu về nạn đói 1945 và phối hợp với Viện Sử học Việt Nam mà chủ trì là giáo sư Văn Tạo. Các nhà chuyên môn của hai nước đã đi tới đến từng ngôi làng cụ thể trên địa bàn các tỉnh từ Quảng Trị trở ra, tổ chức điều tra thống kê để trả lời cho câu hỏi ?oCon số 2 triệu người chết đói từng được nêu lên trong bản tuyên ngôn độc lập 1945 có căn cứ xác thực không, đồng thời tìm hiểu những nguyên nhân gây nên nạn đói ấy?. Chính cuộc điều tra hết sức nghiêm túc và khoa học ấy với những kết luận của nó đã mang lại tính thuyết phục rất mạnh mẽ đặc biệt là với các bạn Nhật Bản. Chính vì thế mà có nhiều bạn Nhật Bản đến và nhờ chúng tôi đi tìm nơi chôn cất những người Việt Nam xấu số năm xưa. Chính trong quá trình đi tìm chúng tôi đã phát hiện ra được một trong những hố qui tập hài cốt những người chết đói và một số người chết vì bị bom của Mỹ oanh tạc trong năm 1944-1945 còn lại trong khuôn viên của một khu dân cư ở quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Những mộ táng tập thể này là do các tổ chức từ thiện đã qui tập lại ngay từ cuối thập kỷ 1940 và chôn cất trong khuôn viên của nghĩa trang Hợp Thiện. Cho đến những năm 1960 thì khu nghĩa trang bị giải tỏa và tại đây mọc lên một khu đô thị đông đúc. Chỉ nhờ có sự trông nom của một số người dân nặng nghĩa đồng bào nên khuôn viên nhỏ này không bị phá. Điều đáng mừng là ngay sau khi chúng tôi lên tiếng và được rất nhiều các cơ quan ngôn luận trong đó có báo Tuổi Trẻ phản ánh, lãnh đạo TP Hà Nội đã nhanh chóng thực hiện được việc xây dựng tại đây một khu tưởng niệm tuy nhỏ nhưng mang nhiều ý nghĩa. Giờ đây, khu tưởng niệm ngày càng hoàn chỉnh, bên phần mộ còn có cả nơi thờ phụng và trưng bày những hình ảnh về nạn đói năm 1945. Không chỉ những vị lãnh đạo thành phố mà thủ tướng đã có lần xuống tận nơi và gợi ý nên khắc một tấm bia tưởng niệm. Bài văn tế của giáo sư Vũ Khiêu viết từ năm 1945 đã được khắc tại khu vực này. Nhân dân nhiều nơi trong đó có cả những thân nhân của những người chết đói năm 1945 cũng đến đây thăm viếng. Đặc biệt, các bạn Nhật Bản và nhiều khách quốc tế cũng tìm đến như một di tích lịch sử.Tuy nhiên, tôi rất đồng ý với ý kiến của bạn là cần có một hình thức tưởng niệm nào cho tương xứng với nỗi đau lịch sử của dân tộc cách đây 60 năm và qua đó cũng để cho các thế hệ hôm nay và mai sau ý thức được giá trị cuộc sống mà mình đang được hưởng. Ý tưởng xây dựng một tượng đài tưởng niệm tại mảnh đất Thái Bình nơi chịu đựng những mất mát to lớn nhất là một ý tưởng rất gần gũi với nhiều người tôi đã trao đổi. Trong một bài báo viết trên tờ Nông Nghiệp số tết, tôi có đề cập tới những tượng đài tiêu biểu nhất của thế kỷ XX mà đáng tiếc cho đến thời điểm này vẫn chưa có. Đó là tượng đài Độc lập dựng tại thủ đô, một tượng đài Thống nhất tại TP.HCM và tượng đài tưởng niệm nạn đói năm 1945 tại Thái Bình. Hơn thế nữa, tôi cũng đã bàn với VietNamnet về việc khởi động công việc này và đã chuẩn bị một chương trình triển khai sau tết. Như thế là chúng ta đã đồng cảm với nhau. Mong rằng với bức thư của bạn cùng báo Tuổi Trẻ, chúng ta sẽ cùng nhau hành động để những gì bạn hình dung sẽ trở thành hiện thực trong một ngày gần đây.

    Dương Trung Quốc


    (Tuổi Trẻ)Đây cũng coi như lời tuyên bố (dù chưa thể coi là chính thức) của giới sử học về thảm hoạ này. Bạn metalmodel yên tâm, tôi tin 2 triệu đồng bào ta sẽ không bị lãng quên đâu
  6. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Nhân mùa xuân Ất Dậu 2005

    Nhớ lại nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945

    Thứ ba, 15/2/2005, 07:51 GMT+7


    Đã 60 năm trôi qua (1945-2005), nhân dân Việt Nam không ai không vui mừng nhớ lại mùaThu Ất Dậu 1945 - Cách mạng Tháng Tám thành công rực rỡ và không ai quên được thảm họa ?oHai triệu người chết đói?, cũng vào năm Ất Dậu này.

    [​IMG]

    Xác của những nạn nhân chết đói năm 1945 được chất lên xe đi chôn. Ảnh tư liệu (nguồn: ?oChủ tịch Hồ Chí Minh nói về tội ác chiến tranh xâm lược? Bảo tàng chứng tích chiến tranh 2003).Trong ấm no hạnh phúc của ?oĐổi mới thành công? hôm nay, chúng ta, nhất là những người lao động, nhìn lại đau thương xưa để tăng thêm sức phấn đấu chống thiên tai, địch họa hiện nay. Chính năm 1945, Đảng ta đã lấy thảm họa chết đói do đế quốc phát xít gây nên để cổ vũ đồng bào nổi dậy: ?oPhá kho thóc, cứu đói ! Diệt giặc Nhật Pháp, giành lấy chính quyền!?. Hiện nay, di họa của ?ochất độc màu da cam? do cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ để lại, cũng như thiên tai sóng thần khủng khiếp ở Ấn Độ Dương vừa cướp đi mạng sống của hơn 25 vạn người, lại luôn nhắc nhở chúng ta cần nêu cao cảnh giác.
    Nạn đói ở Việt Nam năm 1945 do phát xít Nhật và thực dân Pháp gây ra là một thảm họa có một không hai trong lịch sử dân tộc, từng được cả nhân loại quan tâm. Trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: ?oMùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng Minh thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói?.
    Con số hơn 2 triệu người chết đói, đến nay vẫn còn có người không tin. Kẻ gây ra nạn đói cho rằng nhiều lắm cũng chỉ tới 30 vạn người chết...
    Từ sự thôi thúc nội tâm, chúng tôi thấy cần phải làm rõ sự thực lịch sử này. Một cuộc điều tra theo phương pháp xã hội học lịch sử được tiến hành trong suốt nửa đầu thập kỷ 90 thế kỷ trước. Kết quả đạt được đã làm hài lòng nhiều người có thiện chí, kể cả một số nhà sử học Nhật, Pháp. Chúng tôi phải mở một cuộc điều tra quy mô tại 23 điểm, từ Quảng Trị trở ra. Kết quả cho thấy:
    Nạn đói diễn ra một cách phổ biến trên toàn miền Bắc, cao nhất là các trọng điểm thuộc miền duyên hải Bắc bộ:- Tây Lương (Thái Bình) tỷ lệ chết đói so với tổng số dân số là 66,66% - Bùi Xá (Quảng Yên): 73,7% - Quần Mục (Kiến An): 58,77 % -Đồng Côi (Nam Định): 56,35% - Tây Yên (Ninh Bình) 38,2%.Các tỉnh khác thuộc Đồng bằng sông Hồng, tỷ lệ chết đói cũng khá cao: -Bỉnh Trung (Hà Nam): 45,5% - La Khê Bắc (Hà Đông): 27,24% -Dương Húc (Bắc Ninh): 25,13% - Phương Thông (Hưng Yên): 23% - Nhũ Tỉnh (Hải Dương): 14, 6%. Hai thành phố lớn Hà Nội và Hải Phòng có ngoại thành nông nghiệp, nạn đói cũng không giảm bao nhiêu: Cổ Bi (Gia Lâm-Hà Nội): 9,74% - Chi Lai (An Lão ?" Hải Phòng ): 24,31%. Các tỉnh trung du cũng tương tự: Khả Lý (Bắc Giang): 12,5% - Hương Nộn (Phú Thọ): 13%. Các tỉnh miền núi, dân tộc ít người có thể nhờ lâm thổ sản cứu sống nhưng cũng không thoát đói: Nhượng Bạn (Hòa An ?" Cao Bằng): 8,37%. Yên Quảng (Lương Sơn - Hòa Bình): 18,75%. Các tỉnh miền Trung nhân dân trông vào đạo dụ của Bảo Đại ?oBãi bỏ lệ thu thóc? nhưng chỉ là bánh vẽ, nạn đói vẫn diễn ra nghiêm trọng: Thủ Phú (Quảng Xương - Thanh Hóa): 19,01%. - Làng Trung (Nghệ An) 30,14%. Thạch Môn (Hà Tĩnh): 11,06%. - Thổ Ngọa (Quảng Bình): 25,55%. - Cẩm Phổ (Quảng Trị): 13,25%.
    Những con số về tỷ lệ người chết đói so với cư dân ở các điểm cũng cho phép chúng ta có thể khái quát tương đối chính xác tỷ số người chết đói của cả miền Bắc. Cụ thể: Dựa vào các tỷ lệ cao nhất: 73,7% (Bùi Xá), 66,66% (Tây Lương), 58,77% (Quần Mục), 56,33% (Đồng Côi), và các tỷ lệ thấp nhất: 9,74% (Cổ Bi): 8,37% (Nhượng Bạn) mà lấy tỷ lệ trung bình thấp là 15% (với tổng số dân miền Bắc tính từ Quảng Trị trở ra năm 1943, theo thống kê của thực dân Pháp (Annuaire statistique de l ?~ Indochine 1943-1946 P.27-28 ) có: 13.156.300 người, thì con số hơn 2 triệu người chết đói là gần với thực tế.
    Nhưng tính thảm khốc của hiểm họa này không chỉ thể hiện ở những con số mà sâu sắc hơn, chân thực hơn, rùng rợn là ở lời kể của các nhân chứng còn sống sót mà đầu thập kỷ 90 thế kỷ trước đã tới 60, 70, 80 tuổi:
    1/ Nạn đói là vô cùng khủng khiếp vì nó kéo dài cái chết: Nạn nhân bị các cơn đói giày vò, đau khổ, tủi nhục. Nhìn thấy người thân chết mà không cứu được, biết đến lượt mình rồi cũng sẽ chết mà không thoát được. Muốn tìm cái sống đã phải dứt bỏ cửa nhà, mồ mả tổ tiên ra đi mong sao được cứu sống, nhưng rồi lại chết gục ở đầu đường, xó chợ... Những đoàn người đi lang thang thỉnh thoảng lại có người lả đi, ngã khuỵu xuống rồi chết. Có trẻ em nhai vú người mẹ đã chết, có người đi lĩnh chẩn bế đứa con trên tay nhưng con đã chết...
    2/ Nạn đói đã chôn vùi nhân phẩm, làm cho con người mất cả tính người: Cực chẳng đã, người đói phải đi ăn xin, ăn xin không được phải đi ăn cắp, đi cướp giật đến phải chịu roi đòn, rồi cuối cùng cũng chết. Có người cướp giật một mẩu bánh mì bị sen đầm đánh đến chết, thậm chí có người phải ăn cả cái người ta nôn oẹ ra, ăn cả những hạt ngô đãi từ *** ngựa của Nhật. Cuối cùng là ăn cả thịt người như có nhà văn đã mô tả... Thật là rùng rợn!
    Người Việt Nam vốn sống có đạo lý,vậy mà nạn đói khủng khiếp ập tới đã khiến cha bỏ con, vợ bỏ chồng, anh em bỏ nhau. Cá biệt có người còn hủy hoại cả người thân để giành lấy phần cơm mong thoát chết, nhưng rồi cũng chết...
    3/-Nạn đói là vô cùng thảm khốc: Người Việl Nam vốn trọng lễ nghi tang ma, nhưng nay nạn chết đói diễn ra khắp làng: có nhà chết cả nhà, có dòng họ chết cả họ, hàng chục xóm làng chết cả xóm làng, khiến chết không còn ván mà chôn, không còn đủ chiếu mà bó, thậm chí chết nhiều không khiêng vác xuể phải lấy dây thừng, dây thép buộc cổ mà kéo đi như trong hơn 200 bộ hài cốt đào được ở bãi Quần Mục Hải Phòng đã cho thấy...
    Đau thương vô hạn kể sao cho xiết mà di hại lâu dài của thảm họa này cũng không thể quên. Bởi vì nạn đói:
    a/ Hủy diệt cuộc sống.
    b/ Tàn phá môi sinh.
    c/ Làm hư hao sức lao động.
    d/ Gây đình đốn nền nông nghiệp.
    đ/ Một phần nào hủy hoại nền
    văn hóa.
    e/ Làm giảm sút thể lực, trí lực của các thế hệ kế tiếp...
    Kết quả điều tra nghiên cứu kể trên của chúng tôi được công bố trong cuốn sách: ?oNạn đói năm 1945 ở Việt Nam - Những chứng tích lịch sử? ra mắt đại chúng trong nước và quốc tế ngày 28 tháng 8 năm 1995. Ngay sau đó, ngày 31 ?"8, đài BBC Luân Đôn phỏng vấn tôi và công bố, tiếp đến các đài phát thanh Nhật, Mỹ, Pháp, Hàn Quốc... đưa tin. Con số hơn 2 triệu người chết đói mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra năm 1945 đã được chứng minh một cách có sức thuyết phục. Một bộ ghi âm lời các nhân chứng gần 40 đĩa mềm được chúng tôi tặng để lưu giữ ở Bảo tàng Cách mạng Việt Nam. Có đoàn du khách phương Tây đến nghe đã bồi hồi xúc động nói: ?oNếu không có công trình này ghi lại thì nay mai các nhân chứng đã 70, 80 tuổi qua đời, nhân loại còn làm sao được nghe những lời nói lịch sử này để nêu cao cảnh giác!?. Hàng trăm bài báo đã được công bố trong và ngoài nước từ 1995 đến nay. Một số hội thảo khoa học đã được tổ chức ở Nhật Bản, Hàn Quốc... Đặc biệt là một Đài tưởng niệm đã được Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội cho xây dựng kịp thời, ở nghĩa trang Hợp Thiện, nay thuộc phường Kim Ngưu, quận Hai Bà Trưng.
    Tất cả đều nhằm một mục đích chung là nêu cao tinh thần cảnh giác chống mọi thế lực *********, hiếu chiến, hiếu sát, ngăn ngừa chiến tranh xâm lược hủy diệt, bảo vệ hòa bình, xây dựng tinh thần hiểu biết lẫn nhau và tình hữu nghị giữa các dân tộc trong cộng đồng quốc tế.
    Các nhà lãnh đạo Hà Nội đã có dự kiến sẽ xây dựng một đài tưởng niệm lớn ở một địa điểm rộng rãi hơn, thuận tiện hơn là ở khu nghĩa trang Hợp Thiện (đã bị thu hẹp chỉ còn gần 200 thước vuông, qua những ngõ, ngách khó tìm). Chúng tôi nghĩ nên xây dựng đài tưởng niệm này ở khu Giáp Bát, nơi đã từng là chỗ thu nhận những người đói khát ?ogần đất xa trời ?o, trước khi đưa họ ra nghĩa địa tập thể cùng hàng nghìn, hàng vạn nạn nhân cùng cảnh ngộ. Ở châu Âu nhiều nước, như ở Áo, cũng xây đài tưởng niệm các nạn nhân do bệnh dịch hạch gây ra hồi trung thế kỷ. Ở Nhật Bản, đã có khu tưởng niệm thảm họa do bom nguyên tử gây nên ở Hi-rô-si-ma và và Na-ga-da-ki.
    Chúng ta xây đài tưởng niệm nạn nhân chết đói năm 1945 cũng như toàn thể nhân loại đều vì người đang sống mà nhớ lại thảm họa của những người bất hạnh đã quá cố, nhằm xây dựng một tương lai hòa bình, hạnh phúc cho mọi con người.
    GS. VĂN TẠO
  7. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Thứ ba, 4/9/2001, 09:14 (GMT+7)


    Ngày tưởng niệm đồng bào chết vì nạn đói 1945
    Sáng 2/9/2001, ông Hoàng Văn Nghiên, Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội, ông Nguyễn Quốc Triệu, Phó chủ tịch Ủy ban, cùng đại diện Hội Khoa học Lịch sử đã thắp hương tưởng niệm tại nghĩa trang Hợp Thiện cũ (phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng).
    Tại nơi chôn cất hàng nghìn đồng bào chết vì nạn đói năm 1945 này, lãnh đạo thành phố quyết định lấy 15/7 âm lịch hằng năm là ngày tưởng niệm họ. Thành phố cũng giao cho ban quản lý nghĩa trang nghiên cứu, thiết kế, xây dựng Hợp Thiện thành khu chứng tích nạn đói năm Ất Dậu, đồng thời xúc tiến việc đề nghị công nhận nơi đây là di tích lịch sử.
    Ông Triệu cho biết, trước mắt sẽ trùng tu, tôn tạo khu vực hiện có (trên diện tích 120 m2 gồm một tấm bia dựng năm 1951, bể xương và cả nghìn hài cốt). Tiếp đó, sẽ quy hoạch lại khu vực, mở đường và giải tỏa một số hộ dân. Cuối cùng sẽ tham khảo ý kiến các nhà chuyên môn để xây dựng một tượng đài tưởng niệm.
    (Theo Tuổi Trẻ)Hoá ra cũng đã có 1 ngày kỷ niệm rồi đấy các bác ạ. Thôi thì chẳng biết ai tính sao, cứ ngày Rằm tháng 7 hàng năm chúng ta cùng thắp 1 nén hương cho những nạn nhân này chắc cũng đỡ áy náy, các bác nhỉ ...
  8. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Thứ hai, 20/8/2001, 15:40 (GMT+7)


    Sống với những oan hồn
    [​IMG]

    Chị Nhung đã 15 năm hương khói cho những oan hồn.
    15 năm nay, chị Trần Hồng Nhung là người duy nhất giữ gìn chứng tích, chăm nom hương khói cho những oan hồn xấu số trong thời kỳ nạn đói năm 1945 ở "bể xương" nằm giữa ngách 86, ngõ 559 (Kim Ngưu, Hà Nội).
    "Bể xương" là hầm dùng để hất xác người chết đói xuống, ăn sâu vào lòng đất 8 m. Ngay trên mảnh vườn, chỉ cần bới qua một lớp đất mỏng là có thể thấy các lớp tiểu xếp lên nhau.
    Năm 1985, vợ chồng chị Nhung dắt díu nhau mua mảnh đất liền kề "bể xương" vì ít tiền. Ban đầu chưa có tiền dựng nhà, họ quây tạm cái lều bằng cót ép. Ngày ngày, chồng chị đạp xích lô kiếm sống còn chị đi bán mớ rau, con cá và bắt đầu hương khói chăm nom các cụ nằm trên mảnh đất kế bên. Có người quen xuống thăm lấy làm ái ngại cho chị: "Anh chị sống chung với người chết thế này biết bao giờ mở mày, mở mặt được". Nhưng rồi anh chị cũng bán được nửa mảnh đất phía ngoài được 4 cây vàng. Xây căn nhà nhỏ hết 2,5 cây còn lại lo cho các cụ được mồ yên mả đẹp.
    Chị mua hơn 300 cái tiểu, thuê thêm mấy người xe thồ, bốc vác, cùng mình tìm hài cốt xung quanh tấm bia để xếp vào tiểu. Không thể phân biệt từng bộ hài cốt, chị đành để các cụ nằm lẫn nhau. Cả nghìn hài cốt nơi đây chủ yếu là vô danh. Họa hoằn lắm mới có vài tấm bia bê bết bùn đất hay dòng chữ mập mờ trên những viên gạch vuông đậy lên mỗi tiểu. Chị Nhung nhặt nhạnh dần như người đãi cát tìm vàng mong cho những hài cốt không còn ba chữ "vô thừa nhận".
    Cơn lốc đô thị hoá khiến người với ma giành nhau đất sống. Để giữ được tấm bia lớn cùng chốn yên nghỉ cho những vong hồn, chị xin gạch phá từ những ngôi nhà cũ để về xây tường. Từ bữa đó, có khi đã 1-2 giờ đêm mà bà con lối xóm vẫn thấy chị ngồi đẽo gạch cần mẫn trong vườn. Cứ như thế, bức tường cao 2,5 m bao quanh mảnh vườn mất 2 năm mới xây xong. Chị dựng thêm cái miếu nhỏ để hương khói. Không ít người đến xin mua một khoảng đất với giá 20-30 triệu đồng, nhưng vợ chồng chị bảo nhau quyết không "tham bát bỏ mâm".
    Gia đình chị vẫn rất nghèo. Anh Thắng, trụ cột gia đình, nhọc nhằn đạp những xe kiếm mỗi ngày vài chục nghìn. Chị thì đi chợ bữa đực, bữa cái nên làm thêm nghề "chỉ chỏ" giúp người cần mua nhà, đất hay tìm địa chỉ ở chốn "ngõ giăng mắc cửi" này để kiếm thêm mấy nghìn lẻ. Mới đây, chị bị tai nạn phải bó bột nhưng sớm chiều chị vẫn lặng lẽ quét dọn chốn yên nghỉ của những oan hồn không mảy may liên can tới mình.
    (Theo Tuổi Trẻ)
  9. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11

    Võ An Ninh và 100 mùa xuân20/02/2005 11:58 GMT +7
    Nước da vẫn đỏ đắn, mái tóc bạc trắng dựng đứng như bờm sư tử, con người cụ toát lên vẻ dung ung của một vị lão tướng. Trải qua hầu hết những thăng trầm của lịch sử đất nước thế kỷ 20, Tết Ất Dậu này cụ Võ An Ninh đang hưởng mùa xuân thứ 100 của cuộc đời.Vài tâm sự về nghề [​IMG]Sau già nửa thế kỷ trong hành trình chinh phục cái đẹp, dấu chân in trên khắp mọi nẻo đường Tổ quốc, đạt được rất nhiều giải thưởng trong nước và quốc tế, đến nay do tuổi già sức yếu, lão nghệ sĩ Võ An Ninh đã thực sự nghỉ ngơi. Hằng ngày cụ được con cháu chăm chút bữa ăn, giấc ngủ. Đều đặn hằng tuần cụ vẫn đi nghe nhạc, ra ngoại ô ngắm cảnh thiên nhiên... Di chuyển khó khăn, mắt đã mờ nhưng trí tuệ cụ Võ còn rất mẫn tiệp. Bằng giọng rủ rỉ, cụ hào hứng ôn lại vài kỷ niệm trong quãng đời cầm máy, cái thời mà cụ được anh em đồng nghiệp gọi là người luôn "đầu têu" ra đề tài mới. Người đầu tiên giới thiệu Sapa với công chúng. Người phát hiện ra những cái đẹp "một đi không trở lại" của thời đại như cảnh chợ hoa ngày Tết, vẻ đẹp của các cô thiếu nữ thời những năm 30, những ông đồ nho bày mực tàu giấy dó viết câu đối xuân, đưa bút hất lên nét cong sống động...

    Các nhà phê bình nghệ thuật Pháp đã gọi cụ Võ là "con người của phong cảnh" hay "nói đến Võ An Ninh là nói đến phong cảnh". Tổ quốc trong tác phẩm Võ An Ninh đẹp như những áng thơ giàu chất sử thi. Hỏi cụ có bí quyết riêng gì khi cầm máy, cụ sôi nổi: "Thực ra cũng là cảnh ấy nhưng chỉ cần nhích máy lên cao một chút hoặc thấp xuống một chút, sang trái một chút hoặc sang phải một chút... là bức ảnh đã khác. Phải "bới" chỗ đó ra bằng mắt để chộp được cái đẹp". Trong một chuyến đi săn ảnh với 9 anh em ở một vùng quê tại Nam Định, Võ An Ninh thời đó dám "chấp" anh em chọn cảnh chụp trước còn mình chỉ được chọn những góc mà anh em... không thèm chụp. Dẫu vậy, tác phẩm của Võ An Ninh lúc đó khiến đồng nghiệp kinh ngạc. Theo cụ, cái quan trọng nhất của người nghệ sĩ là phải đi nhiều. Đi và thu lại trong ống kính của mình những hình ảnh và sự kiện, nếu chỉ "quanh quẩn xó nhà" rồi cũng sẽ nhàm. Sức đi của cụ khiến mọi người kinh ngạc. Để "chinh phục Sapa", cụ đã lên đó không dưới 40 lần, từng đứng lên yên ngựa, vươn qua hàng rào thưa chọn góc độ đẹp để bấm máy, hoặc ngồi "rình" cả tuần liền để "chớp" được khoảnh khắc cả Sapa trong biển mây trắng bồng bềnh... "Cụ chụp ảnh có tốn nhiều phim không ạ?". Cụ lắc đầu quả quyết: "Tôi chụp cái nào chắc cái ấy. Chọn ảnh ngay ở mắt chứ chẳng đợi ra phim". Rất nhiều cảnh bình thường khi vào ống kính của cụ bỗng trở nên mới lạ. Bằng giọng nghiêm trang, cụ yêu cầu tôi đến trước một bức ảnh treo trên tường chụp mảnh ruộng cày ải, trên con đường với hàng cây trụi lá chạy thấp thoáng bóng một người nhỏ bé và cụ giải thích: "Người phụ nữ thu hai tay co ro vào trong áo, không buồn đỡ lấy đôi quanh gánh trên vai - cử chỉ này đặc tả được cái giá lạnh của miền Bắc... Tôi luôn chú ý làm sao cho bức ảnh có hồn, gợi sự suy ngẫm, nhìn lâu sẽ toát lên cảm xúc". Hẳn đây sẽ là những kinh nghiệm quý cho các lớp nghệ sĩ đi sau.

    Hình ảnh người phụ nữ trong ảnh Võ An Ninh


    [​IMG]

    Nón chợ làng - tác phẩm của Võ An Ninh
    Phụ nữ luôn là đề tài hấp dẫn cho các nhà nhiếp ảnh. Ảnh phụ nữ so với khối lượng tác phẩm của cụ Võ không nhiều, song đều rất ấn tượng, đã khắc họa được cái đẹp đằm thắm rất riêng của phụ nữ Việt ở mỗi vùng đất, qua mỗi thời kỳ. Tôi hỏi cụ về cô gái ngã người trên đống rơm vàng trong tác phẩm Hương lúa. Lim dim mắt, khẽ vuốt chòm râu cước, cụ thong thả kể về chuyến đi Hà Đông năm 1950 tình cờ gặp một cô gái nhìn có duyên. Võ An Ninh đề nghị cô tựa vào cây rơm để chụp ảnh, không ngờ rơm lún làm cô mất đà... "Giời cho tôi cái ngã rất tự nhiên ấy! Và cô gái cắn cọng rơm trên môi là một ẩn ý của tôi đấy". Tuy vậy, cô gái ấy là ai, cụ không biết tên và chưa một lần được gặp lại... Rất nhiều ảnh phụ nữ đã bị hủy hoại bởi... những cơn ghen của người vợ quá cố. "Vợ quá cố của tôi ghen lắm! Ghen ơi là ghen! Mà tôi thì rất "nhát": nhiều phụ nữ theo đuổi nhưng không khi nào dám "dây" vào. Niềm say mê cầm máy là tất cả đối với tôi. Bạn bè thường đùa: cổng nhà thằng Ninh phải dán chữ: nhà có vợ dữ! Chuyện bà ấy lấy kim chọc... thủng mắt phụ nữ trong các tấm phim đã được nhiều bài báo quốc tế nhắc đến". Nhiều người biết tính bà vợ ghen nên càng trêu chọc. Mà trêu rất "ác"! Chẳng hạn, trong một buổi chợ, có bốn cô gái đi du xuân thấy hai vợ chồng anh chàng nhiếp ảnh bèn cố ý vẫy chàng đầy... tình ý. Lập tức bà xã sôi sục: ?oKìa! Ra với các mẹ đi không có lại bất hiếu?. Khi chàng nghệ sĩ bị tai nạn, phải cưa nửa bàn chân, vài phụ nữ vào viện thăm cũng bị vợ ngấm nguýt, dằn vặt...

    "Có khi nào cụ khai thác đề tài ảnh nude?". "Nude là một đề tài khó và tinh tế. Những năm 1940-1950 tôi cũng thuê người mẫu chụp khỏa thân nhưng chưa từng công bố những ảnh đó". "Vì cụ chưa ưng ý hay là...?". Cụ sôi nổi cắt lời: "Nếu không đẹp thì tôi đã không chụp! Song đó là những ảnh chụp cho riêng mình. Khi chết tôi sẽ mang theo xuống mồ".

    Nỗi niềm ở tuổi bách niên
    Gần 70 năm cầm máy, khối lượng phim ảnh của cụ Võ thật đồ sộ. Nhiều năm nay, việc bảo quản chúng là việc cụ lo lắng hằng ngày. Cụ gọi chị Lộc, con gái cụ, dẫn tôi đi xem nơi cất giữ phim ảnh. Một căn phòng đầy chật những thùng carton lớn nhỏ. "Đấy là những tư liệu của bố tôi, còn nhiều bộ ảnh quý chưa từng công bố. Chúng tôi cố gắng bảo quản ở mức tốt nhất có thể, nhưng nếu không có các phương tiện bảo quản hiện đại ắt chúng sẽ bị hủy hoại bởi thời gian". Nhiều tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước muốn nghiên cứu về các tác phẩm của cụ nhưng gia đình không thể giở những kho phim ảnh ấy ra được. Con cái cụ có ý định lập cho cụ một bảo tàng cá nhân trên một mảnh đất của gia đình ở quận 2. Nhưng rất không may mảnh đất ấy rơi vào khu quy hoạch "treo" từ nhiều năm nay. Gia đình đã yêu cầu được đổi lấy mảnh đất khác để có thể mở bảo tàng. Đây cũng là nguyện vọng của của Sở Văn hóa, Hội Nhiếp ảnh TP.HCM và những người yêu kính cụ Võ. Nhưng hiện vẫn phải chờ... quy hoạch. "Chờ thì chờ đến bao giờ ? - giọng cụ đầy thất vọng - Nếu tôi chết đi, kho tư liệu này hỏng rồi mọi người mới tiếc rẻ thì đã quá muộn!".

    Bộ lịch sử bằng hình ảnh đồ sộ hầu như xuyên suốt thế kỷ 20 này nếu không được bảo quản đúng, để thất tán và hư hỏng thì sẽ là một tội lớn không chỉ của một cá nhân. Thiết nghĩ, đây chính là trách nhiệm của những nhà bảo tồn di sản văn hóa.

    Rất mong trong mùa xuân này niềm mơ ước của lão nghệ sĩ thành hiện thực: tự tay cắt băng khánh thành bảo tàng nghệ thuật của mình. Đó là việc làm cuối cùng của cụ vì hậu thế. Nhưng để làm được điều đó hẳn còn phải hy vọng và chờ đợi.


    Với hàng vạn thước phim sự kiện trọng đại của quốc gia qua các thời kỳ, cụ Võ An Ninh được công nhận là "Người thư ký trung thành của thời đại". Xuân Ất Dậu này gợi nhớ về năm 1945 mà cụ là người duy nhất ghi lại được sự kiện nạn đói khủng khiếp. Cụ Võ còn nhớ rõ hình ảnh từng đoàn xe bò chở xác người đi đổ về hố chôn tập thể. Trong đó có nhiều người còn thoi thóp, cố bật rên: "Tôi chưa chết đâu!"... Bộ phóng sự ảnh đó giúp cả thế giới biết thêm về tội ác dã man của phát xít. Cách nay hơn 3 năm, một hãng truyền hình Nhật đã rước cụ ra Hà Nội làm nhân chứng lịch sử cho nạn đói năm 1945. Đích thân cụ dẫn họ tới "xóm liều" Thanh Nhàn, dùng ba-toong vạch cỏ chỉ ra tấm bia của hố chôn hàng ngàn xác chết. Một nhà văn Nhật xúc động nói với cụ: "Nếu chúng tôi không làm ra cái đói ở Việt Nam thì chính chúng tôi cũng chết đói". Nhà văn này đã thừa nhận trong một tác phẩm văn học: chính ông đã được nuôi sống bằng những hạt gạo Việt Nam năm 1945 được chở về Nhật...
    Theo TNO
    Đọc cái đoạn chữ đỏ đỏ trong khung ở trên mà tôi thấy gai hết cả người, các bác ạ....
  10. Buran

    Buran Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/08/2003
    Bài viết:
    40
    Đã được thích:
    0
    Còn một yếu tố tự nhiên gây nên nạn đó năm 1945 nhưng người ta không bàn tới.

Chia sẻ trang này