1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nạn đói năm 1945

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi lonesome, 01/03/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Đói
    Bàng Bá Lân
    Năm Ất-Đậu tháng ba còn nhớ mãi
    Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương !
    Những thây ma thất thểu ngoài đường,
    Rồi ngã ngục không đứng lên vì ... đói!
    Đói từ Bắc-Giang đói về Hà-Nội,
    Đói ở Thanh-Bình đói tới Gia-Lâm
    Khắp đường xa những xác đói rên nằm
    Trong nắng lửa, trong bụi lầm co quắp.
    Giữa đống giẻ chỉ còn đôi hố mắt
    Đọng chút hồn sắp tắt của thây ma
    Những cánh tay gầy quờ quạng khua khua
    Như muốn bắt những gì vô ảnh
    Dưới mớ tóc rối bù và kết bánh
    Một làn da đen sạm bọc xương đầu
    Răng nhe ra như những chiếc đầu lâu
    Má hóp lại, răng hằn sâu gớm ghiếc
    Già, trẻ, gái, trai không còn phân biệt,
    Họ giống nhau như là những thây ma,
    Như những bộ xương còn dính chút da,
    Chưa chết đã bốc xa mùi tử khí !
    Mùi nhạt nheõ, nặng nề, kỳ dị,
    Mội muì tanh lộn mửa thoảng ma kinh
    Mùi tanh hôi ám ảnh bên mình,
    Khiến cả tháng ăn không còn ngon bữa!
    Những thây đó cứ xỉu dần, tắt thở
    Nằm cong queo, mắt vẫn mở trừng trừng
    Tròng con ngươi còn đọng lệ rưng rưng
    Miệng meó xệch như còn khóc dang dở
    Có thây chết ba hôm còn nằm đó,
    Ruồi tám phương bâu lại khóc vo vo ...
    Rồi ven đương đôi nhát cuốc hững hờ
    Đắp điếm vội những nấm mồ nông nỗi !
    Rải ven đường những nấm mộ âm thầm
    Được đánh dấu bằng ruồi xanh cỏ tốt
    Có nấm mộ quá nông, trơ hài cốt,
    Mùi hôi tanh nồng nặc khắp không gian
    Sau vài trận mưa nước xối chan chan
    Ôi thịt rửa xương tàn phơi rải rác!
    Đói từ Bắc-Giang đói về Hà-Nội,
    Đói ở Thanh-Bình đói tới Gia-Lâm
    Tại Hà-Nội cùng như bao tỉnh khác
    Những thây ma ngày lết dến càng đông,
    Đem ruồi theo cùng hơi hớm tanh nồng,
    Rồi ngã ngục khắp đầu đường cuối ngõ
    Thường sớm sớm cửa mỗi nhà hé ngỏ
    Rụt rè xem có xác chết nào chăng !
    Từng chiếc xe bò bánh rít khô khan
    Mỗi sáng dạo khắp nẻo đường nhặt xác
    Xác chồng chất lù lù như đống rác,
    Đó đây thò khô đét một bàn chân
    Hay cánh tay gầy tím ngắt teo răn
    Giơ chới với như níu làn không khí,
    như cầu cứu, như vẫy người chú ý
    Có hơi thở tàn thoi thóp, chưa thôi
    Có tiếng cựa mình tiếng nấc .. Những tròng ngươi
    Nhìn đẫm lệ người chôn ngươì chưa chết !
    Bốn ngoại ô mở ra từng dẫy huyệt
    Được lấp đầy bằng xác chết thường xuyên
    Ruồi như mây bay rợp cả một miền ...
    Chết ! Chết ! Chết ! Hai triệu ngươì đã chết !
    Họ là những người quê non nước Việt
    Sống cần lao bên ruộng lúa, đồng khoaị
    Luá xanh rờn nhờ họ đổ mồ hôi
    Nước Việt sống vì mồ hôi họ đổ
    Năm ấy thuở Nhật Tây còn đô hộ,
    Chúng thi nhau cướp luá cuả dân ta
    Hết luá rôì, hết sạch cả khoai ngô,
    Hết củ chuối, hết nhẵn khô, cả sắn !
    Ngày giáp hạt, không còn chi gặm nhấm
    Đói cháy lòng, đành nhá cả mo cau
    Nhai cả bèo và nuốt cả khô dầu!
    Đói đói đói người nhao lên vì đói
    Đói từ Bắc-Giang đói về Hà-Nội,
    Đói ở Thanh-Bình đói tới Gia-Lâm
    Tạm biệt quê hương, lê gót âm thầm
    Trên rải rác mọi nẻo đường
    Từng gia đình dắt diú nhau lê bước
    Đi lang thang mong sống tạm qua ngày
    Đợi lúa hương, bông trĩu đâu cây
    Những đau đớn hỡi ơi là ảo mộng
    Họ ra đi hy vọng có ngày về !
    Nhưng chẳng bao giờ về nữa hỡi ngươì quệ
    Dần lả gục khắp đâù đường xó chợ !
    Cùng lúc ấy cũng trên đường rộn rã
    Từng đoàn xe chuyên chở thóc vàng tươi
    Thóc của dân đen, thóc của những ngươì
    Đang chết đói vì thực dân cướp thóc.
    Thóc chúng cướp phần vung xài huy hoắc
    Phần chúng đem để mục nát trong kho !
    Ôi, đau thương chưa từng thấy bao giờ ...
    Trong lich sử chưa bao giờ từng có
    Hai triệu ngươì vì thực dân lìa bỏ
    Nước thân yêu, oan uổng chết đau thương,
    Trong lúc đầy đồng bát ngát ở quê hương,
    Lúa mơn mởn đang ra đòng trổ trái
    Lúa trĩu hạt vàng tươi sai gấp bội,
    Ngạt ngào thơm báo hiệu ấm no vuị
    Nhưng ngươì đi không về nữa than ôi !
    Lúa chín gục chẳng còn ai gặt hái ! ...
    Ta nhớ maĩ cái thời kỳ đen tối !
    Quên làm sao tội lôĩ kẻ xâm lăng !
    Quên làm sao mối thù hân. khôn cùng !
    Quên sao được hai triệu ngươì chết đói !
    Năm Ất Dậu tháng ba còn nhớ mãi
    Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương!
    Những thây ma thất thểu đầy đường,
    Rồi ngã gục không đứng lên vì ... đói
    Đói từ Bắc-Giang đói về Hà-Nội,
    Đói ở Thanh-Bình đói tới Gia-Lâm

  2. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Chiếc Xe Xác Qua Phường Dạ Lạc
    Văn Cao
    Ngã tư nghiêng nghiêng đốm lửa
    Chập chờn ảo hóa tà ma...
    Đôi dãy hồng lâu cửa mở phấn sa
    Rũ rượi tóc những hình hài địa ngục
    Lạnh ngắt tiếng ca nhi phách giục
    Tình tang... Não nuột khóc tàn sương
    áo thế hoa rũ rượi lượn đêm trường
    Từng mỹ thể rạc hơi đèn phù thể
    Ta đi giữa đường dương thế
    Bóng tối âm thầm rụng xuống chân cây...
    Tiếng xe ma chở vội một đêm gầy
    Xác trụy lạc rũ bên thềm lá phủ
    Ai hát khúc thanh xuân hờ ơi phấn nữ
    Thanh xuân hờ thanh xuân
    Bước gần ta chút nữa thêm gần
    Khoảng giữa tuổi thanh xuân nghe loạn trùng hút tủy
    Ai hủy đời trên tang trống nhỉ?
    Hay ác thần gõ quách nạo mồ khuya!
    Đảo điên... mê say... Thể phách chia lìa
    Nghe reo mạnh, chuỗi tiền cười lạnh lẽo!
    Tiền rơi! Tiền rơi! chùm sao huyền diệu
    Lấp lánh hằng hà gạo rơi! Tiền rơi!
    - Vàng mấy lá thừa đãi mây phủ chiếu
    Ngã tư nghiêng nghiêng chia nẻo
    Dặt dìu cung bậc âm dương
    Tàn xuân nhễ nhại mưa cô tịch
    Đầm đìa rả rích phương Đông
    Mang mang thở dài hồn đất trích
    Lưỡi thép trùng trùng khép cố đô
    Cửa ô đau khổ
    Bốn ngả âm u
    (Nhà ta thuê mái gục tự mùa thu
    Gác cô độc hướng về phường Dạ Lạc)
    Đêm đêm, dài canh tan tác
    Bốn vực nhạc động, vẫy người
    Giãy đèn chao thắp đỏ quạnh máu đời
    Ta về gác chiếu chăn gào tự tử
    Trên đường tối đêm khỏa thân khiêu vũ
    Kèn nhịp xa điệu múa vô luân
    Run rẩy giao duyên khối nhạc trầm trầm
    Hun hút gió nâng cầm ca nặng nhọc
    Kiếp người tang tóc
    Loạn lạc đòi xương chất lên xương
    Một nửa kêu than, ma đói sa trường
    Còn một nửa lang thang tìm khoái lạc
    Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác
    Đi vào ngõ khói công yên
    Thấy bâng khuâng lối cỏ hư huyền
    Hương nha phiến chập chờn mộng ảo
    Bánh nghiến nhựa đường nghe sào sạo
    - Ai vạc xương đổ sọ xuống lòng xe
    Chiếc quỷ xa qua bốn ngả ê chề
    Chở vạn kiếp đi hoang ra khỏi vực
    Mưa, mưa hằng thao thức
    Trong phố lội đìu hiu
    Mưa, mưa tràn trên vực
    - Hang tối gục tiêu điều
    Mang linh hồn cô liêu
    Tiếng xe càng ám ảnh
    Tiếng xa dần xa lánh
    Khi gà đầu ô kêu.
    1945

  3. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Thứ Bảy, 05/03/2005, 06:43 (GMT+7)
    Nạn đói năm 1945
    Sống qua cơn đói

    [​IMG]

    Những người đói cướp lại thóc gạo do Nhật chiếm, bị quân đội Nhật hành hung (1945) - Ảnh: Võ An NinhTT - Gia đình ông bà tôi thuộc lớp trung lưu. Bà nội và mẹ tôi rất căn cơ, tiết kiệm. Thế mà không thoát đói. Sau này lớn lên tôi mới biết đó là cái đói Ất Dậu - cái đói mênh mông trùm khắp bao vùng miền, bao tỉnh huyện, không đâu và không ai thoát khỏi được.
    Cái đói không của riêng ai
    Tôi là cháu trai nên được bà rất chiều, còn mẹ - khỏi phải nói. Chợ về bao giờ cũng có quà. Quà phiên chợ đói mẹ đưa về cho chúng tôi lúc tấm mía gầy, lúc mấy củ khoai lang còi cọc. Mấy đứa em xúm quanh nhìn tôi bóc khoai, bóc cẩn thận cho thật hết vỏ.
    Khoai được chia cho hai em phần lớn, còn tôi phần nhỏ hơn bởi tôi còn được tất cả phần vỏ còn lại, vun một nắm cho vào miệng nhai ngon lành. Vỏ khoai là thứ xưa nay không ai ăn vì nào có tiêu được, ăn vào bụng rồi trả lại cho đất mà thôi. Mấy anh em xúm quanh mấy củ khoai, trịnh trọng bóc và hăm hở nhai cả vỏ - đó là kỷ niệm về đói tôi không bao giờ quên.
    Cả làng hiu hắt, vườn cổng đóng kín. Thế mà vẫn có người chui được vào nhà vì không còn chó. Người không có cái ăn thì chó cũng chết hết để làm cái ăn cho người. Người làm mướn cho ông bà tôi, một người đàn bà góa rất nghèo, đến thăm ông bà, ngồi ở góc nhà, mắt nhìn khắp trần nhà, dưới nhà. Không phải đến bây giờ mà ngay từ lúc ấy tôi đã thấy mắt của người đói rất đặc biệt.
    Quan sát bà làm mướn và quan sát những người trong làng tha thẩn ngoài đường, ngoài ngõ tôi thấy họ thân hình thì khô quắt, chỉ còn da bọc xương, đi đứng không vững, cử động thì chậm chạp, nhưng mắt lại rất tinh. Cặp mắt săm soi nhìn khắp mặt đất và đảo khắp chung quanh để tìm.
    Tìm một mầm xanh của cây lá để ngắt; tìm một cái gì còn động đậy để vồ lấy, bất kể đó là con chuột, con nhái, con cào cào, thậm chí là con kiến, con gián. Tôi nhớ lần ấy bà làm mướn có nói với mẹ tôi là gián ăn cũng được, và còn ngon là đằng khác. Người đói ăn được cả gián, đó là tri thức của tôi trong năm đói 1945.
    Sau này xem phim Papillon - người tù khổ sai khi thấy Papillon nằm bẹp trên nền đất, tay quờ quạng, ráo riết bắt cho được một con gián dưới quầng sáng của ánh đèn phòng biệt giam, tôi lại nhớ đến câu chuyện mẹ tôi được nghe từ một người đói ngày ấy.
    Rồi lại nhớ đến lần đón khách Cộng hòa dân chủ Đức, năm 1972, ở khách sạn Métropole, Hà Nội, khi thấy một con gián lấp ló ở góc phòng, ông bạn giáo sư Hans Kortum bỗng kinh hãi và đòi đổi phòng ngay. Bởi, với ông, gián là thứ insecte (côn trùng) kinh tởm nhất.
    ?oNghệ thuật làm no?

    [​IMG]

    Đói quá phải ăn cả thịt chuột - Ảnh: Võ An Ninh
    Cái năm Dậu ấy tôi được thấy, hoặc được nghe kể biết bao người trong làng đã cố níu lấy sự sống bằng tất cả những gì có thể ăn được. Thân và gốc cây chuối và cây đu đủ. Gốc củ ráy (ngứa vô cùng). Rau má và tất cả các loại rau dại mọc ở rìa làng. Kể cả cây choóc - ngứa không kém củ ráy, ở ngoài đồng. Tất cả bỗng dưng trơ trụi, rồi biến hết. Bởi rau cỏ là thứ lành bụng.
    Nhà tôi còn có cơm ngày hai bữa, mỗi bữa một lon sữa bò hai lạng rưỡi gạo, cho trộn với một rổ rau má to, xóc đều, rồi chia ra bốn cái bát lùm lùm, ai nấy lào xào ăn, chỉ một lúc sau lại đói meo. Một loại thức ăn khác là cám và khô dầu. Cám là thứ cho lợn, bây giờ làm thành bánh cho người. Cám được xem là bùi bùi, thơm thơm và nhất là no lâu. Ăn một cái bánh cám, uống một bát nước thì cứ là lưng lửng cả ngày.
    Cũng như cám, khô dầu là bã của các loại hạt béo như lạc, đỗ sau khi đã ép hết nước dầu. Khô dầu đóng thành bánh bán ở chợ để chăn nuôi gia súc, bây giờ người tranh nhau mua để thay cơm. Khô dầu ăn nhiều tức bụng, ăn ngày này qua ngày khác có thể sưng bủng ra mà chết. Không phải chết đói mà là chết... no. Tôi lại nhớ Một bữa no của Nam Cao.
    Tôi đã thấy bao người đói đi lại quanh quẩn, vùng này qua vùng khác để tìm cái ăn. Đồng ruộng bạc phếch, không một màu xanh. Vườn tược hoang phế, không còn cây cối. Làng mạc hết cả tiếng chó sủa, tiếng gà gáy. Những người chết thì đã được bó vào chiếu đưa ra đồng. Cho đến lúc chiếu cũng không còn để mà bó. Những người sống thì tha thẩn trong nhà ngoài ngõ, hoặc vất vưởng trên đường, đi đứng liêu xiêu, dáng hình lểu đểu... mới thấy khủng khiếp đến thế nào cái đói của cả làng, cả nước.
    Bây giờ nghĩ lại chuyện đời thấy sao dân ta khổ quá. Đọc truyện Một làng chết của Thanh Tịnh (trong tập truyện Quê mẹ) và Quái dị của Nam Cao ta hiểu cái chết do dịch tễ gây ra cho một làng. Dịch tễ như đậu mùa, dịch hạch, dịch tả, kiết lỵ... khiến cả ?omột làng chết?, ít còn ai sống sót, không còn người đi chôn.
    Đọc Nghệ thuật làm no... của Ngô Tất Tố ta biết người nông dân quê ông đã có cách ăn đất sét để đánh lừa dạ dày khi cả một vùng đồng bãi phía bắc sông Hồng bị nhận chìm trong lũ lụt - một thứ lũ lụt ngâm rất lâu khiến cây cỏ khó mà sống sót...
    Còn cái đói và chết năm Ất Dậu là đói và chết trên cả một địa bàn rộng lớn gồm cả trung du và đồng bằng Bắc bộ, lan vào cả một nửa miền Trung, trong đó có quê tôi. Cái chết của 2 triệu người do hậu quả của biết bao chính sách thâm hiểm và tội ác của Nhật - Pháp nhằm dồn cả một dân tộc vào thảm họa diệt chủng.
    Hai triệu người, tức là ngót 1/10 dân số VN lúc ấy; và có thể còn chết thêm nữa nếu không có khẩu hiệu phá kho thóc do ********* đưa ra - vậy là thóc vẫn còn ở các kho; rồi tổng khởi nghĩa tháng tám, cả dân tộc từ Bắc đến Nam rùng rùng chuyển động trong cả một rừng cờ đỏ sao vàng. Một nạn đói khủng khiếp, và tiếp đó, một cuộc đổi đời vĩ đại của dân tộc - đó là ấn tượng và ký ức Ất Dậu 1945 mà một đứa trẻ lên bảy như tôi đã được chứng kiến và trải nghiệm để in sâu vào bộ nhớ cho đến suốt đời.
    Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được khai sinh giữa những ngày tháng thương tâm ấy của năm Ất Dậu. Chỉ một ngày sau khi ra mắt toàn thể quốc dân, ngày 3-9-1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, vấn đề cứu đói đã được đưa ra: ?oNhân dân ta đang đói... Những người thoát chết đói, nay cũng bị đói. Chúng ta phải làm thế nào cho họ sống?.
    Và nhà nước non trẻ đã tìm ra giải pháp...
    GS PHONG LÊ
    --------------
    * Kỳ cuối: Chống giặc đói
  4. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Thứ Bảy, 05/03/2005, 15:09 (GMT+7)
    Nhà nhiếp ảnh Võ An Ninh: Ất Dậu 60 năm trước

    [​IMG]

    Cụ Võ An Ninh và các bức ảnh chụp nạn đói
    TTCN - Hơn ba năm trước, những ngày cuối tháng chạp năm Tân Tỵ là khoảng thời gian buồn bã, đau thương đối với gia đình cụ Võ An Ninh và đại gia đình nhiếp ảnh.
    Ban tổ chức lễ tang chúng tôi đã chuẩn bị xong điếu văn, di ảnh, thông tin báo chí?, gia đình cũng đã đặt mua áo quan?
    Sau ba ngày chết lâm sàng ở bệnh viện Chợ Rẫy, cụ Võ mở mắt: ?oTôi sống lại rồi à, để tôi kể chuyện cho mà nghe??. Trưa ngày 2-3-2005, tại nhà riêng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An Ninh ở  tuổi 100 râu tóc như tiên ông, vẫn tinh tường, minh mẫn ngồi kể chuyện chụp ảnh nạn đói năm Ất Dậu?

    [​IMG]Tấn thảm kịch với dân tộc Việt - nạn đói năm Ất Dậu xảy ra cách nay tròn 60 năm, với con số 2 triệu người chết vì đói trên tổng số 13 triệu dân quả là cực kỳ khủng khiếp! Vốn giàu cảm xúc, nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An Ninh lúc ấy đang tuổi 40 đã phải cố nuốt nước mắt vào trong, dấn bước trên các nẻo đường đói ăn bằng chiếc xe đạp và chiếc máy ảnh Đức hiệu Zeiss Ikon (sản xuất năm 1928, ông mua với giá 32,5 đồng, một số tiền rất lớn khi ấy) thực hiện thiên phóng sự ảnh về cảnh ngộ đau thương, thảm khốc của dân tộc.
    Một nửa bàn chân đã mất sau một tai nạn, mỗi ngày ông đạp xe đoạn đường Hà Nội - Thái Bình, đi và về trên 140km, quyết tâm ghi bằng được thảm cảnh người dân chết đói. Bởi lẽ lúc ấy nếu để quân phát xít Nhật trông thấy ông cầm máy ảnh chụp tội ác của chúng thì chắc chắn chúng sẽ bắt và đánh chết ông ngay!
    Cụ Võ nói: ?oChẳng ai còm măng(*), chẳng ai bảo, tôi tự lăn vào làm. Đây là tang tóc chung của dân tộc, tôi tự thôi thúc mình phải chụp, làm ảnh?, trước tiên công bố cho đồng bào cả nước chia sẻ, kế đến tố cáo tội ác trước dư luận thế giới??. Lăn lộn từng ngày, ông tìm đến những nơi có người chết.
    Trên đường đi, có ai mách chỗ có người đói, người chờ chết đang nằm lăn ra đường, ông đến ngay; có những nơi thây người đã thối rữa, cũng có những người bò lê trên đường tìm ăn bất cứ thứ gì họ cho là ăn được?, có những nhóm người dìu nhau từng bước về Hà Nội để tìm đến các hội, tổ chức cứu đói, nhiều người trong số họ đã ngã quị dọc đường vì kiệt sức! Cảnh xác người chồng chất trên xe bò, trong số đấy có người còn cố giãy chân thều thào: ?oTôi?chưa?chết?!?. Còn cả cảnh thu dọn xác chết thả xuống hố để chôn.
    Mỗi ngày đi săn ảnh, ông Võ phải vứt bỏ một bộ quần áo vì tất cả bị đẫm mùi tử khí! Ông chụp nhiều lắm, dù đầu óc tê dại vì đau thương. Nhiều hôm, về đến nhà ông không hề ăn cơm vì mất cảm giác đói! Nhưng Võ An Ninh còn đầy đủ ý thức để xây dựng bộ phóng sự ảnh có một không hai này.

    [​IMG]

    Cụ Võ An Ninh và nhà báo Đồng Đức Thành tại nhà riêng của cụ trưa 2-3-2005Chụp về ông tráng phim, làm ảnh ngay. Những bức ảnh cỡ 18x24cm đầu tiên ông đem đến trụ sở Hội Hợp Thiện - một hội từ thiện lớn ở Hà Nội lúc bấy giờ, vào thẳng phòng họp, ông nói ngay: ?oTrời ơi, các cụ ơi, người chết đói nhiều lắm rồi, các cụ còn chờ họp bàn gì nữa, có hình ảnh để thập mục sở thị đây, phải cứu ngay thôi các cụ ơi!?.
    ?oChết nỗi, chúng tôi nào đã biết đến nông nỗi này!...? ?" thế là các vị tai mắt ở TP Hà Nội, hội viên của Hội Hợp Thiện, gửi ngay ảnh của Võ An Ninh vào Sài Gòn, trưng bày ngay trên phố Catinat (đường Đồng Khởi hiện nay) để quyên tiền cứu đói. Hình ảnh những thân hình gầy guộc đói ăn, trơ xương, những cụ già, em bé trần truồng nằm co quắp và chết trong đói lạnh đã gây xúc động mạnh mẽ nơi người xem trong nước và tố cáo trước dư luận thế giới. Và đông đảo bà con đã góp tiền, gửi lương thực, thực phẩm cứu đói?
    Phóng sự còn tiếp tục với những ảnh hậu đói: những ?onúi? sọ người, những bia khắc ghi mộ tập thể? ở chợ Hàng Da, nhà mồ Giáp Bát. Bộ ảnh quí với trên 50 ảnh đã và đang được lưu trữ, trưng bày trong nhiều bảo tàng, sách, trên nhiều thước phim điện ảnh trong nước và quốc tế. Cố tổng bí thư Trường Chinh từng đánh giá: ?oBộ phóng sự ảnh này của ông Võ An Ninh là một tài sản vô giá của loài người, một bản án kết tội chủ nghĩa thực dân mà không cần thêm một lời nói nào cả!?.
    Tôi không thể nào quên ánh mắt ngời sáng của cụ Võ lúc chào chia tay cụ: ?oƠn Giời, tôi thọ đến hôm nay; có phúc, được con cái nuôi nấng, chăm sóc tôi khỏe mạnh thế này là một đền bù quí báu nhất rồi còn gì?! Tôi chẳng ước gì hơn?? . 
    ĐỒNG ĐỨC THÀNH
    (*) commande: đặt hàng, yêu cầu
  5. river

    river Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    28/10/2001
    Bài viết:
    224
    Đã được thích:
    0
    Đọc những bài viết về nạn đói khủng khiếp về nạn đói năm 1945, tôi thật sự bị shock vì sự thật vượt xa những điều vắn tắt mô tả trong sách giáo khoa sử học của chúng ta. Thật đáng thương cho những đồng bào phải bỏ mạng vì chính sách tàn nhẫn của Pháp - Nhật.
    Tuy nhiên tôi có mấy điều băn khoăn nhờ các cao thủ chỉ bảo thêm:
    1. Trong các tài liệu trên có nói là nạn đói diễn ra trên diện rộng từ Quảng Bình đến hầu hết các tỉnh phía Bắc nhưng tại sao riêng ở Hà Nội vẫn đủ ăn và còn cứu tế được cho dân các nơi dồn về, trong khi dân đô thị không tự sản xuất được lương thực, đồng thời đường giao thông với miền Nam (không bị nạn đói) cũng đang gián đoạn vì không quân Đồng minh đánh phá.
    2. Nạn đói đã kết thúc như thế nào ? Do ********* đã tổ chức cho nhân dân phá kho thóc của Nhật, do mùa vụ đến kỳ thu hoạch (nhưng hơi vô lý là trước đó người ta đã bỏ ruộng hàng loạt đi tha phương cầu thực) hay do gạo miền Nam chuyển ra cứu tế ?
  6. robo_corp

    robo_corp Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/03/2005
    Bài viết:
    2
    Đã được thích:
    0
    Quả là kinh hoàng khi đọc những bài viết của các bạn.
    Đọc xong thực sự tôi cũng không biết mình có cảm giác gì nữa.
    Buồn, căm thù, hay thương xót cho đồng bào ta hay là tất cả cứ lẫn lộn trong suy nghĩ.
    ...................................
    Hãy post bài tiếp nhé để những ai chưa được biết đến sẽ biết
  7. dongda

    dongda Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    10/11/2002
    Bài viết:
    850
    Đã được thích:
    2
    Bình tĩnh đi, vào thời đó bọn nó cũng gặp hạn :
    - Mỹ chết 27 vạn ở chiến trường tây Âu và khoảng 3000 ở Trân châu cảng
    - Nhật ăn 2 quả bom A
    - Pháp mất nước
    - Anh bị suy kiệt về kinh tế
    - Đức chết 9 triệu, đất nước bị chia cắt
    - Liên bang xô viết vĩ đại chết 47 triệu
    - Người Trung quốc bị Nhật tàn sát
    - Người do thái bị đức tàn sát
    Xem xem từ đó đến nay bọn nó đã làm được những gì ?
    Được dongda sửa chữa / chuyển vào 10:36 ngày 07/03/2005
  8. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Nạn đói năm 1945 (kỳ cuối):
    Chống giặc đói

    [​IMG]

    Lễ phát động Ngày cứu đói tại Nhà hát lớn Hà Nội
    TT - Một ngày sau khi ra mắt toàn thể quốc dân tại quảng trường Ba Đình, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên sáu vấn đề cấp bách nhất mà Chính phủ cần giải quyết ngay.
    Trong sáu vấn đề đó, vấn đề số 1 là cứu đói: ?oNhân dân ta đang đói... Những người thoát chết đói, nay cũng bị đói. Chúng ta phải làm thế nào cho họ sống? (Hồ Chí Minh toàn tập).
    Có hai giải pháp chống giặc đói. 
    Giải pháp cấp cứu: nhường cơm sẻ áo
    Trong thư gửi đồng bào cả nước đăng trên Báo Cứu Quốc ngày 28-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: ?oLúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước, và tôi xin thực hiện trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ba bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo?.
    Ngay từ giữa tháng chín, Chính phủ đã tổ chức một lễ phát động phong trào cứu đói. Buổi lễ này được tổ chức long trọng tại Nhà hát lớn. Cụ Ngô Tử Hạ, người cao tuổi nhất trong Quốc hội, là chủ tịch buổi lễ, đã long trọng đọc lời kêu gọi toàn dân hãy nhường cơm sẻ áo, mỗi nhà bớt một chút gạo để cứu giúp những người đang đói. Chính cụ cầm càng một chiếc xe bò tượng trưng để đi các phố phường, nhân dân ai có chút gạo chút ngô đều mang ra đóng góp vào phong trào cứu đói.
    Chính phủ còn phái một ủy ban vào Nam bộ điều tra và cấp tốc tổ chức việc vận chuyển gạo ra Bắc. Chính phủ cũng hô hào các hội buôn và tư nhân tham gia công việc vận chuyển này. Việc vận chuyển gạo từ Nam ra Bắc chỉ thực hiện được trong tháng 9-1945, với tổng số không quá 30.000 tấn. Từ sau khi Pháp gây chiến ở Nam bộ, con đường vận chuyển bằng đường sắt bị khó khăn và không bao lâu sau thì tắc nghẽn.
    Giải quyết vấn đề từ gốc: tăng gia sản xuất
    Tăng gia sản xuất không chỉ là cơ sở để giải quyết triệt để nạn đói, mà còn là cơ sở cho toàn bộ chính sách kinh tế của Chính phủ Cách mạng VN. ?oThực túc thì binh cường. Cấy nhiều thì khỏi đói. Chúng ta thực hiện tấc đất tấc vàng thì chúng ta quyết thắng lợi trong hai việc đó. Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do độc lập? (Hồ Chí Minh toàn tập).
    Để phục vụ tăng gia sản xuất, điều cấp bách trước mắt là phải hàn khẩu xong các quãng đê bị vỡ, củng cố hệ thống đê điều, đắp thêm một số đê mới. Việc này không thể chỉ dùng nhân lực mà còn cần có những chuyên gia. Nhà nước quyết định cho đấu thầu việc đắp đê. Chủ thầu phải là những chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực này.
    Cụ Nguyễn Xiển, lúc đó là chủ tịch Ủy ban hành chính Bắc bộ, là người trực tiếp điều hành việc đắp đê, kể lại trong bài hồi ký về sự nghiệp đắp đê sau cách mạng: ?oCách làm đó lại gặp những mắc mớ về quan điểm. Có người nói: ?oLàm cách mạng mà còn dùng thầu khoán? Thầu khoán là bóc lột nhân công?. Chính Bác Hồ, trong một chuyến đi thị sát đắp đê, đã giải đáp vấn đề này: ?oThầu khoán đắp đê lúc này là yêu nước?. Câu trả lời trên đã giải tỏa được những vướng mắc?.
    Cho đến đầu năm 1946, tức là chỉ bốn tháng sau cách mạng, công tác đê điều đã hoàn thành. Đó là một bằng chứng về trách nhiệm, năng lực và sức sống của chính quyền mới.



    [​IMG]

    Cụ Ngô Tử Hạ, đại biểu Quốc hội (khóa I) cao tuổi nhất, đang kéo chiếc xe quyên góp và phân phối gạo trong Ngày cứu đói
    Bà Ngô Thị Hoàn, nguyên trưởng phòng tổ chức Viện Kinh tế học, kể lại : ?oLúc đó tôi mới 10 tuổi, trong đội nhi đồng, được đi theo chiếc xe của cụ Ngô Tử Hạ, đánh trống, phất cờ, hô khẩu hiệu để vận động đồng bào cứu đói.
    Cụ Ngô Tử Hạ kéo chiếc xe qua phố Tràng Tiền. Nhà nào cũng có người chờ sẵn bên hè phố, người thì bơ gạo, người thì đấu ngô, người thì góp tiền.
    Đi chưa hết một vòng bờ hồ thì xe gạo đã đầy.
    Về đến Nhà hát lớn gặp Bác Hồ, cụ Ngô Tử Hạ chỉ cho Bác Hồ xem chiếc xe chở gạo lẫn lộn đủ các thứ: gạo đỏ, gạo trắng, gạo nếp, ngô, lại có nhà thêm mấy ống đỗ.
    Bác Hồ nói: ?oĐấy mới là gạo đại đoàn kết. Nước ta có nhiều thứ gạo ngon, nhưng bây giờ thì đây là thứ gạo ngon nhất...?.
    Đồng thời với việc đắp đê, phải gấp rút tiến hành trồng trọt, thực hiện khẩu hiệu ?otấc đất tấc vàng?. Chính quyền tất cả các địa phương quyết định cho phép sử dụng những đất công cộng còn trống như sân bãi, vỉa hè, bờ đê để trồng trọt.
    Chính quyền còn vận động cả tư nhân cho sử dụng tạm các vườn trống quanh nhà để tăng gia sản xuất. Mỗi địa phương lập ra một tiểu ban để huy động nhân lực và tổ chức sản xuất. Lương thực làm ra được dùng để cứu tế...
    Ở Hà Nội, học sinh đã cuốc xới cả sân trường, vỉa hè, bất cứ nơi nào đất trống. Viên chức cuốc vườn trong công sở để trồng ngô, khoai... Thanh niên thủ đô chia thành những đội tăng gia đi trồng sắn ở bờ đê, bãi sông, lề đường.
    Bộ trưởng Bộ Lao động lúc đó là Lê Văn Hiến kể lại: ?oVào khoảng tháng 11-1945, tôi được Bác gọi sang giao nhiệm vụ mới là thay mặt Bác đi kinh lý các tỉnh phía Nam. Tôi đã báo cáo với Bác tình hình bộ trước khi đi. Bác nghe xong hỏi luôn: ?oChú còn quên không báo cáo một chuyện nữa?.
    Tôi ngớ người, vì trước khi gặp Bác tôi đã chuẩn bị rất đầy đủ những tài liệu về công việc của Bộ Lao động trong hai tháng qua. Chẳng lẽ mình còn thiếu sót gì?
    Tôi nói: ?oThưa Chủ tịch, còn chuyện gì nữa??. Bác bảo: ?oChú quên không nói về tình hình tăng gia sản xuất. Ở trước cửa bộ chú có một vườn rất rộng để không, dân thì đói, tại sao không cuốc lên trồng khoai trồng sắn để cứu đói. Trước khi đi công tác chú phải nhắc nhân viên làm việc đó?.
    Trên đường trở về bộ, tôi thầm nghĩ: Bác quả là người thấu đáo, không quên một việc gì. Một việc nhỏ như thế, mình là bộ trưởng cũng không để ý tới, Bác ở tận xa mà Bác còn biết. Tôi liền triệu tập anh em trong bộ, nói ý kiến của Bác. Hôm sau mọi người đến sớm, người thì dao, người thì cuốc, thuổng, ào ào xới đất lên để trồng khoai...?.
    Mặt trận quyết định nhất của tăng gia sản xuất cuối năm 1945 đầu 1946 là trồng màu. Lúa không còn kịp thời vụ nữa, phải dành phần lớn đất đai để tranh thủ trồng liên tiếp hai vụ màu bù cho phần thiếu hụt về lúa. Đây là giải pháp sáng suốt. Phải trồng màu ngay từ tháng 11-1945 để tháng giêng đã có thu hoạch khoai lang. Tháng hai đã có thu hoạch ngô, đậu.
    Ngay sau đó, trồng tiếp một vụ nữa có thể cho thu hoạch bổ sung vào tháng ba và tháng tư để chịu đựng được suốt thời kỳ giáp hạt cho đến vụ thu hoạch lúa chiêm vào tháng năm.
    Kết quả sản lượng màu đã tăng gấp bốn lần so với thời kỳ Pháp thuộc. Chỉ trong năm tháng từ tháng 11-1945 đến tháng 5-1946 đã đạt 614.000 tấn, qui ra thóc là 506.000 tấn, hoàn toàn có thể bù đắp được số thiếu hụt của vụ mùa năm 1945. Bằng chứng rõ nhất là dân không đói, giá thóc gạo không tăng mà lại giảm. Giặc đói đã bị đánh lui.
    * * *
    Trong lễ kỷ niệm một năm độc lập, Quốc khánh 2-9-1946, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp tuyên bố: ?oCuộc cách mạng đã chiến thắng được nạn đói, thật là một kỳ công của chế độ dân chủ?.
    Trong hoàn cảnh nghiệt ngã lúc đó, lụt và hạn hoành hành, giặc ngoại xâm hoành hành, tiền và phương tiện gần như không có gì, giống má cạn kiệt, trâu bò chết gần hết?, mà đánh thắng được giặc đói, thắng một cách oanh liệt thì quả là một kỳ công. Kỳ công đó không thuộc riêng ai. Đó là sự nỗ lực của toàn dân. Nhưng không chỉ đơn giản là như vậy.
    Cũng là toàn dân Việt Nam đấy mà năm trước đó thôi tại sao hàng triệu người vẫn chết đói? Còn phải kể đến một nhân tố vô cùng quan trọng nữa: nhờ có chính quyền cách mạng, nhờ tài tổ chức của chính quyền đó.
    Đó là sự thật. Đó cũng là lý do giải thích tại sao tuyệt đại đa số dân chúng đã tin và đã theo *********.
    GS ĐẶNG PHONG
    http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=69250&ChannelID=89
  9. YanCanCook

    YanCanCook Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/06/2004
    Bài viết:
    235
    Đã được thích:
    0
    Chà , dân ta khổ thật !
  10. assassinz

    assassinz Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/08/2003
    Bài viết:
    3.042
    Đã được thích:
    0
    không biết có bác nào ở đây có nguồn tư liệu về nạn đói khủng khiếp 1945 k vậy, nếu có thì các bác post lên đây để những ai xem đều fải nhớ về 1 trong những tội ác dã man của bọn phát xít

Chia sẻ trang này