1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nạn đói năm 1945

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi lonesome, 01/03/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Chúng ta hãy thử tìm những nguyên nhân của nạn đói năm Ất Dậu 1945
    Có nhiều nguyên nhân gây ra nạn đói năm 1945, trong đó nguyên nhân chủ yếu bắt nguồn từ chính sách phát xít Nhật áp dụng tại Việt Nam trong thế chiến II (1939-1945), kế đó là thực dân Pháp... ngoài ra phải kể đến thiên tai mùa màng.
    Phát xít Nhật
    Khi chiếm đóng Đông Dương, quân đội Nhật muốn chọn Việt-Nam, đặc biệt Nam Kỳ, như một bàn đạp hậu cần để tiến xuống vùng hải đảo. Do đó, quân đội Nhật không những tận thu các sản phẩm lúa gạo, cao su và nhiều tài nguyên kỹ nghệ nông nghiệp khác, mà còn bắt nông dân Việt-Nam phải phá bỏ các ruộng lúa mà trồng đay lấy sợi làm bao chứa gạo vận chuyển tiếp tế cho các hải đảo vùng Đông Nam Á như Phi Luật Tân, Mã Lai, Nam Dương, Thái Lan và cả Úc châu nữa.
    Vào thời điểm đó, quân đội Nhật hiện diện tại Việt Nam và Đông Nam Á càng ngày càng đông. Do đòi hỏi của phát xít Nhật, nhà cầm quyền Pháp buộc nông dân phải thay đổi cách thức canh tác, từ độc canh cây thực phẩm, qua đa canh vừa cây thực phẩm, vừa cây kỹ nghệ. Nói cách khác, người Pháp buộc giới nông gia Việt Nam phải bỏ bớt các cánh đồng lúa để trồng bông vải, đay, gai, cây có dầu.
    Những cây kỹ nghệ nầy vừa để đáp ứng nhu cầu nguyên vật liệu của Đông Dương vì đường nhập cảng từ Pháp gặp khó khăn, vừa để cung ứng cho thị trường Nhật Bản do áp lực của quân phiệt Nhật. Nhật Bản yêu cầu trồng cây gai ở Bắc Kỳ và dự tính tăng diện tích trồng gai lên tới 10.000 mẫu để có thể sản xuất 2.600.000 chiếc bao gai.
    Trong vòng ba năm, diện tích trồng cây kỹ nghệ gia tăng gấp hai trên toàn cõi Đông Dương, từ 88.200 mẫu năm 1942 lên đến 154.517 mẫu năm 1944. Riêng tại Bắc Việt, diện tích nầy tăng hơn gấp hai, từ 18.850 mẫu năm 1942 lên đến 42.546 mẫu năm 1944.
    Những hoa màu chính giảm xuống nhiều, vì đất đai phì nhiêu đều dành cho việc trồng các loại cây kỹ nghệ. Dân chúng nông thôn đói khổ đành nhờ vào vài loại thực phẩm phụ để sống qua ngày.
    Chính phủ Đông Dương bắt các tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương, Nam Định, Thái Bình nhổ thóc trồng các cây công nghiệp để cung cấp cho Nhật. Năm 1944, diện tích trồng các loại cây trên đã lên dến 45.000 mẫu, 45.000 mẫu ruộng có thể cung ứng 657.000 tạ thóc, đủ nuôi sống 547.000 nhân mạng! Một con số lạnh lùng và tàn nhẫn. Ở vùng lãnh thổ miền Bắc và Bắc Trung, đồng lúa vốn đã hiếm, phương chi phải chuyển ruộng lúa thành đất trồng đay thì việc thiếu lúa gạo là lẽ tất nhiên.
    Trong lúc đó, miền Nam không xảy ra nạn đói. Vì thế, trong khi miền Bắc chết đói thì ở miền Nam có lúc tại Sàigon, người ta lấy thóc đốt thay than để chạy máy xe lửa!
    Nạn đói bùng nổ từ mùa thu năm 1944 trở đi khi thời tiết xấu làm cho vụ mùa năm nầy tiếp tục bị hư hại. Trong khi dân chúng đói kém, kho gạo của Pháp và Nhật luôn luôn đầy đủ.
    Đến tháng 5-1945, người Nhật đã tích lũy một số gạo đủ dùng trong sáu tháng cho Quân đoàn thứ 38 của họ ở Đông Dương.
    Thực dân Pháp
    Bản thân thực dân Pháp cũng cần thu vén lúa gạo để nuôi quân và đề phòng bị cô lập với mọi nguồn tiếp tế ở chính quốc bên ngoài. Chúng vừa phải thu lúa gạo cho Nhật dưới áp lực của chính quân phiệt Nhật, vừa phải dành lúa gạo cho quân dân chính khu vực mình kiểm soát. Chẳng bao lâu tất cả các nguồn lợi mà Pháp vẫn nhận từ chính quốc ở châu Âu và các nước khác đều bị cắt đứt. Tất cả kho dự trữ lương thực đều không chủ động được dưới sự chiếm đóng kiểm soát của quân đội Nhật.
    Theo thỏa hiệp với Nhật ngày 19-8-1942, nhà cầm quyền Pháp tại Đông Dương phải xuất cảng sang Nhật trên 1.000.000 tấn gạo hạng tốt nhất trong các vụ mùa 1942-1943.
    Để bảo đảm việc thi hành thỏa hiệp nầy, người Pháp lập ra những kho gạo an toàn. Viên thống sứ Pháp ở Bắc Kỳ còn buộc các làng xã phải lập những kho dự trữ tương ứng với sản lượng lúa gạo của làng đó, để có thể đáp ứng yêu cầu của nhà cầm quyền. Trong khi lúa gạo khan hiếm, người Pháp lại mua gạo để trữ trong các kho quân lương.
    Do chính sách thu thóc của Pháp, trung bình mỗi năm Bắc kỳ thu hoạch được 1.275.000 tấn thóc. Tuy nhiên số thóc này phải nuôi đến 6.500.000 người dân, chưa kể đến năm 1944 lại có thêm 100.000 quân Nhật; bọn chúng lại còn lấy thêm để vận chuyển viện trợ cho lực lượng tại Quảng Tây.
    Trong khi đó, tại Nam Kỳ, giá gạo rẻ đến nỗi nhà đèn Chợ Quán phải đốt thóc thay thế cho than đá. Người vẫn thấy gạo Nam kỳ chở ra tới Vinh, nhưng người Pháp cho tích trữ lại trong các kho ở đó và chỉ cho ra tới Bắc kỳ một số rất ít
    Bom đạn Mỹ & Đồng minh
    Một nguyên nhân dẫn đến nạn đói Ất Dậu là có thể là do sự oanh tạc của quân đội Đồng Minh. Trong suốt mấy năm khi Nhật chiếm đóng, phi cơ Mỹ ngày đêm ném bom các chuyến xe lửa có khi chở quân Nhật, có khi chở thường dân; làm gián đoạn sự di chuyển lúa gạo cứu đói từ miền Nam chở ra Bắc lúc nạn đói xảy ra, phá hoại đê điều gây lũ lụt các ruộng lúa ngoài Bắc dẫn đến sự mất mùa.
    Thiên tai, thời tiết:
    Trong suốt bốn năm,kể từ khi phát xít Nhật chiếm Đông Dương, số thóc gạo dự trữ không có nhiều, sản xuất cũng không được bao nhiêu vì tình hình chiến tranh cộng thêm bom đạn tàn phá vỡ đê điều làm cho mất mùa, một số đất ruộng phải trồng đay, gai và bông theo lệnh Nhật. Vào khoảng tháng 11 năm 1944, một trận lũ lụt lớn đã làm cho hầu hết các nơi trên miền Bắc bị mất mùa. Người dân một cổ hai, ba tròng. Mùa xuân Ất Dậu 1945 tại đất Bắc là một kỷ lục về lạnh. Ngày mồng một Tết Ất Dậu tức là ngày 13 tháng 2 năm 1945 buổi trưa ở Hà Nội hàn thử biểu đã xuống 4 độ C. Việc gì đến phải đến, sức chịu đựng của dân Việt đã đến tận cùng. Hậu quả là gần 2 triệu dân miền Bắc đã chết đói.
    ---
    Số người chết đói xảy ra trong một thời gian kỷ lục chắc chưa ở đâu, chưa bao giờ có sự kiện tương tự
    Có thể so sánh với số nạn nhân của 2 quả bom nguyên tử ném xuống thành phố Hiroshima (ngày 6-8-1945 đã giết chết 130.000 người), và Nagasaki (ngày 9-8-1945, giết chết 75.000 người), tổng cộng khoảng trên 200.000 người,
    Hay là số nạn nhân của vụ sóng thần châu Á tháng 12-2004 vừa qua,
    So với 2 triệu nhân mạng của Việt Nam năm 1945 ?" các con số trên thật là nhỏ nhoi

    Được TLV sửa chữa / chuyển vào 22:14 ngày 07/03/2005
  2. Bundeswehr

    Bundeswehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/11/2004
    Bài viết:
    453
    Đã được thích:
    0
    Cũng cùng thời gian này, ở Ấn Độ có đến 20 triệu người chết đói, số phận của dân tộc thuộc địa đều hẩm hiu như nhau cả, chỉ béo bọn đế quốc.
  3. TulipMan

    TulipMan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/02/2003
    Bài viết:
    1.766
    Đã được thích:
    0
    Một bài viết kể về nạn đói 1945:
    --- Lê Văn Lăng ---
    Để đến được mùa Thu tháng Tám 1945 lịch sử, dân tộc ta còn phải gánh chịu nhiều đau khổ lắm. Có lẽ ít ai trong chúng ta giờ đây đã phải từng nếm trải cái khổ đau rất "con người" là "nạn đói".
    Cùng với cả miền Bắc Việt Nam lúc đó, cuối năm 1944, đầu năm 1945, Thái Bình cũng đã phải gánh chịu "quốc nạn" này. Tôi chỉ xin thuật lại những mẩu chuyện "mắt thấy tai nghe"trong những tháng ngày đen tối ấy.
    Tháng 11 năm ấy, tiết trời đặc biệt rét đến sớm hơn mọi năm, khiến con người ta ai cũng thấy đói "mọi lúc mọi nơi", chỉ có lúc ních vào thật no căng bụng người ta mới cảm thấy đỡ lạnh. Không phải vô lý mà ông bà ta ghép hai từ "đói" và "rét" đi chung với nhau. Càng rét người ta lại càng thấy đói, càng đói người ta lại càng thấy rét, cái vòng luẩn quẩn ấy bao vây dân nghèo ngày một gay gắt hơn bao giờ hết. Thái Bình hồi ấy được mệnh danh là "vựa lúa" của miền Bắc với những cánh đồng "cò bay thẳng cánh, chó chạy cong đuôi". Nhưng thật trớ trêu, chính ở trên mảnh đất ấy, cái đói đến với tầng lớp "lê dân" mới thật là dữ dội kinh khiếp nhất, vượt quá sức chịu đựng bình thường của con người. Quân Nhật thông qua chính quyền bảo hộ Pháp buộc nông dân phải nộp hết thóc lúa cho chúng để phục vụ cho lính "Thiên Hoàng", rồi lại cưỡng ép phá hoại trồng lúa trong vụ Đông Xuân năm ấy, để dành đất trồng đay làm bao công sự chiến đấu chống lại quân đồng minh. Thật là "hoạ vô đơn chí", năm đó Thái Bình bị mất trắng vụ lúa do bị hạn hán hoành hành khắp nơi, đất đai thiếu nước khô nứt nẻ ra từng mảng, từng mảng, cây trái xơ xác, ruộng vườn hoang vắng tiêu điều. Tất cả những gì ăn được người ta đã ăn hết cả rồi, khoai sắn củ còn non biến mất quá nhanh vào dạ dày lép kẹp, rồi gia súc chó mèo đều lần lượt phải "hy sinh" cho bao tử của chủ.
    Không phải mọi người đều chịu cái đói, ở thành thị, công chức, người đi buôn vẫn sống bình thường, tuy có điều vất vả, chính nông dân ở các làng mới bị đói nhiều ngày trên mảnh đất ruộng vườn của họ. Không còn gì để bỏ vào bụng nữa, người dân lam lũ từ các vùng chung quanh bắt đầu ùn ùn kéo nhau về thị xã trung tâm. Nhiều huyện như Kiến Xương, Tiền Hải người ta kiếm ăn bằng mọi cách để rồi ngã chết ra cả nhà. Những người còn sức đi được thì đi thành từng đoàn, họ lê bước trên những nẻo đường về thị xã với bộ quần áo rách rưới, có người gần như trần truồng vì đã bán những bộ quần áo lành lặn để đi đổi lấy gạo ăn. Cái đói cái rét cắt thịt như thúc giục họ tiến bước về phía trước. Những người nào đói quá thì lả đi gục xuống để rồi không bao giờ dậy nổi nữa. Hai bên đường, thây người chết đói ngã ra như rạ, lại càng thúc giục họ đổ về thị xã Thái Bình bất chấp một vành đai lính tráng bao quanh khu vực thị xã ngăn không cho họ vào. Tôi nhớ rất rõ lúc ấy là vào khoảng gần tết, trời mưa phùn âm ỉ kéo dài suốt cả tuần lễ khiến cho cái rét lạnh căm căm càng thúc đẩy làm tăng cái đói cồn cào xé ruột xé gan, ăn được một chút là thấy đói ngay, lúc nào cũng cảm thấy đói.
    Ở các chợ trong thị xã người dồn về rất đông mặc dù bị lính xua đuổi rất ráo riết, nhưng sáng nào người ta cũng hốt được vài ba xác chết vì đói rét, hoặc nằm ngang chợ hoặc dưới các mái hiên nhà. Lúc này tôi đang ở trọ nhà ông Hào Thuỳ để vừa dạy kèm cho con cái của ông và cũng dạy học ở trường Tư thục Pascal, hôm nào đến trường cũng nhặt được hai hay ba xác trẻ em đã chết cóng từ đêm trước, tôi cùng học trò phải mang đi chôn sau trường. Một hôm nhân có việc đi chợ Kiến Xương thì tôi bắt gặp một người đàn ông có dáng lực điền đang gánh một gánh có vẻ khá nặng, phía trên có đậy một chiếc nón lá rách. Bỗng tôi phát hiện có tiếng gì tựa như âm thanh của trẻ sơ sinh phát ra từ đôi quang gánh ấy, tôi bèn lập tức níu ông ta lại xem có phải không, thì mới biết trong đó có khoảng chục đứa bé mới sinh còn đỏ hỏn mà vài đứa đã chết. Ông ta thú thật là đã gánh chúng đến từ một làng vùng xa định đến Duyên Hà gửi cho các bà xơ từ thiện chuyên nuôi trẻ mồ côi ở đó và nhân tiện hỏi thăm tôi xem đường xá đến đó còn bao xa. Tôi hết sức phẫn nộ và bảo ông ta còn đến gần 30 cây số đường đất nữa mới đến được chỗ ấy, mà chắc chắn là khi đến nơi thì những đứa bé sẽ không còn sống nữa đâu. Vả lại ở Duyên Hà từ lâu nơi nuôi trẻ đã đóng cửa, xác trẻ con chất đống ở Duyên Hà, vì mọi nơi mang đến. Tôi liền chỉ cho ông ta gánh vào nhà của ông Lại Mân (Ông Lại Mân là nhà địa chủ giàu nhất ở Thái Bình và cũng đứng ra thu mua thóc gạo cho chính quyền lúc đó) ở đó và nói ở đó là có ông giáo gửi. Tôi tiếp tục đi đến chợ Kiến Xương thì thấy rất nhiều xác chết nằm la liệt trên sân chợ. Có một người phụ nữ đã chết không biết từ lúc nào nhưng đứa con nhỏ vẫn còn sống, đang bám vào ngực mẹ nó mà bươi bươi đôi vú một cách cuống quýt rồi nhai lấy nhai để không thôi. Sau đó vài giờ, tôi về ngang chợ thì thấy đứa bé cũng đã chết, có lẽ nó đã kịp theo mẹ nó thoát khỏi cuộc đời đau khổ rồi. Bữa nọ có dịp đi ngang qua Cầu Bo thấy có vẻ khác lạ ở đầu cầu, tôi cùng các học trò tò mò đứng nhìn xem, thì đã phát giác có khoảng ba, bốn gia đình đang ở đó, có người đang luộc thịt những người hàng xóm để ăn, xương tay xương chân vứt ngay bên cạnh! Đêm mùa đông rét mướt lạnh lẽo cũng trở nên không yên tĩnh chút nào khi hằng đêm đương ngủ, thỉnh thoảng người ta nghe tiếng ré lên của trẻ con. Phóng vội ra ngõ với cây đèn bão trên tay, mọi người sẽ bắt gặp xác đứa trẻ bị người lớn hút máu nóng với que tre cắm trong cuống họng. Đêm nào cũng có vài ba vụ như vậy mà kẻ thủ ác cũng vẫn không có người buồn bắt bớ tra cứu nữa. Cái đói kéo dài quá lâu đã khiến cho con người ta trở thành ác thú đối với ngay những đồng loại yếu ớt của mình.
    Quá đỗi bức xúc trước tai hoạ khủng khiếp của dân mình, tôi bàn bạc với các học trò và bạn bè đồng nghiệp cần phải làm ngay một việc gì đó trước khi quá muộn. Cuối cùng chúng tôi thống nhất với nhau là sẽ phân chia ra nhiều nhóm đi vận động quyên góp những nhà nào dư ăn để giúp đỡ những đồng bào sắp chết vì đói. Hồi đó vì công tác xã hội từ thiện chưa được ai biết đến nên có lẽ là lần đầu tiên trong phong trào "lá lành đùm lá rách" được phát động ở Thái Bình. Tôi đã thuyết phục được ông chủ nhà Hào Thuỳ - là một hào phú trong vùng chuyên đi thu mua gạo cho nhà nước Pháp - nơi tôi đang ở trọ trước tiên, ông đã vui vẻ đóng góp mở màn 10 tạ gạo nếp. Khởi đầu khá thuận lợi khiến thày trò chúng tôi rất phấn khởi, rồi phong trào vận động quyên góp lan rộng đến các trường khác kể các các trường công, học sinh cùng phụ huynh các em sau khi hiểu đã rất tích cực tham gia.
    Cũng gần đến tết nguyên đán rồi (đầu năm 1945) nên chúng tôi đã bàn nhau tổ chức nấu bánh chưng, thế là cả một phong trào rầm rộ được dấy lên lúc nào không biết. Nhân đây cũng xin nói là sở dĩ đề ra làm bánh chưng phát cho người nghèo đói, vì một phần là sắp đến tết, một phần là muốn dấy lên việc công tác xã hội thành một phong trào làm bánh chưng để có thể huy động được nhiều người cùng tham gia. Lúc đầu chỉ có phụ huynh học sinh, nhưng sau đó thì cả vợ con công chức toàn tỉnh kéo đến nườm nượp xin tham gia. Rồi thì, người thì góp gạo, người thì góp nếp, đậu, người khác lại góp lá dong... mọi người đã rất hăng hái đến trường chúng tôi gói bánh trong 5, 6 ngày liền.
    Cuối cùng ý đồ của chúng tôi lúc đó đã hoàn toàn thành công khi muốn công việc từ thiện có nhiều người tham gia để người có của thì góp của, kẻ góp công góp sức để ai nấy đều cảm thấy việc mình làm là có ích cho "cộng đồng". Từ đó thế là đã gây nên một không khí từ thiện trong thị xã Thái Bình mà vốn từ trước đến nay vẫn bất động và thờ ơ với cảnh đời đói rét quá thảm thương của đồng bào mình. Chiến dịch "làm và nấu bánh chưng" tính ra đã thu hút hơn 500 người gói bánh chưng tự nguyện và đã "sản xuất" được hơn 6.500 bánh mà mỗi bánh nặng ngót nghét 1 kilô. Rồi thì hàng mấy chục lò bánh xuất hiện ở sân trường chúng tôi những ngày giáp tết đáng nhớ năm ấy. Thầy trò chúng tôi cũng đã tổ chức luôn tại khu vực các lò nấu bánh một đống lửa trại lớn để cho các em học sinh vừa sinh hoạt tập thể về ý nghĩa của công tác từ thiện vừa canh bánh chín luôn thể, không khí và tinh thần của mọi người hăng hái dâng lên cao hơn bao giờ hết. Cánh nhà giáo chúng tôi cũng phấn chấn hẳn lên vì đã huy động được nhiều người tham gia vì "đồng bào mình". Sau khi công việc nấu bánh hoàn tất, "thành phẩm" của nhiều tấm lòng nhân ái đã được đem xếp gọn vào kho nhà ông Hào Thuỳ nơi tôi đang ở trọ. Đến đây thì tôi bí vấn đề mà ai cũng cho là "chuyện nhỏ", đó là việc "phân phát" cho những người đói thực sự để dân nghèo có một chút ấm lòng trong những ngày tết cổ truyền của dân tộc. Dân nghèo vốn đói đã lâu nên không dễ gì giữ được bình tĩnh khi thấy cái ăn, để chúng tôi có thể phân phát một cách "hoà bình".
    Thoạt đầu tôi nảy ra "sáng kiến" là đem bánh ra khu nghĩa địa Thái Bình rồi chỉ mở cổng he hé cho từng người vào thôi, phân phát cho người nào xong sẽ đánh dấu + trên tay người ấy. Thời gian đầu công việc có vẻ thuận lợi và trật tự có lẽ vì chưa có nhiều người biết. Nhưng độ nửa giờ sau, chúng tôi quá đỗi kinh hoàng khi nghe thấy tiếng chạy của hàng ngàn người từ các làng lân cận kéo đến, họ vừa chạy vừa la "Phát bánh chưng chưa! Phát bánh chưng chưa!" với âm thanh ồn ào và náo nhiệt chưa từng thấy. Họ leo tường vào nghĩa địa một cách chóng vánh, rồi hàng nghìn người chen chúc dẫm đạp lên nhau, dẫm đạp lên cả bánh chưng. Tiếng người gọi nhau ơi ới hoà lẫn tiếng khóc thét của trẻ con trong khu vực nghĩa địa mênh mông đó. Chúng tôi chỉ còn biết bất lực đứng nhìn, ai nấy người đầy bùn đất nhão nhoẹt, để rồi khi đám đông rút đi thì dưới mặt đất nào là bánh chưng bị dẫm đạp nát nhoẹt cả ra, có vài ba xác trẻ em bị chèn đè dẫm đạp đến chết khi chúng cố tranh đua chen lấn với người lớn để được phát bánh. Để riêng ra vài cái bánh chưng để phát riêng cho các em quá đói đứng ngoài gầy gò, trần trụi giơ tay xin, chúng tôi thấy các em vồ lấy ăn ngấu nghiến cả lá gói. Tôi không thể cầm được nước mắt. Chúng tôi lắc đầu ngao ngán vì đã không thể nào lường trước được tình huống "bi kịch" này cả. Thế mới biết rằng : "Vật cho không quan trọng bằng cách cho", cũng may mà lúc đầu chỉ mang có vài trăm bánh gọi là "thử nghiệm", thấy không ổn nên chúng tôi lập tức họp lại để bàn nhau phương kế khác. Vào thời điểm này, ở Thái Bình có một ông Đốc học được gọi là ông Đốc Quýnh, và là một viên quan trông coi về giáo dục của toàn tỉnh Thái Bình. Trong một buổi họp các giáo học của các trường, ông Quýnh đã đến hỏi han chúng tôi về việc phát bánh chưng. Sau khi nghe thuật lại, ông Đốc Quýnh đã la rầy trách mắng chúng tôi một hồi, ông cười bảo rằng :"Các anh chẳng được tích sự gì, chỉ mỗi một việc phát bánh làm không xong thì còn làm ăn nỗi gì nữa nào! Để mai tôi làm một chuyến ra ngoài thành phân phát cho các anh xem nhé!".
    Chúng tôi chỉ bấm nhau cười nhưng vẫn khuyên ông nên cẩn thận. Sáng hôm sau, ông Quýnh đóng bộ veston cà vạt cẩn thận có batoong bên cạnh, còn bà vợ ông thì áo dài đánh xe đến chỗ chúng tôi. Hai ông bà đi trên hai chiếc xe kéo rất ư là sang trọng (thời ấy người giàu có quan quyền đều có xe kéo riêng, phu xe được nuôi ăn ở trong nhà, xe được đóng rất kỹ lại được trang trí bằng đồng sáng loáng, rồi lại được sơn vàng toàn bộ rất rực rỡ) đến trường chúng tôi, gọi bảo chất lên cho mỗi xe độ khoảng 50 bánh chưng và lên đường xuất phát trực chỉ các làng xa ở ngoại thành. Tôi liền cho vài học sinh đi theo sau để nắm tình hình, thì khoảng độ non giờ sau có em về báo là ngài Đốc Quýnh và phu nhân đã "gặp nạn" rồi. Hoá ra, khi chỉ đi được ra ngoại thành non cây số, xe của ngài và phu nhân đã bị đám đông níu kéo lại. Khi tiếng thét :"Phát bánh chưng! Phát bánh chưng!" vang lừng từ đầu thôn đến cuối xóm. Quan ngài điên tiết dùng batoong phất lia lịa vào đám đông để mở đường nhưng vẫn không ăn thua gì. Rồi thì xe không thể nào tiến đi được nữa vì bị bao vây bởi hàng trăm con người rách rưới đói khát đã lâu ngày. Thôi thì họ dẫm đạp, chen lấn, dày xéo lên nhau để giật cướp bánh gây nên quang cảnh hỗn độn mà có lẽ ngài Đốc Quýnh lần đầu tiên trong đời vừa là người chứng kiến vừa là nạn nhân. Tàn cuộc "phát bánh chưng bất đắc dĩ", hai chiếc xe đẹp đẽ bị gãy nát thảm thương, hai ông bà thì quần áo rách bươm, mặt mày bùn đất bê bết ngao ngán lắc đầu, bánh chưng thì rơi vãi nhão nhoẹt trộn lẫn với bùn đất. Anh đánh xe thì mặt mũi bầm tím, cộng thêm xác vài ba đứa trẻ kiệt sức chết vì bị dẫm đạp trong cơn hỗn loạn.
    Kể từ hôm đó, tôi không tài nào tìm được ngài Đốc Quýnh nữa. Cuối cùng thì chúng tôi cũng phân phát hết được số bánh chưng tồn đọng bằng cách cho các học sinh mang trong người mỗi em vài bánh, toả đến các làng xa vào ban đêm để phát cho từng nhà quá đói rét. Tất nhiên việc thiên vị của các em là không thể tránh khỏi khi đi phát như thế, nhưng chúng tôi đã không thể có sự chọn lựa nào khác. Sau cái tết đáng ghi nhớ ấy, ngày nào tôi cũng cùng với các anh giáo viên khác (trong đó có anh Nguyễn Công Hoan vừa làm nhà văn vừa làm giáo học một trường công ở thị xã) đẩy xe đến từng nhà để nhặt cơm thừa rồi đem đi phân phát cho những người nghèo đói khổ. Khi mỗi bữa đi như vậy, có hàng chục người nối đuôi nhau đi với chúng tôi, họ là những người nghèo quá quá đói đi xin ăn ở thị xã. Trước đó, họ biết chúng tôi qua đợt phát bánh chưng nên khi đi "khất thực" như vậy, họ đồng gọi tôi là Vua ăn mày, hoặc là Bang chủ cùng Bang phó của "Cái bang" Thái Bình. Tôi và anh Hoan cảm thấy rất vui trong lòng với danh xưng ấy vì nghĩ rằng mình đã làm được một việc nhỏ cho dân mình trước cái đói quá nghiệt ngã đó.
    (st)
    vì 0 nhớ link cụ thể nên 0 đưa dc địa chỉ chỉnh xác, đành để chữ st , mong mọi ng` thông cảm .
    Tôi rất muốn chủ đề này của chúng ta được tiếp tục, ai có các tư liệu, ngoài những bài viết trên TuoitreOL, thì hãy post lên để chúng ta có thể chia sẻ phần nào với nỗi đau, những mất mát của đồng bào ta 60 năm trước , dù rằng vì nhiều lý do mà phần lớn chúng ta đã ko biết hoặc ko nhớ đến.
    Tôi thấy loạt bài vừa qua trên TuoitreOL là rất có ích và rất kịp thời , bên cạnh vụ kiện đòi lại công bằng cho các nạn nhân dioxin thì việc tưởng nhớ và có 1 ngày tưởng niệm cho nạn đói Ất Dậu 1945 cần sự quan tâm của tòan XH.
    Hôm nay, Vietnamnet cũng đã đăng loạt bài về nạn đói (kỳ 1) lấy bên Tuoitre.
  4. nvl

    nvl ĐTVT Moderator

    Tham gia ngày:
    31/01/2002
    Bài viết:
    4.304
    Đã được thích:
    6
    Nạn đói năm Ất Dậu - nhớ để thương "mình" hơn
    08:59'' 11/03/2005 (GMT+7)
    Nếu di sản đau thương ấy giống một cái hố sâu thì vấn đề không phải là lấp đầy cái hố sâu ấy bằng sự quên lãng, cũng không nên đào sâu thêm cái hố ấy để hận thù của quá khứ neo giữ chúng ta trên con đường phát triển mà điều đáng làm nhất là xây một nhịp cầu vượt qua cái hố chứng tích hận thù trong quá khứ để bài học luôn còn nguyên vẹn...
    Khoảng cách 60 năm đủ để cho thế hệ là chứng nhân của nạn đói năm Ât Dậu đã vượt qua ngưỡng tuổi cổ lai hy. Trải qua những năm chiến tranh và ngay cả trong công cuộc kiến thiết, những dấu tích của nạn đói gần như đã phai mờ trên mặt đất. Biết bao những thân xác bị vùi lấp trong lòng đất đã tan biến cùng cát bụi. Những khu mộ tập thể do những đồng bào tốt bụng và các hội từ thiện quy tập vài năm sau nạn đói, nay cũng chỉ còn sót lại duy nhất một trong số nhiều ?obể xương? nay lọt thỏm trong cả một khu đô thị nhằng nhịt nhà cửa mà không dễ tìm được đường vào. Cũng có thể nói đến những tấm ảnh của Võ An Ninh, Nguyễn Duy Kiên hay những bài thơ của Văn Cao, bài văn tế của Vũ Khiêu... là những gì còn sót lại như những di sản ?ovật thể? của sự kiện. Trên sách giáo khoa cũng chỉ còn được vài dòng nhắc đến. Quả thực sẽ là vô cùng nghèo nàn về ký ức, rất có thể sẽ khiến cho thế hệ sau này không chỉ quên lãng mà có thể còn đặt dấu hỏi nghi ngờ vào sự kiện có đến 2 triệu người đã từng chết đói vào năm Ât Dậu 1945 .
    Nhưng điều chắc chắn là trong ký ức của rất nhiều người, nạn đói là những kỷ niệm tựa khắc vào da thịt không thể phai mờ và trong biết bao nhiêu gia đình có người thân chết trong những tháng năm này, không còn biết đến ngày mất để giỗ. Giới sử học cách nay đã hơn một thập kỷ được sự hỗ trợ và khích lệ không phải ai khác lại chính là những đồng nghiệp Nhật Bản đã vào cuộc trong một công trình điều tra nghiên cứu khá công phu để định lượng được bước đầu quy mô nạn đói và những nguyên nhân gây ra thảm hoạ này... Tôi vẫn nhớ một đồng nghiệp Nhật Bản, khi tiếp cận những dấu tích hoang phế của tấm bia dựng trong khu nghĩa trang Hợp Thiện cũ tỏ rõ một sự băn khoăn đến ngạc nhiên : "Người Việt Nam các bạn chóng quên thật?. Trong khi đó, họ lặn lội sang tận đất nứơc ta để đi tìm những chứng tích về một tội ác mà cha anh họ phải chịu trách nhiệm. Tôi hỏi bạn :?Vì sao bạn quan tâm ??. Câu trả lời :?Để không bao giờ lặp lại nữa? ( cái không lặp lại là nạn đói với các bạn và chủ nghĩa phát xít với chúng tôi.
    Về ứng xử đối với quá khứ tôi còn thấm thía bài học khi một lần được sang Nhật gặp gỡ các thày giáo dạy sử ở các quốc gia Đông Á cùng ngồi bàn về cách dậy như thế nào về những hành vi tội ác (tạm gọi là) của một quốc gia này đối với một quốc gia khác trong quá khứ, để bảo đảm sự thật không bị che đậy hay phi tang mà lại không nuôi dưỡng dai dẳng những mối hận thù giữa các dân tộc, như di sản của quá khứ. Nếu di sản đau thương ấy giống một cái hố sâu thì vấn đề không phải là lấp đầy cái hố sâu ấy bằng sự quên lãng, cũng không nên đào sâu thêm cái hố ấy để hận thù của quá khứ neo giữ chúng ta trên con đường phát triển mà điều đáng làm nhất là xây một nhịp cầu vượt qua cái hố chứng tích hận thù trong quá khứ để bài học luôn còn nguyên vẹn...
    Nếu ý thức như vậy thì việc ghi nhận nạn đói Ất Dậu 1945 không chỉ đáp ứng một nhu cầu tâm linh của đạo ;lý ?ouống nước nhớ nguồn? để tưởng nhơ đối với những người đồng bào xấu số đã chết trong một thảm hoạ của đất nước. Thảm hoạ ấy lại là ?ođêm hôm trước? của một cuộc chuyển mình mang tính chất cách mạng của đất nước ta, tạo nên hình tượng như nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã biểu thị Cách mạng tháng Tám 1945 là một dân tộc "rũ bùn đứng dậy...?.
    Nói đến thảm hoạ, thì chính hậu quả của cơn sóng thần cuối năm 2004 vừa rồi ở ngay sát sườn đất nước đã làm xúc động toàn nhân loại mà con số ngưòi bị cướp đi sự sống chỉ là một con số nhỏ bé so với 2 triệu cư dân của một quốc gia vào thời điểm đó mới chỉ có hơn 20 triệu. Nạn đói ấy chủ yếu diễn ra chỉ ở không gian phía Bắc của đất nước.
    Chính cảm xúc từ cơn sóng thần cuối năm 2004 vừa qua đã gợi cho người Việt Nam nhớ về nạn đói 60 năm trước, để chợt nhận ra phần nào sự ?ovô tâm? (chưa dám nói là vô cảm) với quá khứ. Điều đó làm dấy lên một mối quan tâm của dư luận đã bắt đầu nhen lên trên một số cơ quan thông tin đại chúng... Điều đáng nói là chính tuổi trẻ từ một vùng đất phía Nam cách xa với không gian của sự kiện nạn đói Ât Dậu, đã khởi động lại trong tâm thức chúng ta về một thảm hoạ lịch sử đã từng làm nền cũng như làm làm nên một cánh đồng khô hạn cho một cuộc bùng khởi ngọn lửa cách mạng đòi quyền sống độc lập và tự do vào Mùa thu năm 1945.
    Một tượng đài để tưởng nhớ? Đặt tại đâu? Làm như thế nào? Chọn ngày nào để tưởng niệm?... Những câu hỏi ấy đang mong muốn đuợc trả lời bằng sự đồng thuận của toàn xã hội, bằng những sáng kiến của mỗi người. Nó cũng đáng được các cơ quan có trách nhiệm của nhà nước quan tâm...
    Dương Trung Quốc

  5. starboard_side

    starboard_side Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/05/2003
    Bài viết:
    463
    Đã được thích:
    0
    Bài cũ post lại:
    Có nhiều nguyên nhân gây ra nạn đói năm 1945 tại Bắc Việt Nam, trong đó nguyên nhân chủ yếu bắt nguồn từ chính sách Nhật Bản áp dụng tại Việt Nam trong thế chiến thứ nhì (1939-1945).
    Trong tập tài liệu "Chiến tranh châu Á trong tiềm thức của chúng ta", một người Nhật Bản, ông Yoshizawa Minami đã viết:

    "...Tình hình khu vực Việt Nam thật đặc biệt do sự có mặt thường xuyên của 80 ngàn quân ta và 200 ngàn lực lượng hậu cần đã khiến tình trạng kinh tế ở đây hỗn loạn đến cực độ...
    "...Ðông Dương có vị trí then chốt đối với Nhật Bản về lương thực. Ngoài lượng gạo nhập khẩu vào Nhật, quân đội Nhật còn rất cần một trữ lượng gạo lớn lao để tiếp tế cho các mặt trận đang lan rộng ra khắp Á Châu và khu vực Thái Bình Dương. Ðây chính là nguyên nhân trực tiếp gây nạn chết đói cho 2 triệu người Việt năm 1945..."
    Quân đội Nhật hiện diện tại Việt Nam và Ðông nam Á càng ngày càng đông. Do đòi hỏi của Nhật Bản, nhà cầm quyền Pháp ra lệnh một cách độc đoán buộc nông dân phải thay đổi cách thức canh tác, từ độc canh cây thực phẩm, qua đa canh vừa cây thực phẩm, vừa cây kỹ nghệ. Nói cách khác, người Pháp buộc giới nông gia Việt Nam phải bỏ bớt các cánh đồng lúa để trồng bông vải, đay, gai, cây có dầu. Những cây kỹ nghệ nầy vừa để đáp ứng nhu cầu nguyên vật liệu của Ðông Dương vì đường nhập cảng từ Pháp gặp khó khăn, vừa để cung ứng cho thị trường Nhật Bản do áp lực của Nhật Bản. Ngày 4-8-1943, báo Lục Tỉnh Tân Văn loan tin rằng Nhật Bản yêu cầu trồng cây gai ở Bắc Kỳ và dự tính tăng diện tích trồng gai lên tới 10.000 mẫu để có thể sản xuất 2.600.000 chiếc bao gai. Trong vòng ba năm, diện tích trồng cây kỹ nghệ gia tăng gấp hai trên toàn cõi Ðông Dương, từ 88.200 mẫu năm 1942 lên đến 154.517 mẫu năm 1944. Riêng tại Bắc Việt, diện tích nầy tăng hơn gấp hai, từ 18.850 mẫu năm 1942 lên đến 42.546 mẫu năm 1944.
    Những hoa màu chính giảm xuống nhiều, vì đất đai phì nhiêu đều dành cho việc trồng các loại cây kỹ nghệ. Dân chúng nông thôn đói khổ đành nhờ vào vài loại thực phẩm phụ để sống qua ngày. Trong khi đó, theo thỏa hiệp ngày 19-8-1942, nhà cầm quyền Pháp tại Ðông Dương sẽ xuất cảng sang Nhật trên 1.000.000 tấn gạo hạng tốt nhất sang Nhật trong các vụ mùa 1942-1943.
    Ðể bảo đảm thi hành việc nầy, Pháp lập ra những kho gạo an toàn. Viên thống sứ Pháp ở Bắc Kỳ còn buộc các làng xã phải lập những kho dự trữ tương ứng với sản lượng lúa gạo của làng đó, để có thể đáp ứng yêu cầu của nhà cầm quyền.
    Trong khi lúa gạo khan hiếm, người Pháp lại mua gạo để trữ trong các kho quân lương. Người Nhật cũng hành động như thế, và đến tháng 5-1945, người Nhật đã tích lũy một số gạo đủ dùng trong sáu tháng cho Quân đoàn thứ 38 của họ ở Ðông Dương.(David G. Marr, Vietnam 1945, The Quest for Power [Việt Nam 1945, đi tìm quyền lực], University of California Press, Berkeley, 1995, tt. 97-98.)
    Nạn đói bùng nổ từ mùa thu năm 1944 trở đi khi thời tiết xấu làm cho vụ mùa năm nầy tiếp tục bị hư hại. Trong khi dân chúng đói kém, kho gạo của Pháp và Nhật luôn luôn đầy đủ. Kawai, một người Nhật, quản lý kho gạo ở Nam Ðịnh, nơi nạn đói nặng nề nhất, đã kể lại:

    "Tại một khu nhà thờ Thiên Chúa giáo [Nhật dùng làm kho], gạo chứa đầy ắp trong kho, lại thấy người chết đói ngã lăn dọc đường suốt từ Nam Ðịnh lên tới Hà Nội, tôi đã cố thuyết phục tùy viên kinh tế của đại sứ quán Nhật mở các kho gạo đó nhưng họ không nghe..."
    Về nạn đói này, nhiều tài liệu cho thấy số người chết lên đến 2.000.000. Giáo sư David G. Marr trong sách Vietnam 1945, The Quest for Power [Việt Nam 1945, đi tìm quyền lực] cho rằng con số nầy có phần phóng đại, nhưng ông cũng phải công nhận tối thiểu số người chết từ 1.000.000 trở lên.
    Tại Nhật Bản, Hoa Kỳ thả quả bom nguyên tử đầu tiên xuống thành phố Hiroshima ngày 6-8-1945 đã giết chết 130.000 người, và quả bom thứ nhì xuống Nagasaki ngày 9-8-1945, giết chết 75.000 người. Số tử vong của cả hai vụ ném bom nầy cộng lại khoảng trên 200.000 người. Thế mà người Nhật ghi nhớ mãi và cho đến nay vẫn còn có người oán hận. So với số người chết trong nạn đói 1945 ở Việt Nam, con số đó mới chỉ bằng một phần năm nếu theo thống kê của David G. Marr, và chỉ bằng một phần mười nếu theo các tài liệu khác.
    -------------
    Được starboard_side sửa chữa / chuyển vào 01:29 ngày 28/03/2005

Chia sẻ trang này