1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nét đặc trưng Văn hoá Đức?

Chủ đề trong 'Đức (German Club)' bởi hetkiennhan, 01/02/2007.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. discodisco

    discodisco Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/01/2007
    Bài viết:
    27
    Đã được thích:
    0
    Giới thiệu CHLB Đức (P.3): Các bang của nước Đức
    Cộng hoà Liên bang Đức gồm 16 bang (trong ngoặc là thủ phủ các bang ): Baden-Württemberg (Stuttgart), Bayern (München), Berlin, Brandenburg (Potsdam), Bremen, Hamburg, Hessen (Wiesbaden), Mecklenburg-Vorpommern (Schwerin), Niedersachsen (Hannover), Nordrhein-Westfalen (Düsseldorf), Rheinland-Pfalz (Mainz), Saarland (Saarbrücken), Sachsen (Dresden), Sachsen-Anhalt (Magdeburg), Schleswig-Holstein (Kiel) và Thüringen (Erfurt). Các thành phố Berlin, Bremen và Hamburg đồng thời là các bang.
    Nước Đức vốn luôn luôn được chia ra thành các vương quốc, nhưng tấm bản đồ đất nước đã thường xuyên thay đổi trong các thế kỷ qua. Những thay đổi lớn nhất thời cận đại xảy ra dưới tác động của các cuộc chiến tranh của Napoleon đầu thế kỷ XIX, cuộc Chiến tranh Phổ- áo năm 1866, cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai. Những thay đổi đó đã dẫn đến việc chia cắt nước Đức và làm cho nước Phổ - vương quốc lớn nhất trong nước Đức-bị tan rã. Những bang ngày nay phần lớn được thành lập sau năm 1945. Khi thành lập những bang đó thì các phong tục, tập quán chung của từng nhóm dân tộc và mối quan hệ lịch sử ven đường biên giới giữa họ cũng phần nào được lưu ý.
    Cho đến trước khi được thống nhất vào năm 1990 thì Cộng hoà Liêng bang Đức có 11 bang được thành lập trong khu vực quân quản cũ ở phía Tây.
    Trong khu vực do Liên Xô kiểm soát thì trên vùng lãnh thổ Cộng hoà Dân chủ Đức sau này, 5 bang cũng được thành lập, nhưng ngay sau đó phải nhường chỗ cho một hệ thống quản lý tập trung. Sau cuộc bầu cử tự do đầu tiên vào ngày 18-3-1990 đã quyết định thành lập 5 bang mới. Về cơ bản khuôn khổ các bang này giống như thời kỳ trước năm 1952. Ngày 3-10-1990, Cộng hoà Dân chủ Đức gia nhập Cộng hoà Liên bang Đức và với các bang Brandenburg, Mecklenburg-Vorpommern, Sachsen-Anhalt và Thüringen. Đông Berlin cũng được thống nhất với Tây Berlin.
    Bang Baden ?" Württemberg
    Dân số: 10,4 triệu người
    Diện tích: 35.751km2
    Thủ phủ: Stuttgart
    Bang Berlin
    Dân số: 3,4 triệu người
    Diện tích: 89km2
    Thủ phủ: Berlin
    Bang Brandenburg
    Dân số: 2,6 triệu người
    Diện tích: 29.479km2
    Thủ phủ: Potsdam
    Bang Baden ?" Hamburg
    Dân số: 1,7 triệu người
    Diện tích: 755km2
    Thủ phủ: Hamburg
    Bang Hessen
    Dân số: 6,0 triệu người
    Diện tích: 21.144km2
    Thủ phủ: Wiebaden
    Bang Mecklenburg - Vorpommern
    Dân số: 1,8 triệu người
    Diện tích: 3.170km2
    Thủ phủ: Schwerin
    Bang Niedersachsen
    Dân số: 7,8 triệu người
    Diện tích: 47.338km2
    Thủ phủ: Hannover
    Bang Nordrhein - Westfalen
    Dân số: 18 triệu người
    Diện tích: 34.080km2
    Thủ phủ: Düsseldorf
    Bang Rheinland - Pfalz
    Dân số: 4 triệu người
    Diện tích: 19.849km2
    Thủ phủ: Mainz
    Bang Saarland
    Dân số: 1,1 triệu người
    Diện tích: 2.570km2
    Thủ phủ: Saabrücken
    Bang Sachsen
    Dân số: 4,5 triệu người
    Diện tích: 18.413km2
    Thủ phủ: Dresden
    Bang Sachsen - Anhalt
    Dân số: 2,65 triệu người
    Diện tích: 20.455km2
    Thủ phủ: Magdeburg
    Bang Schlesig - Holstein
    Dân số: 2,7 triệu người
    Diện tích: 15,729km2
    Thủ phủ: Kiel
    Bang Thüringen
    Dân số: 2,5 triệu người
    Diện tích: 16.171km2
    Thủ phủ: Erfurt
  2. discodisco

    discodisco Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/01/2007
    Bài viết:
    27
    Đã được thích:
    0
    Giới thiệu CHLB Đức: Đời sống văn hoá (P.4: Văn học)
    Sự khởi đầu mới sau 1945.
    Sau chiến tranh thế giới thứ hai, văn học Đức đã cố gắng để có một sự khởi đầu mới . Tuy nhiên, ta không thể nói đến "Giờ số 0" của văn học Đức nếu xem xét tính liên tục trong văn chương và tiểu sử của nhiều tác giả, trong đó Thomas Mann, Gottfried Benn và Bertolt Brecht là những tác giả quan trọng nhất vào nửa đầu thế kỷ .
    Sự khởi đầu mới , đối với nhiều nhà văn , là cố gứng diễn tả cho được những trải nghiệm gây sốc và vô cảm - theo đúng nghĩa của từ này - từ chiến tranh và sự tàn phá, thường bằng cách quay lại nhưng khuôn mẫu của các nhà văn nước ngoài hay nhờ ào lối tư duy của chủ nghĩa hiện sinh hoặc của truyền thống Thiên chúa giáo. Vở kịch Bên ngoài cánh cửa (1947) của Wolfgang Borchert, truyện ngắn của Heinrich Bõll (Chuyến tàu đúng giờ,1949 ) và Arno Schmidt (Thuỷ quái, 1949), thơ trữ tình của Paul Celan (Cây thuốc phiện và ký ức,1952), Gũnter Eich và Peter Huchel là những ví dụ rõ nhất về xu hướng tránh né không đề cập trực tiếp và cụ thể đến các đề tài chính trị , mà phản ánh tội lỗi và thất bại của nước Đức qua những ẩn dụ tôn giáo hay triết học. Các tác giả thường kế tục tính hiện đại trong vưn chương đã bị tẩy chay trong 12 năm trước đó.
    Giữa phê phán xã hội và thơ ca hình thức. Trong văn học những năm 1950 và 1960 đã hình thành rõ ràng một xu hướng văn học lấy chủ đề là cách xử lý của con người với quá khứ vừa qua . Trong nhiều tác phẩm xuất hiện thời kỳ này, sự phê phán "phép màu kinh tế" của thưòi kỳ sau chiến tranh được kết hợp với nỗ lực nhìn nhận quá khứ. Mối bận tâm với việc mau chóng đạt được sự thịnh vượng vật chất mới thường được lý giải như sự lảng tránh trách nhiệm đối với những gì đã xảy ra dưới trời Quốc xã. Có thể kể ra ví dụ các vở diễn và tác phẩm văn xuôi của tác giả gốc Thụy Sĩ Friedrich Dũrrenmatt (Cuộc viếng thăm của một bà già,1956; Những nhà vật lý, 1961) và Max Frisch (Stiller, 1954; Homo Faber, 1957; Biedermann và những kẻ đốt nhà,1958; Andorra, 1961). Những tác phẩm đáng kể nhất của các tác giả Đức được viết bởi Wolfgang Koeppen (Nhà kính,1953; Bánh mì của những năm xưa, 1955; Vãn bi-a lúc chín giờ rưỡi, 1959), Seigfried Lenz (Giờ học tiếng Đức, 1968) và Gũnter Grass (Cái trống thiếc, 1959; Mèo và Chuột, 1961; Những năm chó, 1963). Đóng vai trò trung tâm là "Nhóm 47", một nhóm không ổn định của các nhà văn tiếng Đức do Hans Werner Richter sáng lập, mà các cuộc họp hàng năm của họ (kéo dài đến năm 1967) vừa là sự kiện văn chương vừa ngày càng mang đậm màu sắc chính trị. Một số thành viên của nhóm, trong đó có nhiều tác giả nổi tiếng thời bấy giờ tự coi mình là toà án đạo đức. Đại diện nổi tiếng nhất của họ - nhà văn Heinrich Bõll - đã được giải thưởng Nobel về văn học năm1972. Bên cạnh các nhà văn này, còn một số nhà văn khác ít quan tâm đến việc giải thích thực tại xã hội, thay vào đó, họ tìm cách thể hiện một bức tranh (có vẻ) vô tư về xã hội. Trong số này trước tiên là Jũrgen Becker (Những cánh đồng, 1964; Những đường viền, 1968), Rolf Dieter Brinkmann (Không ai biết gì hơn, 1968), Alexander Kluge (Những cuộc đời, 1962) và Dieter Wellershoff (Một ngày đẹp trời, 1966).
    Đối lập lại dòng văn này là thể loại thơ ca hình thức (Max Bense, Eugen Gomringer, Helmut Heissenbũttel, Franz Mon), trong đó các tác giả cố gắng hoàn toàn không thể hiện phần nội dung: Ở đây, bản thân ngôn ngữ trở thành văn học.
    Những năm 68. Giữa những năm 1960 bắt đầu một thời kỳ thay đổi cơ bản trong xã hội, không chỉ ở Cộng hoà Liên bang Đức mà ở tất cả các nước phương Tây khác. "Những cuộc bạo động sinh viên" năm 1968 cho thấy viêvj phê phán "sự im lặng của những người cha" trước tội ác của chủ nghĩa Quốc xã đã trở nên quá khích rõ ràng. Những xu hướng thẩm mỹ hoá trong văn học bị quy thành những cố gắng nhằm che đậy nguyên nhân kinh tế và xã hội của cơ cấu kinh tế vốn bị coi là bất công. Nhiều tác giả tích cực hoạt động chính trị và xã hội - tuy đồng thừ vẫn không cho phép mình bị lợi dụng vào các mục đích chính trị . Biểu hiện của xu hướng này là quyết định của nhiều nhà văn phản đối cuộc chiến tranh ở Việt Nam và ủng hộ chính sách mới về phương Đông - chính sáhc nhằm vượt qua sự đối đầu Đông - Tây. không kém tiêu biểu là sự tìm tòi vai trò và hình thức mới của văn học. Luận đề Cái chết của văn học (Hans Magnus Enzensberger) và Mỹ học của sự phản kháng của Peter Weiss thể hiện mạnh mẽ những suy ngẫm mới này.
    Thuộc nền văn học chính trị này còn có kịch tư liệu (Rolf Hochhuth: Người đại diện, 1963; Heinar klipphardt: Trong vụ việc J.Robert Oppenheimer,1964), mà về nội dung và ý đồ được gắn với thể loại phóng sự mang tính đảng phái (Gũnter Wallraff: Các người ở trên - chúng tôi ở dưới, 1973) và văn học của những người lao động.
    Người nghệ sĩ như là một sự tồn tại bi thảm? Bên cạnh những xu hướng kể trên , một vài nhà văn đi theo con đường riêng đã tự khẳng định là những nhà văn xuất sắc của thời đại mình. Những tác phẩm quan trọng nhất của Arno Schmidt là Cuộc đời một kẻ phóng đãng, 1953; Trái tim đá, 1956; Những con bò cái trở tang, 1964; Giấc mơ của Zettel, 1970; Và buổi chiều vàng, 1975. Nổi bật trong những sáng tác của nhà văn Áo Thomas Bernhard là: Sương giá, 1963; Làm cho rối loạn, 1967; Tác phẩm băng vôi, 1970; Nguyên nhân, 1975; Những nghệ nhân già, 1985; Dập tắt. Một sự tan rã, 1986. Các tác phẩm của hai nhà văn này miêu tả một cách nghiêm túc pha lẫn mỉa mặi tồn tại của người nghệ sĩ - "con người trí tuệ" trong một thế giới thờ ơ và nghèo nàn về tinh thần . Thái độ hoài nghi được lĩnh hội ở Schopenhauer của họ mài sắc thêm sự quan sát cái bi và cái hài trong sự tồn tại của mỗi con người.
    Mười năm đầu tiên trong sự nghiệp sáng tác của mình , nhà thơ Áo được dư luận chú ý nhiều vào cuối những năm 60, Peter Handke, là một trong những thi sx có ảnh hưởng nhất (Xúc phạm công chúng, 1966; Kaspar, 1968; Nỗi lo sợcủa thủ môn trước quả phạt đền,1970; Khoảnh khắc của cảm giác thật, 1975). Từ những năm 1970, con đường thơ văn của ông ngày càng rẽ vào những lối mòn của chủ nghĩa bản thể (Cuổc trở về chậm chạp,1979; Vắng mặt, 1987; Tháng năm của tôi trong Vịnh Không Người, 1994).
    Hoạt động văn chương. Trong khi những năm 1960 vẫn còn chứa đầy những sự khởi đầu, sự thúc đẩy và xuất phát mới mẻ , những năm tiếp theo ngày càng có vẻ được đánh dấu bởi tình trạng cạn kiệt tiềm năng và thủ pháp nghẹ thuật . Các tiểu thuyết và truyện ngắn của các tác giả đã thành công vào đàu những năm 1950 và 1960 (trong đó Heinrich Bõll, Gũnter Grass, Martin Walser và nhà văn gốc Thụy Sĩ Max Frisch chỉ là vài ví dụ) thường thiếu sự độc đáo và nét sắc bén đặc trưng của những tác phẩm trước; còn thế hệ những người "68" thì rất nhanh chóng im tiếng trên văn đàn hoặc tìm cách thể hiện mình ở những môi trường nghệ thuật khác (kịch, âm nhạc, điện ảnh).
    Một nhân vật đã và vẫn luôn nổi tiếng cũng như gây tranh cãi là nhà phê bình văn học được mệnh danh là "Đức Giáo hoàng văn chương" Marcel Reich-Ranicki; những bài phê bình và những cuộc tranh luận trên truyền hình của ông đã đóng góp vào sự tiếp nhận tích cực hay tiêu cực đối với nhiều tác giả đương đại. Tiểu sử tự thuật của ông Cuộc đời tôi đã đứng đầu danh sách "Sách bán chạy nhất" của Đức trong nhiều tháng. Cũng được rất nhiều độc giả yêu thíchlà những cuốn nhật ký của Victor Klemper (Xuất bản năm 1995), trong đó, nhà viết tiểu thuyết tầm cỡ thế giới này ghi lại từng ngày cuộc sống thường nhật của một người Do thái như ông dưới chế độ Quốc xã.
    Văn học Cộng hoà Dân chủ Đức (DDR). Giống như năm 1945. những năm 1989/1990 - những năm kết thúc của "chủ nghĩa xã hội tồn tại thật sự" ở Cộng hoà Dân chủ Đức và Liên xô(1991) - đã đánh dấu một bước ngoặt sâu sắc không chỉ trong lịch sử chính trị , mà cả trong lĩnh vực văn hoá. Sự kiện này đặc biệt tác động đến các tác giả sống ở Cộng hoà Dân chủ Đức và vẫn công khai tuyên bố sự tin tưởng của họ rằng nhà nước này - bất chấp tất cả những khiếm khuyết của nó- vẫn là quốc gia ưu việt hơn trên đất Đức . Ngay từ đầu , văn học ở Cộng hoà Dân chủ Đức đã đi theo một hướng phát triển khác với ở phương Tây. Tự do thông tin lẫn tự do ngôn luận, và cơ hội tự do trao đổi ý tưởng , tác phẩm và con người đều rất hạn chế. Trong cả nước chỉ truyền bá nguyên tắc thẩm mỹ văn học xô viết "Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa".Những người không muốn phục tùng tìm cách xa lánh; khả năng này đã chấm dứt vào năm 1961, năm xây Bức tường Berlin, (trong số họ có Uwe Johnson: Những suy đoán về Jacob, 1959; Cuốn sách thứ ba về Achim, 1961; Hai quan điểm, 1965; Những lễ kỷ niệm hàng năm, 1970-83).
    Những tác phẩm sản sinh ở Cộng hoà Dân chủ Đức trong những năm 1950 và 1960,vì thế , chủ yếu là văn học "xây dựng" tuân theo một thứ triết lý lịch sử đánh dấu bởi chủ nghĩa lạc quan tẻ nhạt , thiếu những sự đổi mới hình thức hay sự đối đầu có tính phê phán với các nhà văn tiên phong của thế kỷ XX - những người phần lớn bị cấm (Franz Kafka, James Joice, Samuel Beckett, Vladimir Nabakov và nhiều người khác). Thêm vào đó , việc hầu hết các trào lưu triết học đương đại - ngay cả Friedrich Nietzsche-đều không được phép tiếp nhận ở Cộng hoà Dân chủ Đức đã làm nảy sinh một môi trường hạn chế về tư duy và đồng dạng về tư tưởng ; chỉ có những ngoại lệ đáng kể trong lĩnh vực văn học là những tác phẩm của Heiner Müller (Những kẻ hạ tiền lương, 1956; Philoktet, 1958/64; Cái chết của Germania ở Berlin, 1956/71; Máy Hamlet, 1977; Nhiệm vụ, 1979; Tứ tấu, 1980) và Christa Wolf (Bầu trời chia cắt, 1963; Suy nghĩ về Christa T, 1968; Kassandra, 1983) ngay cả thời kỳ cuối của Cộng hoà Dân chủ Đức , sự phê bình văn chương của các cá nhân như Christoph Hein, Volke Braun, Ulrich Plenzdorf hay Stefan Heym cũng bị gián đoạn và cản trở . Khác với văn học ở hầu hết các nước khác thuộc Đông Âu do Liên Xô chi phối, văn học ở Cộng hoà Dân chủ Đức hầu hết mang tính khẳng định. Những tác phẩm văn xuôi và sân khấu đáng kể nhất của Christa Wolf và Heiner Müller - ít nhất từ những năm 1970 trở đi - tuy có khác về sự trung thành với đảng và lòng tin ở chủ nghĩa xã hội , nhưng những mô hình một xã hội khác mà họ đưa ra thực chất vẫn có gốc rễ sâu xa từ ý tưởng xã hội chủ nghĩa.
    Những trào lưu mới. Một trong những tác giả xuất sắc của hai mươi năm cuối là Botho Strauss, những truyện ngắn và tiểu thuyết của ông (Chị em của Marlene,1975;Gã trai trẻ, 1984) cũng như các vở kịch (Những kẻ trầm uất, 1972; Những gương mặt quen, những tình cảm pha trộn, 1974; Kalldewey, Farce, 1981; Công viên, 1983) và những bài tiểu luận (Đôi lứa , Những khách qua đường , 1981; Cư trú , Nửa tỉnh nửa mê, Dối trá,1994) đã rất cố gắng nắm bắt hiện tại trong khoảnh khắc chơi vơi của nó bằng cách vay mượn những hình ảnh huyền bí trong ngôn ngữ và chuỗi cảnh được giàn dựng .
    Việc chấm dứt sự chia cắt về chính trị và hệ tư tưởng ở châu Âu và nước Đức vẫn còn là quá gần để đưa ra câu trả lời , dù chỉ là tạm thời , cho câu hỏi : việc chấm dứt này đã ảnh hưởng hay thay đổi thế nào đến nền văn học Đức. Cuộc tranh luận về cuốn tiểu thuyết của Günter Grass Einweites Feld (1995), trong đó tác giả đánh giá , tổng kết sự thay đổi cơ bản này, đã tóm tắt cũng nhanh như khi nó bắt đầu bùng lên . Trong Những câu chuyện bình dị (1998) Ingo Schulze đã vẽ lên bức tranh nhiều màu sắc về những tình huống thường là bi hài của người dân phía Đông sau khi bức tường Berlin sụp đổ . Trong tiểu thuyết ngắn Dối lừa (2000), Klaus Schlesinger đã thuật lại chi tiết câu chuyện giả định hoàn hảo về hai người đàn ông trong nước Đức bị chia cắt. Cuốn sách một lần nữa cho thấy sự kiện lịch sử quan trọng chỉ có thể trở thành văn học sau một khoảng thời gian nhất định .
    Những giải thưởng văn học. Günter Grass được nhận giải thưởng Nobel văn học 1999 vì theo Viện Hàn lâm Thụy Điển ông "đã vẽ nên bộ mặt bị bỏ quên của lịch sử bằng những tông màu tối nhạt". Cũng trong năm đó ông đã xuất bản tập truyện ngắn Thế kỷ của tôi: mỗi năm mang một câu chuyện được người nghệ sĩ minh họa bằng màu nước.
    Năm 1999, Siegfried Lenz nhận "Giải thưởng Goethe" của thành phố Frankfurt/Main; lời tuyên bố được giải do Marcel Reich-Ranicki đọc. "Giải thưởng Friedrich Holderin"của thành phố Bad Homburg trong năm đó được trao cho Reiner Kunze, còn Arnold Stadler được tặng "Giải thưởng Georg Büchner" của Viện Hàn lâm Ngôn ngữ và Thi ca Đức . Năm 1995 giải thưởng này được trao cho nhà thơ trữ tình sinh năm 1962 tại Dresden: Durs Grübein,- người sau đó được bầu vào Viện Hàn lâm nghệ thuật Berlin/Brandenburg năm 1999 , và với sức mạnh ngôn từ của mình , đã chiếm được một vị trí trong số những nhà thơ hiện đại hàng đầu.
    Văn chương triết học. Triết học ở Đức sau chiến tranh được đánh dấu bởi sự gián đoạn đột ngột và sự bất định dai dẳng không kém tiểu thuyết và thơ . Một trong những triết gia Đức có ảnh hưởng nhất thế kỷ này là Martin Heidegger (1889-1976), người làm nên tác phẩm nền tảng của chủ nghĩa hiện sinh: Tồn tại và thời gian (1927), đã trở thành một trong những học giả gây tranh cãi nhất của thời kỳ sau chiến tranh , do đôi khi thể hiện sự đồng cảm với nước Đức Quốc xã . Tuy vậy, ngay cả sau chiến tranh, tiền đề hiện sinh của Heidegger vẫn cứ tiếp tục là một trào lưu rộng rãi trong triết học và tất cả các bộ môn khoa học xã hội . Các nhà triết học như Karl Jasper, Hans-Georg Gadamer, Karl Löwith hay Jean-Paul Sartre ở Pháp đã phát triển những lý thuyết của họ từ sự nghiên cứu triết học hiện sinh.
    Một trào lưu triết học khác gắn với chủ nghĩa thực chứng đi cùng những tên tuổi như Ludwig Wittgenstein, Rudolf Carnap hay cả Karl Poper- bất chấp những sự khác biệt về tư duy giữa họ - tiếp tục phát triển đặc biệt ở các nước Anglo- Saxon. Triết học ngôn ngữ và "triết học phân tích" lên ngôi nơi đây nhờ những thúc đẩy đáng kể của trào lưu này. Đại diện có ảnh hưởng lớn nhất của những trào lưu đó ở Đức là Wolfgang Stegmüller.
    Từ đầu những năm 1960 trở đi, ảnh hưởng của "Trường phái Frankfurt" ở Đức tăng lên. Những đại diện chính của trường phấinỳ ở Cộng hoà Dân chủ Đức là Theodor W. Adorno và Max Horkheimer - đều là triết gia Do thái theo truyền thống mácxít, đã rời khỏi nước Đức trong thời Quốc xã - cũng như Walter Benjamin, Herbert Marcuse và Ernst Bloch. Các lý thuyết của họ ảnh hưởng đáng kể đến phong trào sinh viên cuối những năm 1960. Trường phái "lý thuyết phê phán" này chống lại cả truyền thống phi chính trị bảo thủ theo sau chủ nghĩa hiện thực lẫn xu hướng của chủ nghĩa thực chứng chấp nhận những quan hệ xã hội hiện tại như là quá trình diễn tiến tự nhiên.
    Từ những năm 1970, triết học Đức ngày càng tăng cường tiếp thu truyền thóng Anglo-Saxon- và ngược lại , các nước kia cũng thu nhận ngày càng nhiều những tư duy từ châu Âu lục địa. Triết học của Jürgen Habermas, người đã giảng dạy nhiều năm ở Mỹ , là biểu hiện rõ ràng của sự phát triển này . Nó thể hiện sự cố gắng kết hợp những yếu tố cơ bản của triết học phương Tây lục địa với những yếu tố cơ bản của tư duy Anglo-Saxon. Tách mình khỏi Habermas, nhà xã hội học Niklas Luhmann nhấn mạnh ý nghĩa phát triển tự trị của những hệ thống như xã hội , nền kinh tế hay chính trị . Hiện nay, những cuộc tranh luận triết học ở Đức tập trung đặc biệt vào những vấn đề đạo lý.
  3. discodisco

    discodisco Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/01/2007
    Bài viết:
    27
    Đã được thích:
    0
    Giới thiệu CHLB Đức: Đời sống văn hoá (P.5: Bảo tàng, sưu tập, triển lãm)
    Số lượng lớn các bảo tàng với các lĩnh vực chuyên sâu khác nhau có nguồn gốc từ quá trình phát triển xã hội và văn hoá Đức. Có hơn 3.000 Bảo tàng ở Cộng hoà Liên bang Đức
    Các Bảo tàng của bang, của thành phố, của hiệp hội, tư nhân ; các Bảo tàng về văn hoá và lịch sử địa phương ; các Bảo tàng báu vật của nhà thờ, Bảo tàng giáo khu hay nhà thờ lớn ; và các Bảo tàng lâu đài, cung điện hay Bảo tàng ngoài trời. Chúng đã phát triển qua nhiều thế kỷ từ những bộ sưu tập của vua chúa, nhà thờ và sau đó là sưu tập của các công dân.
    Tuy nhiên, các bộ sưu tập của vua chúa lúc đầu không nhằm mục đích giáo dục và giải trí cho quần chúng, mà chủ yếu để trưng ra sự giàu có của các bậc vua chúa thông qua vô số các báu vật. Ví dụ, từ thế kỷ XVI, München đã là một trung tâm nghệ thuật quốc tế theo kiểu này.Các quận công xứ Bayern không chỉ sưu tầm các tác phẩm nghệ thuật, mà còn sưu tầm cả thiết bị kỹ thuật đương thời, đồ nghề của nghệ nhân, nhạc cụ, các khoáng sản và vật lạ của nước ngoài. Vào thế kỷ XVII, "Vòm Xanh" của các lãnh chúa Saxon ở Dresden có lẽ là kho báu lớn nhất châu Âu. Từ bộ sưu tập đó đã hình thành một nhà trưng bày nghệ thuật, một Bảo tàng về toán, lý cũng như mọt bảo tàng khoáng vật học và một nhà trưng bày các đồng hồ tiền cổ.
    Một số công dân giàu có - theo mốt đương thời - cũng tích trữ những bộ sưu tâp riêng. Nhờ niềm đam mê sưu tầm này, ở Đức đã có bảo tàng cho mọi ngành nghệ thuật và lĩnh vực nghề nghiệp. Đặc biệt các bảo tàng lớn luôn cố gắng trưng bày các vật sưu tập thật đa dạng. Tuy nhiên, do thiếu chỗ, hầu hết các bảo tàng đều phải cất giữ nhiều vật sưu tập trong kho; chúng chỉ có thể ra mắt công chúng trong những dịp triển lãm đặc biệt.
    Từ Rembrandt và Picasso đến thảm thêu (Kassel), từ cộng cụ sản xuất rượu vang (Koblenz) đến thiên thạch (Marburg), từ xác ướp trong đầm lầy (Schleswig) đến dụng cụ quang học (Oberkochen) hay chiếc thuyền cổ nhất thế giới được dựng lại từ các mảnh (Bremerhaven) - sự đa dạng của các triển lãm dường như không có giới hạn.
    Những ngưòi yêu nghệ thuật và nhà bảo trợ. Ngày nay, các bảo tàng Đức, cả truyền thống và hiện đại, đều cố gắng tiếp cận cac tầng lớp nhân dân ở mọi trình độ học vấn. Người Đức bây giờ đến Bảo tàng thoải mái như trước kia đi xem phim; những đoàn người xếp hàng dài trước quầy vé Bảo tàng mỗi khi có triển lãm cá nhân của các hoạ sĩ lớn của trường phái hiện đại kinh điển. Năm nào cũng vậy, hơn 100 triệu người đi thăm các Bảo tàng Đức ; ở một sô thành phố lớn đã hình thành cả các cụm bảo tàng - ví dụ dọc theo "Dăm bảo tàng" ở Bonn hay ở thủ đô Berlin, nơi Quỹ di sản văn hoá Phổ (thành lập năm 1951) lấp đầy nhiều nhà bảo tàng bằng những bộ sưu tập của mình.
    Cũng như trước kia, ngày nay, những công dân giàu có với tư cách Mạnh Thường Quân đã góp một phần công lao trong sự bùng nổ bảo tàng. Peter Ludwig, qua đưòi năm 1994, là một trong những người nổi tiếng nhất. Ông đã tặng nhiều tác phẩm nghệ thuật hiện đại cho các bảo tàng phần lớn là mới xây dựng. Diễn đàn "Ludwig" ở Aachen, đặt trong một nhà máy sản xuất ô trước kia, bên cạnh một số chủ đề khác tập trung vào nghệ thuật Cộng hoà Dân chủ Đức cũ. Bộ sưu tập nghệ thuật Pháp đương đại của Ludwig được trưng bày tại Nghị viện Đức xưa ở Koblenz.
    Tại Bonn, Trung tâm nghệ thuật và Triển lãm Cộng hoà Liên bang Đức (1993) và Bảo tàng lịch sử Cộng hoà Liên bang Đức (1994) thu hút hàn nghìn khách. Tại Berlin, Bảo tàng Lịch sử Đức trình bày toàn bộ lịch sử Đức từ xưa cho đến ngày nay.
    Các bảo tàng lịch sử văn hoá và dân tộc học đóng một vai trò đặc biệt. Bảo tàng độc nhất vô nhị trên thế giới "Deutsches Museum" (Bảo tàng Đức) ở München có các nguyên vật và mô hình minh hoạ quá trình phát triển khoa học kỹ thuật trên thế giới. Sau khi hoàn thành cuộc trùng tu năm 2000, Bảo tàng Thông tin liên lạc ở Berlin mở cửa lại với một bộ sưu tập phong phú về bưu chính viễn thông Đức qua nhiều thế kỷ, trong khi Bảo tàng quốc gia Đức ở Nümberg có bộ sưu tập lớn nhất về lịch sử nghệ thuật và văn hoá Đức từ thời tiền sử cho đến thế kỷ XX. Cũng cần đề cập đến số lượng lớn các bảo tàng dân tộc học nhờ nước Đức có nhiều nhà thám hiểm và nghiên cứu quan tâm mạnh mẽ đến các nền văn hoá nước ngoài. Bên cạnh các bảo tàng ở Berlin, Bảo tàng Linden ở Stuttgart và Bảo tàng Roemer-Pelizaeus ở Hildesheim cũng đáng được lưu ý.
    Các cuộc triển lãm đặc biệt tập trung vào những chủ đề cụ thể. Những triển lãm lịch sử như triển lãm về nghê thuật văn hoá thời Karolinger (Paderborn, 1999) hay Hoàng đế Charles V (1500-1558) - quyền lực và sự bất lực của châu Âu (Bonn,2000) chứng tỏ có sức thu hút công chúng đặc biệt. Cũng như vậy, triển lãm Các lễ đăng quang. Các vua ở Aachen - Lịch sử và hưyền thoại mùa hè 2000 mang đến những cảm quan tuyệt vời về lễ đăng quang truyền thống của các vua nước Đức thời Trung cổ, thông qua những vật triển lãm từ nhiều bảo tàng châu Âu. Triển lãm 1848- Tìm đến tự do tại Nhà trưng bày nghệ thuật Schim ở Frankfurt/Main năm 1998 đạt chất lượng cao nhờ miêu tả vừa tao nhã, vừa dễ hiểu sự phát triển của nền dân chủ ở Đức.
    Triển lãm Hãy thêm ánh sáng ở Frankfurt mang đến một cái nhìn khái quát, toàn diện về nghệ thuật thời kỳ trào lưu Khai sáng của châu Âu (khoảng 1770), trong khi phòng tranh quốc gia ở Stuttgart giới thiệu tổng quát các tác phẩm của nghệ sĩ trường phái ấn tượng ban đầu Camille Pissarro.
    Cuộc triển lãm thiên niên kỷ Bảy ngọn đồi -những hình ảnh và biểu tượng của thế kỷ XXI tại toà nhà Martin Gropius ở Berlin năm 2000 đã dựng lên một bức tranh vị lai đa phương tiện về thiên niên kỷ tới gắn với sự hồi tưởng về những kho báu bất tử của quá khứ.
    Liên hoan nghệ thuật hiện đại lớn nhất thế giới là "documenta" ở Kassel, được tổ chức 5 năm một lần và thu hút hơn 631.000 khách năm 1997.
    Sự đa dạng về bảo tàng. Sự phân bố rộng rãi về địa lý của các bảo tàng Đức tạo cơ hội cho đông đảo dân chúng tiếp cận các bảo tàng. Chính quyền trung ương không có "chính sách bảo tàng", nhưng các bảo tàng hợp tác với nhau trong một số lĩnh vực như phục chế, bảo vệ bảo tàng, công tác tư liệu và nghiên cứu. Những hoạt động chung này được tổ chức bởi Liên đoàn các bảo tàng ở Đức - thành lập năm 1917, tập hợp tất cả các bảo tàng ở Đức. Viện bảo tảng học của các bảo tàng nhà nước về di sản văn hoá Phổ ở Berlin có những nhiệm vụ tương tự. Kiến trúc bảo tàng cũng hết sức đa dạng, từ những "ngôi đền" nghệ thuật thế kỷ XIX đến những công trình mới của thời đại chúng ta, thường với lối kiến trúc siêu hiện đại, như Bảo tàng mới ở Nürnberg - mở cửa vào 15-4-2000, Phòng trưng bày tranh ở München hoặc hai công trình xây dựng của Daniel Libeskind: Nhà Felix-Nussbaum ở Osnabrück và Bảo tàng Do thái ở Berlin-Mitte.
    Sân khấu, âm nhạc
    Các nhà hát. Nói đến sân khấu Đức, trước hết phải nói đến khoảng 180 nhà hát công cộng trên toàn đất nước, đó là các nhà hát thành phố, nhà hát quốc gia, nhà hát giao hưởng và nhà hát địa phương. Thêm vào đó là khoảng 190 nhà hát tư nhân và trên 30 nhà hát dành cho lễ hội. Ngoài ra còn có vô số các nhóm sân khấu độc lập và nhà hát nghiệp dư. Phong phú là đặc tính của đời sống sân khấu Đức. Thay vì một "kinh đô sân khấu" thu hút mọi nhân tài và mọi sự chú ý - ví dụ như Paris ở Pháp- Cộng hoà Liên bang Đức có rất nhiều nhà hát thường xuyên đạt chất lượng không hề thua kém nhau. Sự đa dạng này mang tính truyền thống: vào thế kỷ XVII và XVIII, hầu như mỗi lãnh chúa đều rất tự hào về nhà hát cung đình của riêng mình và phần lớn các nhà hát này được trang bị nhiều tiền của. Vào thế kỷ XIX, dưới ảnh hưởng ngày càng lớn của giai cấp tư sản, nhiều thành thị đã biến thành những địa điểm công cộng.
    Nhà hát đa năng là nơi trình diễn chung của nhiều loại hình nghệ thuật sân khấu, múa và sân khấu âm nhạc (nhạc kịch, tiểu nhạc kịch, ca nhạc) đa dạng. Các nhà hát kiểu này trình diễn khoảng 20-30 tác phẩm khác nhau mỗi mùa diễn. Hàng năm, khoảng mười tác phẩm mới được dàn dựng. Nhờ đó người xem có cơ hội làm quen với nhiều tác phẩm kịch và sân khấu âm nhạc trong thành phố. Bên cạnh đó, còn có các nhà hát múa rối, nhà hát cho trẻ em và thanh, thiếu niên - hoặc dưới hình thức là một phần của nhà hát đa năng, hoặc hoạt động hoàn toàn độc lập.
    Ngược lại, nhà hát nhạc trong suốt nhiều tháng, thậm chí nhiều năm hàng ngày vẫn trình diễn chỉ một tác phẩm. Còn các nhà hát tư nhân nhỏ thường trình diễn một tác phẩm liên tục trong vài tuần rồi chuyển sang tác phẩm mới.
    Gương mặt nghệ thuật của một nhà hát phụ thuộc rất nhiều vào đoàn nghệ sĩ. Việc xây dựng và duy trì đoàn nghệ sĩ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các nhà hát. Đặc biệt, các nhà hát bang và thành thị có biên chế cho các diễn viên, ca sĩ và vũ công.
    Sân khấu Đức góp phần vào giao lưu văn hoá quốc tế và quá trình hợp nhất châu Âu. Đóng góp phần quan trọng là những liên hoan như "Nhà hát Thế giới" ở Berlin, hay "Bonner Biennale". Tại liên hoan văn hoá thế giới " Những chân trời" ở Berlin, những nền văn hoá châu Âu và ngoài châu Âu giao lưu với nhau. Ngoài ra còn có sự trao đổi các vở dựng riêng lẻ với các nhà hát nước khác, cũng như sự hợp tác với các diễn viên, ca sĩ,vũ công, giám đốc nhà hát, nhạc trưởng, đạo diễn,các nhà thiết kế sân khấu và các cộng sự nước ngoài. Thành công lớn trên lĩnh vực này có nhà hát "Theater an der Ruhr " tại Mülheim, đây là một ví dụ tiêu biểu.
    Kế hoạch biểu diễn. Theo số liệu thống kê của Hội sân khấu Đức, trong mùa diễn 1997-1998 có cả thảy 5.593 lần dàn dựng của 2.863 tác phẩm (kịch, nhạc kịch, ba lê và múa rối) được đăng ký. Những vở dàn dựng này được 387 nhà hát trình diễn trong nơn 92.000 buổi diễn. 338 tác phẩm trong số đó được công diễn lần đầu, hoặc lần đầu bằng tiếng Đức. Các tác phẩm được yêu thích nhất trong mùa diễn này là:
    - Nhạc kịch: Cây sáo thần (Mozart), Hansel và Gretel (Humperdinck) và LaBohème (Puccini).
    - Tiểu nhạc kịch: Con dơi (Strauβ), Bà goá vui tính (Lehár) và Trong con ngựa bạch nhỏ (Benatzky)
    - Kịch: Vở nhạc kịch ba xu (Brecht), Jim Knopf (Ende) và Faust (Goethe)
    - Ba lê: Romeo và Juliet (Prokofjev), Anh chàng cắn hồ đào (Tschaikowski) và Giselle (Adam).
    Ngoài các đạo diễn đã thành danh như Jürgen Flimm, Peter Zadek, Claus Peymann và Peter Stein, một thế hệ đạo diễn trẻ hơn đang thu hút được sự chú ý với các ý tưởng mới và những dàn dựng tiên phong, ví dụ như Martin Kusej, Sasha Waltz, Thomas Ostermeier và Thirza Bruncken.
    Liên hoan sân khấu. Lịch liên hoan cho các khán giả yêu sân khấu gồm có: Gặp gỡ sân khấu Berlin vào tháng Năm - dịp giới thiệu các vở diễn tiếng Đức hay nhất, liên hoan Ruhrfestspiele ở Recklinghausen cũng vào tháng Năm - nơi trình diễn các tác phẩm cổ điển và hiện đại cho đông đảo công chúng, và liên hoan Euro-scene ở Leipzig. Có nhiều địa điểm tổ chức liên hoan với các pháo đài, lâu dài và nhà thờ cổ làm hậu cảnh tuyệt diệu cho việc trình diễn trước hết các tác phẩm cổ điển. Bad Hersfeld, Ludwigsburg, Schwäbich Hall, Jagsthausen, Haidplatz ở Regensburg, Wartburg gần Eisenach và nhiều nơi khác. Liên hoan Mùa hè Kissinger, Liên hoan Caledéron ở Bamberg và liên hoan "Hornberger Schiessen" cũng rất nổi tiếng.
    Liên hoan lâu đời nhất ở Đức là Obergammergau Passionsspiele (kịch huyền bí mô tả những khổ hình Chúa Giêxu), diễn ra mười năm một lần theo một lời nguyền từ năm đại dịch hạch 1634.Lần tổ chức gần đây nhất là năm 2000.
    Có hơn 100 liên hoan dành cho âm nhạc. Ba năm một lần, vào tháng Chín, thành phố Bonn lại mở Liên hoan Beethoven quốc tế. Vào tháng Tám và tháng Chín, ở Augsburg có Mùa hè Mozart, nơi các buổi hoà nhạc được tổ chức trong không khí Rococo. Liên hoan ở Eutin kỷ niệm Carl Maria von Weber, người sinh ra tại đây. Tại Halle và Göttingen có kỷ niệm Georg Friedrich Handel, trong khi Richard Strauβ được kỷ niệm ở München và Garmisch-Partenkirchen. Liên hoan Richard Wagner ở Bayreuth được tổ chức hàng năm từ 1876. Nhân 250 năm ngày mất của Johann Sebastian Bach (28 tháng Bảy) năm 2000, hơn 500 sự kiện được tổ chức ở Đức, ví dụ Liên hoan Bach ở Leipzig hay Tuần lễ Bach ở Türingen.
    Hầu hết các thành phố lớn đều tham gia tổ chức các cuộc liên hoan : München tổ chức Liên hoan Nhạc kịch (tháng Bảy), Frankfurt/Main có Liên hoan Frankfurt ( tháng Chín), Stuttgart có Liên hoan âm nhạc châu Âu (tháng Tám và tháng Chín) và Berlin có Liên hoan nhạc Jazz vào tháng Mười một. Bên cạnh đó, Dresden và Potsdam-Sanssouci tổ chức nhiều liên hoan âm nhạc, Erfurt có Hoà nhạc màu hè ở Vườn Brühler và Weimar có Liên hoan nghệ thuật. Những sự kiện đáng chú ý khác bao gồm Mùa hè âm nhạc của đài phát thanh Trung Đức, Liên hoan Rügen với các vở nhạc kịch của Rossini và Tuần lễ liên hoan Mosel. Heidelberg tổ chức các cuộc Liên hoan Lâu đài lãng mạn vào tháng Tám hàng năm. Liên hoan âm nhạc Schleswig Holstein được sáng lập bởi nghệ sĩ dương cầm và nhạc trưởng Justus Franz năm 1986 thu hút các nhạc công tầm cỡ thế giới đến bang tận cùng miền Nam Đức và gây được tiếng vang rất lớn trong công chúng - một sự kiện âm nhạc giữa một tỉnh lẻ. Sự kiện nữa không thua kém được sáng lập gần đây là Liên hoan Mecklenburg-Vorpommern. Liên hoan âm nhạc Rheingau mùa hè hội tụ những nghệ sĩ độc tấu và những dàn nhạc hàng đầu để biểu diễn cả nhạc cổ điển và hiện đại. Mùa hè âm nhạc Chorin với địa điểm là tu viện Zisterzienser trước kia thu hút khán giả xa, gần với các buổi hoà nhạc cổ điển.
    Các dàn nhạc và các nghệ sĩ độc tấu. Nước Đức có tổng cộng 141 dàn nhạc chuyên nghiệp, trong đó một số đã có truyền thống lâu đời. Các dàn nhạc hàng đầu đất nước là các dàn nhạc giao hưởng Berlin và München; dàn nhạc giao hưởng Bamberg, dàn nhạc Gewandhaus ở Leipzig, dàn nhạc Staatskapelle Dresden và một số dàn nhạc giao hưởng đài phát thanh có uy tín quốc tế. Dàn nhạc giao hưởng Berlin do nhạc trưởng người Italia Claudio Abbado chỉ huy; Kurt Masur chỉ huy dàn nhạc giao hưởng New York và Christoph von Dohnányi là nhạc trưởng chính của dàn nhạc Cleveland.
    Các nghệ sĩ độc tấu Đức như nghệ sĩ vĩ cầm Anne-Sophie Mutter, nghệ sĩ viola Tabea Zimmerman,nghệ sĩ kèn trompet Ludwig Güttler, các ca sĩ như Hildegard Behrens, Waltraud Meier, Gabriele Schnaut, Kurt Moll, Peter Hofmann, René Kollo đều thuộc những nghệ sĩ hàng đầu trên trường quốc tế.
    Các tác giả kinh điển của nhạc hiện đại và các nhà tiên phong. Các nhạc sĩ kinh điển của nhạc hiện đại cũng có một chỗ đứng vững chắc trong các chương trình hoà nhạc, đó là Paul Hindemith, Igor Strawinsky, Arnold Schönberg và Béla Bartók cũng như Boris Blacher, Wolfgang Fortner, Werner Egk và Carl Orff. Bernd Alois Zimmermann đã đi vào lịch sử âm nhạc từ rất sớm với vở nhạc kịch Những người lính.
    Với sân khấu lớn âm nhạc và những hiệu ứng kỳ lạ nhất, các nhạc sĩ ngày nay cố chinh phục khán giả đến với âm nhạc bên ngoài những hoà âm quen thuộc Hans Werner Henze, Aribert Reimann, Karlheinz Stockhausen, nhạc sĩ Achentina Mau ricio Kagel ở Köln và Wolfgang Rihm. "Nhạc kịch thính phòng" với dàn diễn viên ít người đang trở nên phổ biến. Nhờ các mạng lưới phát thanh, truyền hình phát hàng loạt các cuộc hoà nhạc hiện đại và đặt hàng các sáng tác mới, ngày nay ai cũng có thể tham gia thảo luận về âm nhạc đương đại. Các chương trình giao lưu với các nhạc sĩ cũng góp phần phổ biến loại nhạc này, nổi tiếng nhất là chương trình "Những ngày âm nhạc Donausching" và "Khoá học quốc tế trong kỳ nghỉ về nhạc mới" ở Darmstadt. Hội đồng âm nhạc Đức thúc đẩy việc trình diễn các tác phẩm đương đại qua "Buổi hoà nhạc của Hội đồng âm nhạc Đức".
  4. discodisco

    discodisco Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/01/2007
    Bài viết:
    27
    Đã được thích:
    0
    Tiếp ...
    Tài chính. Theo hệ thống Liên bang Đức, trách nhiệm văn hoá thuộc về các bang. Do đó các nhà hát và dàn nhạc phần lớn được các bang và chính quyền các đô thị tài trợ. Chính quyền Liên bang chỉ đóng góp một phần. Tổng cộng,các nhà hát và dàn nhạc Đức nhận từ công quỹ 4,5 tỷ mác hàng năm. Số tiền này chiếm khoảng hơn 0,2% toàn bộ chi tiêu của chính quyền Liên bang, các bang và đô thị. Các nhà hát Đức thu nhận khoảng 45.000 nhân công và đảm bảo việc làm trong nhiều doanh nghiệp có hợp đồng với các nhà hát.
    Hiện nay, người ta ngày càng đòi hỏi nhà hát và các chương trình sân khấu phải tuân theo các nguyên tắc của kinh tế thị trường. Tuy nhiên, người ta không nhận ra rằng chỉ có tài trợ nhà nước mới có thể đảm bảo tự do nghệ thuật. Các nhà hát của Cộng hoà Liên bang Đức đã thích ghi được với những đòi hỏi quản trị kinh doanh của thời đại và đã liên tục hiện dại hoá các hoạt động với sự trợ giúp của các nhà quản trị chuyên nghiệp. Các nhà tài trợ tư nhân chỉ đóng góp 5% chi phí cho các hoạt động văn hoá, và gần như chỉ tài trợ cho các dự án giàu uy tín.
    Khán giả. Mỗi năm có khoảng 38 triệu người ở mọi lứa tuổi đến xem xấp xỉ 114.000 buổi trình diễn sân khấu và hoà nhạc. Những con số này chứng tỏ sự quan tâm đối với sân khấu không hề bị gián đoạn và cho thấy sân khấu và âm nhạc là một bộ phận không thể thiếu của chất lượng cuộc sống thành thị. Hệ thống đặt mua vé cho phép khán giả đặt trước vé cho một loạt các buổi biểu diễn trong mùa diễn. Đối với nhiều người, đi xem một buổi trình diễn sân khấu là lý do quan trọng nhất để lên kế hoạch du lịch. Nhiều hãng du lịch tổ chức các chuyến xe đặc biệt và nhiều dịch vụ khác phục vụ khách hàng đến với nhà hát (đặc biệt đối với sân khấu nhạc
    Nhạc pop. Từ khoảng mười năm trở lại đây, nhạc pop Đức đã có bước đại nhảy vọt. Trước đó, các ca sĩ và ban nhạc Anglo-Saxon thống trị các bảng xếp hạng. Các bài hát pop dễ nhớ của Đức - có thời rất thành công - chỉ thu hút được một lớp khán giả hạn chế ; trừ một số ngôi sao pop nội địa như Udo Lindenberg. Nhưng dù chưa bao giờ thật nổi tiếng, các ban nhạc như "Tangerine Dream","Can" hay "Kraftwerk" đã đi tiên phong trong lĩnh vực nhạc điện tử, và nhạc hard rock của "The Scorpions" thậm chí còn lọt vào các bảng xếp hạng ở Mỹ. Ban nhạc "Passport" của nghệ sĩ kèn trombon Albert Mangelsdrff, nghệ sĩ organ Barbara Dennerlein và Klaus Doldinger đã đưa nhạc jazz Đức lên tầm thế giới.
    "Làn sóng Đức mới" vào đầu thập kỷ 80 đã cho thấy các nhạc sĩ Đức có thể thành công với các bài hát bằng tiếng mẹ đẻ. Marius Müller-Westernhagen, Peter Maffay, Herbert Grönemeyer và nhóm nhạc "BAP" ở Köln trở thành những nghệ sĩ rock hàng đầu đất nước. Đến ngày nay ,những người hâm mộ họ- ví dụ những người hâm mộ các nhóm punk rock"Die toten Hosen" hay "Die "rzte" - vẫn chiếm đầy các sân vận động và các nhà hát.
    Từ đầu thập kỷ 90,nhạc pop Đức ngày càng trở nên đa dạng. Mọi trào lưu âm nhạc quốc tế đều tự phản chiếu nơi đây: "Selig" cho nhạc grunge, "H-blockx" chơi nhạc kết hợp giữa rock và hip-hop, và "Jazzkantine" hoà trộn nhạc jazz truyền thống với rap Đức. "Fury in the slaughter-house" và "M. Walking on the Water" tiếp tục dòng nhạc rock dân gian tiếng Anh, trong khi "Fantastische Vier", Sabrina Setlur, Xavier Naidoo và "Fettes Brof" thành công với hip-hop tiếng Đức. Nhạc Đức có từ loại pop vui vẻ, như của "Pur" và "Die Prinzen", tới những lời hát giàu ý nghĩa hơn của "Sterne" hay "Element of Crime".
    Âm nhạc cho mọi người. Hơn 300.000 người kiếm sống bằng nghề nhạc sĩ, nghệ sĩ biểu diễn, giáo viên nhạc và chuyên gia âm nhạc trong các cơ quan nhà nước hoặc cơ quan hàn lâm, các phương tiện thông tin và ngành công nghiệp âm nhạc. Họ được đào tạo tại 23 Trường đại học âm nhạc, khoảng 65 Trường đại học tổng hợp, 11 Nhạc viện, 9 Trường nhạc và 4 Trường đại học âm nhạc của nhà thờ, 50 cơ sở đào tạo chuyên nghiệp và 40 học viện chuyên sâu. Có nhiều cuộc thi để khuyến khích các nhạc sĩ trẻ tài năng, nổi tiếng nhất là Cuộc thi nhạc sĩ trẻ. Năm 1998, nước Đức có hơn 1.000 trường nhạc công cộng, khoảng 40.000 dàn đồng ca, 25.000 dàn nhạc nghiệp dư và bán chuyên nghiệp và nhiều đoàn nhạc khác. Âm nhạc là môn học bắt buộc trong trường phổ thông và việc chơi nhạc theo nhóm được cũng được khuyến khích. Nghề làm nhạc cụ ở Đức có truyền thống lâu đời: nhạc cụ làm ở Vogtland và đặc biệt là đàn vĩ cầm ở Mittenwald đã nổi tiếng thế giới. Xấp xỉ một phần tư thanh, thiếu niên Đức chơi một nhạc cụ hoặc hát trong một dàn đồng ca, nhạc cụ phổ biến nhất trong trường nhạc là piano, sáo và ghita. Công nghiệp âm nhạc đang phát đạt: mỗi năm có khoảng 240 triệu đĩa CD, băng cát-xét và đĩa ghi âm sản xuất trong và ngoài nước được bán ở Cộng hoà Liên bang Đức.
  5. discodisco

    discodisco Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/01/2007
    Bài viết:
    27
    Đã được thích:
    0
    Bạn thân mến!
    Rất tiếc bài viết của bạn có thể có nội dung chưa phù hợp hoặc vượt ra ngoài nội qui của TTVNOnline. Nếu không có sự vi phạm, bài viết của bạn sẽ được hiển thị trở lại trong một thời gian ngắn.
    Mong bạn thông cảm và tiếp tục đóng góp xây dựng và phát triển TTVNOnline.
    Ban Quản trị TTVNOnline!​
    ????
    Được discodisco sửa chữa / chuyển vào 17:44 ngày 14/03/2008
  6. asicsaigon

    asicsaigon Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/01/2008
    Bài viết:
    1.559
    Đã được thích:
    0
    Văn hoá ĐỨC à Hồi tớ còn ở bên ấy, người nước ngoài và người trẻ nước Đức rất thích bài Deutschland của nhóm Prinzen Một bài hát nói đến những tính xấu của người Đức một cách hài hước. Các bạn có thể nghe ở đây
    [/url]http://www.youtube.com/watch?v=uI7ncxV9Q9c[/url]
    Đó là một phần văn hoá ĐỨC
  7. Vanbt281

    Vanbt281 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/01/2013
    Bài viết:
    0
    Đã được thích:
    0
    bọn em học ngoại ngữ, đang chuẩn bị cắm trại: Tết Văn hóa các nước. lớp em phải làm về nước đức, nhưng chẳng biết style Đức như thế nào mà thể hiện?
    về bán hàng gì, về trang phục như nào, về trang trí nữa... mọi người chỉ cho em biết được ko ạ?

Chia sẻ trang này