1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nét tương đồng văn hóa Việt - Nhật phần 4

Chủ đề trong 'Nhật (Japan Club)' bởi TrangAnh123, 10/05/2016.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. TrangAnh123

    TrangAnh123 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    21/01/2016
    Bài viết:
    145
    Đã được thích:
    0
    Nguồn tham khảo : http://tiengnhatgiaotiep.edu.vn/
    Việt-Nhật mối tương quan văn hóa (phần 4)
    Tương quan ngôn ngữ

    Thời Thế Chiến Thứ 2, người Việt biết đến các từ "Joto" (tốt), "Jotonai" (không tốt), "Arigato" (cám ơn), "Sayonara" (tạm biệt) v.v...

    Ngày nay, người Việt biết tiếng Nhật qua các nhãn hiệu xe cộ như Honda, Suzuki, Yamaha, Toyota, Matsuda, Mitsubishi, Hitachi, Sony, Sanyo, Canon, Nikkon, Ajinomoto, Itochu, Nisho Iwaị.., rồi Kimono, Judo, Akido, Karate, Sumo..., các địa danh Tokyo, Osaka, Kobe, Hiroshima, Nagasaki, ..., sau này biết thêm "samurai (võ sĩ đạo), gesha (nữ tiếp viên rượu), sushi (cơm nắm cá), sashimi (gỏi cá), wasabi (mù tạt)..., ofuro (nhà tắm), tatami (chiếu)...". Còn người Nhật biết đến tiếng Việt qua các từ "áo dài, nón lá, bánh tráng, nước mắm, chả giò, gỏi cuốn, phở bò, phở gà..., đổi mới", các địa danh "Hà Nội, Sài Gòn, Huế, Hạ Long, Hội An...".

    Nhưng nếu đi sâu hơn, thì chúng ta thấy hai dân tộc không chỉ biết nhau có vậy. Người Việt đã dùng hàng trăm từ Hán-Việt trong lãnh vực khoa học tự nhiên và khoa học nhân văn do người Nhật ghép các chữ Hán đơn thành chữ Hán kép mà cứ tưởng do người Hoa đặt ra. Như các từ "tự do, dân chủ, cộng sản, triết học, xã hội, kinh tế, chính trị, diễn đàn, vấn đề, phương pháp, lập trường, diễn thuyết..." và khoảng 30 đến 40 % số các thuật ngữ toán trong bậc Trung Học là do người Nhật chế ra, du nhập vào Trung Hoa, được dùng trong Tân Thư rồi truyền vào Việt Nam. Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn khi soạn cuốn Tự Ðiển Danh Từ Khoa Học khoảng 60 năm trước, để tìm từ đối dịch, ông đã tham khảo chính các từ điển Trung Hoa và Nhật Bản. Nay người Việt còn biết thêm "Oshin, Ðôrêmon, nam ca sĩ Ryo Sasakị..". Tới năm 2000, có khoảng 100000 người học tiếng Nhật ở Việt Nam và 14000 người Việt ở Nhật, thì chắc chắn còn tiếp tục du nhập thêm rất nhiều từ nữa.

    Ngược lại, số người Nhật qua Việt Nam khá nhiều, mỗi năm khoảng 70,000 người, nên họ biết khá nhiều địa danh Việt như "Biên Hoà, Cần Thơ, Mỹ Tho, Nha Trang, chùa Hương, Lạng Sơn, Sapa, Bát Tràng, Ðà Lạt, Củ Chi, Tân Sơn Nhất, Nội Bài..." và những thức ăn, sản phẩm thủ công nghệ Việt Nam được giới thiệu ở Nhật, nên người Nhật biết đến các từ "phở bò, phở gà, nem, bánh chưng, bánh tét, bánh dầy, bánh cuốn, bún bò huế, giò lụa, thịt chó, bia, rượu đế, mắm tôm... ", trái cây như "đu đủ, mít, soài, thanh long, vú sữa, măng cụt, nhãn, rau muống...", các nghệ sĩ như "Khánh Ly, Trịnh Công Sơn, Phạm Duy, Ái Vân, Như Quỳnh, Hương Lan, Hồng Nhung, Thanh Lam, Tam Ca Áo Trắng, Mỹ Linh, Hồng Hạnh, Lam Trường...", các bản nhạc như "Diễm Xưa (Utsukushìmukashi, Mỹ Tích), Hạ trắng (Gekkabijin, Nguyệt Hạ Mỹ Nhân)...", nhạc khí như "đàn tranh, đàn bầu, đàn tơ-rung...". Chúng tôi định sưu tập khoảng một ngàn từ loại này và đưa vào trong cuốn Từ Ðiển Nhật-Việt do chúng tôi biên soạn để đẩy mạnh thêm sự giao lưu văn hoá giữa hai dân tộc (sẽ hoàn tất trong vài năm tới).

    Tôi có dạy tiếng Việt cho một số người Nhật, bao giờ cũng vậy, bắt đầu bằng màn giáo đầu kéo dài khoảng một giờ đồng hồ giới thiệu sơ về tiếng Việt và tương quan giữa tiếng Việt, Nhật và Hoạ Mục đích là để người học có khái niệm cơ bản về ngôn ngữ họ học, thấy gần gũi hơn vì chúng vốn có nhiều quan hệ. Qua đó, họ biết rõ thế nào là âm Nôm (tương đương với âm kun của Nhật), âm Hán-Việt (tương đương với âm ON của Nhật), chữ Hán và chữ Nôm (tương đương với Quốc Tự của Nhật), đặc trưng phát âm của 12 mẫu âm Việt so với 5 mẫu âm Nhật và 6 dấu thinh Việt so với hầu như không có dấu thinh của Nhật v.v... ra sao.

    Thời Bắc thuộc (năm 111 trước Tây Lịch đến năm 939), khi Trung Hoa cai trị Việt Nam, người Việt có tiếng nói nhưng chưa có chữ viết (trừ một vài dân tộc thiểu số nào đó có chữ viết thô sơ). Thí dụ:1, 2, 3, là "một, hai, ba..."

    Người Hoa đưa vào"Chữ Hán và âm đọc Quảng Ðông: "dách, dì, xám...". Trí thức Việt thời đó học chữ Hán và nói tiếng Hoa. Nhưng từ thời Ngô Quyền giành độc lập, người Việt bắt đầu có khuynh hướng bỏ tiếng Hoa và quay ra đọc chữ Hán theo phiên âm Hán-Việt. Qua thế kỷ 13, để viết tiếng Việt, bắt đầu tạo ra chữ Nôm dựa trên chữ Hán để diễn tả "một, hai, ba...". Có tổng cộng khoảng 5000 chữ thuần Nôm và 5000 chữ trùng hình với chữ Hán.

    Trong khi đó, chữ Hán vào Nhật Bản qua ngả Triều Tiên hay trực tiếp vào thế kỷ thứ 2 đến 4. Khi đó người Nhật cũng có tiếng nói mà không có chữ viết. Thí dụ:1, 2, 3... là hitotsu, futatsu, mitsu..."

    Du nhập vào:Chữ Hán và đọc theo âm Hán-Nhật (ON) là " ichi, ni, san...".

    Qua thế kỷ thứ 8, để viết tiếng Nhật, họ mới bắt đầu tạo ra Quốc Tự (Kokkuji), có tổng cộng khoảng 5000 Quốc Tự nhưng nay chỉ thông dụng 5, 7 chữ. Sở dĩ như vậy vì họ đã dựa vào chữ Hán để tạo ra thêm 46 ký âm Hiragana (Bình Giả Danh, nét mềm do viết tháu chữ Hán) và 46 ký âm Katakana (Phiến Giả Danh, nét cứng do lấy một phần chữ Hán) gọn gàng và tiện dụng hơn.


    [​IMG]
    >>>> xem thêm các chủ đề khác tại : Ngữ pháp tiếng Nhật
    Như vậy, Việt Nam và Nhật Bản (kể cả Triều Tiên) có hoàn cảnh khá giống nhau, cùng thuộc khối văn hóa Hán, có âm Hán-Việt và Hán-Nhật đọc gần giống nhau vì cùng dựa trên âm đọc của Trung Hoạ Như "quốc kỳ - kokki, quốc ca, kokka, trà Ố cha...", còn âm Nôm và âm Nhật thì hoàn toàn khác nhau. Tiếng Việt đơn âm, tiếng Nhật đa âm (tiếng Hán-Nhật cũng thuộc loại đơn âm, âm thứ hai nếu có là âm câm). Từ đó, có sự quan hệ đặc biệt sau (ở đây thí dụ bằng La-Tinh phiên âm Bắc Kinh hay Quan Thoại của tiếng Hoa, âm Quảng Ðông v.v... cũng tương tự):
    - Tiếng Việt và Hoa ít nét (3 mẫu tự trở xuống) thì tiếng Nhật là đoản âm.
    cổ - gu - ko
    sở - suo - sho
    ổ - zu - so
    đô - dou - to

    - Tiếng Việt và Hoa nhiều nét (3 mẫu tự trở lên) thì tiếng Nhật là trường âm (lý do là tiếng Nhật không có "tận cùng bằng ng, mẫu âm kép, dấu thinh..." nên đã thay bằng trường âm).
    công - gong - kò
    thương - sang - shò
    tưởng - xiang - sò
    đông - dong - tò

    - Tiếng Việt và Hoa 3 mẫu tự thì tiếng Nhật có thể là đoản âm, có thể là trường âm.
    cấu - gou - kò
    thư - shu - sho
    tôn(g) - zong - shù (nguyên là tông, nhưng vì kỵ húy tên vua nên đổi là tôn)

    Quy luật trên đúng khoảng 95%. Có một số ngoại lệ vì tiếng Hoa có nhiều âm mà tiếng Việt và Nhật khi phiên đã dựa trên những âm khác nhau: số - shu - sù, tiếng Nhật có cả su nhưng rất ít dùng.

    Trong khi Việt Nam tạo từng chữ Nôm, thì người Nhật cũng tạo ra Quốc Tự và thêm ký tự Hiragana, Katakana. Cho tới nay, người Việt thường chỉ viết tay chữ Nôm, nhưng từ năm 2000, với chương trình đánh chữ Nôm của Nhật thì người Việt có thể đánh chữ Nôm dạng TrueType thật là đẹp chung với chữ Hán và chữ Quốc Ngữ.

    Câu tiếng Việt căn bản là danh từ - tính từ - động từ - túc từ, tiếng Nhật là tính từ - danh từ - túc từ - động từ. Tiếng Việt khi dùng âm ghép Hán-Việt thì hầu hết cũng là tính từ - danh từ như tiếng Nhật. Ðặc biệt tiếng Việt không chia động từ và tính từ như tiếng Nhật.

    >>>> Xem thêm chủ đề Học tiếng Nhật không khó
    Chúc các bạn chinh phục tiếng Nhật thành công!

    TRUNG TÂM TIẾNG NHẬT SOFL

    Địa chỉ: Cơ sở 1 Số 365 - Phố vọng - Đồng tâm -Hai Bà Trưng - Hà Nội
    Cơ sở 2: Số 44 Trần Vĩ ( Lê Đức Thọ Kéo Dài ) - Mai Dịch - Cầu Giấy - Hà Nội
    Cơ sở 3: Số 54 Ngụy Như Kon Tum - Thanh Xuân - Hà Nội
    Điện thoại: (84-4) 62 921 082 Hoặc: (84-4) 0964 66 12 88
  2. vexeoto

    vexeoto Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/05/2016
    Bài viết:
    5
    Đã được thích:
    0
    đúng là có nhiều điềm tương đồng

Chia sẻ trang này