1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nga gia nhập NATO

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi Al-Qaeda, 05/03/2011.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. terminatorx

    terminatorx Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    19/11/2010
    Bài viết:
    725
    Đã được thích:
    1

    Trung Quốc sẽ đè bẹp nước Nga như thế nào, hoặc Nga sẽ bị Trung Quốc đè bẹp ra làm sao !!!!!



    [​IMG]
    Chiến tranh diễn ra chớp nhoáng. Nga không có nhiều cơ hội
    Những mâu thuẫn của quá trình phát triển ở Trung Quốc, nói một cách mềm mỏng, là không nhìn thấy khả năng giải quyết, kết hợp với sự phân hóa nhiều mặt của xã hội (giữa giàu - nghèo, thành thị - nông thôn, giữa các tôn giáo) tất yếu sẽ dẫn đến, trong một tương lai gần, mối đe dọa nghiêm trọng cho sự tồn tại của quốc gia Trung Quốc.
    Không thể khắc phục tình trạng này trong thực tế, nếu không tính đến việc thống nhất dân chúng về mặt tâm lý - đạo đức. Giới cầm quyền Trung Quốc hiểu quá rõ điều đó. Và họ tạo ra một hệ tư tưởng mới để dần dần thay thế hệ tư tưởng của họ đang ngày càng mâu thuẫn một cách kì quái với hiện thực đời sống. Đó là tư tưởng dân tộc chủ nghĩa, một hệ tư tưởng biện hộ cho sự tồn tại, và có thể, cho cả việc bành trướng của Trung Quốc hiện nay.
    Đại hội XVI của ******* Cộng sản Trung Quốc (tháng 11/2002) đã đưa ra nghị quyết “không ngừng đề cao và vận dụng tinh thần dân tộc”, coi đó là nhiệm vụ chiến lược, và hơn thế, là điều kiện, là sự thiết yếu đối với sự sống còn của dân tộc Trung Hoa, và tất nhiên nhiên là của cả nhà nước Trung Hoa. Đồng thời, quan niệm “Trung hoa dân chủ” - tức là quan niệm về một dân tộc Trung Hoa duy nhất, đã tìm được vị thế chính thức.

    Trong quan niệm này có nhiều khía cạnh cực kì đặc biệt.
    Lịch sử TQ không chỉ là lịch sử của tộc người Hán và các dân tộc bị Trung Quốc nô dịch, dù chỉ trong một thời gian ngắn (ví như Hồi Hột, Kazac, Kirgiz), mà còn là cả lịch sử của những dân tộc đến xâm ***** Trung Quốc (Tungus, Mông Cổ, Mãn Châu). Theo đó, với tư cách chủ sở hữu lãnh thổ của Trung Quốc, các nhân vật lịch sử Trung Hoa hiện nay là kết quả của những cuộc xâm ***** của các quốc gia không phải của người Hán (ví như Mông Cổ, Mãn Châu). Chẳng hạn, Thành Cát Tư Hãn vẫn được xem là anh hùng dân tộc của Trung Quốc, nhưng trong thực tế, ông ta hành xử với Trung Quốc như một kẻ xâm lược tàn bạo. Thực tế này bao giờ cũng lùi xuống bình diện thứ hai trên cái nền lịch sử: đế chế Mông Cổ trong suốt các thế kỉ XIII - XV đã trải ra trên một phần rộng lớn đại lục Âu - Á mà ngày nay Trung Quốc tuyên bố là quốc gia của họ. Chẳng những thế, bề ngoài, bản thân những người Mông Cổ quả là đã lập ra vương triều nhà Nguyên của mình ở Trung Quốc, mà sau này bị người Trung Quốc lật đổ vào năm 1368.
    [​IMG]

    Nét đặc thù của những lối đi lịch sử đã dẫn tới chỗ, Trung Quốc luôn luôn có những yêu sách lãnh thổ đối với bất kỳ quốc gia nào cùng chung biên giới với nó, không có ngoại lệ. Nguy cơ này đối với nước Nga, đáng buồn, là lớn nhất.

    Theo Hiệp ước Nerchinski 1689 mà nhà Thanh dùng sức mạnh buộc Nga phải kí, nước Nga bị mất vùng Priamuri[2] (hơn nữa, vào thời điểm này, người Nga không chỉ cư trú bên tả ngạn, mà còn sống trên một phần phía hữu ngạn sông Amur). Trước và sau hiệp ước này, Trung Quốc chưa hề có ý đồ chiếm đoạt vùng đất ấy. Theo Hiệp ước Aigunski năm 1858 và Hiệp ước Bắc Kinh năm 1860, Nga thu hồi lại được phần đất bị mất, lập nên đường biên giới hiện nay, chạy dọc bờ sông Amur và Ussuri. Thế nhưng Trung Quốc lại luôn coi Hiệp ước Nerchinski là một sự nhượng bộ của Trung Quốc, còn hai Hiệp ước sau thì đều bị xem là “không công bằng”, “không chính đáng”.

    Năm 1926 Trung Quốc đề nghị Liên Xô phục hồi lại đường biên giới theo thỏa thuận của Hiệp ước Nerchinski. Trong các cuộc thương thuyết diễn ra ở Bắc Kinh vào năm 1964 về vấn đề tranh chấp biên giới, Trung Quốc đã chính thức tuyên bố rằng Nga đã chiếm đọat của họ bằng những hiệp ước không công bằng 1.540 ngàn km2, trong đó theo Hiệp ước Aigunski là hơn 600 ngàn, theo Hiệp ước Bắc Kinh - 400 ngàn. Cho đến giờ, cách giải thích lịch sử như thế vẫn không thay đổi ở TQ, dù giới giới cầm quyền chính thức của nhà nước Trung Hoa vẫn luôn tuyên bố rằng họ không có yêu sách và tham vọng gì về lãnh thổ đối với Nga cả.

    Việc kí kết các hiệp ước về biên giới chỉ làm giảm bớt căng thẳng, phù hợp với lối nói khoa trương của TQ, còn thực chất, tham vọng của họ không hề mảy may suy suyển. Trong ý thức của người TQ, chúng ta vẫn mãi mãi là một đất nước cướp giật hàng triệu km2 lãnh thổ của họ.
    Ở đây không thể không nói về tình trạng di cư của người Trung Quốc đến Nga. Không thể biết chính xác số lượng Hoa kiều ở Nga: mọi con số đưa ra đều là nhận định riêng của từng tác giả. Nhưng cái đáng nói không phải là ở con số, mà là ở việc trên lãnh thổ Nga, Hoa kiều đã lập nên những cộng đồng vững chắc cho phép tiếp nhận đồng bào của mình và giúp họ thích nghi thực tế với bất cứ số lượng nào. Những cộng đồng như thế đang hoạt động không chỉ ở Đông Sibir hay Viễn Đông, mà trong khắp cả nước ta, kể cả Moskva và Peterburg.

    Nông dân TQ, những người không có đất đai và việc làm, hiện chưa lũ lượt kéo sang nước ta vì 2 lí do: vì không có phương tiện, và vì nói chung, rất mù mờ, không biết cái nước Nga ấy nó ở đâu. Chỉ cần các cấp chính quyền TQ muốn khắc phục những “hạn chế” này, họ sẽ đạt được kết quả hết sức nhanh chóng và dễ dàng. Về việc này, không thể không chú ý đến điều 50 của Hiến pháp CHNDTH: “Nhà nước CHNDTH bảo vệ các quyền hạn và lợi ích chính đáng của người Trung Quốc đang sinh sống ở nước ngoài, các quyền hạn và lợi ích hợp pháp của người Trung Quốc hồi hương và của những thành viên gia đình của cả hai loại người trên đang sinh sống tại Trung Quốc”. Trong điều khoản này không nói về “các công dân CHNDTH”, mà về “người Trung Quốc”, chính điều khoản ấy đã trở thành cái cớ cho cuộc xâm lược của Trung Quốc chống lại Việt Nam vào năm 1979. Ngoài ra, giới lãnh đạo CHNDTH còn tuyên bố sẽ bảo vệ quyền lợi cho tất cả người Tung Quốc, không phụ thuộc vào đất nước mà họ đang sinh sống.
    Tờ báo QĐGPNDTH ngày 3/4/1988 đã viết một cách thật thà đáng yêu thế này: “Việc kiểm soát một cách hiệu quả được tiến hành trong một thời gian dài đối với vùng chiến lược nằm ngoài khu vực biên giới địa lí, cuối cùng sẽ dẫn tới việc di dời biên giới địa lí”. Rất đáng đọc kỹ câu trên để thấy hết ý nghĩa đặc biệt của nó.

    Cần nhấn mạnh thêm rằng, ở ngay cả những nước dân chủ hơn Trung Quốc rất nhiều, một tờ bào là cơ quan ngôn luận của lực lượng vũ trang chỉ có thể phát biểu quan điểm thật sự mang tính chính thống. Sự bành trướng về kinh tế và nhân khẩu luôn đảm bảo cho toàn bộ cái gọi là “kiểm soát có hiệu quả” đối với “vùng chiến lược”, ví dụ, như Sibir và Viễn Đông. Đối chiếu các dữ kiện trên cho phép đưa ra một giả thuyết, rằng những mục đich như thế của giới cầm quyền TQ cũng được áp dụng cho nước Nga (và một vài nước láng giềng khác của TQ).

    Quan niệm về một dân tộc Trung Hoa duy nhất và việc phát triển cảm thức về nước mình như một nước “bị tất cả xúc phạm” có những mục đích đối nội hoàn toàn mang tính thực dụng ở Trung Quốc: siết chặt tư tưởng của dân chúng, chống lại các khuynh hướng phân liệt về sắc tộc và kinh tế - xã hội.
    Việc xuất khẩu lao động cũng mang một ý nghĩa vụ lợi như thế: trút được gánh nặng căng thẳng xã hội và nhận về những lợi tức ngoại hối.
    Bằng toàn bộ những biện pháp nêu trên, TQ đang dành ưu thế về thời gian, trì hoãn cơn khủng hoảng, thử ngăn chặn nó hoàn toàn mà không cần vượt ra ngoài giới hạn của chính sách tiệm tiến hiện nay. Còn sự bành trướng ra ngoài, TQ cũng chủ trương tiến hành “thầm lặng”, “hòa dịu” bằng con đường kinh tế và nhân khẩu. Tuy thế, cũng không loại trừ khả năng họ dùng một kịch bản khác, kịch bản chiến tranh.
    Tất nhiên, kịch bản này nằm ngoài ý muốn của Bác Kinh. Nhưng hoàn toàn không loại trừ.

    Có lẽ, kịch bản này được sử dụng trong trường hợp giới cầm quyền TQ nhìn thấy sự khủng hoảng nghiêm trọng trong nội bộ đang tất yếu sẽ nổ ra. Và họ sẽ xác quyết, rằng phương thức duy nhất giúp thoát khỏi khủng hoảng là chủ động, tăng cường bành trướng ra bên ngoài để vừa chiếm đất đai và tài nguyên, vừa khiến cho dân chúng bị thu hút vào những vấn đề đối ngoại. Nghĩa là cuộc bành trướng công khai chớp nhoáng sẽ được xem là “mối hoạ nhỏ nhất” so với thảm họa nội bộ.

    Trong trường hợp này, cả dữ liệu sử học như đã miêu tả ở trên (như là cơ sở tư tưởng) lẫn việc di dân của người Hoa sang Nga (như “đội quân thứ năm”, tiếp ứng cho việc “kiếm soát đầy hiệu lực đối với vùng chiến lược nằm ngoài cương vực đất nước”) đều hữu dụng.
    Các lực lượng vũ trang TQ được xây dựng phù hợp với nguyên tắc về “biên giới chiến lược và không gian sinh tồn”, một nguyên tắc được tạo ra nhằm trao cho các lực lượng vũ trang của Trung Quốc cơ sở và quyền hạn thực hiện các cuộc tấn công quân sự. Nguyên tắc này dựa vào quan điểm cho rằng, sự tăng trưởng dân số và sự hạn chế tài nguyên tất dẫn đến nhu cầu tự nhiên cần mở rộng không gian đảm bảo cho sự tiếp tục hoạt động kinh tế của nhà nước và tăng cường “địa bàn sinh tồn tự nhiên”. Hiện có quy ước cho rằng, biên giới lãnh thổ và không gian chỉ quy định giới hạn mà trong đó, với sự hỗ trợ của sức mạnh thực tế, nhà nước có thể “bảo vệ một cách hiệu quả các lợi ích của mình”. Còn “biên giới chiến lược của không gian sinh tồn cần chuyển dịch mềm dẻo theo đà trưởng thành của sức mạnh tổng hợp của quốc gia”.

    Nguyên tắc trên cho phép chuyển hoạt động quân sự từ các khu vực bên trong biên giới ra các vùng “biên giới chiến lược”, hoặc, thậm chí, ra cả bên ngoài phạm vi ấy, khi sự phức tạp trong quá trình “bảo vệ quyền hạn và lợi ích hợp Pháp của Trung Quốc ở khu vực châu Á - Thánh Bình dương” đã trở thành nguyên nhân tạo nên các xung đột quân sự.

    Về các học thuyết của Giải phóng quân nhân dân Trung hoa đang được phổ biến ở trung quốc với kịch bản xâm lược Nga, tôi đã có bài viết trên Webite “APN” (“Trung Quốc sẽ gây chiến với ai”, 21.9.2006)
    [​IMG]

    Cần tính đến vai trò hết sức lớn lao của lực lượng quân sự trong đời sống chính trị TQ (vị trí lãnh đạo cao nhất trong bộ máy chính quyền TQ không phải chức tổng bí thư BCH ĐCS hay chủ tịch nước, mà là chức vị chủ tịch Hội đồng quân ủy trung ương), cũng như nguồn dự trữ nhân lực vô biên trong thực tế rất.

    Đội quân thất nghiệp khổng lồ trong giới trẻ và nạn “khan hiếm cô dâu” hiện nay đang khiến những mất mát to lớn của cá nhân trong quá trình tiến hành các hoạt động quân sự thành chuyện không thể cho phép một cách giản đơn, nhưng, với giới lãnh đạo chính trị và quân sự của nhà nước, có thể điều đó còn được xem là cần thiết.


    Việc Nga có kho vũ khí hạt nhân không nên coi là liều thuốc vạn ứng, bởi TQ cũng có kho vũ khí hạt nhân. Ưu thế của Nga về phương tiện vận chuyển xuyên lục địa (mà trong trường hợp cụ thể ở đây là dư thừa) về nhiều mặt có thể sánh ngang với số lượng tên lửa tầm trung khổng lồ của CHNDTH, loại vũ khí giữa vai trò chiến lược hiện có giữa các nước có chung biên giới. Do bị ràng buộc bởi hiệp ước Xô - Mĩ về thủ tiêu tên lửa tầm trung (kí tại Washington, ngày 7.12.1987.- ND), nước Nga hoàn toàn không có loại tên lửa như thế.

    Kịch bản cuộc xâm lược vũ trang có thể như sau:
    Cuộc xâm lược sẽ bắt đầu vào mùa đông, cụ thể hơn nữa là vào dịp năm mới, khi cộng đồng nhiều dân tộc của Liên bang Nga, trong đó có cả giới lãnh đạo quân sự - chính trị Nga đang trong tình trạng tiêu hao nhiều nhất khả năng hành động. Ngoài ra, mùa đông sẽ làm cho sông Amur và hồ Baical đóng băng, vì thế việc vượt sông không còn là vấn đề khó khăn. Cuối cùng, mùa đông cũng làm đóng băng đường biển Bắc, làm Nga mất khả năng cung ứng cho các vùng phía đông từ ngả bắc. Để tiếp tế chỉ còn lại phương tiện giao thông từ Sibiri mà đã bị cắt đứt ngay từ những giờ đầu của chiến tranh bởi những nhóm biệt kích được thành lập từ đám di dân.

    Nguyên cớ cho cuộc xâm ***** sẽ là “sự xâm phạm quyền lợi thiết thân của người Hoa đang sinh sống ở nước ngoài”. Chẳng hạn, trong thời gian vui chơi dịp Năm mới, một người Nga (hay người Ijacut, Tacta) đấm vào mặt một người Hoa. Chẳng lẽ đó không thể là hành vi xâm phạm đến quyền lợi thiết thân hay sao?

    Binh đoàn thiết giáp - cơ giới hùng hậu nhất của QĐGPNDTH sẽ từ vùng Hailar đột kích vào phía tây, tiến theo hướng Chita - Ulan-Ude - Irkutsk.
    Lính Tàu có thể vào thẳng Irkutsk qua ngả Mông Cổ không - điều này khó nói. Chỉ biết rằng họ sẽ không giữ gìn chủ quyền của Mông Cổ (đất nước này được họ coi là một phần không tách rời của TQ), và bảo vệ cũng chẳng cho ai, nhưng ở đây nảy sinh vấn đề về khoảng cách di chuyển xa, địa hình sở tại và hệ thống đường xá tồi tệ. Vả lại, đây là vấn đề không mấy quan trọng.

    Sau khi chiếm được Irkutsk, mục tiêu tiếp theo của lực lượng QĐGPNDTH sẽ là tìm lối ra khu vực sông Enisei. Lực lượng Nga bố trí giữa Chita và Krasnodar quá mỏng, không đủ để chống lại một cuộc xâm lược tập trung, và không thể tin là giới lãnh đạo Nga hiện nay sẵn sàng sử dụng vũ khí hạt nhân để chống lại một đế quốc hạt nhân.
    [​IMG]
    Ngay từ đầu cuộc xâm *****, toàn bộ lãnh thổ Nga phía Bắc và Đông bắt đầu từ Chita trở ra sẽ hoàn tòan bị cách li khỏi phần còn lại của đất nước. Để chiếm vùng Amur và các khu vực thuộc Primor và Khavarovsk, chỉ huy quân đội TQ sẽ tung ra những sư đoàn lính bộ binh được tuyển mộ từ đội ngũ nông dân và dân thành thị thất nghiệp. Bằng sự đông đảo, họ đủ sức đè bẹp bất cứ sự kháng cự nào.

    Vả lại, như đã nói ở trên, những tổn thất to lớn của cá nhân sẽ được giới lãnh đạo xem là cần thiết.

    Nga không có một khả năng nào để có thể bảo vệ các tỉnh thành Iakutchia, Xakhalin và Kamchatka. Do lợi thế địa hình, Kamchatka và Xakhalin có thể cầm cự được một thời gian, nhưng chắc chắn không giữ được đến cùng, vì chẳng có ai tiếp ứng cho họ. Thêm vào đó, sức mạnh của hải quân Trung Quốc sẽ tăng lên nhanh hơn, so với tuần dương mẫu hạm của Nga đang bị suy thoái, từ lâu đã không còn nhớ đơn vị chiến đấu mới là gì.
    Theo nguyên do đó, lợi thế địa hình không còn là phao cứu sinh của Kamchatka và Xakhalin, chứ đừng nói gì đến Iakutchia. Cho nên, người ta sẽ đề nghị Mỹ và Nhật đứng ra bảo vệ những vùng này. Để đổi lại sự độc lập tự chủ từ phía Moskva. Chắc chắn, một đề nghị như thế sẽ được chấp thuận, bởi dẫu sao nhận sự bảo trợ của Mỹ và Nhật vẫn tốt hơn là bị TQ chiếm đóng.

    Việc TQ có tiếp tục tiến về phía tây, xa hơn Enisei hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Nhưng sau khi chiếm được nam Viễn Đông và đông Sibiri, họ sẽ giành được một vùng lãnh thổ to lớn để di dân đến ở (giúp họ xóa bỏ việc hạn chế sinh đẻ), cướp đoạt được vô số mỏ khoáng sản quý hiếm, trong đó có dầu lửa, cũng như báu vật chính yếu và hi hữu mà vì nó, họ chẳng cần suy tính, có thể ném vào đó hàng mấy triệu sinh mạng binh lính - ấy là nước hồ Baical[3].
    Thế là Nga không còn cách nào thu hồi lại phần lãnh thổ bị mất trong một cuộc chiến tranh thông thường.

    Việc sử dụng vũ khí hạt nhân như một chiến thuật, như đã nói ở trên, ít khả năng xảy ra. Bởi nếu dùng chiến thuật vũ khí hạt nhân là phải sử dụng ngay tại lãnh thổ của mình (và sẽ lãnh đủ từ nó). Hai bên giáng trả nhau và cùng lãnh đủ hậu quả, lại còn ảnh hưởng tới một phần châu Âu là điều TQ không muốn.
    Không hoài nghi gì nữa, khi cần phải lựa chọn giữa sự huỷ hoạ bản thân với việc để mất lãnh thổ phía đông vùng Enisei, các thủ lĩnh Kremli sẽ chọn cái thứ hai.

    Như đã nói từ đầu, sự bành trướng ra ngoài đối với TQ là một phương thức sống còn. Vấn đề chỉ còn là hình thức và tốc độ. Bành trướng bằng hình thức quân sự không phải là việc được hoạch định sẵn, nhưng cũng không thể loại trừ. Nó được thúc đẩy bằng sự suy sụp của lực lượng quân sự Nga và đặc điểm cơ cấu tâm lí ở giới lãnh đạo cao cấp Nga. Họ sẽ không bảo vệ nước Nga, nếu vì việc ấy mà bản thân họ phải khốn khổ.

    Cuối cùng, thời gian gần đây xuất hiện thêm một nhân tố thuận lợi nữa cho Bắc Kinh. Đó là chiến thắng của Trung Hoa Quốc dân ******* tại quốc vụ viện, và sự quy thuận của Trung Hoa Đài bắc trong cuộc bầu cử tổng thống ở Đài Loan. Thế là TQ không còn phải chi phí một khoản ngân sách to lớn cho cuộc chiến giành lại Đài Loan, mà ngược lại, nó còn nhận được từ sự kiện trên tòan bộ quyền điều hành nguồn tài chính và công nghệ của Đài Loan.
    Và thế là nó chỉ việc nhìn lên phương bắc.
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------

    Ấn Độ âm thầm đối phó với Trung Quốc


    Trong khi chiến lược “chuỗi hạt trai” của Trung Quốc gây ra nhiều lo lắng, thì các nhà hoạch định quân sự Ấn Độ lại đang lặng lẽ thúc đẩy liên minh của họ ở châu Á.
    Cơn địa chấn và sóng thần hủy diệt xảy ra ở Nhật Bản có thể đã làm trì hoãn một cuộc tập trận hải quân đã đề xuất giữa Ấn Độ, Mỹ và Nhật Bản dự kiến vào đầu tháng 4. Nhưng dù diễn ra hay không, cuộc tập trận mang tên Malabar cũng sẽ chứng kiến Hải quân Nhật trong năm thứ hai tham gia một cuộc diễn tập chung với Ấn Độ và Mỹ.
    Thoạt nhìn thì động thái này diễn ra một cách bình thường. Nhưng trong bối cảnh căng thẳng gần đây ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, cũng như những tuyên bố cứng rắn được một số quốc gia có lợi ích ở Biển Đông đưa ra năm ngoái, có thể thấy cuộc diễn tập năm nay mang ý nghĩa lớn hơn.
    Cuộc tập trận Malabar, ban đầu là một kế hoạch song phương Mỹ - Ấn, nhưng vào năm 2007 đã được mở rộng quy mô khi Singapore, Japan và Australia cùng tham gia diễn tập ở vịnh Bengal, khiến Bắc Kinh phải "có lời" với toàn bộ năm nước tham dự. Từ quan điểm của Trung Quốc, cuộc tập trận cùng nhau ấy đánh dầu cho cái gọi là bắt đầu xu thế chống lại rào cản hải quân Trung Quốc tại khu vực Ấn Độ Dương.
    Sau sự phản đối của Trung Quốc, New Delhi và Washington đã kiềm chế trong việc mời một bên thứ ba tham gia vào các cuộc tập trận năm 2008 và 2009. Nhưng từ năm ngoái, họ đã lặng lẽ cho phép Nhật cùng diễn tập ở ngoài khơi bờ biển của Okinawa. Và Ấn Độ quyết định rằng, họ sẽ hoan nghênh lực lượng Phòng thủ Hàng hải Nhật tham dự tập trận một lần nữa vào tháng 4 năm nay.
    [​IMG] Nguồn ảnh: the-diplomat Theo hải quân Mỹ, mục đích cuộc tập trận là "tăng cường sự ổn định của khu vực Thái Bình Dương". Nhưng Ấn Độ thì tuyên bố, diễn tập đơn giản là một cơ hội học hỏi cho Hải quân của họ. Các nguồn tin cho rằng, "cuộc diễn tập học hỏi" sắp tới với Hải quân Ấn Độ sẽ là các hoạt động tập luyện chiến tranh chống ngầm, đối đầu trên biển, phòng không, đào tạo bắn đại bác đạn thật, cũng như thăm viếng, nghiên cứu...
    Vậy lợi ích của Nhật Bản khi tham gia là gì? Ở điểm khởi đầu, trong khi quan hệ giữa Nhật với Moscow và Bắc Kinh khá thất thường, thì Ấn Độ được coi như là một đối tác lâu dài ổn định và đáng tin cậy - như Các chỉ dẫn Chương trình Quốc phòng mà Nhật gần đây đưa ra.
    Sau khi mối quan hệ với Mỹ và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) cung cấp những giới hạn truyền thống với các lợi ích của Nhật, chỉ dẫn trên cho rằng, Nhật cần gia tăng hợp tác với Ấn Độ và các nước khác để chia sẻ lợi ích chung của việc đảm bảo an ninh vận chuyển hàng hải từ châu Phi tới Trung Đông tới Đông Á.
    Về phần mình, Ấn Độ có nhiều hy vọng giành được sự tiếp cận với các nền tảng quốc phòng và công nghệ mà Nhật Bản lấy làm ưu tiên như kiểm soát hàng hải, phòng không, phản ứng tên lửa đạn đạo, vận chuyển và điều khiển thông tin liên lạc.
    Để duy trì những tập trung mới, một số hoạt động trao đổi quốc phòng cấp cao đã diễn ra giữa Ấn Độ và Nhật Bản kể từ giữa năm 2010.
    Thượng tướng Không quân P V Naik, Chủ tịch Uỷ ban Tham mưu trưởng của Ấn Độ cũng là một trong những tướng lĩnh quân sự cấp cao nhất của nước này đã dẫn đầu đoàn đại biểu Ấn Độ sang thăm Nhật Bản vào tháng 9 năm trước, thực hiện cuộc hội đàm quân sự đầu tiên giữa hai nước.
    Chuyến thăm của ông Naik diễn ra chỉ trước vài tuần chuyến công du của Thủ tướng Manmohan Singh đến Tokyo trong tháng 10. Hai bên đã cùng đưa ra các cam kết thúc đẩy hợp tác song phương và khu vực. Theo giới quan sát, nỗ lực xây dựng các quan hệ đối tác khu vực là nhằm đối phó với ảnh hưởng đang gia tăng của Trung Quốc.
    Bên cạnh các chuyến thăm cấp cao, Hải quân Ấn Độ trở nên một tích cực trong các hoạt động tại Thái Bình Dương, ví dụ một đội tàu chiến của Ấn Độ đã hoàn tất việc triển khai kéo dài một tháng tới Thái Bình Dương trong đó có các chuyến thăm Australia, Indonesia, Singapore và Việt Nam. Các chuyến thăm này làm rõ một thực tế là, Ấn Độ đang lặng lẽ tiếp cận xa hơn các cường quốc trong khu vực để tạo lập những quan hệ đối tác quân sự mạnh mẽ hơn với các nước chủ chốt ở Đông nam châu Á. Trong vòng riêng tám tháng qua, các nhà lãnh đạo quân sự Ấn Độ đã có nhiều chuyến công du tới Việt Nam, Philippines, Indonesia, Thái Lan và Singapore.
    Tháng 7 trước, Đại tướng V. K. Singh - Tư lệnh Lục quân Ấn Độ đã tới Việt Nam trong nỗ lực thúc đẩy hơn nữa quan hệ chiến lược. Sau đó giữa tháng 10, Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ Shri AK Antony đã thăm Hà Nội - nơi lần đầu tiên ông tham dự một cuộc họp khu vực với các nhà lãnh đạo chính trị trong lĩnh vực quốc phòng. Thêm vào đó, ở tư cách là Chủ tịch ASEAN, Việt Nam đã mời Ấn Độ tham dự Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN+8.
    Không chỉ có Đông Nam Á, Ấn Độ còn khá chú tâm tới các mối quan hệ ở Đông Á - và không chỉ với riêng Nhật Bản. Tháng 9 năm ngoái, ông Antony, người nhanh chóng nổi tiếng là một người chơi lặng lẽ nhưng hiệu quả trong ngoại giao quân sự Ấn Độ, đã trở thành vị bộ trưởng quốc phòng đầu tiên của nước này tới thăm Hàn Quốc. Đây là chuyến thăm nhằm cụ thể hóa và thúc đẩy tuyên bố chung Ấn - Hàn được đưa ra trong chuyến công du tới New Delhi tháng 1/2010 của Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung-bak. Khi đó, hai bên quyết định nâng tầm quan hệ song phương thành "quan hệ đối tác chiến lược".
    Cho dù khá mới mẻ, nhưng quan hệ đối tác Ấn - Hàn được coi là yếu tố sống còn trong các nỗ lực của Ấn Độ nhằm đối phó với việc Trung Quốc gia tăng ảnh hưởng ở tiểu lục địa này.
    Những động thái trên, dù dễ thấy hay khó nhận ra - đều nhấn mạnh một thực tế rằng, trong khi các nhà tư tưởng chiến lược của Ấn Độ bận rộn lắng nghe hồi chuông báo động thường xuyên về sự tăng cường hiện diện của Trung Quốc tại Ấn Độ Dương (và những quan ngại bị phóng đại về chiến lược "chuỗi hạt trai" của Trung Quốc), thì New Delhi đã lặng lẽ có những biện pháp đối phó với Trung Quốc.
    Bất kể kết quả của chiến lược này thế nào, có một vấn đề chắc chắn là: Ấn Độ Dương và vùng ngoại vi của nó đã trở thành một sân chơi mới của Great Game phiên bản thế kỷ 21. ("Trò chơi lớn" (Great Game) là giai đoạn xâu xé khu vực Trung Á giữa Đế chế Nga và Đế quốc Anh được bắt đầu từ năm 1813 và chỉ kết thúc đến khi Hiệp ước Anh-Nga năm 1907 được ký kết).


    Nhật, Ấn Độ và Mỹ trong năm nay sẽ mở một cuộc đối thoại chiến lược 3 bên về các vấn đề an ninh và kinh tế, gồm cả các biện pháp đối phó với việc Trung Quốc tăng cường sức mạnh hải quân.

    [​IMG]
    Các nguồn tin cho hay, cuộc họp sẽ tiến hành vào nửa đầu năm nay chỉ gồm các quan chức cấp cao và tiếp theo đó là cuộc họp cấp bộ trưởng được tiến hành sau đó càng sớm càng tốt.

    Quan chức 3 nước sẽ thảo luận một loạt vấn đề, gồm an ninh, chống ********, hợp tác kinh tế và năng lượng. Cuộc họp cũng sẽ bàn về kế hoạch lập các quy định quốc tế càng sớm càng tốt ở những lĩnh vực như an ninh đường biển, phát triển ở ngoài không gian và sử dụng Internet.

    Ba quốc gia muốn nhất trí về các quy định và thúc đẩy các tiêu chuẩn quốc tế trong tương lai, thông qua khung đa phương như hội nghị thượng đỉnh Đông Á, các nguồn tin cho hay.

    Vấn đề an ninh đường biển sẽ gồm các biện pháp chống lại các mối đe dọa ******** và đương đầu với việc Trung Quốc mở rộng sức mạnh hải quân. Trung Quốc hiện có tranh chấp về lãnh thổ với Việt Nam và Philippines và nước này đã phái tàu hải quân tới những vùng biển tranh chấp dưới cái gọi là bảo vệ tàu cá của nước này đang hoạt động tại những vùng trên.

    Nhật, Ấn và Mỹ sẽ cùng nhau kêu gọi Trung Quốc tôn trọng các quy định quốc tế vì Washington, đang nhấn mạnh tầm quan trọng của sự tự do trên biển, ngày càng lo lắng về các hoạt động hải quân của Trung Quốc trong vùng.

    Tokyo và New Delhi hiện cũng có tranh chấp với Trung Quốc ở biển Hoa Đông và Ấn Độ Dương.

    Một quan chức cấp cao của Bộ Ngoại giao Nhật cho biết, một số thành viên chính phủ đang cân nhắc việc sử dụng quan hệ 3 bên: Nhật, Hàn và Mỹ, Nhật, Australia và Mỹ, Nhật, Ấn Độ và Mỹ để đối phó với việc Trung Quốc đang bành trướng ảnh hưởng trong vùng.


    ĐNÁ hợp lực chống Tung Cẩu


    Đoàn kết mới khắc chế được tham vọng của nước lớn


    Đoàn kết và có thực lực, chứ không phải tự ai người nấy lo theo kiểu "ăn mảnh", đấy mới là lối thoát cho các nước ASEAN trong việc giữ gìn hòa bình, ổn định ở Biển Đông.
    LTS: Đã 43 năm kể từ ngày thành lập, có thể nói ASEAN chưa khi nào là cộng đồng mạnh so với nhiều cộng đồng khác trên thế giới. Chính yếu huyệt này luôn là bất lợi to lớn mà mỗi quốc gia thành viên đều đã thấm thía, đặc biệt khi thế trận trên bàn cờ thế giới đang có nhiều thay đổi. Xem ra chỉ có cách đoàn kết lại mới có thể tạo được sức mạnh chung cho cả ASEAN cũng như mỗi quốc gia thành viên trước một thế giới ngày càng nhiều biến động, rủi ro khôn lường.
    Từ bất cập này và cũng không nhằm bới móc hay chỉ trích ai cả, cựu đại sứ Nguyễn Trung bằng nhãn quan của một nhà ngoại giao nhiều năm vừa gửi tới Tuần Việt Nam bài viết với tựa đề: Đoàn Kết mang lại Hòa bình, ổn định và phát triển. Để rộng đường dư luận, xin đăng tải để độc giả cùng đọc và suy ngẫm.
    Đoàn kết mang lại hòa bình, ổn định và phát triển. Có lẽ đấy là kết luận chung nhất và cũng là quan trọng nhất cho cộng đồng ASEAN có thể rút ra từ ARF 17 tại Hà Nội và từ mọi hoạt động khác trong những tháng vừa qua của ASEAN.
    Đoàn kết như thế cũng là phương thức hữu hiệu nhất của ASEAN góp phần vào các mối quan hệ tốt đẹp và sự thịnh vượng chung của toàn khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Cũng có thể nói với ARF 17, ASEAN giác ngộ thêm một bước quan trọng về sức mạnh đoàn kết của chính mình. Và điều này vô cùng hệ trọng cho tương lai ASEAN và cho mọi điều tốt đẹp trong khu vực.
    Xin nhấn mạnh: Thành quả của ARF 17 mới chỉ là sự giác ngộ thêm một bước quan trọng về đoàn kết thôi, cộng đồng ASEAN còn phải phấn đấu nhiều để đoàn kết như thế trở thành một ý chí bất khuất mạnh mẽ của mình, là nguồn sức mạnh tự bảo vệ mình và phát triển!
    ASEAN chưa mạnh vì thói "ăn mảnh"
    Thành lập từ năm 1967, song cho đến hôm nay chưa bao giờ có thể nói ASEAN là một cộng đồng mạnh so với nguyện vọng hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển của chính các nước thành viên ASEAN, so với khả năng của mình cho phép.
    [​IMG]Bốn ba năm kể từ ngày thành lập, có thể nói ASEAN chưa khi nào là cộng đồng mạnh so với nhiều cộng đồng khác trên thế giới.
    Cũng không thể nói được là mạnh, nếu đem ASEAN so với nhiều cộng đồng khu vực có một tuổi đời tương tự như thế ở những nơi khác trên thế giới. Càng không thể nói được ASEAN là mạnh so với những thách thức từ bên ngoài mà cả cộng đồng ASEAN phải thường xuyên đối phó. Khỏi phải nói tôn chỉ, mục đích và bản chất tồn tại của cộng đồng ASEAN không bao giờ nhằm chống lại một quốc gia nào ngoài cộng đồng, nó hoàn toàn không có khả năng và không có lợi ích theo đuổi một mục tiêu như thế. Nguyên nhân cho đến nay chưa tạo ra được một sức mạnh cộng đồng ASEAN đáng mong muốn như thế có nhiều, quy kết cho hoàn cảnh chủ quan, khách quan hay sự phát triển quá chênh lệch nhau và có quá nhiều khác biệt... đều có cái lý của nó.
    Song mặt khác cũng phải nói: Có bằng nào nguyên nhân thúc bách sự hình thành và tham gia ASEAN thì cũng có bằng ấy đòi hỏi hay lợi ích giống nhau của các nước thành viên trong việc hình thành và tham gia vào tổ chức này. Nếu cứ chờ cho có sự phát triển đồng đều và có nhiều cái giống nhau sẽ chẳng bao giờ lập ra được ASEAN cả!
    Vì vậy cái thiếu phải tìm cách khắc phục ngay để làm ASEAN mạnh không phải là đi tìm sự phát triển đồng đều chưa làm sao có ngay được. Cái thiếu phải thường xuyên ra sức khắc phục để nâng cao sức mạnh của cộng đồng ASEAN chính là những nỗ lực không bao giờ có thể nói là đủ cho việc luôn luôn tìm ra sự đồng thuận vì lợi ích chung, để thường xuyên tăng cường sức mạnh đoàn kết của cộng đồng, vì cộng đồng.
    Thực tế xảy ra trong cộng đồng ASEAN là lúc này lúc khác từng nước thành viên vẫn còn nhiều hiện tượng hoặc chỉ lo cho thân mình, hoặc tệ hơn là chỉ quan tâm đến lợi riêng của mình và tệ nhất là qua đó làm yếu cộng đồng. Nói dân dã và thô thiển, có thể gói ghém tất cả những biểu hiện này dưới cái tên chung là "ăn mảnh".
    Căn bệnh "ăn mảnh" này rất dễ nhiễm từ bên trong nội bộ từng nước ASEAN, đồng thời nó là đồng minh tự nhiên cho chính sách chia để trị của cường quyền bên ngoài[1].
    Đành rằng tạo ra đồng thuận trong hoàn cảnh có nhiều hiện tượng phát triển không đồng đều và khác biệt là rất khó. Ngoài ra cũng phải thừa nhận không thể lúc nào cũng phân biệt được rành mạch giữa một bên là lợi ích quốc gia chính đáng và một bên là hiện tượng "ăn mảnh".
    Xin dẫn vài ví dụ trong thực tiễn:
    - Myanma có chế độ chính trị do giới quân sự nắm giữ và vì nhiều lý do khác nhau có quan hệ mật thiết sống còn với Trung Quốc. Campuchia đang là một nước nhận viện trợ rất lớn từ Trung Quốc. Đòi hỏi hai nước này có thái độ rõ ràng với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông là điều rất khó. Thậm chí Phnompenh đã có lúc phản đối việc đưa vấn đề Biển Đông vào chương trình nghị sự họp ASEAN. Đấy là chưa nói vì những lý do dễ hiểu Trung Quốc có cách đối xử khác và hầu như không đụng chạm đến 2 nước này chung quanh vấn đề Biển Đông.
    - Ký kết song phương Trung Quốc - Philippines năm 2004 về thăm dò địa chấn khu vực Vành Khăn thuộc Trường Sa, bị Việt Nam phản đối, sau trở thành ký kết 3 bên[2] với nhiều hậu quả tai hại cho Tuyên bố về những nguyên tắc ứng xử ở Biển Đông (DOC), chia rẽ nội bộ ASEAN và nội bộ Philipnes.
    - Ký kết thành lập hợp tác 4 bên sông Mekong giữa Trung Quốc, Thái Lan, Lào và Campuchia, không có Việt Nam, mặc dù từ nhiều thập kỷ nay đã tồn tại Ủy ban Sông Mekong với tính cách là một tổ chức khu vực - trong đó Việt Nam là thành viên. Chưa nói đến chuyện Việt Nam là nước hạ nguồn chịu nhiều tác động nhất mọi biến đổi của dòng sông này.
    - Nhiều ký kết song phương về quan hệ kinh tế giữa một bên là Trung Quốc và một bên là một thành viên ASEAN (như Thái Lan, Philippines...) mang tính chất phân hóa nhiều hơn là thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa các nước trong và ngoài ASEAN...
    - Trong khi cựu Thủ tướng Thaksin bị lật đổ đang bị chính quyền Thái Lan đặt ra ngoài vòng pháp luật và truy nã, Thủ tướng Hunsen lại chọn ông Thaksin là cố vấn đặc trách cho mình, như vậy làm sao mong đợi hai nước này có quan hệ tốt với nhau, trong khi đó sự tranh chấp giữa hai nước về ngôi đền Preach Vihear rất căng thẳng.
    - Đặc biệt quan trọng là năm 1988 hải quân Trung Quốc tấn công hải quân Việt Nam ở khu vực Trường Sa; năm 1995 hải quân Trung Quốc tấn công hải quân Philippines ở khu vực Vành Khăn thuộc Trường Sa; trong các ngày 29 và 30/4/2010 tầu chiến Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Malaysia ở Biển Đông bị lực lượng hải quân Malaysia đuổi đi..;
    Trong những năm gần đây xảy ra ngày càng nhiều các vụ tầu chiến Trung Quốc xâm phạm vùng biển của các nước thành viên ASEAN tại Biển Đông và có nhiều hành động vũ lực gây nhiều thiệt hại về tính mạng con người và tài sản của một số nước trong vùng...
    - Những năm gần đây Trung Quốc nhiều lần tuyên bố thẳng thừng: "vùng lưỡi bò" chiếm hơn 80% diện tích Biển Đông là thuộc chủ quyền Trung Quốc, khẳng định chủ quyền này là "lợi ích cốt lõi" của Trung Quốc và không thể tranh cãi...
    Cách đây 15 năm Trung Quốc chưa sử dụng thứ ngôn ngữ đầy sắt thép và chưa có nhiều hành động đầy thuốc súng kiểu ngoại giao pháo thuyền như ngày nay trên Biển Đông. Ngôn ngữ tiếng Hoa trên các báo mạng của Trung Quốc còn khủng khiếp hơn nhiều và đang tiếp tục biện minh cho các hành động của Trung Quốc trên Biển Đông. Song cho đến trước ARF 17, chưa có một lần nào các nước thành viên ASEAN có thái độ thỏa đáng chung hoặc của riêng từng nước lên án những hành động này của Trung Quốc...
    - ..........
    Tự mình phải cứu mình đừng chờ đợi ai cả
    Tiền đề quan trọng nhất cho giữ gìn hòa bình và ổn định ở Biển Đông là chính tự thân các nước ASEAN.
    Không có cách gì nhắm mắt trước thực tế là siêu cường Trung Quốc đang dần dần nổi lên, nhưng khá ồn ào trên Biển Đông đang gây ra nhiều lo âu cho các nước trong khu vực . Chưa nói đến hiện tượng đang xuất hiện siêu cường này còn là vấn đề chung của cả thế giới, bởi lẽ tự nhiên: xuất hiện diễn viên mới thường đi cùng với sân khấu mới, trò chơi mới.
    Dù ồn ào đến thế nào, sự đang xuất hiện siêu cường Trung Quốc không phải là diễn ra trong một thế giới chân không, mà là trong thế giới của thế kỷ 21 với tất cả những điều kiện và trật tự mà thế giới này hiện tại đang mang trong nó.
    Chí ít đã và đang có một siêu cường xuất hiện trước Trung Quốc là Mỹ và còn giữ được khoảng cách đáng kể so với Trung Quốc, có các cường quốc và tập hợp kinh tế, chính trị, quân sự mà Trung Quốc không thể bỏ qua, đã có một trật tự quốc tế và những luật lệ quốc tế mà dù là quốc gia nào cũng phải tuân thủ ở phạm vi nào đó, hiện đang có một đời sống quốc tế mà văn minh loài người ngày càng có nhiều giá trị chung; cạnh tranh luôn luôn quyết liệt song không một quốc gia nào có thể đứng một mình; sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia dù lớn nhỏ thế nào ngày càng phụ thuộc vào cả cộng đồng thế giới. Vẫn còn không ít hiện tượng cá lớn nuốt cá bé, song luật rừng ngày càng thu hẹp...
    Điều quan trọng đáng nhấn mạnh liên quan thiết thân đến các nước ASEAN là: Trong một thế giới như thế ở thế kỷ 21, các nước nhỏ giữ vai trò ngày càng quan trọng trong đời sống của cộng đồng quốc tế, do chính sức mạnh của mình và do sự tự ý thức được về chính mình tạo nên.
    Nói ngắn gọn, chính cái bối cảnh của thế giới hiện nay và trong những ngày tháng này đã dẫn tới tuyên bố của Ngoại trưởng Hillary Rodham Clinton 23/7/2010 tại Hà Nội: Mỹ coi việc giải quyết hòa bình tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông và bảo đảm tự do lưu thông hàng hải ở đây là "quyền lợi quốc gia" của Mỹ, ủng hộ quá trình hợp tác ngoại giao đa phương cho việc tìm kiếm giải pháp hòa bình, phản đối đe dọa hay sử dụng vũ lực của bất kỳ quốc gia yêu sách nào...
    Cái bối cảnh của thế giới không chân không như thế đã khiến cho Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì hôm 27/7/2010 phản pháo lại: Tuyên bố của bà Ngoại trưởng H. R. Clinton là nhằm "tấn công vào Trung Quốc".
    [​IMG]Tiền đề quan trọng nhất cho giữ gìn hòa bình và ổn định ở Biển Đông là chính tự thân các nước ASEAN. Phản ứng này là hiểu được, bởi lẽ những đòi hỏi của Trung Quốc về chủ quyền các đảo và "cái lưỡi bò" ở Biển Đông là phi lý, trái với luật pháp quốc tế; những đòi hỏi này một mặt trực tiếp đi ngược lại lợi ích của Mỹ về tự do lưu thông hàng hải và uy hiếp các đồng minh của Mỹ trên nhiều phương diện, mặt khác trực tiếp xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ cũng như an ninh của các nước ASEAN trên Biển Đông.
    Hiển nhiên, từ chỗ Tổng thống Obama khi mới nhậm chức (11/2008) đã tìm mọi cách "engage" (lôi kéo, dẫn dụ) Trung Quốc tham gia gánh vác trách nhiệm với cộng đồng quốc tế, nhất là trong khuôn khổ G2 (Mỹ - Trung), đến tuyên bố của bà Ngoại trưởng H. R. Clinton hôm 23/7/2010 tại Hà Nội là một bước thay đổi lớn trong chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Trung Quốc (có nhà báo nói là thay đổi 180 độ[3]) - nguyên do là Trung Quốc cho rằng Mỹ đang ở thế yếu trong nhiều vấn đề lớn song phương và đa phương quan trọng trên bàn cờ thế giới, và vì thế Trung Quốc tự cho phép mình ngày càng "lấn tới" - đặc biệt, thái độ của Trung quốc với vấn đề hạt nhân của Iran, với vụ Bắc Triểu Tiên bắn chìm tầu chiến Hàn Quốc Cheonan (19/5/2010), hay những động thái lấn lướt của Trung Quốc trên Biển Đông[4]...
    Hiển nhiên, sự chuyển biến này của Mỹ (qua tuyên bố của Ngoại trưởng H. R. Clinton) ngoài việc phục vụ lợi ích của Mỹ và đồng minh, khách quan tự nó là một hỗ trợ lớn hay là trùng hợp với lợi ích chính đáng của các quốc gia Biển Đông đang bị Trung Quốc uy hiếp.
    Hiển nhiên tuyên bố của Ngoại trưởng Dương muốn vin vào việc đổ lỗi cho tuyên bố của H. R. Clinton "nhằm tấn công Trung Quốc" có 2 mục đích là (1) ngoài việc chống lại thái độ mới của Mỹ về Biển Đông còn nhằm (2) bác bỏ mọi nỗ lực hòa bình và ngoại giao đa phương của các nước ASEAN trong việc giải quyết những tranh chấp ở Biển Đông, biện hộ cho giải pháp song phương mà Trung Quốc muốn áp đặt để tiện bề áp dụng chính sách chia để trị.
    Nói cách khác, bên cạnh những lý do khách quan thuận (của Mỹ) và chống (của Trung Quốc) cho việc giải quyết hòa bình những vấn đề của Biển Đông, có sự tranh chấp và tình hình "đang nóng lên" trong quan hệ song phương Mỹ - Trung trên bàn cờ thế giới.
    Không thể bảo vệ lợi ích bằng cách trở thành tù binh của bên này hay bên kia
    Các nước ASEAN làm gì để khai thác tối đa mọi thuận lợi mới trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay, để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình và thực hiện được giải pháp hòa bình cho các vấn đề ở Biển Đông, mà không sa đà vào bên này hay bên kia giữa Mỹ và Trung Quốc trong những vấn đề song phương của riêng hai nước này, cũng hàm nghĩa là không để rơi vào hay tạo ra một sự trung lập vô tính - nghĩa là ASEAN phải làm thế nào không được ba phải, mà phải cổ vũ cho cái đúng, cái tốt, cái hợp với xu thế phát triển của thế giới là tôn trọng luật pháp quốc tế, vì hòa bình, dân chủ, tiến bộ và phát triển?
    Đây là câu hỏi lớn, các nước ASEAN bắt buộc phải có câu trả lời. Đơn giản là các nước ASEAN không thể bảo vệ lợi ích chính đáng của mình bằng cách trở thành tù binh của bên này hay bên kia, hoặc để quay về giam mình trong lạc hậu. Mà ngược lai chỉ thông qua phấn đấu cho cái mới, cái tiến bộ các nước ASEAN mới tạo ra được sức mạnh tự thân để thực hiện và bảo vệ những lợi ích chính đáng của mình, để tiếp tục phát triển phồn vinh.
    Nói đơn giản, sự hậu thuẫn của Mỹ cho những giải pháp hòa bình và đa phương đúng đắn những vấn đề của Biển Đông sẽ có nghĩa lý gì, nếu như nội bộ từng nước ASEAN chìm đắm trong tham nhũng, chia rẽ, mất tự do dân chủ, chẳng những không còn sức lực đâu mà đối phó với mọi uy hiếp từ bên ngoài, mà còn tạo ra cơ hội cho sự can thiệp từ bên ngoài? Làm sao từng nước ASEAN có thể bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia của mình nếu thực lực của từng nước không được thường xuyên bồi bổ và tăng cường?
    Hơn lúc nào hết, những quốc gia nhỏ yếu so với những thách thức đang phải đối mặt trong khu vực, từng nước và toàn thể cộng đồng ASEAN cần một nền ngoại giao mạnh xuất phát từ một nền nội trị mạnh. Không bao giờ có thể có một nền ngoại giao mạnh trên cơ sở một nền nội trị bệnh hoạn quặt quẹo, kinh tế phụ thuộc vào cầu xin viện trợ từ bên ngoài để sống.
    Hơn lúc nào hết, những yếu kém đang tồn tại trong nền nội trị của nhiều nước thành viên ASEAN là đồng minh tự nhiên của chính sách chia để trị và mọi can thiệp từ bên ngoài, là kẻ thù nguy hiểm của chính những quốc gia này, là yếu tố lớn nhất cản trở xây dựng và phát triển ASEAN thành một cộng đồng mạnh.
    Đoàn kết và có thực lực: Lối thoát duy nhất để giữ hoà bình Biển Đông
    Một chính khách, xin miễn nói tên và quốc tịch, hỏi tôi: Thử cố tìm xem có cách nào ASEAN nhân nhượng làm dịu bớt sức ép của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông không? Bởi vì dỹ hòa vy quý!..
    Tôi suy nghĩ mãi và bất lực. Trong lịch sử ngoại giao tôi chưa tìm được một ví dụ nào cho phép gợi ý một giải pháp kiểu như vậy cho vấn đề Biển Đông. Theo hiểu biết của tôi, thỏa hiệp điển hình nhất từng có trong lịch sử quan hệ quốc tế có lẽ là Hiệp ước Ribentrov - Molotov ký năm 1939 giữa Liên Xô và Đức. Đấy là thỏa hiệp được cam kết giữa hai quốc gia "nặng ký" ngang nhau, đủ sức ăn miếng trả miếng nhau, thế mà cuối cùng Liên Xô vẫn bị nước Đức quốc xã bất ngờ tấn công trước. Thử hỏi trong khu vực Đông Nam Á này có quốc gia Biển Đông nào nặng ký ngang ngang Trung Quốc để tìm kiếm một giải pháp nhân nhượng hay thỏa hiệp kiểu như thế?
    Hơn nữa, nói riêng về Việt Nam, lịch sử 15 năm Việt Nam vào ASEAN cũng là lịch sử 15 năm Việt Nam nói riêng và ASEAN nói chung hết sức nhân nhượng và tự kiềm chế đến mức tối đa đối với Trung Quốc trong mọi vấn đề của Biển Đông.
    Nhưng cho đến hôm nay, sức ép của Trung Quốc trên Biển Đông đối với Việt Nam nói riêng và ASEAN nói chung đang giảm đi hay đang ngày một gia tăng? Đấy có phải là lối thoát cho các nước ASEAN trong đó có Việt Nam hay không? Hiển nhiên là không!
    Tôi còn đi xa đến mức giả định rằng Việt Nam có thể nhân nhượng tối đa với Trung Quốc trong mọi chuyện tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Đông... Trong trường hợp như thế liệu Việt Nam có được yên thân không? Hoặc giả thiết rằng Trung Quốc sẽ chủ động có một thỏa hiệp riêng rẽ nào đó dành cho Việt Nam trong tranh chấp ở Biển Đông, Việt Nam có dám nhận không?
    Tôi chỉ tìm được câu trả lời: Tìm kiếm hay chấp nhận thỏa hiệp như thế là tự sát, và nếu ấu trĩ như thế thì cũng rất đáng chết! Tìm kiếm hay chấp nhận một thỏa hiệp như thế chẳng những tự mình phản bội lại chính mình mà còn phản bội lại cả cộng đồng ASEAN.
    Tôi nghĩ rằng nhân dân ta nói riêng và nhân dân các nước ASEAN không bao giờ chấp nhận một thỏa hiệp như thế. Bởi lẽ đơn giản, lịch sử đã chứng minh không thể chối cãi: Việt Nam chưa bao giờ và chắc chắn sẽ không bao giờ có thể có chỗ đứng của mình trong chính sách ngoại giao bá quyền của Trung Quốc, Việt Nam chỉ có thể tìm kiếm chỗ đứng của mình trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc bằng cách đứng trên đôi chân của mình với tính cách là một đối tác độc lập, có thực lực và được tôn trọng.
    Người chính khách nọ hỏi tôi tiếp: Nhỡ ra một thành viên ASEAN nào đó tìm kiếm một thỏa hiệp ăn mảnh như thế thì sao? Mà những ví dụ ăn mảnh như thế đâu có hiếm gì trong thực tiễn đời sống ASEAN? Không thể loại trừ một khả năng như vậy.
    Ý kiến của tôi: Không! Dù là không ngoại trừ một khả năng như vậy. Tôi không muốn giao cho mình nhiệm vụ trả lời thay cho nước nào cả. Vấn đề đặt ra cho nước nào thì nước đó phải trả lời. Nhưng là người Việt Nam, câu trả lời của riêng tôi về trường hợp Việt Nam là: Hãy nói "Không!" với một thỏa hiệp như thế!
    Vậy đoàn kết và có thực lực, chứ không phải tự ai người nấy lo theo kiểu "ăn mảnh", đấy mới là lối thoát cho các nước ASEAN trong việc giữ gìn hòa bình, ổn định ở Biển Đông. Thiết nghĩ đó cũng là câu trả lời của Việt Nam cho Việt Nam. Cũng không có chuyện Việt Nam ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng cho ASEAN đâu...
    [​IMG]Đoàn kết và có thực lực: Lối thoát duy nhất để giữ hoà bình Biển Đông. Có thể nói dứt khoát: Trật tự thế giới và luật pháp quốc tế hiện có, xu thế tiến bộ chung của thế giới, những thuận lợi mới cho gìn giữ hòa bình ổn định vì hợp tác và phát triển trên Biển Đông, Tuyên bố về những nguyên tắc ứng xử ở Biển Đông ký kết giữa các nước ASEAN và Trung Quốc năm 2002 (DOC).., tất cả những yếu tố này chỉ thực sự có ý nghĩa cho giải pháp hòa bình những tranh chấp ở Biển Đông khi mỗi quốc gia thành viên ASEAN tạo ra được sức mạnh tự thân và có ý thức sâu sắc về đoàn kết cộng đồng của chính mình. Đây là tiền đề quan trọng bậc nhất. Cũng chỉ với sức mạnh tự thân như vậy từng nước và cộng đồng ASEAN mới không bao giờ phải trở thành tù binh của bên nào, dù bàn cờ thế giới xoay vần ra sao. Đòi hỏi sống còn: Tăng cường ASEAN vững mạnh
    Mọi thách thức nguy hiểm nhất đối với toàn vẹn chủ quyền và lãnh thổ, hòa bình và ổn định của các nước ASEAN liên quan đến Biển Đông vẫn đang ở phía trước, đơn giản vì (1) vẫn chưa có giải pháp cho các vấn đề tranh chấp trên Biển Đông, (2) tuyên bố của Trung Quốc khẳng định chủ quyền về Biển Đông là "lợi ích cốt lõi" của mình và sự uy hiếp ngày càng lớn của hải quân Trung Quốc trên Biển Đông đang tăng thêm căng thẳng trong khu vục, khiến nhiều nước ASEAN phải dồn sức tăng cường lực lượng vũ trang của mình, (3) nguy cơ tranh chấp trên Biển Đông giữa một bên là các nước ASEAN và một bên là Trung Quốc bị tác động bởi những tranh chấp song phương mang tính toàn cầu giữa một bên là Mỹ và một bên là Trung Quốc đang có khuynh hướng gia tăng - các nước nhỏ bao giờ cũng là nạn nhân không ít thì nhiều của loại tác động này.
    Một đòi hỏi và đồng thời cũng là một thách thức lớn khác là các nước ASEAN phải tạo ra được nhịp điệu tăng trưởng và phát triển kinh tế hài hòa với sự phát triển năng động của kinh tế Trung Quốc, từ đó tạo ra cho mình khả năng hợp tác kinh tế cùng có lợi với Trung Quốc, củng cố cho những mối quan hệ hòa bình, hữu nghị và hợp tác đã đạt được trong mọi lĩnh vực khác trong quan hệ với Trung Quốc.
    Xin đừng lúc nào quên, để gìn giữ, phát huy những mối quan hệ tốt đẹp giữa các quốc gia trong toàn bộ khu vực Đông Nam Á - cụ thể ở đây được hiểu là giữa các nước ASEAN và Trung Quốc - bên cạnh việc giải quyết hòa bình những vấn đề tranh chấp, điều quyết định là phải không ngừng tăng cường các mối quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhau song phương và đa phương một cách bình đẳng cùng có lợi trên mọi lĩnh vực của cuộc sống.
    Tranh chấp dù sao cũng chỉ là nhất thời, chung sống hòa bình mới là vạn đại. Chính vì thế những mối quan hệ và sự hợp tác cần phải có này mới là những yếu tố cơ bản, tạo ra sự tin cậy lẫn nhau và cung cấp mọi điều kiện cho phát triển những mối quan hệ bền vững vì lợi ích của tất cả các bên.
    Châu Á đang trở thành khu vực năng động nhất trong phát triển của kinh tế thế giới, với vai trò như vậy châu Á có ý nghĩa ngày càng tăng đối với hòa bình và sự phát triển của thế giới. ASEAN là một bộ phận của châu Á và là đối tác của hầu hết mọi quốc gia và của mọi tổ chức quốc tế và khu vực trên thế giới, với ý nghĩa đó ASEAN cũng phải tạo ra sự phát triển năng động của chính mình để gánh vác vai trò của mình trong cộng đồng thế giới.
    Trong khi đó, bản thân cộng đồng ASEAN còn rất nhiều vấn đề phải vượt qua để tạo ra sự phát triển nhất thiết phải có của chính mình để bảo vệ lợi ích chính đáng của từng nước, của cộng đồng và sớm trở thành một tổ chức hợp tác kinh tế thực chất cũng như khuyến khích hợp tác trên các lĩnh vực khác trong nội bộ ASEAN.
    Trong khi đó bản thân ASEAN cũng đang lần lượt dành thêm những bước phát triển mới: Từ thể chế ARF (Diễn đàn khu vực Châu Á) phát triển thêm thể chế EAS (Họp Thượng đỉnh Đông Á).
    Tình hình này có nghĩa vai trò, ảnh hưởng và trách nhiệm của ASEAN trong cộng đồng thế giới ngày càng lớn, đòi hỏi từng nước và cả cộng đồng ASEAN phải có nhiều nỗ lực mới. Ngay trước mắt, tinh thần của ARF 17 đòi hỏi tất cả các nước thành viên ASEAN phải có những nỗ lực thỏa đáng để những ý tưởng tốt đẹp về các giải pháp ngoại giao hòa bình đa phương cho những vấn đề tranh chấp trên Biển Đông trở thành hiện thực.
    Tất cả 5 loại vấn đề vừa nêu trên do tự thân cuộc sống đặt ra và đều dồn vào một yêu cầu chung cho các nước thành viên ASEAN: Phải tăng cường toàn diện cộng đồng ASEAN. Từng nước thành viên và cả cộng đồng ASEAN chỉ có có thể đáp ứng yêu cầu chung vô cùng quan trọng này bằng cách thực hiện: Đoàn kết trong từng nước và đoàn kết trong toàn cộng đồng ASEAN để tạo ra sức sống mới cho chính mình.
    Cuộc sống đang chứng minh đoàn kết trong từng nước và trong toàn thể cộng đồng ASEAN mang lại hòa bình, ổn định và phát triển cho từng nước thành viên và cho toàn cộng đồng. Đấy cũng là con đường ASEAN tạo ra khả năng thực hiện nghĩa vụ khu vực và quốc tế của mình.


    Vậy còn Nga còn đợi gì nữa mà chưa hợp lực với thế giới chống quân xâm lược Trung Quốc đi cho rồi :-w
  2. steppy

    steppy Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    20/03/2005
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    1.327
    Sự cố nhà mấy điện nguyên tử ở Nhật cho thấy đừng có gây sự với các cường quốc hạt nhân.
  3. deckelrand

    deckelrand Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/04/2006
    Bài viết:
    801
    Đã được thích:
    132

    Rất đúng. Nó bắn tên lửa thường vào các nhà máy điện hạt nhân thôi là VN giàu to nhờ bán muối iod.

    Giờ Bin Laden đang tiếc hùi hụi. Đâm vào nhà trắng, lầu năm góc làm quái gì, đâm vào 1-2 nhà máy điện nguyên tử thôi thì không cần phải khủng bố ít nhất vài chục năm :))
  4. TimeBreak

    TimeBreak Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/10/2004
    Bài viết:
    1.386
    Đã được thích:
    9

    Hay! Không biết đến bao giờ thì lãnh đạo TQ thực hiện bắc phạt, thảo Nga theo kịch bản của Ter tiên sinh đây! Nếu được như vậy, ắt là phúc ấm của lương dân lân bang [r2)]


    Xét từ xưa đến nay, chỉ có 2 chú dám thẳng tay tát mạnh, chiếm lãnh thổ của Rợ Nga! Ấy là Pháp và Đức!

    Hai chú này toàn là dân Âu thuần chủng, tộc người , tập quán cũng đã quen xứ ôn đới, vậy mà sau thời gian đầu - đúng theo truyền thống của Rợ Nga, hai chú này đều đè Rợ Nga mà vặt râu, cạo lông nách, nhưng qua mùa đông Nga, cộng với tính cách Nga, dần dần hai chú này đều bị Rợ Nga thiến sống cả! :-"

    Nay có tay yêng hùng xứ nhiệt đới, lại nhằm đúng mùa đông Nga để nhảy vào hấp riêm! Vụ này không xem thì quả là hơi phí [r24)]
  5. terminatorx

    terminatorx Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    19/11/2010
    Bài viết:
    725
    Đã được thích:
    1
    sao phi lý được, đối với khựa hơn 20 triệu thanh niên ko vợ là nguồn sinh lực dồi dào nhất, chưa nói đến tinh thần chủ nghĩa dân tộc, quân dự bị hơn 200 triệu , gì chứ chuyện đánh Nga dù chỉ còn 100-200 triệu dân nó cũng làm, tôi tin chắc Nga ko chịu nổi sức mạnh của Khựa quá 1 tuần :)) Lại nữa ,như thờ Nga phán TQ nếu đánh phải thua Nga vì điều kiện khí hậu =))=))=))

    Bắt tay với Mỹ NATO hay là chết !!!
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------

    Xem ra mọi người ở đây xem thường Trung Quốc quá rồi... Nó rất mạnh đấy! Nga đang rất sợ nó, xin nhấn mạnh 1 lần nữa là Nga ko phải LX, các bạn cứ để ý mà xem? Các bạn có để ý miền Viễn Đông, Siberi,... đang bị đe dọa nghiêm trọng bởi di dân Trung Quốc ( Vùng đó khí hậu khắc nghiệt, điều kiện sống không đảm bảo nên người Nga ít khi đến ở, chỉ có 1 ít dân thiểu số thuộc Nga, dân Nga- lính Nga, và rất đông dân Trung Quốc. Họ làm chủ gần như hoàn toàn các đôn điền, các trang trại, các của hàng, của hiệu, các ngôi nhà... Nga đang rất khó khăn khi giải quyết chuyện này ) Hiện nay Nga không còn là Liên Xô nữa, Nga đã suy yếu rất nhiều... Và nói không ngoa rằng Nga đang dưới cơ Trung Quốc, mặc dù vũ khí trang bị của Nga có mạnh hơn nhưng tôi e rằng chuyện đó không phải là yếu tố quyết định hoàn toàn trong cuộc chiến ( nếu có) giữa Nga và Trung Quốc trong tương lai không xa...
  6. xinloiemyeu

    xinloiemyeu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/01/2011
    Bài viết:
    1.249
    Đã được thích:
    1
    Nga mà cắt dầu phát cả TQ về thời nhaf Tần luôn.:-":-"
  7. ChuonggaCS

    ChuonggaCS Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/10/2010
    Bài viết:
    334
    Đã được thích:
    0
    Buồn quá terminatorx sinh sau đẻ muộn chứ ko cái thead Rồng an thịt Gấu của Oanth sẽ xôm hơn.
  8. terminatorx

    terminatorx Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    19/11/2010
    Bài viết:
    725
    Đã được thích:
    1
    ^Nga chết là cái chắc =)) 140 tr dân so với 1400 triệu dân à!!!

    Chủ nghĩa Đại Hán không bao giờ từ bỏ giấc mộng bành trướng hiện tại lực chưa mạnh thì dùng sức mạnh mềm, dùng tiền mua chuộc sau đó âm thầm cho di dân. Vùng viển đông Nga bây giờ đầy người Hoa làm cho nước Nga phải lo sợ. Vài chục năm nửa TQ thành siêu cường thì hướng bành trướng dứt khoát phải là vùng ngoại Mông, thảo nguyên Trung á và siberi mênh mông của Nga. Vì vùng Nam á - đông nam á đất chật người đông, khí hậu nóng bức bành trướng hướng này không có lợi bằng. Tương lai gần TQ phải độc chiếm biển đông làm chủ nguồn tài nguyên, khống chế tuyến đường biển chiến lược kiềm chế Mỹ, sau đó thống nhất ĐL tiến lên làm cỏ nước Nhật kẻ thù truyền kiếp. Kế hoạch này thành công thì vùng ĐNA bất chiến tự nhiên thành, lúc này TQ sẽ là 1 cực đối trọng với Mỹ và châu âu, còn Nam á Trung đông Mỹ la tinh sẽ là vùng tranh chấp. nước Nga bị cô lập suy yếu, thì kế hoạch bành trướng sẽ tiến hành, đầu tiên là chiến tranh qui ước, nếu dùng VKHN thì TQ cũng không sợ vì lúc ấy TQ sẽ không thua kém gì Nga, mà chính nước Nga mới sợ vì dự đoán tới năm 2050 dân số Nga chỉ còn khoảng 120 triệu, khi đánh nhau TQ sẳn sàng hi sinh 1/3 dân số còn nước Nga tiêu vong sạch sẽ. Tôi suy luận như thế không biết các anh có đồng ý không ?
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    chẳng lẽ TQ ko có hệ thống phòng thủ hạt nhân hả bác, lại nữa TQ ko có bom nguyên tử à ko có vũ khí hủy diệt hàng loạt à !!!!
  9. kemetmoi

    kemetmoi Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    21/09/2003
    Bài viết:
    648
    Đã được thích:
    393
    Không! Đơn giản là vì số đầu đạn hột nhơn của TQ chưa bằng 1/5 Nga, số tên lửa có tầm bắn trên 10.000 km chưa bằng 1/3, khoảng cách từ các căn cứ KQ của Nga tới Bắc Kinh gần hơn nhiều khoảng cách từ các căn cứ của TQ đến Mát, và cuối cùng nếu Gấu mà dùng hết kho hột nhơn của nó thì không chỉ có TQ mà cả thế giới này cũng được chuyển sang điều kiện cần và đủ để tiến hành WW4.=))
  10. Odyssey_Dawn

    Odyssey_Dawn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    20/03/2011
    Bài viết:
    326
    Đã được thích:
    0
    ^sặc mùi thờ Nga có khác =)) kiểu như T-90 là nhất quả đất, vậy sao cả tướng Nga ngố cũng la ó chê bai T-90 đấy còn nói thua cả Type 96/98/99 =)) Nga có đánh bằng hạt nhân cũng vậy thôi ,mà e là chưa kịp đến serbi thì Mao nó đến Mát rồi, TQ có tên lửa tầm trung Nga ko có, quân số đông, đánh du kích tuyệt vời, bắt bài công nghệ, chịu được mọi điều kiện thời tiết, TQ ăn là cái chắc
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này