1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Ngày 30/4/1975 ở Sài Gòn

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi mytam81, 28/04/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. ov10

    ov10 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/02/2006
    Bài viết:
    6.093
    Đã được thích:
    6
    Bài viết của: Đại tá, TS NGUYỄN MẠNH HÀ
    (Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, biên soạn)
    Từ tháng 10 đến tháng 12 - 1974, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương cùng cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường họp thống nhất quyết tâm chiến lược giải phóng miền nam trong 2 năm 1975-1976. Bộ Chính trị còn dự kiến một phương án nữa: nếu thời cơ đến thì lập tức giải phóng miền nam trong năm 1975.
    Tháng 7-1973, BCH T.Ư Đảng họp hội nghị lần thứ 21, khẳng định: Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền nam trong giai đoạn mới là tiếp tục thực hiện chiến lược cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, kiên định con đường cách mạng bạo lực, giữ vững chiến lược tiến công. Tháng 7-1974, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Thứ nhất BCH T.Ư Đảng, trực tiếp hướng dẫn Bộ Tổng tham mưu khởi thảo kế hoạch chiến lược giải phóng miền nam. Tiếp đó, từ tháng 10 đến tháng 12 - 1974, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương cùng cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường họp thống nhất quyết tâm chiến lược giải phóng miền nam trong 2 năm 1975-1976. Bộ Chính trị còn dự kiến một phương án nữa: nếu thời cơ đến thì lập tức giải phóng miền nam trong năm 1975. Ngoài ra còn các lực lượng xe tăng, pháo binh, cao xạ, công binh, đặc công và các đơn vị bộ đội địa phương du kích.
    Chiến dịch Tây Nguyên mở màn từ ngày 4-3-1975 với đợt hoạt động tác chiến dồn dập của Sư đoàn 3 và Trung đoàn 95A đánh cắt đường 19, đoạn từ An Khê đến phía nam Bình Khê; Trung đoàn 25 của Quân khu 5 đánh cắt đường 21; Sư đoàn 968 tập kích bằng đặc công và pháo binh vào thị xã Kon Tum, Plây Cu, tích cực nghi binh để ghìm giữ địch ở phía bắc Tây Nguyên. Đồng thời, Sư đoàn 316 tiến vào phía nam thị xã Buôn Ma Thuột; Sư đoàn 320 áp sát đường số 4, ngày 7-3 đánh chiếm điểm cao Chư Duề, ngày 8-3 tiến công cứ điểm Thuần Mẫn. Ngày 9-3, Sư đoàn 10 tiến công giải phóng quận lỵ Đức Lập. Thị xã Buôn Ma Thuột hoàn toàn bị bao vây và cô lập.
    Đợt hoạt động thứ 2 bắt đầu vào rạng sáng 10-3 với việc các đơn vị quân ta đồng loạt tiến công thị xã Buôn Ma Thuột từ các hướng. Đòn tiến công bất ngờ dồn dập vào Sân bay Hòa Bình, Khu kho Mai Hắc Đế, căn cứ Sư đoàn 23, Trung đoàn 53 ngụy và nhiều vị trí khác đã khiến địch không kịp trở tay, hoàn toàn bị động, chống đỡ yếu ớt. Đến trưa 11-3-1975, quân ta hoàn toàn làm chủ thị xã. Những ngày sau đó, các lực lượng tham gia phối hợp chặn đánh các đơn vị quân ngụy phản kích hòng chiếm lại thị xã và tiêu diệt các vị trí chung quanh. Đòn điểm huyệt Buôn Ma Thuột đã làm rung chuyển toàn bộ thế bố trí của địch trên địa bàn Tây Nguyên.
    Ngày 14-3-1975, Tổng thống ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu quyết định rút bỏ Tây Nguyên, cụ thể là rút khỏi Kon Tum, Plây Cu theo đường số 7 về giữ vùng đồng bằng ven biển. Quyết định sai lầm về mặt chiến lược của địch, trong tình thế hoảng loạn, đã mở đầu cho sự sụp đổ dây chuyền của chế độ ngụy quyền, ngụy quân.
    Từ ngày 17 đến 24-3-1975, quân ta truy kích, chặn đánh các lực lượng địch từ Plây Cu, Kon Tum rút chạy, đoạn từ Cheo Reo đến Củng Sơn, tiêu diệt, bắt sống một bộ phận lớn sinh lực địch. Phối hợp với hướng chính, từ 17 đến 22-3, quân ta giải phóng Kon Tum, Plây Cu, An Khê, Gia Nghĩa, Kiến Đức. Tây Nguyên hoàn toàn giải phóng với 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đác Lắc, Phú Bổn, Quảng Đức.
    Cục diện chiến lược toàn miền nam có sự thay đổi lớn với sự rút lui chiến lược của ngụy quyền Sài Gòn.
    Trong khi tiếng súng chưa ngừng nổ ở mặt trận Tây Nguyên, thì ngày 18-3-1975, cuộc họp của Bộ Chính trị mở rộng nhận định thời cơ chiến lược đã tới, quyết định bổ sung quyết tâm chiến lược: giải phóng miền nam ngay trong năm 1975. Không những thế, ngày 25-3, Bộ Chính trị còn bổ sung quyết tâm: Giải phóng miền nam ngay trước mùa mưa. Hướng phát triển tiếp theo thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên là tiến xuống đồng bằng ven biển, giải phóng các tỉnh lỵ và thành phố Huế, Đà Nẵng, thực hiện chia cắt chiến lược, không cho địch co cụm và có thể liên hệ với nhau để đối phó.
    Từ ngày 21 đến 29-3-1975, quân ta liên tiếp mở 2 chiến dịch tiến công Huế, Đà Nẵng. Các lực lượng chủ lực của Binh đoàn Hương Giang và Quân khu 5, Quân khu Trị Thiên đã mở các trận tiến công mãnh liệt vào các căn cứ , sở chỉ huy và các đơn vị quân ngụy, giải phóng phần còn lại của tỉnh Quảng Trị, thị xã Quảng Trị. Bộ đội ta đánh thiệt hại nặng và làm tan rã Sư đoàn bộ binh số 1, Lữ đoàn số 147 thuộc Sư đoàn thủy quân lục chiến, Liên đoàn biệt động quân ngụy, thực hành chia cắt quốc lộ 1A, phá vỡ hệ thống phòng ngự phía nam thành phố Huế, truy kích địch về cửa biển Thuận An, Tư Hiền. Ở phía bắc, các lực lượng của Quân khu Trị Thiên đánh địch trên tuyến phòng thủ sông Mỹ Chánh, đánh chiếm quận lỵ Hương Điền, phát triển tiến công vào Huế. Ngày 25-3-1975, thành phố Huế được giải phóng. Ngày 26-3, toàn bộ tỉnh Thừa Thiên được giải phóng. Trên hướng Đà Nẵng, ngày 25-3, các đơn vị chủ lực Quân khu 5 tiến công giải phóng thị xã Tam Kỳ (Quảng Nam) và thị xã Quảng Ngãi, tiêu diệt Sư đoàn bộ binh số 2, Liên đoàn biệt động quân số 11, Thiết đoàn 4, Trung đoàn 6 thuộc Sư đoàn bộ binh số 8 quân ngụy. Tiếp đó, trong đợt 2, từ 27 đến 29-3, các đơn vị chủ lực của ta phát triển tiến công tiêu diệt Sư đoàn thủy quân lục chiến, Sư đoàn bộ binh số 3, đánh vào Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 và Quân khu 1 của ngụy. Đến 15 giờ ngày 29-3-1975, quân ta đã đánh chiếm toàn bộ các mục tiêu quan trọng trong thành phố Đà Nẵng và bán đảo Sơn Trà. Đà Nẵng, vốn là căn cứ liên hợp quân sự lớn nhất của Mỹ-ngụy, được hoàn toàn giải phóng.
    Theo đà tiến công như vũ bão của quân và dân ta, cuộc họp của Bộ Chính trị, ngày 31-3-1975, một lần nữa lại bổ sung quyết tâm chiến lược mới: Giải phóng miền nam trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4-1975, không thể chậm, bởi "cuộc chiến tranh cách mạng ở miền nam không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt mà thời cơ chiến lược để tiến hành cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt cuối cùng của địch đã chín muồi. Từ giờ phút này, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta đã bắt đầu...".
    Việc để mất Huế, Đà Nẵng và toàn bộ địa bàn Quân khu 2, Quân khu 1 đã đẩy chế độ ngụy quyền, ngụy quân vào tình thế tuyệt vọng, không lối thoát, buộc phải tiếp tục cuộc rút chạy chiến lược về phía nam.
    Thừa thắng, ngày 1-4-1975, phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương và quần chúng nhân dân, bộ đội ta giải phóng Quy Nhơn (Bình Định) và Tuy Hòa (Phú Yên). Ngày 2-4, ta giải phóng Ninh Hòa, Nha Trang. Ngày 3-4, giải phóng thị xã Cam Ranh.
    Ngày 7-4-1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Quốc phòng kiêm Tổng Tư lệnh QĐND Việt Nam gửi điện cho các đơn vị nhấn mạnh cần phải "Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa".
    Sài Gòn - Gia Định giờ đây là hướng tiến công chiến lược chủ yếu và là mục tiêu chiến lược cuối cùng. Mọi lực lượng , vũ khí trang bị, vật chất bảo đảm đã được tập trung cho trận đánh cuối cùng này.
    Ngày 13-4, Bộ Chính trị thông qua kế hoạch giải phóng Sài Gòn - Gia Định mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh.
    Ngày 16-4, tuyến phòng ngự từ xa của địch bảo vệ Sài Gòn tại Phan Rang bị quân và dân ta đập tan. Tấm lá chắn đi vào phía bắc Sài Gòn đã để ngỏ.
    Trước đó, từ ngày 9-4, các đơn vị thuộc Binh đoàn Cửu Long đã đồng loạt nổ súng tiến công Xuân Lộc, tiểu khu Long Khánh, căn cứ Sư đoàn 18 và Lữ đoàn dù số 1 quân ngụy, khu vực sân bay nhằm mục đích tiêu diệt địch ở vòng ngoài, phá âm mưu phòng ngự từ xa, cắt đứt giao thông, cô lập Sài Gòn. Cuộc chiến đấu ở Xuân Lộc diễn ra rất quyết liệt. Quân địch điên cuồng chống trả, gây cho ta không ít thương vong. Ngày 15-4, quân ta vận động tập kích tiêu diệt Chiến đoàn 52 ngụy ở khu vực ngã ba Dầu Giây. Hai ngày 16 và 17-4, ta đánh lui các đợt phản kích của Lữ đoàn thiết giáp số 3 và Chiến đoàn 8. Ngày 18-4, Sư đoàn 18 ngụy rút chạy khỏi Long Khánh. Tối 20-4, quân địch ở Xuân Lộc rút chạy qua Bình Sơn - Long Thành về Biên Hòa. Cửa ngõ phía đông bắc Sài Gòn đã mở toang.
    Với khí thế xung trận thần tốc "một ngày bằng 20 năm", các đơn vị chủ lực ta nhanh chóng hình thành nhiều mũi áp sát, bao vây Sài Gòn từ các hướng.
    Trước tình thế nguy cấp, trước sức ép của Mỹ, ngày 21-4-1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức và sau đó chạy ra nước ngoài. Trần Văn Hương lên thay với hy vọng cứu vãn chế độ Sài Gòn đang đổ sụp. Tuy nhiên, đó là điều không tưởng. Bởi vào lúc này, không một sức mạnh nào, không một mưu đồ đàm phán nào có thể ngăn cản cuộc tiến công của quân và dân ta vào dinh lũy cuối cùng của chế độ Sài Gòn, giành toàn thắng.
    Sau thời gian chuẩn bị khẩn trương về mọi mặt, ngày 26-4-1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mở màn. Lực lượng tham gia đông và mạnh nhất từ trước tới nay, gồm 4 binh đoàn: Quyết Thắng, Hương Giang, Tây Nguyên, Cửu Long và Đoàn 232, tổng cộng là 15 sư đoàn, 2 lữ đoàn, 3 trung đoàn bộ binh. Pháo binh có 20 lữ đoàn, trung đoàn và tiểu đoàn. Có 3 lữ đoàn, trung đoàn và 6 tiểu đoàn xe tăng thiết giáp. Các đơn vị binh chủng như Phòng không, Công binh, Thông tin, Đặc công và cả Không quân, Hải quân. Ngoài ra còn có lực lượng bộ đội địa phương, dân quân, du kích và nhân dân phối hợp tham gia chiến đấu.
    Lực lượng địch phòng thủ Sài Gòn có 6 sư đoàn, 4 lữ đoàn, 3 liên đoàn bảo an và cảnh sát, phòng vệ dân sự. Tỷ lệ so sánh là ta 3, địch 1. Ta hoàn toàn áp đảo địch về tinh thần và lực lượng.
    Chiến dịch Hồ Chí Minh diễn biến qua 3 tình huống.
    Tình huống 1: từ 17 giờ ngày 26-4 đến 24 giờ ngày 28-4, quân ta tiến công đánh chiếm tuyến phòng thủ bên ngoài của địch, cắt đứt đường số 15, sông Lòng Tàu ở phía đông, đường số 4 ở phía nam. Các lực lượng Binh đoàn Hương Giang đánh chiếm Đức Trạch, thị xã Bà Rịa, chi khu Long Thành, Trường huấn luyện Thiết giáp. Binh đoàn Cửu Long đánh chiếm cầu Rạch Chiếc, xa lộ Đồng Nai. Không quân ném bom sân bay Tân Sơn Nhất. Pháo binh bắn phá, làm tê liệt sân bay Biên Hòa.
    Tình huống 2: ngày 29-3, quân ta tổng tiến công trên toàn mặt trận. Trên hướng đông, các đơn vị tiến công căn cứ Nước Trong, Long Bình, chiếm phần lớn thị xã Vũng Tàu. Lực lượng thọc sâu của Binh đoàn Hương Giang tiến tới cầu xa lộ Đồng Nai. Binh đoàn Cửu Long đánh chiếm căn cứ Yên Thế, sân bay Biên Hòa, tiến công Hố Nai. Trên hướng bắc và Tây Bắc, Binh đoàn Quyết Thắng tiến đến bắc Lái Thiêu, Binh đoàn Tây Nguyên đánh chiếm căn cứ Đồng Dù, Trảng Bàng, phát triển tiến công trại huấn luyện Quang Trung, Bà Quẹo. Hướng nam và tây nam, Đoàn 232 chiếm chi khu Đức Hòa, thị xã Hậu Nghĩa.
    Tình huống 3: Tổng công kích từ các hướng vào nội thành Sài Gòn.
    Hướng tây bắc, Binh đoàn Tây Nguyên đánh chiếm Ngã tư Bảy Hiền, Bộ Tư lệnh quân dù, chiếm Bộ Tổng tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhất.
    Hướng bắc, Binh đoàn Quyết thắng đánh chiếm Bộ Tư lệnh Không quân, phối hợp cùng Binh đoàn Tây Nguyên đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu ngụy.
    Hướng đông, Binh đoàn Cửu Long đánh chiếm căn cứ Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 ngụy ở Biên Hòa, chiếm Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Thủy quân lục chiến, căn cứ hải quân Bắc Đằng.
    Hướng tây nam, Đoàn 232 đánh chiếm Bộ tư lệnh Biệt khu thủ đô, Bộ Tư lệnh Cảnh sát quốc gia, khu trung tâm thông tin Phú Lâm.
    Lực lượng thọc sâu của Binh đoàn Hương Giang vượt cầu xa lộ Đồng Nai tiến vào dinh Độc Lập, buộc Tổng thống ngụy quyền Dương Văn Minh (đã thay Trần Văn Hương) lên đài phát thanh tuyên bố đầu hàng không điều kiện.
    Cùng với đòn tiến công của chủ lực, quần chúng cách mạng ở nội, ngoại thành Sài Gòn đã đồng loạt nổi dậy giành quyền làm chủ.
    Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng.
    Tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long, quân và dân các tỉnh thuộc khu 8, khu 9 chủ động kết hợp tiến công với nổi dậy, đến ngày 1-5-1975 đã tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân địch thuộc Quân đoàn 4 và Quân khu 4.
    Bộ đội Hải quân nhanh chóng tiến công làm chủ các đảo thuộc quần đảo Trường Sa.
    Như vậy, chỉ trong vòng chưa đầy 2 tháng, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã giành toàn thắng. Hơn một triệu quân ngụy và bộ máy ngụy quyền Sài Gòn bị đánh tan và đổ sụp. Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đánh cho ngụy nhào đã được thực hiện. Chế độ thực dân mới được đế quốc Mỹ dày công xây dựng đã bị thủ tiêu. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mà đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, với Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đã kết thúc thắng lợi vẻ vang sau 21 năm chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh. Đất nước độc lập, thống nhất, non sông thu về một mối, nhân dân bắt tay cùng xây dựng cuộc sống mới.
  2. ov10

    ov10 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/02/2006
    Bài viết:
    6.093
    Đã được thích:
    6
    Trích (Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến 1945-1975. NXB TP.HCM)
    Những ngày đầu chiến dịch
    Thời cơ nối tiếp thời cơ, chiến dịch mở ra chiến dịch, hội nghị Bộ chính trị ngày 31/3/1975 xác định "Từ giờ phút này trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân dân ta đã bắt đầu". Các nghị sĩ Mỹ theo dõi tình hình miền Nam quả quyết, đã quá muộn để làm bất cứ việc gì nhằm lật ngược tình thế ở Việt Nam.
    Ngày 1/4/1975 chiến dịch giải phóng Sài Gòn đã bắt đầu được chuẩn bị theo tư tưởng chỉ đạo "thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng" với tốc độ "một ngày bằng 20 năm". Ngày 14/4/1975 Bộ chính trị phê chuẩn đề nghị của bộ chỉ huy chiến dịch đặt tên chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định là "Chiến dịch Hồ Chí Minh", phương án chiến dịch được thông qua lần cuối.
    Như một bức tranh hoành tráng, xe pháo và tàu thuyền đủ loại, bộ đội và dân nhân du kích, dân công và Thanh niên xung phong, những ngả đường tấp nập..., cả dân tộc từ Bắc chí Nam đang hành quân, hậu phương đang dốc toàn lực ra tiền tuyến, nửa miền Nam vừa được giải phóng cũng góp sức vào chuẩn bị giải phóng nửa còn lại.
    Đầu tháng 4/1975 Trung ương cục miền Nam ra chỉ thị cho quân dân Nam bộ và Nam Trung bộ (B2) hãy "táo bạo đánh các điểm theo chốt... khi có thời cơ". Bộ chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn quyết định mở chiến dịch chia cắt địch trong toàn B2 để bao vây cô lập dịch ở Sài Gòn. Điện của Bộ chính trị và Quân ủy trung ương nhắc nhở cần chuẩn bị thêm trước khi làm ăn lớn. Chỉ thị của Bí thư thứ nhất Lê Duẩn căn dặn phải biết tập trung lực lượng đầy đủ vào các trận then chốt.
    Ngày 8/4/1975, ta cho ném bom Dinh Độc Lập¹. Ngày 9/4/1975 ta tiến đánh địch ở Xuân Lộc. Ngày 16/4/1975 ta đập tan phòng tuyến phòng thủ từ xa của địch ở Phan Rang. Ngày 17/4/1975 Phnôm-pênh giải phóng. Cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Campuchia đã kết thúc thắng lợi. Trong khi đó ở Lào chính phủ liên hiệp đóng cửa sứ quán ngụy Sài Gòn và ngụy Phnôm-pênh, sau đó vua Lào ra lệnh giải tán quốc hội, cuộc đấu tranh của quân và dân Lào bước hẳn sang thời kỳ chính trị hiệp thương để giành thắng lợi hoàn toàn. Ngày 18/4/1975 tổng thống Mỹ. G.Ford ra lệnh di tản người Mỹ² khỏi Việt Nam. Ngày 20/4/1975 Mỹ buộc Nguyễn Văn Thiệu từ chức. Ngày 23/4/1975 Mỹ tuyên bố chiến tranh kết thúc, không thể giúp chính phủ Nam Việt Nam. Ngày 24/4/1975 Mỹ - Hương đề nghị xin ngưng bắn... Diễn biến dồn dập ấy diễn ra cùng lúc với 5 cách quân gồm 270.000 bộ đội chủ lực và 180.000 người khác phục vụ chiến dịch đang từng bước chiếm lĩnh các vị trí xuất phát tiến công vào Sài Gòn.
    17 giờ ngày 26/4/1975 cuộc tổng kích đáng chiếm Sài Gòn bắt đầu, các mục tiêu tấn công ngập chìm trong bão lửa. Mỹ vội vàng mở chiến dịch "người liều mạng" để di tản. Các tướng tá quân đội Sài Gòn từ các sư đoàn bị đánh tơi tả, kẻ bị bắt, kẻ đầu hàng, kẻ tự sát, kẻ cởi quân phục lẩn trốn vào đám tàn quân. Tổng thống ngụy muốn xin "bàn giao chính quyền", các đại diện Mỹ, Pháp tìm kế hoãn binh... Nhưng tất cả đã không thể ngăn cản được sức tiến công của lực lượng vũ trang cách mạng trong "trận đánh cuối cùng" để kết thúc chiến tranh 30 năm.
    Diễn biến chiến dịch Hồ Chí Minh tại Sài Gòn
    Tại Sài Gòn, sáng ngày 30 tháng 4, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh (tướng Vĩnh Lộc tổng tham mưu trưởng đã bỏ chạy) và Nguyễn Hữu Có, lên gặp Dương Văn Minh báo cáo tình hình quân sự, đã thúc đẩy Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu (thủ tướng) đi đến quyết định đơn phương ngừng bắn, chờ "bàn giao trong vòng trật tự". Dương Văn Minh họp bộ hạ và đưa ra ý kiến "tuyên bố thành phố bỏ ngỏ". Sau khi bàn luận, Vũ Văn Mẫu viết bản tuyên bố kêu gọi đơn phương ngưng bắn và bàn giao chính quyền cho cách mạng. Bản tuyên bố được phát trên đài phát thanh Sài Gòn lú 9 giờ 30 phút.
    Trên tất cả các hướng vào Sài Gòn, quân ta tiếp tục tiến công theo mệnh lệnh của Bộ Chính trị "tiến quân với khí thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ, tước vũ khí quân đội địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để mọi sự chống đối của chúng".
    Địch dùng pháo từ phía Đông xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa bắn ra cắt đội hình lữ đoàn xe tăng 20. Một phân đội của lữ đoàn rẽ vào đánh diệt chúng ở liên trường Thủ Đức (ở Cây Mai). Tại đây chiếc xe 707 đã phải chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và người cuối cùng. 9 giờ 30 phút đoàn xe tăng tiến thuận lợi qua cầu Rạch Chiếc do Z23, lữ đoàn 316 đặc công biệt động đang chiến giữ. Phía trước là cầu Sài Gòn, ở đây tiểu đoàn 4 Thủ Đức đã chiến đấu quyết liệt, giằng co với địch từ đêm 29 rạng 30 tháng 4, đến 7 giờ sáng ngày 30 tháng 4 mới chiếm lại được đầu cầu phía Đông. Đoàn xe tăng lữ đoàm 203 đến đầu cầu Sài Gòn, 2 xe dẫn đầu đội hình tăng tốc vượt qua được nửa cầu thì bị xe tăng địch ở phía Tây vòm cầu bắn cháy. Đội hình xe tăng ta phải dừng lại ở đầu cầu phía Tây. Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn xe tăng Ngô Văn Nhỡ cầm cờ hiệu và điện đài chỉ huy tốp xe dẫn đầu vượt cầu lại bị trúng đạn địch và hy sinh trên tháp pháo. Lữ đoàn phó Trần Minh Công lên chỉ huy vượt cầu. Địch tiếp tục bắn hỏng thêm 2 xe tăng. Đại đội trưởng Bùi Quang Thận và chính trị viên Vũ Đặng Toàn chỉ huy đại đội 4 vượt qua cầu. Địch lui về ngã tư Hàng xanh, ta bám sát và bắn cháy một xe tăng của chúng tại đây. Các lực lượng tại chỗ bao vây, vận động vô hiệu hóa một số xe khác. Địch ở cầu Thị Nghè ngoan cố chống cự, ta bắn cháy thêm 1 xe tăng, 1 xe thiết giáp.
    Qua cầu Thị Nghè, nữ chiến sĩ liệt động Nga (lữ đoàn 16) lên xe tăng cùng Phạm Duy Đô làm nhiệm vụ dẫn đường. Lữ đoàn 203 tiến vào Dinh Độc Lập theo đường Hồng Thập Tự và Đại lộ Thống Nhất do xe tăng 483 của trung úy Bùi Quang Thận dẫn đầu. Một số chiến sĩ biệt động đã có mặt trước dinh Độc Lập. Trong Dinh cũng đã có mặt một số cán bộ tình báo đường dài của ta: Tô Văn Cang, Vũ Ngọc Nhạm một cơ sở binh vận (chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh). Chiếc xe tăng 843 húc cánh cổng sắt Dinh Độc Lập, tiến thẳng vào cửa Dinh. Ngay tức khắc chiến sĩ lái xe Jeep Bùi Ngọc Vân cầm cờ chạy lên tầng 2 phất mạnh trước dân chúng đang reo vui ở cổng Dinh Độc lập. Trong lúc đó, Bùi Quang Thận nhảy ra khỏi xe, cùng một số chiến sĩ tiến thẳng lên ban công thượng của tòa nhà, giật bỏ lá cờ vàng 3 sọc và kéo cờ giải phóng lên cột cờ cao nhất của Dinh Độc Lập lúc 11 giờ 30 phút. Đại đội trưởng Phạm Duy Đô chạy thẳng vào trong Dinh quan sát và trở ra báo cáo ngay với trung tá chính ủy lữ đoàn 203 Bùi Văn Tùng xác nhận sự có mặt của tổng thống và nội các ngụy quyền tại Dinh. Trung tá lữ trưởng Nguyễn Tấn Tài lệnh điều chỉnh đội hình xe tăng bao vây Dinh đề phòng địch phản kích, đồng thời phái một bộ phận ra đánh chiếm cảng Sài Gòn.
    Đại úy trung đoàn phó trung đoàn 66 Phạm Xuân Thệ cùng một số cán bộ, chiến sĩ ta được Nguyễn Hữu Hạnh dẫn đường tiến thẳng vào phòng khánh tiết gặp Dương Văn Minh và nội các Vũ Văn Mẫu. Tiếp đó, các đồng chí Bùi Văn Tùng và Nguyễn Tấn Tài vào phòng khánh tiết. Hai cán bộ tình báo của ta cũng đã có mặt tại đây từ sáng với tư cách là người của lực lượng thứ ba đến vận động Dương Văn Minh sớm đầu hàng: Vũ Ngọc Nhạ, Tô Văn Can. Dương Văn Minh đứng dậy nói: "Chúng tôi đang đợi các ông để bàn giao". Ta tuyên bố: "Các ông đã bị bắt làm tù bình, các ông phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Các ông không còn gì để bàn giao".
    Dương Văn Minh chấp nhận, trao khẩu súng ngắn cho đại úy Phan Xuân Thệ và đến đài phát thanh đọc bản tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Trung tá Bùi Văn Tùng đọc lời chấp nhận đầu hàng của Dương Văn Minh.
    Từ sáng ngày 30 tháng 4 cho đến lúc này tại trung tâm Sài Gòn đã có 34 điểm nổi dậy của quần chúng và lực lượng tại chỗ.
    Sau 11 giờ 30 phút ở 41 điểm chủ lực ta chưa tới, quân chúng và lực lượng tại chỗ tiếp tục nổi dậy.
    Ở quận 3, tại phường cư xá Đô Thành, lúc 12 giờ ngày 30 tháng 4 khi lực lượng võ trang ta tiến công quận 3, anh Tư và anh Công, người địa phương, cùng một cán bộ biệt động của Z15 (lữ đoàn 316) dùng loa hô hào nhân dân nổi dậy giành chính quyền, kêu gọi sĩ quan và binh lính địch nộp vũ khí đầu hành. Ngay chiều 30 tháng 4 hàng trăm đồng bào xin nhận công tác theo yêu cầu của cách mạng, hàng trăm người khác tự động ra đường thu gom vũ khí, quân trang, quân dụng của địch. Đồng bào treo đầy cờ giải phóng trước nhà riêng, công sở và tự nguyện góp cấp thời lương thực thực phẩm cho bộ đội.
    Tại phường Bàn cờ quận 3, các đông chí cơ sở mật của ta: Chị Bảy, anh Châu, anh Ba Đông, phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền, chiếm giữ các kho tàng của địch, giữ gìn trật tự, an ninh, làm vệ sinh đường phố. Đồng bào thu gom được 3.000 súng các loại đem nộp cho cách mạng. 16 giờ ngày 30 tháng 4, phường Bàn Cờ tổ chức mít tinh, có 13.000 người dự lễ mừng chiến thắng và giới thiệu những người tốt vào chính quyền mới. Đến 17 giờ, thành lập xong các bạn phụ trách phường, khóm và tổ chức chuyên việc đăng ký ngụy quân, ngụy quyền ra trình diện.
    Ở hướng xa lộ Biên Hòa, Z27 sau khi hoàn thành nhiệm vụ chiếm giữ cầu Rạch Chiếc cho lữ đoàn 203 đi qua, theo lệnh trên, tiến chiếm nhà máy xi măng Hà Tiên, nhà máy Zetcô (nay là liên hợp công trình 4) và giữ nhà máy điện Thủ Đức. Nhờ đó, điện ở thành phố chỉ gián đoạn có vài giờ trong ngày 30 tháng 4.
    Tiểu đoàn 4 Thủ Đức, sau khi lữ đoàn 203 xe tăng qua cầu Sài Gòn tiếp tục tổ chức đánh chiếm các đồn bót địch trên trục lộ 33 đoạn từ ngã ba Bình Trưng đến ngã ba Phú Hữu, cùng cán bộ địa phương phát động quần chúng nổi dậy trừng trị ác ôn, giải phóng hai xã Bình Trưng và Phú Hữu.
    Tại nhà máy nước Thủ Đức, từ những ngày 27 và 28 tháng 4, nòng cốt công nhân đã lập đội bảo vệ nhà máy. Hàng trăm công nhân và kỹ sư liên tục bám giữ máy, không cho địch phá, bảo đảm cung cấp đầy đủ nước cho thành phố cả nước và sau khi giải phóng. Ngày 30 tháng 4, khi xe tăng ta tiến gần đến, đồng chí Muống, đứng đầu ủy ban khởi nghĩa nhà máy, lãnh đạo công nhân tung tin hù dọa địch và tự mình leo lên nóc nhà máy treo một lá cờ lớn. Địch ở đây rất đông: thường xuyên có một tiểu đoàn thủy quân lục chiến, 1 tiểu đoàn cao xạ, 1 đại đội bảo an và ngày 30 tháng 4, còn kéo về đây thêm khoảng 40 xe tăng và thiết giáp... nhưng trước thế tiến như vũ bão của ta và khí thế công nhân tại chỗ, tất cả địch ở đây đã phải bỏ chạy.
    Toàn bộ lực lượng địch ở Thủ Đức tan rã. Quần chúng xông vào chiếm giữ các căn cứ quân sự của địch, tiến chiếm trụ sở quận. Toàn bộ ngụy quyền quận bỏ chạy.
    Với mọi chuẩn bị từ trước, khi đại quân ta tiến vào Sài Gòn, cơ sở cách mạng và quần chúng lao động nội thành kịp thời nổi dậy chiếm lĩnh, làm chủ và bảo vệ các cơ sở kinh tế, chính trị văn hóa quan trong, bảo đảm mọi sinh hoạt bình thường của một thành phố mới giải phóng.
    Ở nhà máy điện Chợ Quán, ngay lúc địch đang tồn tại và thiết quân luật, công nhân đã thay phiên nhau đi sửa chữa đường dây, ổn định dòng điện. Anh em kêu gọi binh lính ngụy quay về với chính nghĩa, ủng hộ hành động nổi dậy của công nhân.
    Tại xưởng Ba Son, công nhân tháo gỡ hết chất nổ địch gài, bảo vệ nguyên vẹn nhà máy.
    Ở các hãng Esso, Shell, công nhân thành lập các ủy ban công nhân võ trang bảo vệ kho xăng Nhà Bè.
    Công nhân các xí nghiệp Vimytes, Sicovina, Vinatexco, Biopharma và hàng loạt hãng, xưởng khác bất chấp công an, mật vụ, đã nổi dậy chiếm xưởng bảo vệ máy móc.
    Các cơ sở cách mạng và quần chúng nổi dậy chiếm lĩnh, cắm cờ trụ sở khóm hai phường Huyện Sĩ, ngã ba Thủ Khoa Huân, đường Lê Thánh Tôn, chợ Bến Thành, cư xá Đô Thành, ty cảnh sát quận 3, sở văn hóa... Một trí thức, cơ sở của ta, đã giữ gìn và trao lại nguyên vẹn cho cách mạng toàn bộ phòng báo chí Phủ tổng thống ngụy của Hoàng Đức Nhã (đặt tại số 116 đường Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai).
    15 giờ ngày 30 tháng 4 tất cả cán bộ Thành ủy cánh A (luồn vào từ đêm 29 tháng 4) đã có mặt trong thành phố, tập kết nhận nhiệm vụ kế tiếp tại khu trường Pétrus Ký.
    Cán bộ, chiến sĩ cánh B của Thành ủy có mặt cùng nhân dân thực hiện nổi dậy giành chính quyền, giành quyền làm chủ từ ấp, xã đến thị trấn ngoại thành, cũng đã hội tụ về nhận nhiệm vụ tại dinh tỉnh trưởng Gia Định.
    Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, riêng quân dân Sài Gòn - Gia Định đã diệt và làm tan rã 31.000 tên địch, bắt sống 12.619 tù binh, chiếm 9 căn cứ quân sự, 5 chi khu, 21 phân chi khu và trụ sở tề... thu 12.275 súng và gần như toàn bộ hồ sơ các cơ quan từ Phủ tổng thống trở xuống. Số ngụy quân lần lượt ra trình diện là 40 vạn và số công an cảnh sát là 10 vạn.
    17 giờ ngày 30 tháng 4, tiếng súng đã thực sự chấm dứt ở "thủ đô" ngụy quyền, trừ một số mục tiêu quân sự. Thành phố hơn 3 triệu dân vừa qua cuộc chiến tranh 30 năm, vẫn nguyên vẹn đã chuyển sang trạng thái bình yên đến độ gây ngạc nhiên cho mọi người trên thế giới đang có mặt: nước vẫn chảy đều trong các đường ống; dòng điện chỉ tạm ngừng trong 2 giờ rồi mọi nhà lại sáng; công nhân nhà máy vẫn sẵn sàng cho máy chạy; chợ búa, quán xá vẫn sẵn sàng mở; đường phố vẫn đông người, xe cộ... Người dân Sài Gòn - Gia Định náo nức cắt dàn cờ hoa để xuống đường ngày 1-5 mừng cuộc toàn thắng và chờ đêm hội pháo hoa.
  3. ov10

    ov10 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/02/2006
    Bài viết:
    6.093
    Đã được thích:
    6
    Một đoàn bài viết của Nguyễn Đình Kháng trên báo ND.
    Cầu Rạch Chiếc, điểm phòng ngự quan trọng của địch ở cửa ngõ phía đông thành phố Sài Gòn. Cách đây 30 năm, đêm 27, rạng sáng 28, 29 và 30-4-1975, nơi đây đã diễn ra trận chiến ác liệt của bộ đội đặc công Lữ đoàn 316 với lực lượng "tử thủ" của địch. Hơn ba ngày đêm chiến đấu, giành giật chiếm giữ cầu, quân ta đã tiêu diệt và làm tan rã hai tiểu đoàn địch, tạo điều kiện thuận lợi cho đại quân tiến thẳng vào Dinh Độc Lập.
    Cầu Sài Gòn, cầu Rạch Chiếc và cầu Đồng Nai nằm trên xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa, là ba điểm trọng yếu án ngữ cửa ngõ phía đông TP Sài Gòn, từ lâu luôn được Mỹ - ngụy canh phòng cẩn mật. Từ tháng 3-1975, các cánh quân của ta đang thẳng tiến hướng về Sài Gòn, nơi đặt các cơ quan đầu não chính quyền ngụy, địch vội vã tăng cường hệ thống phòng thủ bảo vệ ba chiếc cầu trên con đường huyết mạch dài 30 km này, đưa về đây gần 10.000 tên gồm đủ các sắc lính: thủy quân lục chiến, biệt động quân, bảo an và nhiều vũ khí hạng nặng, pháo, xe bọc thép, tàu, thuyền. Riêng cầu Rạch Chiếc, chúng tăng thêm hơn 400 quân, đưa số quân bảo vệ cầu lên gần 2.000 tên, xây thêm lô cốt, đặt nhiều ụ súng, bãi mìn, rào thêm dây thép gai và gài sẵn hai quả bom, sẵn sàng cho nổ tung phá cầu khi thất thủ, hòng cản bước tiến thần tốc của quân giải phóng vào trung tâm thành phố.
    Ta phải đánh chiếm, khai thông ba cầu, nhất là cầu Rạch Chiếc, tạo nút chặn, ngăn không cho quân địch từ Tây Nguyên, miền trung và Đông Nam Bộ dồn về Sài Gòn "tử thủ". Chiếm cầu, thông đường là mở tung cánh cửa phía đông thành phố cho đại quân ta tiến vào. Nhiệm vụ quan trọng ấy được giao cho Lữ đoàn 316 đặc công, biệt động thực hiện. Đại tá Tống Viết Dương, Chỉ huy trưởng cánh đông Lữ đoàn 316 đặc công, kể lại: Nhận lệnh cấp trên, ngày 26-4, ba đơn vị: Tiểu đoàn D81, Z22 và Z23 thuộc Lữ đoàn nghiêm chỉnh chấp hành và sẵn sàng vào trận. Tối 27-4, nhanh chóng áp sát mục tiêu chờ đợi giờ G, và vào lúc 3 giờ sáng 28-4, gần 200 cán bộ, chiến sĩ ba đơn vị bất ngờ đồng loạt nổ súng tiến công tiêu diệt địch, chiếm cầu, kịp thời tháo gỡ hai quả bom địch gài sẵn, không cho chúng phá cầu. 5 giờ sáng, địch phản kích quyết liệt, đến 12 giờ chúng chiếm lại cầu. 21 giờ, quân ta tổ chức đánh chiếm lại. Từ đêm 29 đến rạng sáng 30-4, giữa vòng vây của địch từ hai phía (Thủ Đức về và Sài Gòn ra), trong thế giằng co quyết liệt với địch, các chiến sĩ đặc công đã mưu trí, dũng cảm, kiên cường bám trụ, đánh lui hàng chục đợt phản kích của địch có xe bọc thép, pháo, máy bay, ca-nô... yểm trợ, diệt và làm tan rã hai tiểu đoàn, bắt sống hàng trăm tên. Hàng nghìn lính ngụy từ khu liên trường Thủ Đức và tàn quân Sư đoàn 18 từ Xuân Lộc, Biên Hòa tháo chạy về, đều bị chặn lại ở đầu cầu Rạch Chiếc, gây ách tắc, hoảng loạn, khiến binh sĩ ngụy bỏ xe, quăng súng, cởi áo, tháo giày vứt ngổn ngang đầy đường, tìm mọi cách lẩn trốn. 9 giờ 30 phút sáng 30-4, chiếc xe tăng đầu tiên của Lữ đoàn 203 và theo sau là bộ đội Trung đoàn 66, Quân đoàn 2 ào ạt tiến đến, lao nhanh qua cầu giữa tiếng reo vui của hơn 100 chiến sĩ xạm đen vì khói súng, máu và bùn đất.
  4. ov10

    ov10 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/02/2006
    Bài viết:
    6.093
    Đã được thích:
    6
    Trích một bài viết từ phía bên kia.
    Ai không thích có quyền không đọc
    (Đã lược bớt bình luận, chỉ giữ lại những thông tin. Các lỗi chính tả là nguyên tác không được sửa chữa)
    Từ chiều 29 cho tới trưa ngay 30-4-1975, súng đủ loại lớn nhỏ đã bắt đầu nổ vang khắp Sài Gòn. Kinh khiếp hơn hết là các loại bích kích pháo B40-41, hỏa tiễn 122 ly, cứ bì bõm liên tục, rót xuống phi trường Tân Sơn Nhất và các vùng... lân cận. Nhưng giờ phút đó, hầu hết các loại máy bay của Sư Đoàn 5 Không quân, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn và cả Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH bên trong trại Võ Tánh, cũng đã di tản chiến thuật gần hết theo Mỹ. Lúc đó, một số đang trên đường bay tới Thái Lan hay ra biển Đông. Số khác chậm hơn thì cũng hoặc đang trong khuôn viên DAO hay Toà Đại Sứ Mỹ và nơi bến tàu dọc hai bờ sông Sài Gòn.
    Rốt cục chỉ có mặt nhựa ở phi đạo bị đan làm xoáy tung mà thôi. Nơi nơi bốn hướng, cây cối, dây điện, gạch vôi và thân xác của những người lính quèn lúc đó, vẫn còn ở lại để phòng thủ cái phi trường trống không...
    Trong lúc đó trên đường Võ Tánh từ cổng chính của Bộ Tổng Tham Mưu gần ngã ba Trương Tấn Bửu chạy tới ngã ba Bảy Hiền, xa nhìn ngút mắt, có các đám cháy lớn và nhiều quân xa chở lính cũng như thiết giáp đang dồn dập di chuyển...
    1- Sài Gòn, những phút giờ hấp hối :
    Sài Gòn đã bắt đầu xáo trộn từ tháng 3-1975, từ lúc miền Trung bị mất qua quyết định sai lầm rút bỏ quân đoàn I và II của TT.Nguyễn Văn Thiệu, Thủ Tứớng Trần Thiện Khiêm và Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu trưởng QLVNCH lúc đó. Ngày 21-4-1975, Tổng Thiệu qua áp lực của Mỹ, muốn thay ngựa, để hòa hợp hòa giải, nên phải tuyên bố từ chức tổng thống trong lúc nguy ngập và đã cùng Thủ tướng Khiêm, được Tòa Đại Sứ Mỹ, đưa ra khỏi Sài Gòn, tới Đài Bắc trong đêm tối bằng máy bay quân sự. Việc bỏ ra đi của TT. Thiệu, khác với trường hợp của Thủ Tướng Khiêm hay Đại Tướng Viên, vì hai người này chẳng hề bị đe dọa hay bắt buộc. Trái lại Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vào giờ thứ 25 của VNCH trong tháng 4-1975, giống như cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm ngày 2-11-1963, được quyết định bởi bàn tay của người Mỹ. Tổng Thống Diệm không cho người Mỹ đem quân vào VN nên bị giết. TT Thiệu khôn ngoan từ chức ra đi, nên được sống những ngày thừa nơi quê người.. Ngoài ra, cũng theo sử liệu, chính Tổng Thống Trần Văn Hương, muốn người Mỹ đem Tổng Thống Thiệu ra khỏi nước, mà theo TT Hương, đó là kỳ đà cản mũi, nên ông ta không thể trị nước hay chống Cộng được.
    Trần văn Hương lúc đó, đã gần đất xa trời, thêm mắt mũi kém, lại bị Mỹ bắt làm Tổng Thống VNCH - Nguyên thủ như vậy, nên miền Nam bị mất là cái chắc, dù sớm hay muộn cũng thế thôi.
    Sau đó lại màn thay ngựa cuối cùng, để Dương Văn Minh danh chánh ngôn thuận, kết thúc cuộc chiến qua miệng kẻ cầm quyền của miền Nam, dù chỉ có hai ngày ngắn ngủi.
    Chiều 28-4-1975, đại tướng Dương văn Minh đăng quan Tổng Thống VNCH.Đây là lần thú hai ông làm xếp chúa cả miền nam. Trong lúc đo, nơi hậu trường, qua đài phát thanh và truyền hình, tân tổng thống Minh tuyên bố là sẽ đánh đuổi VC về Bắc để chiếm lại lãnh thổ đã mất, khi Mỹ rút hết về nước trong 24 giờ ấn định. Tổng thống cho biết, từ nay QLVNCH không cần chiến đấu nửa, sẽ hòa hợp hòa giải hòa bình. Nhưng cũng lúc đó, khi bài diễn văn chưa chấm dứt, thì những trái đạn từ các máy bay A37 của tên phi công nằm vùng Nguyễn Thành Trung, từ trời rớt xuống, nổ tung.
    2- QLVNCH tử chiến trong giờ thứ 25 :
    Đây chính là thời điểm , mà Bắc Bộ Phủ gọi là giờ G, ngày N, để tổng tấn công chiếm Sài Gòn. Đó là lúc nửa đêm 29-4-1975, thời gian Hà Nội qui định cho tất cả các cánh quân, từ năm hướng tiến vào thủ đô. Đây cũng là thời gian qui định cho đặc công, biệt động nằm vùng... (hành động)
    Tại Mặt Trận Miền Đông Nam Phần, từ sau ngày SĐ18BB và Lữ Đoàn 1 Dù, rút lui an toàn về Bà Rịa, Quân Đoàn III đã tái phối trí lại các phòng tuyến mới vào những ngày cuối tháng 4-1975.
    Vì SD18BB của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo bị thiệt hại nặng nề sau 12 ngày ác chiến với quân Bắc Viê.t. Ngoài Trung Đoàn 48/18 của Trung Tá Công, tương đối quân số còn nguyên vẹn, các Trung Đoàn 52/18 của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng, tại Mặt Trận Ngã Ba Dầu Giây-Túc Trưng, thiệt hại hơn 80% quân số và Trung Đoàn 43/18 của Đại Tá Lê Xuân Hiếu, tử thủ trong thị xã Xuân Lộc, thiệt hại trên 30% nhất là Tiểu Đoàn 2/43/18 của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế, là đơn vị cuối cùng rời Long Khánh. Do đó sau khi chỉnh đốn lại đơn vi, SD18BB được giao trách nhiệm phòng thủ tuyến phía đông Sài Gòn, từ kho đan thành Tuy Hạ chạy dài tới Tổng Kho Long Bình. Riêng BCH Hành quân của SD18BB đặt tại căn cứ Hải Quân Cát Lái. Phòng tuyến của SD 18BB tiếp giáp với vị trí phòng thủ của Lực lượng Nhảy Dù, Trường Thiết Giáp và Bộ Binh Thủ Đức.
    Tỉnh Phước Tuy và Đặc Khu Vũng Tàu, trong đó có quốc lộ 15 được Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, SD3BB phối họp với các lực lượng DPQ + NQ của Phước Tuy và Bình Thuận di tản từ miền trung tới. Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, tư lệnh SDTQLC kiêm Tổng trấn đặc khu Vũng Tàu. Riêng SD3BB từ vùng 1CT di tản vào, quân số kể luôn SD1BB cộng được hơn 1000 người, lập thành 2 tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 2/3 và 56/3 vẫn do Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh làm tư lệnh. SD3BB được tăng cường thêm Chi đoàn 2/15 Thiết Kỵ và Lữ Đoàn 1 Dù, bảo vê. QL15, thị xã Bà Rịa-Vũng Tàu.
    Tỉnh Biên Hòa và phi trường do Lực lượng III xung kích của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, được tăng phái thêm 2 Lữ đoàn 147 và 258 TQLC phòng thủ. Từ ngày 28-4-1975, để bảo vệ thành phố Biên Hòa, Liên Đoàn 81 Biệt Kích Dù bố trí trong phi trường giữ mặt bắc Bộ tư Lệnh QDIII. Một TD/TQLC thuộc Lữ Đoàn 2 bảo vê. BTL.QDIII, các thành phần còn lại của Lữ Đoàn, phòng thủ mặt nam BTL. Quân Đoàn. Lữ Đoàn Nhảy Dù giữ hai Cầu Mới và Sắt cùng các nút chận vào thị xã. Riêng Lực Lượng III Xung kích gồm Chiến Đoàn 315phòng thủ từ Ngã ba Hố Nai đến Ngã tư Lò Than. Chiến đoàn 322 giữ từ Ngã tư Lò Than tới cổng phi trường Biên Hòa và Chiến đoàn 318 từ phi trường tới Cầu Mới.
    Về phía bắc Sài Gòn có SD25BB của Chuẩn tướng Lý Tòng Bá được tăng phái thêm hai Liên Đoàn 8 và 9 Biệt Động Quân, trách nhiệm Tây Ninh và Củ Chi-Hậu Nghĩa. Mặt trận phiá bắc tỉnh Bình Dương là trách nhiệm của SD5BB của Chuẩn Tướng Lê NguyênVỹ, với Trung Đoàn 8/5 của Đại Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng tăng phái cho Lực Lượng III Xung kích của Tướng Khôi ở Hưng Lộc, vừa được trả về. Phòng tuyến phía nam Sài Gòn là Long An, có SD22BB ở Bình Định di tản tới, phối hợp với Lực Lượng 99 Tuần Thám Ngăn Chận của Hải Quân và DPQ+NQ.Long An. Như vậy trừ ba SD7,9 và 21BB của QDIV phải bảo vệ lãnh thổ, phía VNCH chỉ còn tất cả chừng sáu Sư Đoàn gồm SD5,18,22,25 bô binh + Hai Lữ Đoàn 1 và 4 Nhảy Dù + Sư đoàn TQLC + Lực Lượng III Xung Kích +Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù +4 LiênĐoàn BDQ + DPQ và NQ + 625 chiến xa đủ loại và 400 pháo, tất cả chừng 240.000 người, để bảo vê. Sài Gòn. Trong khi đó VC tung vào 5 lộ quân với quân số trên 280.000, gồm 15 Sư đoàn BB + 5 Lữ đoàn biệt lập + 4 Lữ đoàn thiết giáp + 6 Trung Đoàn Đặc công.
    Từ chiều ngày 29-4-1975, hai Bộ Tư Lệnh Không quân và Hải quân VNCH đã di tản chiến thuật, kể cả Tướng Nguyễn Văn Toàn (Tư lệnh QDIII) và Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng TMT từ chức. Do đó, tổng thống mới nhậm chức là Dương Văn Minh, cư? Tướng Vĩnh Lộc lên thế chức Tổng Tham Mưu Trưởng. Đến tối cùng ngày, Tướng Lộc ra lệnh cho SD18BB về bố trí từ Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà, tới Thủ Đức.
    Đầu tháng 4-1975, trường Bộ Binh lúc đó từ Thủ Đức đã dời về Long Thành-Biên Hòa, sinh viên các khóa, trong đó có hai quân trường từ Đà Lạt di chuyển về như Trường Võ Bị và Chiến Tranh Chính Trị. Lúc 8 giờ tối ngày 27-4-1975, trường Bộ Binh lại có lệnh di chuyển trở về trường củ ở Thủ Đức. Tới 8 giờ sáng ngày 30-4-1975, có bốn T54 của cọng sản Bắc Việt từ Xa Lộ Biên Hòa, tấn công trường, bi. Pháo Binh 105 bán trực xạ cháy 3 chiếc tại chỗ. Nhưng chiếc còn lại đã nhập dược vào trung tâm, sau khi thoát được các tầm đạn M72, bắn tử thượng Trung Tá Ông văn Tuyên, Trung sĩ I Nhân và 5 học viên, cùng 10 người bị thương, trong số này có Trung Tá Vương Bá Thuần. Cuối cùng chiếc tăng trên bò ra khỏi trường và bi M72 bắn đứt xích, nằm tại Niệm Phật Đường cạnh Chợ Nhỏ, nhưng vẫn tác xạ dữ dội vào trường. Cuối cùng có hai học viên SQ Thủ Đức mang lựu đạn lân tinh loại xuyên phá, mới tiêu diệt được chiến T54 này.
    Cũng tại Long Bình vào sáng ngày 29-4-1975, Tiểu đoàn 43 thuộc Liên Đoàn 4 BDQ, do Thiếu Tá Xẻn làm TDT, được lệnh của Biệt Khu Thủ Đô,tăng phái phòng thu? Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Từ 2 giờ 30 chiều cùng ngày, VC đã về tới Trung Chánh-Hóc Môn, sau khi chiếm được Căn cứ Đồng Dù của SD25BB, căn cứ Pháo binh Lòng Tảo và đánh tan Trung Đoàn 46/25BB trên QL số 1 từ Củ Chi về Tân phú Trung. Lúc đó Trường Quân Vận đối diện với TTHL Quang Trung cũng đã mất, nên Chiến xa của VC bắt đầu tấn công trung tâm, nhưng không ngờ trong đó không phải chỉ có tân binh quân dịch, mà còn sự hiện diện của một tiểu đoàn BDQ vơí hơn 500 tay súng, đã cùng với các TD41,42,44 tung hoành trong mật khu sình lầy của Vùng 4 Chiến thuâ.t. Tối 29-4-1975, qua hệ thống truyền tin của TD43BDQ, mới biệt BTL Biệt Khu Thủ Đô đã bỏ chạy, chỉ còn các sĩ quan cấp uý ở lại nhưng BCH.Biệt Động Quân và Tướng Đổ Kế Giai vẫn còn nguyên vẹn tại Trại Tô Hiến Thành. Bên trong chiến hào của TTHL Quang Trung, cũng như suốt đoạn đường từ ngã ba Trung Chánh- Hóc Môn, về tới Ngã ba Bảy Hiền, các đơn vị của QLVNCH như BDQ, Biệt Cách Dù và Nhảy Dù đang đợi chờ một trận đánh như SD18BB, LD1ND,TD82BDQ và DPQ Long Khánh, tại Xuân Lộc, trưa 30-4-1975 bi. Dương Văn Minh ban lệnh buông súng rã ngũ.
    5 giờ chiều ngày 29-4-1975, các mặt trận, lính vẫn chiến đấu. Tại Biên Hòa, TQLC, Biệt Cách Dù và các Chiến Đoàn thuộc Lực Lượng III Xung Kích, đã ngăn chống VC tại các phòng tuyến.
    Tại BCH.Thiết Giáp trong trại Phù Đổng, cũng là nơi đặt tạm BTL.QDIII từ Biên Hòa di tản về, cũng như Trung Tâm Hành Quân /BTTM/QLVNCH gần như không còn đại bàng để nhận tin chiến trường và quyết định lệnh lạc. Cho tới 22 giờ 30 đêm 29-4-1975, Phế tướng Nguyễn Hữu Có, người vào năm 1965 bi. Nguyễn Cao Kỳ lột chức và bắt ở lại Hồng Kông không cho về nước, cách đó vài giờ, vừa được TT.Dương Văn Minh gắn cho cái lon Trung Tướng, lên máy ra lệnh cho SD18BB của Thiếu Tướng Đảo và LL3XK của Tướng Khôi, cố gắng giữ yên phòng tuyến trong đêm 29-4-1975, để rạng sáng ngày 30-4-1975 sẽ có hòa bình vì cọng sản Bắc Việt đã chịu hòa họp hoà giải hòa với TT. Minh và lực lượng thứ ba đối lập.
    Nhưng 23 giờ 45 đêm 29-4-1975, Bắc Việt đã tấn công dữ dội bằng bộ binh và chiến xa khắp các phòng tuyến tại Biên Hòa. Hai bên gần như cận chiến với khoảng cách chừng 10-15m, nhất là tại phòng tuyến do quân Dù, TQLC và Chiến Đoàn 315 của Trung Tá Đổ Đức Thảo có chiến xa M48.
    2 giờ sáng ngày 30-4-1975, phòng tuyến SD18BB của Tướng Đảo tại Long Bình bi. VC tràn ngập, quân ta từ Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa phải rút về Thủ Đức.
    Riêng Chiến Đoàn 3, thuộc Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù của Thiếu Tá Phạm Châu Tài, quân số hơn 1000 người, từ Biên Hòa được điều động về bảo vê. Bộ Tổng Tham Mưu từ 5 giờ 30 ngày 26-4-1975. Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn đóng tại Building số 1, đối diện vối Trại Võ Tánh. Các Biệt đội 811 của Đại Uý Lâm đóng trong Lục Quân Công Xưởng. Biệt đội 812 của Đại Uý Ánh đóng ở giữa cổng sau TTM và Tổng Y Viện Cộng Hòa. Biệt đội 813 ủa Đại Uý Thạch rải quân từ Ngã Tư Bảy Hiền tới Trại Phi Long của Nhảy Dù và Biệt Đội 815 của Đại Uý Lợi là lực lượng trừ bị của Chiến Đoàn, đóng trước cổng Bộ TTM.
    Từ ngày 28-4-1975, các đại bàng ở Bộ TTM, Bộ Tư Lệnh QD3, Quân Khu Thủ Đô.. từ Đại Tướng trở xuống đã di tản chiến thuật, nên coi như không còn ai ra lệnh cho thuộc cấp dưới quyền. Về việc phi công nội tuyến Nguyễn Thành Trung, dẫn đoàn máy bay của KQ.VNCH bỏ lại ở Phù Cát, Phan Rang vào oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhất, không bi. Chiến Đoàn 3 Biệt Cách Dù bắn hạ, vì đã tưởng là phe ta làm đảo chánh.
    Chiều ngày 29-4-1975, tướng Vĩnh Lộc được TT. Minh cử làm Tổng Tham mưu trưởng thay Cao Văn Viên, còn Nguyễn Hữu Có thỉ gắn ba sao, xưng là Tổng Tham Mưu Phó. Ngoài ra còn có VC nằm vùng Nguyễn Hữu Hạnh, cũng được Dương Văn Minh gắn sao tướng, dù Có và Hạnh đã bị giải ngũ từ lâu.
    Từ 6 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, VC pháo kích hỏa tiễn 122 ly vào vòng thành Bộ TTM. Trên các đường phố dẫn tới Đại Lộ Chí Lăng, chiến xa Bắc Việt đã xuất hiê.n. Chiến xa VC tại Ngã Tư Bảy Hiền bi. Biệt Cách Dù, dùng súng đại bác M90 ly không giựt, chỉ trong vòng 15 phút, bắn cháy 6 chiếc T54, PT76 cùng với một khẩu pháo phòng không có bánh xe kéo, với nhiều đặc công bị chết, nằm rải rác từ Bảy Hiền tới Bộ TTM.
    9 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, Dương Văn Minh ra lệnh cho Chiến Đoàn 3 Biệt Cách Dù phải ngưng đánh nhau, để chờ đầu hàng. Tuy nhiên nhiều toán không tuân lệnh, vẫn tiếp tục bắn vào các đoàn xe của VC. Riêng 2 Chiến Đoàn Biệt Cách Dù do Đại Tá Phan Văn Huấn chỉ huy, sáng ngày 30-4-1975, từ Suối Máu rút về Nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa, khi nghe lệnh Dương Văn Minh bắt đầu hàng, nên cũng rã ngũ tại đây.
    Khôi hài nhất là lúc mà người lính đang ngã gục khắp chiến trường, để bảo vệ cho thủ đô Sài Gòn và cuộc di tản bằng máy bay trực thăng của Mỹ, trên các mái nhà tại Cơ quan Dao và Tòa Đại Sứ, thì gần hết tướng lãnh bỏ chạy trước. Còn Chính phu? Dương Văn Minh vừa mới nhậm chức, thì đã sai Nguyễn Văn Huyền vào Trại David, để thương thuyết xin đầu hàng, nhưng bi. Võ Đông Giang bắt giam luôn chiều ngày 29-4-1975.
    Trong cuộc di tản ra khỏi nước, ngoài người Mỹ còn có đủ mọi thành phần lúc đó, từ quan tướng, trí thức, thầy cha, nhà báo, ca sĩ, mẹ mìn, * điếm. Tất cả đạp lên đầu lẫn nhau để kiếm một chỗ chạy ra khỏi nước. Lúc đó không còn ai thèm nghĩ tới tư cách, thể diện, trinh tiết hay gì gì nửa. Kỳ cục nhất là những chuyên viên đối lâp, phản chiến, phá hoại và nói xấu chính phủ VNCH, giờ phút cuối lại là những thành phần hăng hái chạy trốn nhiều và trước hết.
    Sài Gòn náo loạn khắp nơi, dân chúng ùn ùn kéo tới các ngân hàng rút tiền ký thác. Các Tòa Đại Sứ lần lượt đóng cửa, cũng như nhiều Hãng Máy bay ngưng hoạt động vì sợ họa lây.
    9 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, trong lúc mọi người đang mê tỉnh trong cơn hấp hối của đất nước, thì Dương Văn Minh(ra lệnh) QLVNCH buông súng rã ngủ.
    30-4-1975, bộ đội Bắc Việt tiến vào Sài Gòn.
    Phút cuối vẫn còn một số đơn vi. Dù, TQLC, BDQ, Biệt Cách Dù.. chận đánh trên các đường phố Hồng Thập Tự, Thị Nghè. Tại Đại lô. Thống Nhất, lính Dù và BDQ bắn M72 vào xe tâng VC (đang) tiến vào chiếm Dinh Độc Lâ.p.
    Đúng 12 giờ 30 trưa ngày 30-4-1975, lá cờ vàng ba sọc đỏ VN treo trên nóc Dinh Tổng Thống VNCH bị tước bỏ. Dương văn Minh và toàn bộ nội các có mặt tại dinh, bị bộ đội miền bắc, nhốt giữ tại chỗ. Nhục nhã muôn đời cả đám bị thu hình trước ống kính của hằng trăm nhà báo ngoại quốc.
    Tại Bộ Quốc Phòng, Trung Tá Nguyễn văn Cung, thuộc SD18BB đã tự sát. Nhiều lính Dù cũng dùng súng M16 tự kết liễu trước Tổng Cục Chiến Tranh Chính trị. Trong trại Hoàng Hoa Thám, một toán lính Nhảy Dù, làm thành vòng tròn, rồi mở chốt lựu đạn để chết tập thể. Một Đại Úy Cảnh Sát tự bắn vào đầu chết trước Quốc Hội. Trong khi đó các tướng lãnh Phạm văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê văn Hưng, Lê nguyên Vỹ, Phạm Văn Hai.. cũng quyên sinh.
  5. ov10

    ov10 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/02/2006
    Bài viết:
    6.093
    Đã được thích:
    6
    Trìch từ (Almanach Kiến thức văn hóa - NXB Văn hóa Thông tin)
    CHIẾN DỊCH LỊCH SỬ HỒ CHÍ MINH.
    Sau khi hiệp định Paris được ký kết, tình hình ở miền Nam vẫn rất phức tạp. Chính quyền Ngụy ở Sài Gòn thực hiện kế hoạch Lý Thường Kiệt tung quân đi thực hiện kế hoạch "tràn ngập lãnh thổ" trên toàn miền Nam lấn chiếm, cắm cờ giành đất hết sức quyết liệt.
    Trước tình hình ấy, Trung ương triệu tập đoàn cán bộ B2 ra miền Bắc họp. Đoàn gồm Nguyễn Văn Linh, phó bí thư Trung ương cục, phụ trách khu vực Sài Gòn - Gia Định, Võ Văn Kiệt bí thư Khu ủy khu 9, Trần Nam Trung phụ trách các tỉnh miền Đông Nam Bộ, Nguyễn Minh Dường, bí thư Khu ủy khu 8 và Đại tướng Hoàng Văn Thái phó bí thư Trung ương cục, tư lệnh B2.
    Muốn ra Bắc toàn cán bộ B2 phải đi vòng qua hướng Campuchia qua con đường huyết mạch vận chuyển vũ khí lương thực và quân đội từ miền Bắc vào miền Nam, sang Lào và sang Campuchia. Hai ngày sau đoàn đã ra tới Hà Nội, gặp mặt tổng Bí thư Lê Duẩn và bước đầu trao đổi một số vấn đề về tình hình miền Nam:
    1. Mỹ đã rút quân song vẫn còn can thiệp vào miền Nam nhưng sự can thiệp này chỉ có mức độ tức là tiếp tục viện trợ để, chức quyền Thiệu tự lực và đứng vững được.
    2. Hiệp định Paris đề cập đến vấn đề hòa bình, hòa hợp dân tộc và điều này đi ngược với ý muốn của Thiệu.
    3. Ta muốn tạo thế tiến công địch phải giành được dân - đó không chỉ là một vấn đề khoa học mà còn là một nghệ thuật: ở nông thôn phải giành lại ấp xã, giành lại dân. Ơở thành thị phải giành được tầng lớp lao động và tầng lớp trung gian.
    4. Cách mạng miền Nam đang ở bước chuyển giai đoạn.
    Đó là một bước thử thách lớn giữa ta và Mỹ Ngụy về chiến lược là bước quá độ diễn ra trong bối cảnh miền Nam có hai chính quyền hai quân đội. Như vậy sẽ có hai khả năng:
    1. Chiến tranh có thể tiếp tục trong mấy năm nữa.
    2. Chiến tranh có thể kết thúc sớm. Chiến tranh ở miền Nam không diễn ra như trước, nhưng chưa phải đã có hòa bình.
    Bởi vậy, chủ trương của ta là giữ vững và củng cố vùng giải phóng tránh bị địch lấn chiếm trong các vùng tranh chấp, kết hợp đấu tranh chính trị và vũ trang trong vùng địch kiểm soát.
    Sau nghị quyết Trung ương lần thứ 21, tổ trung tâm của cục tác chiến đã chuẩn bị bản kế hoạch chiến lược: phương hướng tác chiến năm 1973 - 1975 và bản dự thảo đề cương nghiên cứu kế hoạch giành thắng lợi ở miền Nam, trong đó có mấy vấn đề chính:
    1. Nắm vững toàn bộ tình hình phát triển của cục diện chiến trường từ cuối năm đến nay, thế và lực mới của ta đã hình thành và ngày càng rõ nét.
    2. Dựa trên thay đổi về so sánh lực lượng và cục diện chiến trường, chuẩn bị theo hai bước.
    * Giành thắng lợi có ý nghĩa quyết định, tạo khả năng thành lập chính phủ liên hợp.
    * Phát triển tổng công kích, tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn.
    3. Hai hướng chiến lược quan trọng là Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ. Hướng chủ yếu và quyết định nhất là miền Đông nhưng chỉ làm khi có điều kiện dứt điểm. Trên hai hướng chiến lược này, phải có biện pháp nghi binh, tạo yếu tố bất ngờ, không để lộ lực lượng để địch đề phòng. Trước mắt chủ lực chỉ hoạt động ở mức độ vừa phải.
    4. Có kế hoạch riêng cho miền Bắc: chi viện cả người và vật chất cho miền Nam, đề phòng chống chiến tranh phá hoại trở lại và sẵn sàng kế hoạch tác chiến trong trường hợp địch đổ bộ vào ven biển nam khu 4.
    5. Xây dựng lực lượng, biên chế hợp lý, động viên tuyển quân, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ.
    6. Vừa rút kinh nghiệm vừa tổng kết để đánh phá Bình Định của giặc, nghiên cứu kinh nghiệm tác chiến của các đơn vị chủ lực đánh tiêu diệt chi khu, quận l? thị xã và chiến đoàn địch, xây dựng đơn vị lớn tác chiến hiệp đồng binh chủ quy mô lớn.
    7. Tổ chức quân đội tham gia xây dựng kinh tế, chuẩn bị phục hồi đường sắt từ nam khu 4 trở vào.
    Vào hạ tuần tháng 9, Bộ tổng tham mưu thu được bản tường trình của Bộ tổng tham mưu ngụy gửi cho Thiệu về dự kiến năm 1975.
    Theo tài liệu đó, ngụy cho rằng nếu Mỹ viện trợ 1,4 tỷ đôla, chúng sẽ kiểm soát được toàn miền Nam, 1,1 tỷ đô la sẽ mất một nửa quân khu 1 về phía Bắc, nếu chỉ 900 triệu đô la sẽ mất quân khu 1 và vài tỉnh quân khu 2, còn 750 triệu đô la sẽ mất quân khu 1 và quân khu 2, nếu chỉ còn 600 triệu đô la thì chỉ kiểm soát một nửa quân khu 3 từ Biên Hòa tới quân khu 4.
    Do những khó khăn về binh lực, bộ tổng tham mưu ngụy dự tính rút 25 - 30% số đồn bốt cô lập, tiếp tế khó khăn và không có khả năng đứng vững nếu bị ta tiến công.
    Về chính trị, Mỹ trù tính cùng một số nước lớn triệu tập cuộc họp với các nước liên quan để tìm giải pháp chính trị đối với miền Nam, đưa lực lượng thứ ba do Mỹ sắp xếp ra sân khấu chính trị Sài Gòn.
    Dựa trên tình hình ấy, Bộ tổng tham mưu của ta dự kiến năm 1975 có thể xuất hiện cao trào hoặc sẽ có một bước phát triển mới trong năm 1976, trước khi Mỹ bầu tổng thống. Có thể, đòn quyết định năm 1976 khiến địch phải chấp nhận chính phủ ba thành phần, cũng không loại trừ ta sẽ giành thắng lợi quyết định vào năm 1977.
    Tuy nhiên, ta vẫn còn phải tìm ra lời giải, khả năng can thiệp của Mỹ thế nào nếu ta đánh lớn, sự phối hợp giữa quần chúng với cuộc tiến công của bộ đội chủ lực, cơ sở vật chất và đạn pháo của ta. Ngoài ra, bản dự kiến của Bộ Tổng tham mưu còn đưa ra ở tình huống:
    1. Địch ngoan cố tiếp tục chiến tranh.
    2. Địch chịu lùi một bước, chấp nhận thi hành hiệp định.
    3. Thời cơ khởi nghĩa ở thành thị xuất hiện sớm vào năm 1976.
    Sau cuộc họp của Bộ Chính trị, quyết tâm chiến lược của Bộ tổng tham mưu là: hoàn thành giải phóng miền Nam trong hai năm 1975, 1976, không loại trừ khả năng kéo dài sang đầu năm 1977.
    Về phương hướng chiến lược của ta, trọng điểm là nam Tây Nguyên đó là hướng chiến lược quan trọng và miền Đông Nam Bộ là hướng quyết định cuối cùng.
    Sau chiến thắng Phước Long, đại tướng Văn Tiến Dũng vào Tây Nguyên để chỉ huy trực tiếp chiến dịch.
    Qua tin tức tình báo, ta được biết cuộc họp ngày 18 tháng 2 giữa Thiệu và các tướng ngụy Sài Gòn. Chúng phán đoán ta mở cuộc tiến công xuân hè trong thời gian sắp tới với mục tiêu giành đất giành dân, trọng điểm là quân khu 2. Thiệu còn nhắc các tướng ngụy đề phòng ta đánh Quảng Đức, Plây Cu, Công Tum cho đó là các mục tiêu "điểm" còn Buôn Ma Thuột nếu có bị tiến công cũng chỉ là diện.
    Cho tới cuộc họp giao ban lúc 11 giờ ngày 9 tháng 3, các tướng ngụy chỉ huy ở Tây Nguyên vẫn cho rằng quân ta đánh Quảng Đức, uy hiếp Buôn Ma Thuột chỉ để nghi binh. Có thể vài ngày tới, ta sẽ đánh Plâycu, Công Tum. Bởi vậy chúng tăng cường quân để đối phó ở hướng bắc Tây Nguyên. Chính vì phán đoán sai lầm, chúng điều bớt lực lượng từ nam Tây Nguyên lên tăng viện cho Plâycu khiến Buôn Ma Thuột càng trở nên sơ hở và cô lập.
    Sau khi đánh Lập Đức, ta đánh luôn Buôn Ma Thuột. Buôn Ma Thuột được giải phóng, ta làm chủ Đắc Lắc và tiến tới Cheo Reo. Chiến thắng Buôn Ma Thuột đã khiến Bộ tổng tham mưu bắt đầu suy nghĩ về khả năng giành thắng lợi lớn hơn dự kiến ban đầu.
    Tình báo của ta nắm được khá sớm phản ứng của địch. Địch có ý định dựa vào các lực lượng còn lại và các điểm phụ cận của Buôn Mê Thuột phản kích hòng chiếm lại vùng đất đã mất. Chiến đoàn 45 cùng sở chỉ huy của sư đoàn 23 ngụy đã được trực thăng đổ xuống Buôn Hồ trưa 11 tháng 3. Sáng 15 tháng 3, theo tin tình báo của ta, Thiệu trực tiếp ra lệnh cho tướng Phạm Văn Phú cố giữ cho được các vị trí xung quanh thị xã Buôn Ma Thuột để làm bàn đạp phản kích chiếm lại thị xã này bằng liên đoàn biệt động 21, hai trung đoàn 44 và 45 thuộc sư đoàn 23, với sự yểm trợ của đoàn 3 không quân ở sân bay Thành Sơn, liên đoàn biệt động 7 được điều từ Sài Gòn ra thay thế sư đoàn 23 ở Plâycu.
    Ngày 17, khi trên chiến trường Tây Nguyên, quân ta đã cơ bản đánh bại cuộc phản kích của địch hòng chiếm lại Buôn Ma Thuột Bộ tổng tham mưu tổng hợp tình hình và đưa ra hai phương án.
    1. Phát triển vào miền Đông, sau đó xuống đồng bằng khu V.
    2. Dùng chủ lực ở Tây Nguyên phát triển về đồng bằng khu V giải phóng Bình Định, Phú Yên, Nha Trang sau đó mới phát triển về hướng Đông.
    So sánh hai phương án trên, đại tướng Võ Nguyên Giáp và Bộ tổng tham mưu nhất trí đề nghị Bộ chính trị cho hành động theo phương án một và hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm 1975 và hoàn thành giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa.
    Với việc giải phóng Huế, Tam Kỳ và Chu Lai, tiêu diệt và làm tan rã lực lượng chủ yếu của quân đoàn 1 ngụy, ta đã phá một phần quan trọng kế hoạch co cụm chiến lược của địch ở ven biển miền Trung, hình thành thế bao vây uy hiếp Đà Nẵng từ nhiều hướng. Địch buộc phải bỏ kế hoạch rút sư đoàn thủy quân lục chiến từ Đà Nẵng đi và phải co các lực lượng còn lại về cố giữ Đà Nẵng, căn cứ cuối cùng và quan trọng nhất của chúng ở quân khu 1, hòng kìm chân chủ lực ta ở phía Bắc để có thời gian bố trí lại thế phòng thủ chiến lược ở phía Nam.
    Đến ngày 27, tình hình Đà Nẵng trở nên sôi động. Theo lệnh của bộ tổng tham mưu, Bộ tư lệnh quân đoàn 2 và quân khu 5 tấn công Đà Nẵng từ nhiều hướng. Quần chúng trong thành phố dưới sự lãnh đạo của Đảng đã hỗ trợ cho các cánh quân chủ lực tiến vào Đà Nẵng đồng bào Đà Nẵng đưa xe khách, xe đò, xe lam, xe honda tỏa ra các hướng chở bộ đội ta tiến vào nội đô, mang thực phẩm tiếp tế cho bộ đội. 15 giờ ngày 29 tháng 3, 10 vạn tên dựa trên căn cứ quân sự liên hợp Đà Nẵng đã bị tiêu diệt. Ta làm chủ hoàn toàn thành phố. Nghe tin Đà Nẵng thất thủ. Những kẻ cầm đầu ngụy quyền ở Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa rục rịch bỏ chạy. Mỹ bắt đầu rút các cơ quan và lãnh sự, sứ quán ở Nha Trang chuyển hàng ở Cam Ranh đi.
    Từ ngày 26-3 tháng 4, ta giải phóng Bình Định. Sau đó là thị xã Quy Nhơn, Phú Yên, Khánh Hòa và quân cảng Cam Ranh. Cũng trong thời gian trên, ở chiến trường B2, ta giải phóng Di Linh, Bảo Lộc và thành phố Đà Lạt. Tiếp theo việc giải phóng hoàn toàn các tỉnh Lâm Đồng, Tuyên Đức Bình Thuận, Bìn Tuy, gần như toàn bộ địa bàn khu 6 đã được giải phóng.
    Ngày 12 tháng 4, Thường vụ Thành ủy Sài Gòn ra nghị quyết về các tổ chức chính trị và vũ trang nội thành và vùng ven chuẩn bị khẩn trương cho quần chúng nổi dậy phối hợp với bộ đội chủ lực khi chiến dịch giải phóng Sài Gòn mở màn. Khoảng 700 cán bộ nội thành và 1000 cán bộ vùng ven đã được chuẩn bị, sẵn sàng đón thời cơ phát động quần chúng nổi dậy. Gần 40 tổ chức "biến tướng" được củng cố và trở thành cơ sở của ta ở vùng ven biển và nội thành.
    Ngày 20 tháng 4, người Mỹ di tản khỏi Sài Gòn. Ngay đêm đó, địch rút quân khỏi Xuân Lộc. Hôm sau 21 tháng 4, Thiệu từ chức thời cơ để mở cuộc tiến công vào Sài Gòn đã chín mùi.
    Theo những tin tức tình báo mới nhất lúc đó, Mỹ đành phải chấp nhận ra đi. Chỉ mới tuần trước, tổng thống Pho còn gây sức ép, đòi quốc hội viện trợ bổ sung khẩn cấp cho Thiệu thì ngày 18 tháng 4, Pho buộc phải ra lệnh di tản. Kitxinhgiơ tuyên bố trong một cuộc họp báo rằng "Tình hình chính trị ở Nam Việt Nam phát triển như thế nào là thuộc vào bản thân người Nam Việt Nam, Mỹ sẵn sàng chấp nhận giải pháp nào do họ thông qua". Đại sứ Mactin cũng phải thừa nhận: không thể làm gì hơn là kéo dài sự tồn tại của Sài Gòn trong 1 - 2 tuần. Thành phố có thể rơi vào tay Bắc Việt và ********* trong vòng mấy tuần nữa.
    Ngày 23 tháng 4 trong một bài diễn văn đọc ở đại học Ôlian tổng thống Pho nói: "Cuộc chiến tranh ở Nam Việt Nam đã kết thúc đối với Mỹ. Không thể giúp người Nam Việt Nam được nữa. Họ phải đương đầu với bất cứ số phận nào đang chờ họ.
    Từ ngày 24, nhiều sứ quán phương Tây ở Sài Gòn đóng cửa. Các công ty hàng không quốc tế ở Tân Sơn Nhất ngừng hoạt động. Ngày 26 Trần Văn Hương yêu cầu "quốc hội" trao quyền cho tướng Dương Văn Minh để "Thương lượng với mặt trận". Cùng ngày hôm đó, Thiệu chuồn ra nước ngoài.
    Tại mặt trận Sài Gòn, ngày 30 tháng 4, trên cả năm hướng, các cánh quân đồng loạt tiến vào đánh chiếm các mục tiêu trong thành phố.
    Trên hướng Đông 5 giờ sáng, mũi thọc sâu của binh đoàn 2 được một phân đội đặc công phối hợp và dẫn đường bắt đầu vượt cầu xa lộ sông Đồng Nai, tiêu diệt địch ở trường huấn luyện Thủ Đức rồi tiến về cầu xa lộ Sài Gòn. Sau khi tiêu diệt địch ở cầu Thị Nghè rồi tiến về dinh Độc Lập. Tổ đặc công đã dẫn đường cho xe tăng tiến vào cơ quan đầu não của chính quyền địch. Dương Văn Minh đầu hàng. Cờ cách mạng được treo lên lúc 11 giờ 30.
    Lực lượng còn lại của quân đoàn chiếm đài phát thanh, nhà ngân hàng, trụ sở Bộ Quốc phòng, Bộ tư lệnh Hải quân, khu Long Bình, thị xã Vũng Tàu và đảo Cần Giờ, sân bay Biên Hòa, thị xã Biên Hòa, Thủ Đức.
    Trên hướng bắc, quân đoàn 1 tiến đánh Lái Thiêu, cầu Bình Triệu, tiến vào Bộ tổng tham mưu ngụy, bắt liên tục các đội biệt động Z28, đánh chi khu quận l?Lái Thiêu, Gò Vấp, căn cứ Phú Lợi, tiểu khu Bình Dương, quận l?Bến Cát và làm chủ thị xã Thủ Dầu Một.
    Hướng Tây Bắc, quân đoàn 3 tiến công vào ngã tư Bảy Hiền, sân bay Tân Sơn Nhất, đánh chiếm bộ tư lệnh quân dù và liên lạc với phái đoàn quân sự của ta ở "trại Đavit" và tiến thẳng vào bộ tổng tham mưu Ngụy; Cũng trong thời gian này, một tiểu đoàn bộ binh có xe tăng dẫn đầu cũng tiến về hướng dinh Độc Lập.
    Trên hướng Tây: Trung đoàn 1 đoàn 232 đánh chiếm ngã ba Bà Quẹo phát triển về ngã tư Bảy Hiền rồi tiến về bộ tư lệnh biệt khu thủ đô; cũng có trung đoàn 2 của sư đoàn 9 tiến về đánh dinh Độc Lập.
    Trên hướng Nam: Trung đoàn 24 và 429 đặc công tiến đánh ngã ba Bình Hưng Đông cầu Nhị Thiên Đường, cầu Ông Thìn, ngã ba An Phú, bộ tư lệnh hải quân, cảng Bạch Đằng, chi khu quận l?Nhà Bè.
    Như vậy, ngay trong sáng 30 tháng 4, các binh đoàn đột kích thọc sâu đã từ các hướng đồng loạt tiến công vào nội đô và đến trưa đã chiếm được 5 mục tiêu chủ yếu: dinh Độc Lập, Bộ tổng tham mưu, Biệt khu thủ đô, Tổng nha cảnh sát và sân bay Tân Sơn Nhất.
    Với chiến thắng trong chiến dịch lịch sử này, lời tiên tri của Bác năm 1960 đã thành hiện thực "Toàn dân ta đoàn kết nhất trí bền bỉ đấu tranh thì chậm lắm là 15 năm nữa, Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất, Bắc Nam nhất định sẽ sum họp một nhà".
  6. ov10

    ov10 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/02/2006
    Bài viết:
    6.093
    Đã được thích:
    6
    Bài viết về AHLLVT Phạm Văn Cán. Người lái xe cứu kéo.
    [​IMG]
    Anh hùng Phạm Văn Cán sinh năm 1952, dân tộc Kinh, quê ở xã Minh Tân, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là đảng viên, trung sĩ, chiến sĩ lái xe dắt, đại đội 11, Đoàn 26, Phòng kỹ thuật Bộ Tư lệnh Thiết giáp Miền.
    Tháng 9 năm 1972, Phạm Văn Cán cùng đơn vị hành quân 2.000km vào chiến trường Đông Nam Bộ, anh không ngại khó khăn, gian khổ, hy sinh, vượt qua bom đạn ác liệt do máy bay địch bắn phá, cứu kéo được 73 lượt chiếc xe tăng, xe thiếp giáp sa lầy, đổ hoặc chết máy trên dọc đường. Từ tháng 5 năm 1973 đến tháng 4 năm 1975, Phạm Văn Cán làm nhiệm vụ dắt xe tăng, xe thiết giáp trong chiến đấu. Anh đã tham gia 3 chiến dịch, cứu kéo được 40 chiếc xe về tới nơi an toàn. Trong chiến dịch Bến Cát từ tháng 5 đến tháng 9 năm 1974, trời mưa nhiều, đường lầy lội, địch bắn phá ác liệt, Phạm Văn Cán vẫn bất chấp gian nguy để hoàn thành nhiệm vụ. Có lần, giữa hỏa lực dày đặc của địch, anh vẫn bình tĩnh lái xe vào sát căn cứ địch (100m), cứu kéo được 1 xe tăng ra ngoài. Ca chiến dịch, anh cứu kéo được 18 chiếc xe tăng về sửa chữa, khôi phục lại, tiếp tục chiến đấu. Trận đánh quận lỵ Chơn Thành (Bình Long) tháng 4 năm 1975, có 2 xe tăng của ta bị hỏng nằm sát trận địa địch, nguy cơ sẽ bị chúng cướp xe hoặc phá hủy, Phạm Văn Cán dũng cảm mở nắp xe, nhô ra ngoài vừa lái vừa quan sát tránh bãi mìn, thà hy sinh chứ không để xe và đồng đội bị thương, anh đã cứu được 2 xe tăng về an toàn, cổ vũ cho đồng đội xông lên tiêu diệt địch.
    Đồng chí đã được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, được tặng 4 bằng khen và giấy khen. Ngày 15 tháng 1 năm 1976, Phạm Văn Cán được Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


    NGƯỜI CHIẾN SĨ CỨU HỘ TĂNG - THIẾT GIÁP
    MINH YÊN
    Từ điển Từ và ngữ tiếng Việt (Nguyễn Lân) định nghĩa cứu: làm thoát khỏi tai nạn; hộ: giúp đỡ, che chở, cứu hộ là giúp thoát khỏi tai nạn. Cảng Sài Gòn có một, hai tàu cứu hộ cho cả vùng biển phía Nam rộng lớn, từng lái dắt một số tàu biển dân sự sắp đắm về bến an toàn. Nó cũng lập thành tích kéo tàu quân sự ta bị hỏng trong cuộc xung đột ở quần đảo Hoàng Sa (vào đầu những năm 80) về cảng sửa chữa. Song tàu cứu hộ chủ yếu đối mặt sóng to gió lớn, dòng biển chảy xiết... là những khó khăn nguy hiểm do thiên nhiên gây ra.
    Còn lính cứu hộ tăng thiết giáp phải trần thân xông pha giúp xe đồng đội không còn hoạt động được ra khỏi chiến trường tơi bời bom rơi, đạn nổ. Năm 1972, lần đầu tiên xe tăng-thiết giáp ta xung trận ở chiến trường An Lộc (Bình Long). Trước kia địch quen thói lấy sắt thép đè người, năm ấy, ?oquả đấm thép? lợi hại này của ta tung ra gây bao kinh hoàng cho quân đội Sài Gòn. Song có xe ta bị bom pháo hư hỏng bỏ lại trận địa, địch trục kéo về triển lãm tuyên truyền rùm beng thắng lợi của ?oquân đội quốc gia?. Sau đó hơn nửa năm, một xe đặc chủng chuyên cứu hộ xe tăng-thiết giáp hư hỏng trong chiến đấu được phái từ miền Bắc vô. Đó là chiếc tăng T.54 không tháp pháo; chỉ gắn một khẩu trọng liên 12,8 ly để tự vệ, nhưng có thêm thiết bị kích, kéo đặt trên thùng thép (gắn ở vị trí tháp pháo): một cần cẩu xếp gọn, hai cuộn dây cáp dài 150 mét lắp vào cuộn tời có sức kéo 120 tấn; phía sau xe lắp lưỡi ben nâng hạ bằng thủy lực để neo xe khi cần kéo xe khác sa lầy xuống hố... Xe đặc chủng lập chiến công bằng việc cứu kéo đưa xe đồng đội hỏng hóc ra khỏi trận địa rồi dắt về hậu cứ sửa chữa.
    Tháng 5 năm 1971, học xong năm thứ ba khoa Chế tạo máy trường Đại học Bách khoa Hà Nội loại giỏi, Phạm Văn Cán được tuyển vào bộ đội tăng-thiết giáp ở tuổi 21. Có sức khỏe A.1, trình độ văn hóa cao, anh học lái và nắm vững kết cấu máy móc xe tăng khá nhanh tại trường huấn luyện binh chủng đặt ở huyện trung du Tam Dương (Vĩnh Phúc) chân dãy Tam Đảo. Xong khóa đào tạo mấy tháng, đáng lẽ anh đi B ngay, nếu vậy đã có dịp cùng đồng đội tham gia chiến dịch Nguyễn Huệ xuân 1972 tung hoành trên chiến trường An Lộc (tỉnh Bình Long cũ). Nhưng nước bạn viện trợ hai xe đặc chủng, lãnh đạo binh chủng cử anh và Mạnh ở lại học sử dụng thành thạo mọi thiết bị kích kéo của loại xe này, chuẩn bị phục vụ bộ đội tăng thiết giáp ra quân qui mô lớn ở tiền phương chống Mỹ. Tháng 3 năm 1972, anh cùng đồng đội nhận xe tại Bằng Tường, rồi theo đường bộ vào bảo vệ Khu 4. Đoàn tăng thiết giáp trong đó có hai xe cứu hộ, mới đến khu vực tập kết bãi Nai (Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình), đã bị máy bay địch đánh tới tấp, các chiến sĩ tăng thiết giáp râm ran nghi vấn: gián điệp chui vào hàng ngũ ta? Tâm tư một số anh em trĩu nặng: liệu xe mình có vào đến đích an toàn?
    Tháng 9 năm 1972, xuất phát từ Nam Đàn (Nghệ An), xe Cán được lệnh đi B.3. Đoàn tăng thiết giáp 25A rùng rùng nghiến xích mặt đường đầy khí thế nhưng thận trọng, tiến về phương Nam. Cánh lính trẻ sung sức, tinh thần hăng hái phấn khởi ?ođường ra trận mùa này đẹp lắm?, ?ođời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi?. Các anh vào Quảng Bình rồi lật cánh sang đường 20 ?" Trường Sơn Tây, nhiều người lần đầu đi qua những địa danh hồi đó báo, đài thường nhắc tới: At tô pơ, Hạ Lào... Xe đặc chủng do Mạnh lái đáng lẽ đi B.2 nhưng chạy tới Hạ Lào thì hỏng nặng, phải nằm chờ thiết bị mang vào sửa. Xe Cán vì vậy đi cuối đội hình, xưa gọi là đi đoạn hậu vào thẳng B.2, sẵn sàng sửa, kích, kéo các voi thép nặng hàng chục tấn hỏng máy, sa hố bom... Xe ta không hành quân như phim ảnh chiếu. Mỗi đại đội chừng 10 xe, mỗi xe đi cách nhau cả ki-lô-mét, chứ không nối đuôi nhau lăn xích thành thế đội dài dằng dặc, bụi đường mù mịt bốc cao như xe tăng Hồng quân Liên Xô năm 1943 ra trận vòng cung Kuốcxcơ.
    Để giữ bí mật, tăng thiết giáp ta chỉ chạy ban đêm. Máy bay Mỹ khống chế bầu trời tương đối chặt nên chiến sĩ lái lâu lâu mới bật đèn rùa, còn chủ yếu chạy mò. Ngồi trong xe, Cán thường thò đầu ra ngoài, hoặc căng mắt nhìn đường qua kính ngắm với góc nhìn rất hẹp. Vì vậy, thỉnh thoảng xe húc vào một gốc cây to cỡ hàng ôm, mặt anh đập vào cửa xe, môi sưng vều chảy máu, răng cửa lung lay may mà chưa gãy, di chứng còn lại đến tận bây giờ.
    Nếu có máy bay vận tải hạng nặng chở nổi xe tăng thiết giáp như của Mỹ, binh chủng cơ giới hiện đại này sẽ cơ động rất nhanh. Nhưng chúng ta đành phải bằng lòng với cảnh túc tắc nhích từng vòng xích ra phía trước. Các chiến sĩ tăng thiết giáp được hưởng tiêu chuẩn cao, đến mỗi trạm giao liên trên đường Trường Sơn các anh được cấp phát gạo, thực phẩm, xăng dầu theo đúng chế độ. Không phải mang vác cực nhọc, nhưng các anh liên tục chịu tiếng ồn đinh tai nhức óc, chịu cái nóng như nung, xe chạy sau hứng bụi mù mịt khi qua đất bạn Lào vào mùa khô trên đường Trường Sơn Tây. Đến trạm nghỉ, các anh mới hưởng làn gió thổi trong lành và sự tĩnh lặng đáng quý giúp hồi sức. Lúc còn ở miền Bắc, anh em hàng ngày nghe tin qua đài, đọc nhiều loại báo nên nắm vững thời sự trong nước và quốc tế. Nhưng từ khi đặt chân tới đất Quảng Bình, các anh đói tin thật sự. Lâu lâu đồng chí chính trị viên tiểu đoàn vai đeo chiếc radio bán dẫn Lido lắp 6 pin đại to đùng nặng trĩu ghé đến, các anh mới tranh thủ nghe vài mẩu tin thời sự. Đói tin khổ không thua đói gạo là bao!
    Địch đánh hơi đoàn xe, máy bay chúng săn lùng suốt dọc đường dài. Nhiều lần, xe ta nhờ ánh pháo sáng mà đi, song máy bay C.130 trang bị máy dò hồng ngoại thay phiên nhau đánh dai dẳng cả đêm. Thằng C.130 bắn đại bác 20 và 40mm dai như bò đái! Nhiều xe ô tô bị chúng ?oxin thùng? cháy đen, cong queo đành gạt qua bên đường hoặc ủi xuống vực, giải phóng đường cho các đơn vị khác đi tiếp. Phát hiện máy bay địch tới qua mấy phát súng báo hiệu của anh chị em bảo vệ đường, xe tăng thiết giáp ta tạm rẽ vào đường tránh mang cá, mặt khác đậy nắp thép lại thì ngồi trong vô tư mặc đạn nổ lốp bốp trên nóc. Đoàn 25A bị đánh dữ dội lúc vượt ngầm Bạc, Xêxan, xe Cán may chỉ bị tróc sơn nham nhở. Anh đã tận mắt chứng kiến một số đồng đội trong đoàn xe hy sinh trên đường hành quân do không đóng kịp nắp cửa. Những lúc nghỉ ngơi rảnh rỗi chút đỉnh, mấy anh em cùng xe bù khú chuyện trò tâm sự, không mấy ai không nhắc đến cha mẹ, anh chị em, quê hương làng xóm thân yêu, những kỷ niệm đời học sinh tươi rói với nỗi nhớ da diết cồn cào. Mắc võng nằm bên nhau, có người nêu câu hỏi:
    ?" Nếu bây giờ cho mày đi bộ quay ngược ra Bắc nhưng phải cõng hai bánh xích xe (nặng 36kg), dám đi không?
    ?" Đi liền!...
    Nhớ nhà và những người thân quá thì anh em nói thế thôi, chớ đơn vị không ai ?oB quay?. Cuối tháng 12 năm 1972, đoàn xe vào tới Kràché (Cam-pu-chia) thì Cán nghe tin máy bay B.52 đánh thủ đô Hà Nội và một số tỉnh thành khác ở miền Bắc. Anh được biết hiệp định Pa-ri lập lại hòa bình ở Việt Nam (27 tháng 1 năm 1973) ký kết, lính Mỹ và chư hầu lần lượt rút hết khi xe về tới km 0 gần biên giới Đông Nam Bộ ?" Cam-pu-chia.
    (còn tiếp)
    Được ov10 sửa chữa / chuyển vào 16:09 ngày 04/05/2006
  7. ov10

    ov10 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/02/2006
    Bài viết:
    6.093
    Đã được thích:
    6
    (Tiếp theo)
    Suốt chặng hành quân dài 5 tháng, anh cứu kéo, sửa chữa được nhiều xe hỏng hóc. Vì vậy anh được bầu chiến sĩ thi đua, dự hội nghị thi đua binh chủng ở Lộc Ninh. Sau đó các đơn vị tăng thiết giáp B.2... bước vào đợt học tập chính trị, mặt khác tu sửa xe thật kỹ chuẩn bị bước vào đối mặt thật sự với kẻ địch.
    Ở Cam-pu-chia, Lon-non đảo chính Xi-ha-núc từ vài năm trước. Lương thực, thực phẩm, xăng dầu... hoàn toàn do các đoàn hậu cần đảm nhiệm mua từ các cửa khẩu trong nước. Địch phong tỏa chặt, gạo và nhu yếu phẩm mua khó khăn, hậu phương lớn quá xa vì vậy bộ đội ăn uống cực hơn trước suốt thời gian dài. Tiêu chuẩn gạo rút xuống, trong khẩu phần từng bữa thì khoai mì, đậu xanh, đậu phộng... chiếm tỷ lệ đáng kể, gạo độn thêm một ít gọi là. Ăn nhiều đậu phộng, người yếu dạ bị sình bụng rất khó chịu, quân y tốn thêm mớ thuốc. Anh em tranh thủ đi kiếm thêm củ mài, củ chụp cho no bụng, chỉ khi đi chiến đấu, anh em mới được ăn 100% gạo! Lúc đó, số ở lại căn cứ phải rút gạo nữa (vì hậu cần phát định lượng cho đơn vị từng đó ký, anh đi chiến đấu ăn đủ 100% thì tỷ lệ gạo của những ai ở lại sẽ giảm xuống).
    Trên chiến trường B.2, Mỹ, Thiệu ký hiệp định hòa bình Pa-ri chưa ráo mực đã lật lọng. Lính ngụy Sài Gòn rất hung hăng, liên tục lấn chiếm nhiều nơi do chiến trường xen kẽ theo hình thái da beo.
    Cuối năm 1973, chiến dịch Mặt trận 75 khai thông hành lang chiến lược đường 14 ở tỉnh Quảng Đức (Nam Đắc Lắc). Mở được đoạn này, ta nối thông đường Trường Sơn Đông vào tới Lộc Ninh.
    Đêm 2 tháng 11 năm 1973, xe đặc chủng theo tiểu đoàn 21 tăng thiết giáp B.2 từ hậu cứ ở Bù Đốp cắt rừng theo đường do công binh mở, ngược hướng Bắc phối thuộc trung đoàn bộ binh cùng một đơn vị đặc công của trung đoàn 429 đánh yếu khu Bù Bông bảo vệ vòng ngoài chi khu quân sự Kiến Đức và sân bay Nhân Cơ (thuộc tỉnh Đắc Lắc). Xe anh chạy hai đêm, 3 giờ sáng ngày 4 tháng 11 năm 1973 tập kết ở cửa mở gần bìa rừng thông chờ lệnh ứng cứu. Trời tối thui, đêm cao nguyên Mnông đầu mùa khô lạnh tê tái. Chiếc áo len cấp phát mang theo từ miền Bắc mặc chẳng thấm vào đâu.
    Bù Bông là vị trí phòng thủ vòng ngoài rất rắn, do lính ngụy người Mnông giữ. Địa hình toàn vùng có dạng đồi bát úp sườn khá dốc, rừng già um tùm nhưng một số đỉnh đã bị phá quang (bằng máy ủi, bằng bom pháo, bằng hóa chất diệt cây cối...). Một trận địa pháo ở ngọn đồi cao nhất khống chế phạm vi rộng lớn. 4 giờ sáng, bộ đội đặc công nổ súng mở màn trận đánh. Tiểu đoàn tăng thiết giáp triển khai thành hai mũi đánh vu hồi căn cứ. Lần đầu tiên Cán chính thức ra trận. Pháo ta bắn cấp tập dập trận địa địch. Đạn xé gió qua đầu Cán, nổ chát chúa đằng xa. sau ít phút địch hồi tỉnh, pháo của chúng từ đồi pháo binh chúc nòng bắn xuống. Chớp đạn địch nổ nhoáng nhoàng liên tục trước mặt xe đặc chủng một quãng. Anh để ga nhỏ, óc vẫn nhẩm để nhớ mật khẩu quy ước: 01 triển khai. 02 cửa mở..., 07 xuất kích... Tuy đã học trong sa bàn ở căn cứ, nhưng trời tối như bưng mắt, lại không thông thạo địa hình nơi này nên anh chỉ biết xe đang ém ở vị trí A.3. Tới 6 giờ sáng, trời sương lờ mờ, anh nghe tiểu đoàn phó Khuê lệnh qua điện đài: cho xe đặc chủng chạy theo vết xích. Đến một chỗ thì mất dấu, quay ngang xe, qua kính ngắm anh thấy chiếc K.63 cháy cách đó không xa. Cây cối bít bùng chắn mất tầm nhìn cộng với khói mù mịt; xe anh tiến lại gần trong lúc pháo địch vẫn nã không ngớt. Cán bảo pháo thủ trọng liên:
    ?" Mày bắn đi chứ!
    ?" Không thấy gì cả, bắn sao được...
    Chiếc thiết giáp K.63 hành tiến bị hở sườn trúng đạn chống tăng của địch, thủng toác một lỗ lớn, bên trong đang cháy. Khói đen cuồn cuộn bốc lên, mấy chiến sĩ của xe đều hy sinh. Xe đặc chủng vòng lại, một thợ sửa chữa nhảy ra, thò tay qua cửa lái trả lại số 0 ở cần lái chiếc K.63 rồi móc cáp vào. Cán rồ ga, kéo xe hỏng ra bìa rừng.
    Sở chỉ huy lệnh cho xe Cán tiếp tục tiến sâu vào trận địa cứu một xe khác. Xe này trúng đạn phốtpho, không cháy nhưng không ai sống sót. Xe đặc chủng lợi dụng địa hình, nhanh chóng móc cáp kéo xe này ra ven rừng.
    Trời sáng rõ, pháo địch càng bắn dữ, khói bụi mịt mù. Máy bay A.37 tới yểm trợ mới đầu rà sát, bắn tên lửa và đại bác xuống trận địa ta. Súng phòng không ta ở rải rác bắn lên rất mạnh. Khẩu 12,8 ly ở xe Cán cũng góp phần lên tiếng, xua chúng bay tít lên cao.
    Đến gần trưa, anh em bộ binh giải quyết được phần lớn căn cứ Bù Bông, được lệnh tạm ngưng, giạt vào rừng chờ đến tối đánh tiếp. Tiếng súng thưa dần, Cán không thấy xe tăng thiết giáp ta đâu, vẫn cố chạy vào tìm xe hỏng. Một lính thợ sửa chữa trên xe phát hiện có tiếng người lao xao rì rầm ở rừng cây ven suối, hóa ra lính ta đang nấu cơm. Cán xuống xe, hỏi thì được biết đơn vị xe tăng tập kết cách đó 1 ki-lô-mét. Khi cánh bộ binh cho biết đã có lệnh tạm ngưng chiến đấu, Cán tức quá, văng ra một câu:
    ?" Tạm ngưng mà không nói với bố! Máy bay nó bắn chết mẹ bây giờ!...
    Máy bộ đàm trong xe phát sóng liên tục, lời của anh được máy thu vào băng ở sở chỉ huy. Câu văng tục là vạ miệng, sau này bị quy là ?odám chửi cấp trên? (một cán bộ làm chiến lệ ở sở chỉ huy kể lại).
    Đêm 5 tháng 11 bộ đội ta đánh tiếp, xóa sổ căn cứ Bù Bông. Máy bay trực thăng hạng nặng bốc hết số pháo địch trên đồi cao đi nơi khác lúc nào không biết, đặc công diệt hụt bọn này. Nhờ trinh sát dẫn đường, xe đặc chủng mất ba đêm liền mới kéo hết năm xe ta bị hỏng (bốn chiếc K.63, một chiếc T.54) ra nơi an toàn. Cán và đồng đội còn thu bảy xe M.113 của địch. Khi rút chạy bọn lính lao một số xe xuống bưng lầy, kéo lên rất vất vả. Theo yêu cầu của công binh, xe Cán kéo về hai máy ủi cỡ lớn (sau này tham gia phục vụ mở đường cho xe cơ giới ta). Anh em công binh bắn được một con dê của dân chạy lạc ở đồi pháo binh, cho vào gùi chất lên xe ủi. Vào rừng, anh em nấu một song to, chia một phần thịt cho xe Cán. Sau những ngày vất vả, bữa thịt tươi ngon đó giúp anh em tổ xe đặc chủng lấy lại phần nào sức khỏe. Nhưng bữa thịt đó gây ra vạ miệng thứ nhì. Kiểm điểm bình xét thành tích sau chiến dịch, Cán được đề nghị cấp trên thưởng Huân chương Chiến công giải phóng. Không biết do đâu mà chính ủy bộ đội tăng thiết giáp Tám Hải biết được vụ thịt dê. Ông cho là anh em phạm kỷ luật chiến trường, ra lệnh ?ocắt? từ huân chương đến danh hiệu thi đua ?ođảng viên 4 tốt?, ?ođoàn viên 4 tốt?... Sau này, Cán gặp trực tiếp thắc mắc, chính ủy hỏi:
    ?" Có ăn không?
    ?" Tôi không bắn, trên cắt thì không hợp lý!
    ?" Có ăn không? ?" ông hỏi gặng lần nữa.
    ?" Có!
    ?" Anh nào ăn thì kỷ luật hết!
    Xe đặc chủng ở lại Bù Bông đến nửa tháng mới giải quyết hết việc cấp trên giao.
    Lính địch là dân địa phương thông thạo địa hình, tổ chức phản kích lấn chiếm lai rai vùng ngã ba Lâm Bí. Bộ binh ta đánh bật chúng khỏi địa bàn để giữ hành lang đường chiến lược số 14, có xe tăng thiết giáp phối thuộc, xe Cán bám theo sẵn sàng ứng cứu. Hai bên ?okéo cưa? dằng dai một thời gian ở vùng ?oda beo? này cho tới sát biên giới Cam-pu-chia.
    Đầu tháng 12 năm 1972 Tiểu đoàn 21 và đại đội 6 (của Tiểu đoàn 20) thiết giáp B.2 phối thuộc trung đoàn bộ binh đánh sân bay Nhân Cơ gần thị xã Gia Nghĩa (tỉnh lỵ tỉnh Quảng Đức).
    7 giờ tối ngày 4 tháng 12 từ khu tập kết Bù Bông khá xa, xe đặc chủng theo công binh dẫn đường, xuyên cánh rừng le tiến vào cửa mở. Le mọc dày đặc xòa ra cà sàn sạt vào thước ngắm khẩu trọng liên 12.8 ly làm trầy tróc lớp mạ.
    Tăng thiết giáp ta tiến công theo hai mũi. Đại đội 6 có khoảng 10 xe đánh từ phía đông tức là hướng Đà Lạt tới. Anh Quận, đại đội trưởng đại đội 6, sau trận đánh kể lại: khi xe tăng ta tới, nhiều vợ con lính Sài Gòn ra ven đường, khoát tay rối rít vẻ nôn nóng chờ đón, tưởng đó là quân tiếp viện của chúng. Một tên nói to:
    ?" Cộng sản vào, nó giết hết bà con tôi rồi! Các ông đi nhanh lên, giết hết tụi nó đi!
    Anh bắn chết tên này, số vợ con thân nhân lính ù té chạy tứ tán.
    Xe đặc chủng đi với mũi Tiểu đoàn 21 tăng thiết giáp (do anh Khuê chỉ huy). Lúc bộ đội đặc công nổ súng, địch bắn pháo sáng, cả bầu trời khu vực trắng lóa, mọi vật nhìn rõ như ban ngày. Vừa từ rừng ra, xe Cán đụng bãi be toàn các khúc gỗ tròn chờ vận chuyển về Sài Gòn chế biến. Cán nghe tiếng nổ lụp bụp trên trời, chớp chớp xanh lét. Tai nghe của máy bộ đàm vang lên lời nhắc nhở từ sở chỉ huy:
    ?" Dùng kính để quan sát, tuyệt đối không thò đầu ra, địch đang bắn pháo chụp! (lần đầu tiên Cán mới biết pháo chụp).
    Qua kính mắt cua có góc nhìn rất hẹp, anh thấy xác địch nằm rải rác. Mặt đất ở đây tương đối bằng phẳng, chè mọc lúp xúp chưa đến thắt lưng. Sở chỉ huy ra lệnh cứu một xe cháy. Anh điện hỏi:
    ?" Xe ta đi hướng nào?
    ?" Xe ta đi hai bên đường, không sợ mìn...
    Qua khu phòng thủ, xe đặc chủng tiến vào tung thâm. Một số phát tên lửa vác vai chống tăng M.72 bay ra thành vệt vàng xanh. Địch cố chống cự, quân vào ta vì đặc công nổ súng thì tăng thiết giáp xông vào ngay, bộ binh chưa kịp thời có mặt hợp đồng. Cán bảo pháo thủ:
    ?" Bắn đi!
    ?" Không nhìn thấy gì!
    ?" Cứ bắn đi! Bắn đại đi! Cốt uy hiếp tinh thần chúng nó!...
    Từ trong xe, Cán thấy một xe K.63 cháy. Xe đặc chủng tiến lại dần, vừa dừng lại, qua ánh đèn dù, Cán nhìn rõ Tiến từ xe đó chạy vọt tới, leo lên nhảy vọt vào trong, giọng gấp gáp thiếu bình tĩnh:
    ?" Nó bắn cháy xe rồi! Anh em hy sinh hết rồi!
    Cán báo cáo tình hình qua máy bộ đàm. Sở chỉ huy lệnh cho kéo ra. Xe đặc chủng rê gần, móc cáp kéo chiếc K.63 ra rìa bãi gỗ sát bìa rừng.
    Thêm một chiếc T.54 bị bắn đứt xích. Xe Cán quay vào móc cáp vào xe và móc sợi cáp thứ nhì vào bộ xích đứt. Kéo xe đứt xích rất khó, bên không còn xích, dàn bánh đỡ lún sâu xuống, bụng xe cà trịt mặt đất, lực ma sát cực lớn. Bình thường, chỉ cần vài phút đã giải quyết xong, nhưng Cán phải đánh vật với chiếc T.54 này mấy giờ liền mới đưa ra được ven rừng. Một số chiến sĩ bộ binh hy sinh, Cán và anh em đưa lên thùng xe mang ra, đúng chính sách và kỷ luật chiến trường.
    Chỉ trong đêm nay, ta dứt điểm Nhân Cơ vì ở đây địch phòng thủ yếu hơn Bù Bông. Ta mất hai xe, Xe đặc chủng rút vào rừng kéo theo xe hỏng để sửa tạm. Chiếc T.54 không có xích dự trữ, thiếu một số mắt xích hỏng vì trúng đạn. Cán và đồng đội sáng tạo: chỉ gắn xích vào ba bánh đỡ (đáng lẽ đủ thì xích gắn trên năm bánh). Giáo trình đã học không cho phép làm như vậy: xe sẽ đi lệch, hai bên lún không đều nhau... Nhưng cứ đúng bài bản thì chỉ có cách vứt xe đi, mà chúng ta thì đang rất thiếu quả đấm thép.
    Ở vùng này, ta và địch còn cù cưa một vài trận chống lấn chiếm cho đến hết năm 1973. Hoàn thành nhiệm vụ cứu hộ, xe đặc chủng rút về hậu cứ tu sửa tiếp, rồi Cán và đồng đội bước vào đợt học chính trị.
    Khoảng tháng 5 năm 1974, đầu mùa mưa, Tiểu đoàn 22 tăng thiết giáp B.2 (mới từ miền Bắc vào) phối thuộc Sư đoàn 9 mở chiến dịch lộ 7 ngang ở khu vực Bến Cát ?" Rạch Bắp. Trung ương Cục và Quân ủy Miền chủ trương phá vỡ tuyến phòng ngự trung gian, kìm chân lính chủ lực ngụy tại Sài Gòn, ngăn chặn ý đồ địch đưa quân bình định vùng ven Sài Gòn và lấn chiếm Lộc Ninh ?" vùng giải phóng của ta.
    Xe đặc chủng đi cùng đơn vị tăng thiết giáp. Từ căn cứ Bù Đốp, đoàn xe theo đường do công binh cắt rừng mở, đi hai đêm thì tới căn cứ Minh Hòa. Đây là vùng rừng chồi lúp xúp. Củng cố đội hình trong thời gian rất ngắn, đoàn voi thép ta xung trận, đánh đồn An Điền. Các chiến sĩ tăng thiết giáp lúc nghiên cứu sa bàn được thông báo: đây là một vị trí phòng thủ rắn, mìn đủ loại gài dày đặc, pháo từ Đồng Dù, Bến Cát, Lai Khê, Phú Hòa Đông... sẵn sàng chi viện hỏa lực. Đồn này ở ấp cùng tên, có bốn khu với con đường chạy ra bốn cổng.
    8 giờ tối, bộ đội đặc công nổ súng mở màn trận đánh. Công binh đã gỡ mìn tạo lối đi an toàn cho tăng thiết giáp thọc vào theo hai mũi sau khi pháo ta bắn chế áp. Xe đặc chủng nằm chờ ở cửa mở. Pháo địch từ nhiều hướng bắn cấp tập về đây. Tiếng nổ dồn dập làm đinh tai nhức óc, chiến dịch Mặt trận 75 so với lần này không là gì cả. Sở chỉ huy lệnh cho xe đặc chủng vào cứu xe hỏng. Trinh sát leo lên chỉ hướng cho xe chạy, tới hướng đó xong nhiệm vụ, nhảy xuống quay ra. Cỏ Mỹ mọc cao ngang vai. Qua ánh sáng lửa đạn lờ mờ, xe đặc chủng chạy đúng vết xích tiến sát chiếc xe hỏng. Cán nhảy xuống đất, quan sát nắm tình hình. Hóa ra công binh gỡ mìn tạo vệt đường đi an toàn cho xe tăng, song mìn lại bỏ ngay sang bên, xe ta đi chệch, đè trúng mìn, mìn nổ nên đứt xích, nằm đó. Anh em từ trong xe nhảy ra lại đạp trúng số mìn râu tôm để rìa đường, thương vong một số. Y sĩ, y tá đến cứu đạp trúng mìn nữa, thương vong hai, ba đợt liền. Xe đặc chủng móc cáp, rồ ga nhưng không kéo được vì bánh đỡ xích lún sâu có độ ma sát quá lớn. Cán và đồng đội đành giải quyết khiêng 13 thương binh liệt sĩ lên thùng xe chở ra ngoài.
    (còn tiếp)
  8. ov10

    ov10 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/02/2006
    Bài viết:
    6.093
    Đã được thích:
    6
    (tiếp theo và hết)
    Ở hướng khác, một xe tăng ta cũng bị mìn như vậy. Trời gần sáng, tiếng súng các loại thưa dần. Xe đặc chủng được lệnh vào cứu kéo. Ấp An Điền có hai cổng vào, hai cổng ra nhưng Cán không thể hình dung địa hình ấp. Suốt đêm pháo hai bên dập tơi bời, cảnh vật thay đổi hẳn: hai cổng vào và nhiều nhà cửa lúp xúp trong ấp đã bị san bằng. Theo kế hoạch, công binh ta đánh một khối thuốc nổ rất lớn, cắt con đường vào cầu băng ngang sông Thị Tính để xe tăng thiết giáp địch không rút chạy được về Bến Cát. Gần 6 giờ, trời sáng dần, Cán điện về sở chỉ huy:
    ?" Chưa thấy ấp đâu, không thấy cổng...
    ?" Cứ tới đi! Cứ tới đi theo trinh sát dẫn đường.
    Một lính trinh sát trèo lên xe, dẫn tới cổng thì nhảy xuống:
    ?" Ông chạy thẳng vào đường này!
    Máy bay trực thăng vũ trang địch quần dữ dội. Cán thúc pháo thủ của xe:
    ?" Thắm bắn đi! Bắn đi, không bắn nó bắn mình chết bây giờ!
    Anh thò hẳn đầu ra khỏi xe, tăng hết ga. Chớp xanh lét nhay nháy bay dọc sườn xe. Địch bắn M.72 và BK.106 ly định diệt xe đặc chủng. Anh điện xin pháo binh chi viện. Ngồi trong xe không nghe tiếng pháo ta bắn. Bỗng nhiên xe khựng lại. Đề máy. không nổ! Một mùi khét lẹt xông lên, đèn báo cháy nhấp nháy liên tục.
    ?" Chết mẹ rồi, cháy xe!
    Khói tuôn mù mịt. Cán nhấn nút xả hơi chống cháy vào nơi khói bốc ra. Pháo địch từ Bến Cát, Lai Khê... nã dồn dập vào trận địa. Anh tụt đầu vào trong, đậy cửa thép lại. Pháo chụp nổ lụp bụp, nhảy ra khỏi xe dễ dính mảnh lắm (khi chở tử sĩ ra, Cán phải dùng kềm mới nhổ được mảnh pháo chụp có ngạnh đâm sâu tới xương một anh!). Anh bình tĩnh dùng bình khí nén để khởi động thử. Máy lại nổ, mừng quá trời!
    Nhìn ra xa qua kính mắt cua, anh thấy xe ta sa gần hết thân xuống hố bộc phá của công binh đêm rồi. Anh thấy một lính ta ngoắc tay, vừa dừng xe thì anh này nhảy bổ vào. Xe đặc chủng quay ngang xả cáp, một lính thợ nhảy ra móc tời. Mảnh đạn va vào vỏ thép chan chát; chụp nắm trọng liên 12,8 ly bay đi mất, thùng xe nham nhở, thùng dầu ngoài xe bị thủng (lúc về nơi an toàn, xem kỹ mới thấy xe đặc chủng bị thủng một lỗ đạn sâu hoắm, nếu vết đó nhích lên cao một chút thì Cán ?ohúp cháo? rồi!). Xe đặc chủng hạ lưới ben thủy lực căm xuống lớp đất tơi vụn, rồi tăng ga hết cỡ mới lôi được xe hỏng lên khỏi hố, quay vòng lại dắt xe hỏng ra ngoài.
    Đến đêm, nhờ trinh sát dẫn đường, công binh gỡ sạch mìn, Cán và đồng đội vào nghiên cứu cách kích kéo chiếc xe đứt xích. Trời mưa, đất nhão, xe bị lún, phải thử đất và tính toán kỹ. Dưới làn đạn bắn thẳng và pháo các loại không ngớt, anh em kích đội xe lên, lắp xích vào mới kéo ra được. Ban chỉ huy chiến dịch đánh giá tổ cán bộ, chiến sĩ xe đặc chủng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Cán được thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì.
    Là đối tượng Đảng đã lâu, nay Đảng bộ Phòng kỹ thuật Cục Hậu cần B.2 gửi hồ sơ lý lịch Cán xuống để Đảng bộ Tiểu đoàn 22 kết nạp. Anh được vinh dự đứng trong đội ngũ tiên phong của giai cấp và dân tộc ngày 6 tháng 6 năm 1974. Anh rất vui:
    ?" Thế là chỉ riêng gia đình mình đủ lập một chi bộ!
    (Cha anh là đảng viên thời chống Pháp, chị đi bộ đội trước và được kếp nạp Đảng khi anh chưa đi B.
    Chiến dịch lộ 7 ngang kéo dằng dai khoảng mấy tháng, tới gần cuối mùa mưa mới kết thúc. Xe tăng thiết giáp ta nếu không ra trận thì về nằm ụ đào âm xuống đất. Bộ binh làm hầm, pháo khoan nã trúng sát thương khá nhiều.
    Ăn Tết 1975 xong, Cán và đồng đội học chính trị bốn ngày. Sau đó bộ đội ta bước vào Chiến dịch mùa khô 1974 ?" 1975. Tháng ba năm 1975 bộ đội khu Đông Nam Bộ đánh chi khu Dầu Tiếng. Xe đặc chủng đi phối thuộc tiểu đoàn tăng thiết giáp 20 có đại đội 6 Tiểu đoàn 22 tăng cường. Đây là một trong các vị trí địch phòng thủ vững chắc hơn vùng Nam Tây Nguyên rất nhiều, hơn cả đồn An Điền. Tăng thiết giáp ta đánh hướng chính, đêm đầu vào khá sâu nhưng chưa diệt được chi khu phải lui ra. Đêm sau, xe ta vào theo hướng cũ thì không hiểu địch tháo nước từ đâu làm một vùng rộng lớn ngập nước mênh mông, không tiến được. Hướng thứ yếu dù không có quả đấm đàn voi thép hỗ trợ vẫn nổ súng, nhưng không thành công đành rút ra. Đại đội 6 của Tiểu đoàn 22 bị thiệt hại nặng, một số xe cháy hỏng nằm lại. Đêm thứ ba, tăng thiết giáp ta vào theo hướng thứ yếu cũ. Ban chỉ huy lênh qua điện đài cho xe đặc chủng kéo ra năm xe trúng đạn hỏng máy. Pháo 175 ly ?" vua chiến trường ?" bắn rất dữ. Ba xe hỏng nằm ở đầu sân bay Dầu Tiếng kéo ra tương đối ít nguy hiểm mất gần trọn đêm.
    Đêm thứ tư, xe đặc chủng vào cứu kéo tiếp. Đạn bắn thẳng các cỡ của địch dày đặc. Cán và đồng đội kiểm tra 2 xe còn lại. Một xe bị trúng đạn BK.106,7 ly tạt sườn cháy toàn bộ, chiến sĩ bên trong da thịt chín thui, bắt đầu bốc mùi. Cán gọi điện yêu cầu pháo ta bắn chế áp địch rồi nhảy ra khỏi xe, chạy tới thò tay qua cửa lính lái, gài về số 0. Xe đặc chủng quay áp sát che chắn để thợ máy móc cáp vào xe hỏng chỉ nửa phút rồi rú ga, vọt ra ngay. Chiếc xe cuối cùng trúng bom laser, tháp pháo lún hẳn xuống, bụng xe thụng trịt sát đất, kéo ra khá nặng và mất nhiều thời giờ.
    Giải phóng chi khu Dầu Tiếng, ta thu năm xe địch, trong đó có chiếc xe M.48 chiến lợi phẩm đầu tiên ở hướng Truông Mít. Xe này lọt hố bom, xe đặc chủng kéo lên không nổi; đất hố bom tơi vụn, xích xe không có độ bám cứ trượt hoài. Cán và đồng đội lấy bạt trùm kín xe M.48, công binh giúp xúc đất phủ một lớp ngụy trang. Ban chỉ huy điều một số cán bộ chiến sĩ đại đội 33 đã học về xe địch. Các anh xúm lại tìm hiểu chức năng từng công tắc, từng búi dây điện giữa ban ngày... rồi đề máy. Máy xe khởi động, xe đặc chủng vào, móc cáp và tời trục kéo chiếc M.48 ngoan ngoãn ra khỏi hố bom, sau đó tham gia đội hình chiến đấu của đơn vị.
    Đầu tháng 4 năm 1975 bộ đội tăng thiết giáp toàn B.2 chia hai cánh: một cánh đánh Xuân Lộc, một cách đánh Chơn Thành. Xe đặc chủng đi với cánh sau.
    (Sau ngày hoàn toàn giải phóng miền Nam, Cán có dịp đi khảo sát thực địa nhiều địa điểm chiến đấu cũ, thấy Chơn Thành là vị trí kiên cố lợi hại bậc nhất. Bên ngoài là hào, kế đến lớp bờ bao cao gần 2 mét đắp đất dày che chắn, xe tăng thiết giáp và pháo địch núp sau bờ ao có thể hạ nòng bắn ngang ra ngoài. Chốt pháo binh đặt ở trung tâm vị trí).
    Khi tăng thiết giáp ta xông vào chi khu Chơn Thành, mật độ đạn pháo địch đủ loại dày đặc chưa từng thấy. Ba chiếc bị hỏng. Xe đặc chủng vào, thấy một chiếc đang cháy đỏ, không thể kéo được. Sở chỉ huy lệnh cho Cán lấy ra bằng được chiếc thứ nhì. Pháo ta bắn cấp tập mấy phút dập đầu địch xuống xe để xe đặc chủng vào kéo ra. Cán cho xe chạy một đoạn lại dừng. Pháo sáng trên bầu trời không dứt, soi rõ mọi vật. Trinh sát chỉ:
    ?" Xe nằm kia kìa!
    Cán ra khỏi xe, xác định đường đi cốt tránh hố bom, pháo chi chít. Sở chỉ huy thông báo:
    ?" Bộ binh địch áp sát rất gần! Cẩn thận, chú ý địch gài mìn trong xe!...
    Theo vệt xích, Cán bò lại, leo lên lan can, thò đèn pin qua cửa lái soi bên trong, trả lại số 0. Các chiến sĩ trong xe đều hy sinh (sau này anh mới biết có một chiến sĩ tên Thật kịp thoát ra ngoài, chạy lạc hướng bị bọn biệt động quân ngụy tóm gọn, anh gặp Thật ở trại tù binh Cần Thơ). Anh chỉ sợ địch bắn tỉa. Quay trở lại, anh tăng ga, cua xe đụng ?okịch? xe hỏng, phân công thợ sửa móc cáp rồi rú ga chạy ra ngoài luôn. Khi trở vào kéo chiếc thứ ba thì xe đặc chủng cháy . Đạn địch bắn trúng thùng còn một ít dầu, dầu cháy theo lỗ thủng chảy vào trong, bốc cháy tiếp ở sàn xe. Cán bị bỏng ở cạnh sườn, lái xe đặc chủng ra ngoài, nhanh chóng xử lý chống cháy; lửa vừa tắt lại vào dắt xe kia ra. Kết thúc trận đánh, anh được tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất. Anh đi quân y chữa chạy hơn chục ngày thì lành vết thương.
    Lãnh đạo binh chủng tăng thiết giáp B.2 bố trí anh không lái xe đặc chủng nữa, cử một chiến sĩ khác về thay. Anh được sung vào Ban đảm bảo kỹ thuật sửa chữa của Miền, đi cùng cánh hướng Tây trong chiến dịch Hồ Chí Minh. Anh đi theo đoàn xe tăng thiết giáp qua sông Vàm Cỏ, xuống Đức Hòa, Đức Huệ, Hóc Môn, Ngã tư Bảy Hiền, vào tới Sài Gòn lúc 12 giờ 30 phút trưa 30 tháng 4 năm 1975.
    Thiếu úy Phạm Văn Cán trực tiếp chiến đấu ở chiến trường B.2 khoảng một năm rưỡi, cứu kéo khoảng 20 xe của ta thu được hàng chục tăng thiết giáp của địch trong mưa bom bão đạn. Chiến công anh lập được có phần đóng góp xương máu của nhiều đồng đội: trinh sát dẫn đường tiếp cận, công binh gỡ sạch mìn, cán bộ cấp trên chỉ huy đúng... Anh viết bản thành tích mà không quên vô số gương mặt đồng chí đồng đội. Bản nháp xé đi viết lại nhiều lần, mất đứt cuốn tập 100 trang. May mắn không bị thương tích nặng, cuộc chiến ác liệt cuốn hút anh cũng như vô số người khác vào vòng xoáy của nó, giúp anh trưởng thành dần.
    Ngày 12 tháng 1 năm 1976, anh được Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên dương danh hiệu cao quý ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN. Trong buổi lễ trang nghiêm này, Cán nhìn lá cờ Tổ quốc đỏ thắm rực rỡ thấy thấp thoáng những gương mặt thân quen của mấy bạn cùng khóa tăng thiết giáp Tam Dương vừa ngã xuống ở Chơn Thành, Dầu Tiếng... mấy tháng trước. Họ như còn giơ bàn tay vẫy anh, chúc anh đi tiếp đoạn đường mà họ còn bỏ dở. Chiến công của anh thật nhỏ bé so với sự hy sinh của họ.
    M.Y
  9. 929rr

    929rr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/12/2004
    Bài viết:
    1.158
    Đã được thích:
    0
    Trời sáng rõ, pháo địch càng bắn dữ, khói bụi mịt mù. Máy bay A.37 tới yểm trợ mới đầu rà sát, bắn tên lửa và đại bác xuống trận địa ta. Súng phòng không ta ở rải rác bắn lên rất mạnh. Khẩu 12,8 ly ở xe Cán cũng góp phần lên tiếng, xua chúng bay tít lên cao.
    OV 10 ơi. A37 sao có đại bác được.
  10. ov10

    ov10 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/02/2006
    Bài viết:
    6.093
    Đã được thích:
    6
    Đấy là cách nói quen thuộc của các bác nhà ta khi nói về súng gắn trên máy bay chiến đấu (trừ các loại 12,7mm gắn trên UH thì mới được gọi đúng tên là súng máy). Với súng máy của MiG-17, MiG-19, MiG-21... hay gì nữa thì họ cũng gọi chung chung như thế, mãi rồi thành quen chả ai thắc mắc gì.
    Vì vậy câu hỏi cắc cớ của 929rr rất hay. Vậy thì phải to bao nhiêu mới được gọi là đại bác nhỉ?

Chia sẻ trang này