1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Ngày 30/4/1975 ở Sài Gòn

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi mytam81, 28/04/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. nguoiyeunuocViet

    nguoiyeunuocViet Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/11/2005
    Bài viết:
    128
    Đã được thích:
    0
    Đây là hình quân lực VNCH đang tử thủ bảo vẽ Sài Gòn khu vực gần cầu Rạch Chiếc
    [​IMG]
    Được nguoiyeunuocviet sửa chữa / chuyển vào 05:18 ngày 02/05/2006
    Được nguoiyeunuocviet sửa chữa / chuyển vào 05:20 ngày 02/05/2006
    u?c chiangshan s?a vo 22:29 ngy 02/05/2006
  2. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Tóm tắt lời kể của ông Nguyễn Văn Thuật, tham mưu trưởng D81 (hôm trước do nhầm lẫn nên đã viết sai tên ông) :
    - Đặc công tấn công vào đêm 27 rạng 28, đầu cầu phía nam do D81, đầu cầu phía bắc do Z22, Z23. D81 chiếm được đầu cầu nam (không thương vong), Z22, Z23 hy sinh 46 người do lúc vượt sông bị sa lầy, 1 chiến sĩ khác (tên Tầm) của Z22 bị bắt và chặt đầu.
    - VNCH phản kích vào sáng 28, D81 hy sinh 3 người.
    - Đặc công đánh địch phản kích trong 2 ngày 28, 29 (có thể cũng có chuyện phải rút lui rồi chiếm lại cầu nhưng ông Thuật không nhắc đến). Để tránh thương vong, bộ đội treo lại cờ VNCH ở tất cả các chốt đã chiếm được.
    - Đêm 29 rạng 30, D81 sang chiếm được đầu cầu bắc, sau đó đánh chiếm luôn nhà máy xi măng, nhà máy nhiệt điện, biệt thự của Nguyễn Văn Thiệu. D81 hy sinh thêm 2 người nữa (tổng cộng 52 người hy sinh, không rõ số bị thương).
    - Sáng 30, lữ tăng 203 đến và qua cầu thuận lợi.
    Như vậy là đã có mâu thuẫn về số thương vong. Tuy nhiên tên và hoàn cảnh hy sinh của 5 chiến sĩ hy sinh khi giữ cầu được ông Thuật kể lại khá rõ.
  3. muvlc

    muvlc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/09/2005
    Bài viết:
    937
    Đã được thích:
    2
    Đó là những chiếc F14 xuất hiện lần đầu, cũng là lần cuối cùng trong chiến tranh Việt Nam, chỉ dùng để yểm trợ cho cuộc di tản của người Mỹ chứ không chủ động tấn công QGP.
    Vào thời điểm cuối tháng 4-1975, hầu hết toàn bộ sức mạnh quân sự của ta đã tạo thành một vành đai thép bao quanh SG, trong đó có cả một lưới lửa phòng không rất mạnh, nếu muốn bắn thì máy bay Mỹ còn rơi nhiều. Nhưng phía QGP không tấn công các máy bay di tản của Mỹ, để cho họ một hành lang vận tải an toàn mà rút lui. Ta muốn người Mỹ rút hết trước khi quân ta kiểm soát SG, chứ vào đó rồi đấu súng với người Mỹ, rồi lại bắt thêm một mớ tù binh Mỹ chỉ tổ phức tạp thêm tình hình.
    Bác maseo à, ở đây nhân nói đến sự kiện cầu Rạch Chiếc, anh em trao đổi thêm các vấn đề quanh Chiến thắng 30-4 thì cũng không phải đi quá xa chủ đề đâu
  4. than_dau_tuat

    than_dau_tuat Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/09/2005
    Bài viết:
    791
    Đã được thích:
    304
    http://vietnamnet.vn/psks/2006/04/565983/
    Cảm ơn bác thông thái đã cho một cái link tốt.
    Tuất mà bình luận thì......dám bình chủ tịch à. Nhưng Tuất thử bình đôi ý xem. Có khi, chủ tich rỗi việc ngồi đọc thấy, cười to lại sống thêm được chục năm.
    Về trận Xuân Lộc. Hình như chủ tịch có hơi đề cao quá trình triến công, lớn mạnh và thành lập quân đàon 4 của quân địa phương miền Đông. Nhưng suy cho cùng, đội quân này không được huấn luyện bài bản chu đáo như quân đoàn 2. Quen đánh cấp nhỏ, đánh địch hành quân ngoài đường. Có thể thấy, quá trình quân miền Đông lớn lên thành lập quân đoàn 4 là chiến dịch Phước Long. Chỉ có một cứ điểm Đồng Xoài, mà đắp sa bàn huấn luyện đến hàng mấy tháng, trong khi có đủ tăng pháo. Chủ tịch cũng kể rõ, quân ta dùng tăng pháo không....kết quả bằng đánh cổ điển, dùng đặc công luồn sâu phá rào gỡ mìn. (bí mật cắt rào trước hàng tháng). Ngay như các trận đánh trước sau Đồng Xoài, cũng chỉ dùng pháo bắn thẳng (85 của ta và 105 địch ta thu được). Rõ ràng, quân địa phương cần đào tạo vài năm ở các trường đại học, mới dùng tăng pháo, pháo tầm xa, tiến công trong hành tiến, phá rào phá mìn tấn công cứ điểm ngay lập tức được. Một kết quả cụ thể là tổn thất Xuân Lộc sau đó.
    Thực tế, ngay ngày đầu tiên quân ta đã cô lập được Xuân Lộc, làm cứ điểm này mất giá trị, khống chế chìa khoá của cứ điểm này là ngã ba Dầu Dây. Ta được tăng cường tăng, pháo, pháo tự hành rất mạnh.
    Thiệt hại đầu tiên ta vấp phải là sư 7 tiến công căn cứ sư 18, cũng lại nhược điểm của quân du kích, xe tăng bị bắn hỏng cách mục tiêu 300 mét. Nhưng đây chỉ là thiệt hại đầu tiên, thiệt hại lớn nằm trong số 1200 thương vong của sư 341. Nguyên nhân là sư doàn trưởng sư 7 không nắm chắc được tình hình. Quân ta chiếm được một phần các hậu cứ của địch, nhưng nghỉ qua đêm và trụ lại trong thị xã đổ nát, không có công sự. Đồng thời, cũng nhược điểm cố hữu của quân du kích, là đánh không gọn các công sự vững chắc của địch. Chỉ huy sư đoàn 7 cho rằng ta phát triển như thế là thuận lợi, liền tung lược lượng dự trữ vào.
    Trong khí đó, địch điều một số lượng quân rất lớn phản kích. Lực lượng tiếp viện cỡ nửa quân đoàn đến cùng quân địch tại chỗ ở các vị trí sau Xuân Lộc, lữ dù một đổ bộ đường không xuống Tân Phong, thực hiện trong đánh ra ngoài đánh vào. Bên cạnh đó, chỉ huy chiến đoàn 48 của địch phòng thủ sáng suốt, cùng lữ dù một liên tục phản kích vào sườn 341. Đây là nguyên nhân sư đoàn 341 thương vong lớn, đánh địch đằng trước thì địch tạt sườn, thiếu công sự, thiệt hại nặng mà không thu được mục tiêu tiến công nào. Phần lớn do kiểu chỉ huy du kích của chỉ huy sư 7. Trong khi đó, sư 341 bảo vệ tốt sườn cho sư 7, nhưng sư 7 cũng không thu được thắng lợi gì ở đợt 2 tiến công trước ngày 12. Nhìn chung, các sư hoàn toàn không nắm được sức mạnh của tăng pháo. Tiếp sau việc tiến công không thành công, lại việc phơi ra thiếu công sự cho địch phản kích.
    Trong khi quân địa phương... không quen phú quý, làm hỏng hết tăng pháo vô ích thì hình như chủ tịch cũng hơi...quên những trận công kiên thần tốc, truy kích tàn quân của quân chủ lực miền Bắc. Toàn bộ tuyến phòng thủ nam Quảng Trị-Huế chẳng hạn. Hay như Phan Rang, chẳng qua ta tiến nhanh được từ Đà Nẵng đến Biên Hoà do tiến đánh hợp lý, địch không thể trụ được ở một điểm nào.
    Thật ra, kế hoạch ban đầu đúng, ngay trong ngày đầu tiên, Xuân Lộc đã bị cô lập. Ngày 15-4, E95B và F9 đối đầu với một lực lượng mạnh hơn gấp bội của địch. Nhưng kế hoạch được thực hiện chính xác hơn. Ta tiêu diệt chiến đoàn 52 khi địch chưa kịp củng cố công sự ở ngã ba Xuân Lộc . Sau đó, địch từ trong ngoài điên cuồng phản kích, từ phòng thủ trong công sự kiên cố trở thành tiến công. Cũng một nhược điểm nữa rất địa phương quân. Sư 7 và sư 341 hỏng gần hết cơ giới, được điều về củng cố thì phải đương đầu với chiến đoàn 48, lữ dù 1 và căn cứ sư 18 phản kích, chẳng được nghỉ chút nào. Nếu để trung đoàn 209 đào hào cầm cự ở đây, các sư đoàn trên dù có thương vong cũng luồn qua ấp Bảo Toàn, thì kết quả trận đánh đúng là bảo toàn, địch hết đường chạy.
    Như vậy, chủ tịch có hay nhắc đến sư trưởng sư 7 với ý tuyên dương, Tuất hơi....láo. Đúng ra, vị này mới đáng khiển trách nhất chiến dịch.
    Đây cũng là một bài học lớn về đánh chính quy. Cần những kiến thức bài bản từ tướng đến lính, huấn luyện chu đáo kiểu nuôi quân 3 năm dùng một giờ. Chứ kiểu kinh nghiệm, dùng 3 năm nuôi một giờ thỉ chỉ tổ.....chết lính. Có xe tăng pháo tự hành thì có khí ....càng chết.
    Bài của chủ tịch hơi dài, gọi là cuốn sách nhỏ thì đúng hơn. Gọi là sách vì trong đó kể chuyện chỉ là một phần, phần lý luận chiếm khá nhiều. Chủ tịch lý luận bằng ngôn ngữ bình dị, càng đọc càng thấy chủ tịch chính xác là vị tướng thời cổ xưa, như trong các hịch, các cáo. Quân miền Đông là quân trong tay của chủ tịch, người chiều hơn cả chiều con út trong nhà.
    ----------------
    To bác Quyenlinh66 , đúng là khi tiến công, quân tiến công cần đông hơn và thương vong nhiều hơn. Thường ta lấy tỷ lệ là 3, nhưng còn tuỳ hoả lực, công sự và bố trí của địch. Tuy nhiên, trong trận tiêu diệt chiến đoàn 52 và chống phản kích ngày 15, 16, 17 tháng 4, ta đã đối mặt với lực lượng địch đông hơn nhiều. Lực lượng của ta là E95B và F9. Quân đich ở Trảng Bom, Bầu Đá, Bầu Hàn có quân số cỡ quân đoàn, trang bị rất mạnh. Hoả lực trợ chiến thì như Tuất đã nói, toàn bộ không quân và 40% số pháo hạng nặng còn lại đóng trong những căn cứ gần đấy. Cũng ở đây đich thể hiện sai lầm "truyền thống" trong suốt chiến tranh, từ quan thầy Mỹ, là phần đông quân ngồi nhìn một số ít phản kích.
    Nhưng bác sai khi nhận định ta đánh Xuân Lộc sớm. Như Tuất trình bầy dưới đây, chiến dịch này đã làm được hai nhiệm vụ của nó. Một là chiếm các vị trí quan trọng, ngăn không cho địch cơ động tiếp viện hay co cụm về. Hai là, buộc dịch phải dồn ở đây lượng lượng đông đảo. Riêng quân tiếp viện xung quanh Xuân Lộc đã cỡ quân đoàn (có thể là hơn), cùng chôn chân một lượng hoả lực lớn. bác thấy đó, riêng máy bay địch tập trung hỗ trợ ở đây, nên các hướng quân ta tiến thuận lợi hơn.
    Nói rõ hơn, đáng lẽ ra quân ta phải đánh từ Quản Trị vào. Địch có hậu phương lớn vừa đánh vừa rút vừa cơ động tiếp viện và điều công binh dân binh xây dựng nhiều Xuân Lộc. Miền Duyên hải hẹp, nhiều dãy núi cắt ngang ra thành đèo, biết bao nhiêu Xuân Lộc cho vừa. Tại sao địch không làm được điều đó. Bác cứ tưởng tượng một quân đoàn càng đánh càng mạnh, có xe tăng đại bác hạng nặng, kinh nghiệm chiến đấu lâu dài. Bác lại tưởng tượng ra lực lượng đó có thuộc tính là không thể bị đánh bại. Cùng lắm là lại tản ra như hồi du kích, thay cho một vài trận lớn là liên tiếp các trận nhỏ. Rồi bác thêm mắm muối: lực lượng đó có biện động và đặc công. Cái cuối cùng bác cần thêm là quân đoàn nguy hiểm đó ngay sát "thủ đô".
    Như Tuất đã nói, diễn biến trận đánh không hề bất lợi cho ta, chỉ hao quân thôi, mà nình chung, quân tiến công hao ít hơn quân phòng ngự thì là thắng lợi lớn(địch bỏ lai hai ngàn rưỡi xác chết).
    Về kết của bố trí sau ngày đầu tiên, Xuân Lộc chỉ có giá trị khi được nối với Biên Hoà. Cái mà bác gọi là chiến dịch dưới đây thật ra là hai đợt tiến công từ ngày 9 đến ngày 12. Ngay ngày đầu tiên, quân ta đã cô lập Xuân Lộc và khống chế ngã ba Dầu Dây, tức là Xuân Lộc không còn giá trị nữa. Những diễn biến tiếp theo thực chất là địc nỗ lực phá vây và ta chiếm Dầu Dây, chặn mọi nỗ lực của địch.
    Ở đây có một vấn đề. Nếu như quân miền Đông thật sự có ý định chiếm sài gòn trước quân đoàn 2, như bác miêu tả, thì đó là một sai lầm. Như Tuất nhận định trên, quân Miền Đông về bản chất vẫn là quân du kích, chỉ có thể chốt chặn những mục tiêu quan trọng ngay trên địa bàn quen thuộc. Sao mà quân miền Đông có thể tiến công những mục tiêu mạnh hơn, ví như sân bay Tân Sơn Nhất. Cũng không đủ trình độ để giành thắng trong những trận đấu tăng xuất hiện trên đường tiến, cũng như không thể có hoả lực pháo tầm xa, phòng không cấp chiến dịch.... và chắc chắn không đủ trình độ để giao tiếp với chính phủ tù binh.
    Còn nếu ta không tổ chức trận đánh này lúc đó. Chắc chắn là địch tổ chức được phòng ngự sâu vùng duyên hải hẹp. ta có thể đi nhiều đường, đánh hết tất cả các phòng tuyến địch, nhưng địc bình tĩnh co cụm lại được. Thành phố Sài Gòn chắc tổn thất và ta còn vất vả tiếp tục tiến đánh đồng Bằng miền tây trong mùa mưa. Tất nhiên, khả năng xảy ra điều đó gần như bằng không, nhưng nếu đic nhàn nhã hơn ở Xuân Lộc, thì địch có điều kiện hơn. Nhưng đây chỉ là những "vui vui". Thực tế dơn giản hơn nhiều. Nếu như không đánh ngay lúc đó, thì khi đã vượt qua Phan Rang, quân đoàn 2 lại phải tiến công Xuân Lộc. Chẳng có lý gì quân đoàn 4 ngồi chơi xơi nước nhìn quan đoàn 2 tiến thần tốc. Có chăng là cái lý vui vui của bác Quyenlinh66.
    Nói chung, diễn biến của chiến tranh lúc đó đã hết sức rõ ràng, việc quân ta không tiêu diệt gọn Xuân Lộc từ ngày 9 đến ngày 12 chỉ là một biến cố nhỏ. Trận đánh diễn ra đúng thời điểm, khi trận đánh kết thúc thì cũng là quân đoàn 2 đến nơi, quân ta tập kết vài ngày ở những điểm qua Xuân Lộc rồi chiếm Sài Gòn. Như vậy, quân miền Đông và quân đoàn 2 cùng lúc tiến công Xuân Lộc và Phan Rang.
    ---------------------------
    To bác Trường Sơn.
    Đúng như bác nói. Tuy rằng, lực lượng tấn công mỏng có thể do ta không lường được địch tập trung quân mạnh như vậy. Nhưng sư đoàn 7 hay quân miền Đông là quân chiến đấu kiểu địa phương, nay chỉ một thời gian ngắn đã chiến đấu kiểu chính quy đánh lớn với tăng pháo. Chỉ trong giai đoạn như chủ tịch đã kể, sau hiệp định Paris, quân miền đông đã tiến lên từ cấp đánh tiểu đoàn đến đánh quân đoàn chính quy cơ giới.
    Quân miền Đông phần đông là quân địa phương, bổ sung trong suốt quá trình chiến đấu trưởng thành lực lượng bộ binh và đặc công từ miền Bắc. Đến sau Paris, lại được bổ sung vũ khí cơ giới hạng nặng.
    Quân miền Đông đã làm lực lượng thọc sâu tại chỗ quan trọng, tấn công địch sát thủ đô trước khi đại quân miền Bắc thực hiện các chiến dịch quan trọng. Rồi khi Tây Nguyên bắt đầu cho đến hết chiến tranh, quân miền Đông luôn tiếp tục tiến công, đóng góp vai trò quan trọng khi quân miền Bắc tiến vào. Địch không thể tổ chức tuyến phòng thủ trong và sát "thủ đô", có thể coi đây là quân đánh từ trong lòng địch ra.
    Nhưng ý Tuất muốn nhắc đến yêu cầu nghiên cứu và huấn luyện kỹ càng nhiều năm của cả tướng và lính, mới có thể sử dụng khí tài hạng nặng hiệu quả.
    Được than_dau_tuat sửa chữa / chuyển vào 22:45 ngày 02/05/2006
  5. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Bác Tuất, không thể trách sư 7 như vậy được. Bản thân trận Xuân Lộc có thời gian chuẩn bị quá gấp, sư 7 vừa trải qua trên 100km đánh nhau liên tục từ Định Quán đến Di Linh, rồi lại phải quay về ngay để đánh Xuân Lộc, không có quân, đạn dược bổ sung, không có thời gian điều tra kĩ lưỡng nên mới dẫn đến những sai lầm không đáng có.
    Ngoài ra cũng phải kể đến yếu tố trang bị, Xuân Lộc lúc đó đã được sư 18 VNCH chuẩn bị phòng thủ từ trước, vậy mà đánh vào thị xã chỉ có duy nhất 1 tiểu đoàn xe tăng với 12 chiếc T-54 (sư 6 và 341 không có xe tăng hỗ trợ), nên bộ binh thương vong cao cũng là điều dễ hiểu.
  6. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Tôi có xem về trận Xuân lộc cùng với các hồi ký của các tướng Trần Văn Trà, Hoàng Cầm, Văn Tiến Dũng, vvv.
    Suy nghĩ của tôi là trận Xuân Lộc chứng tỏ sự nóng vội của quân ủy Miền và bộ tư lệnh B2. Trên thực tế chiến trường cho thấy kế hoạch giải phóng Sài gòn bằng lực lượng B2 cùng vài sư đoàn bổ xung là không thực tế. Vào ngày 10/4 khi quân đoàn 2 còn ở Đà nẵng, quân đoàn 3 còn ở Tây nguyên, Quân đoàn 1 đang trên đường vào thì lực lượng B2 đã đánh Xuân lộc.
    Nên nhớ là Xuân lộc chỉ là 1 trong 2 chiến dịch tiến công lúc đó và đều không thành công. Chiến dịch thứ 2 là vào Thủ Thừa trên lộ 4. Cả 2 chiến dịch tiến công đều bị thiệt hại và câu trả lời rõ ràng là lực lượng tấn công không đủ sức - cả về binh lực lẫn khả năng chỉ huy chiến dịch.
    Đây là quân địch đã bị tác động lớn của các trận Ban Mê Thuật, Đà Nẵng, Huế. Còn nếu quân địch không bị tác động thì hoàn toàn viển vông là với 5 sư đoàn đang có làm sao mà B2 có thể tự lực giải phóng Sài gòn - hay là chỉ nướng quân vô ích.
    Đọc hồi ký của tướng Hoàng Cầm còn thấy trong năm 1972, cả bộ chỉ huy miền lúc đó (tướng Hoàng Văn Thái là tư lệnh và tướng Hoàng Cầm là tham mưu trưởng) đều không đồng ý đánh vào An Lộc vì cho rằng đã hết thời cơ. Nhưng bộ chỉ huy tiền phương B2 do tướng Trần Văn Trà làm tư lệnh thì nhất định đòi tiếp tục đánh - thậm chí còn dùng quyền chỉ huy chiến trường. Vậy đánh thì kết quả là không thành công.
    Được quyenlinh66 sửa chữa / chuyển vào 19:02 ngày 02/05/2006
  7. ov10

    ov10 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/02/2006
    Bài viết:
    6.093
    Đã được thích:
    6
    Hãy quan sát và so sánh gác chuông nhà thờ trong bức hình của chúng ta đang tranh luận và bức hình tớ mới chụp ngày hôm nay (tiếc là hình thiếu sáng và tớ không mang hình gốc đi để chọn cho đúng góc chụp).
    [​IMG]
    Tớ có ghé nhà ông bạn già (ngài 60 tuổi) ngày 30-04-1975 có ở khu vực ấy để hỏi, nhưng tiếc quá lão ta đi Úc chơi tới tháng 8 mới về.
  8. candy4mat

    candy4mat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/09/2003
    Bài viết:
    40
    Đã được thích:
    0
    mình xin lỗi nhưng có lẽ bạn lầm. Mình đã xem tấm ảnh rất kỹ và có thể khẳng định từ cầu sài gòn tới ngã từ hành xanh không hề có cảnh này. nếu có "chỉ nếu thôi nha" thì phải từ cầu Thị Nghè tới dinh độc lập.
  9. ov10

    ov10 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/02/2006
    Bài viết:
    6.093
    Đã được thích:
    6
    [​IMG]
    Nếu hình tớ chụp giống với "bối cảnh" của bức hình này thì tớ cũng xin tiết lộ: đây không phải là Ngã tư Hàng Xanh hay Ngã tư Bảy Hiền... mà là vòng xoay Lăng Cha Cả. Tháp chuông nhà thờ nằm phía sau dãy nhà mặt tiền góc Lê Văn Sỹ và Hoàng Văn Thụ. Tớ sẽ thu xếp đi chục lại đúng theo góc của hình gốc.
    Riêng về kỹ thuật nhiếp ảnh có một điều từ tấm hình gốc làm tớ băn khoăn : Tiền cảnh (là ba chiếc xe tank) thì có vẻ thiếu sáng mà hậu cảnh (là dãy nhà phía sau) lại hơi dư sáng... Có anh em nào chia xẻ ý kiến này với tớ?
    Lưu ý: Đường Cộng Hoà (ngày nay) là đường ngắn nhất đi từ Bà Quẹo tới Lăng Cha Cả. Nhưng ngày đó đường cộng hoà là đường "nội bộ" đi xuyên qua căn cứ QLMNVN, nên Quân GP "có lẽ" phải đi vòng qua Ngã tư Bảy Hiền để tới Lăng Cha Cả và từ Lăng Cha Cả mới tới BTTM (khoảng hơn 500m).
    Dùng hình ảnh minh hoạ cho anh em không ở Tp.HCm rễ tưởng tượng: Đường Cộng Hoà giống với cạnh huyền còn đường tiến của quân GP (đường Trường Chinh và đường Hoàng Văn Thụ ngày nay) giống như hai cạnh góc vuông, trong đó Ngã tư Bảy Hiền là góc vuông.
  10. mitanomini

    mitanomini Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/02/2006
    Bài viết:
    467
    Đã được thích:
    0
    Có thể tôi nói hơi lạc đề một chút. Nhưng có lẽ không cần xác định bức ảnh xe tăng ta bi bắn cháy là thật hay khong thật. Bởi vì đối đầu với kẻ thù được trang bị đầy đủ hơn mình, nhưng bộ đội ta vẫn giành được chiến thắng. Điều đó đã chứng tỏ rằng sự hy sinh và tổn thất lớn lao của bộ đội ta là không vô nghĩa. Từ những thất bại ban đầu, ta đã rút ra được những bài học đúng đắn để giành kết quả cao nhất trong năm 1975.
    Chẳng hạn như trong bài viết dưới đây (nếu bỏ qua những điều hư cấu về số lượng xe tăng mà Lxô va Tàu cấp cho chúng ta), người Mỹ đã phải thừa nhận sự trưởng thành về nghê thuật sử dụng xe tăng thiết giap của quân đội ta để đến thắng lợi năm 1975.
    Con đường nào đi đến chiến thắng chẳng chông gai. Nếu bức ảnh đó là thật đi chăng nữa thì nó giúp chúng ta càng hiểu thêm giá trị và ý nghĩa của ngày 30 thang 4 năm 1975, giúp ta hiểu đối phương đã điên cuồng và mù quáng chống đỡ đến giờ phút cuối cùng nhưng cũng không ngăn cản được sự thất bại của họ.. Chúng ta chẳng phải có gì đáng hổ thẹn về bất cứ sự hy sinh nào cả.
    http://www.gruntonline.com/Order%20of%20Battle/PAVN/PAVN_armour1.htm
    NORTH VIETNAMESE ARMORED FORCES
    --------------------------------------------------------------------------------
    .... In 1952, a small number of PAVN officers were sent to study armored warfare operations at Wu Ming in China. However, these troops were not used to set up armored units. Instead, they were sent back to Vietnam to serve as specialists to develop antitank tactics and to create special anti-armor units. At Dien Bien Phu the PAVN captured at least two M-24 tanks that were still functioning and used them for propaganda purposes.
    The PAVN was reorganized and expanded during the period between 1955 and 1960, and new anti-armor artillery and armored units were created. ...
    The PAVN set up its first tank unit, the 202nd Armored Regiment, on 5 October 1959. The numerical designation of the regiment was derived from the 202 cadre members who had been trained in China and the Soviet Union. The unit was initially equipped with some 35 T-34-85s and 16 SU-76s. In 1964, the 202nd Armored Regiment was expanded to include three battalions, which were equipped respectively with T-54, T-34-85, and PT-76 tanks and SU-76 self-propelled guns. An Armored Forces Directorate was created in the summer of 1965 to coordinate the use of the armored units and to define and employ doctrine.
    Having only about one hundred tanks in service, the PAVN did not advocate their use in mass. Its doctrine stated that armor would be employed during an attack, when feasible, to reduce infantry casualties. However, only the minimum number of tanks required to accomplish the mission would be used. Battle drill dictated that lead tanks were to advance firing and be supported by fire from other tanks and from artillery. Close coordination between tanks and supporting infantry was stressed as a key *****ccess in the attack. Because the North Vietnamese lacked air power, they placed strong emphasis on camouflage training in armor units. Facts later proved that armored battalions were able to move great distances without being detected.
    .......
    It was only in 1967 that the 202nd Armored Regiment sent two independent companies of PT-76 amphibious tanks to be posted near the Laotian border. They were intended *****pport an attack against one of the US and ARVN special forces observation outposts that overlooked the Ho Chi Minh Trail. In December 1967, one of the PT-76 companies was sent to the Plain of Jarres in Laos, while the remaining company was put under the control of the 198th Armored Battalion with a BTR-50PK armored personnel carrier (APC) company. The unit was then attached to the Khe Sanh- Road 9 Front.
    On 26 January 1968, the PT-76s from the 3rd Company of the 198th Armored Battalion attacked the Ta May outpost in support of the 24th Infantry Regiment. The little ARVN garrison was quickly overwhelmed in this first combat against the PAVN armored forces. Encouraged by this success, the PAVN redirected the battalion against the Lang Vei Special Forces Camp near the besieged garrison of Khe Sanh.
    On the night of 6 February 1968, 16 PT-76s attacked the Lang Vei position, which was held by over 500 troops. It was the first time that US soldiers faced Communist armor in Vietnam. Despite stubborn resistance, the PAVN advanced methodically, destroying bunkers at point-blank range. Throughout the night and far into the next day the resolute defenders held on, as their own artillery fire and air strikes deliberately pounded the position. The few survivors eventually broke out and fled to Khe Sanh. The North Vietnamese lost six PT-76s at Lang Vei. The PAVN Armor Command reported that the action was a great success. Despite enemy air strikes, the attack adhered strictly to the doctrine regarding the use of armor and contributed in reducing infantry casualties with a one-for-six ratio in favor of the PAVN.
    US forces encountered North Vietnamese tanks a few other times in South Vietnam. A PT-76 was knocked out by a 90mm SR gun during an attack on a Special Forces camp at Bu Dop in 1968. Another was located by a helicopter on 10 February 1968 and destroyed by a tactical air strike during
    Operation "Pegasus", the relief of Khe Sanh Combat Base.
    After the Khe Sanh battle, the 198th Armored Battalion was re-deployed near the DMZ, along the Ben Hai River. It was there that one of the PT-76s was surprised while crossing the river. It was destroyed at extreme range by an M-48 of the 3rd US Marine Tank Battalion. On the night of 3 March 1969, the 4th Armored Battalion from the 202nd Armored Regiment attacked the Special Forces camp at Ben Het. The attack was carried out by a dozen PT-76 tanks and an equal number of BTR-50PK APCs in order to destroy the camp''s battery of M-107 SP guns. One of the leading PT-76s struck a mine and was immobilized, but it continued to fire with its 76mm gun. The other armored vehicles were then engaged by a platoon of M-48s from the 1st Battalion, 69th Armor and two M-42s. The unexpected presence of Patton tanks went unnoticed by the North Vietnamese, who decided to retreat after losing two PT-76s and one BTR-50PK. These were the only occasions that American tanks clashed with PAVN armor. At that time, US intelligence sources estimated that the PAVN fielded about 60 T-54s, 50 T-34-85s and 300 PT-76s. A small number of SU-76s was also retained for training purposes. The APCs in use included the wheeled BTR-40 and BTR-152 and the tracked BTR-50.
    The PAVN then decided to engage its armor in Laos. In June 1968, a force of ten PT-76s supported an infantry assault that led to the fall of Muong Suoi. In March 1969, the 195th Independent Tank Company was attached to Front 959, which controlled operations in the Plain of Jarres. The company operated 25 PT-76s and had an attached platoon of BTR-40 armored cars. In August 1969, the Laotian Government forces launched Operation "Kou Kiet" and recaptured most of the Plain of Jarres. The offensive was preceded by an intense interdiction campaign by the USAF, which cut the unit off from its supply sources. Suffering from a lack of fuel, the crews were ordered to abandon their tanks and to sabotage them before departing. This was the worse defeat suffered by the PAVN Armor Command up to this point.
    In October 1969, the 195th Independent Tank Company was re-equipped and led a counter-offensive, which retook all lost ground. On 17 February 1970, the PAVN continued its advance and attacked Lima Site 22, a Hmong outpost, but the four PT-76s engaged in the assault were lost to mines. A week later, another armored thrust smashed through the outpost.
    ...
    In 1971, the PAVN reorganized and expanded its armored forces.
    ....
    Each armored regiment was organized with three battalions, usually two tank battalions and an APC battalion. The armored regiment rarely used standardized equipment. It was not unusual to have in the same regiment one battalion equipped with T-54 tanks, another with PT-76s and a third with BTR-50 APCS. Each tank battalion had a strength of 38 vehicles; each APC battalion consisted of between 30 to 35 vehicles.
    Until 1975 the armored battalion usually operated independently. Each tank battalion had three companies, usually equipped with the same equipment. However, there were exceptions. For example, the 195th Tank Battalion had two companies equipped with Type 59 tanks and one company with T-34-85s. Another example was the 2nd Armored Battalion, which had one company of Type 59 tanks and two companies of K-63 APCS. In fact, the PAVN armored formations exhibited great flexibility in terms of organization and equipment. The strength of a specific unit was then tailored to a specific task or tactical situation, and even to the availability of vehicles. This situation, nevertheless, caused more logistical problems.
    ...
    The main thrust of the PAVN armor occurred across the DMZ on 30 March 1972, when the 201st and 202nd Armored Regiments supported the attack of five infantry divisions against the ARVN Military Region 1 in what was to become known as the Nguyen Hue Campaign or, Easter Offensive. The two regiments were equipped with Type 59, Type 63 and T-54 tanks and K-63 APCS. The two units were temporarily halted by the ARVN I Armored Brigade at Dong Ha, but they finally pressed on and reached the South Vietnamese defensive lines north of Hue. In September, an ARVN counterattack pushed the PAVN back to Dong Ha. Thanks to effective air strikes and the ARVN tankers, who were better trained in long-range shooting, the two PAVN regiments suffered heavy losses.
    In the Central Highlands, the ARVN forces deployed around Dak To and Tan Canh were routed by the 203rd Armored Regiment, which was equipped with T-54, T-34-85 and PT-76 tanks. Another assault against Ben Het on 9 May failed when three PT-76s were destroyed by TOW missiles launched from a US Army trial gunship helicopter unit. On 13 May, without artillery preparation, two PAVN regimental task forces, supported by tanks, attacked Kontum from Route 14. Two other armored assaults took place in the northeastern and southern part of the town. The ARVN infantry fought tenaciously, destroying a dozen tanks with M-72 LAW rocket launchers. Two other armored assaults, which took place on 26 and 27 May, succeeded in taking the northern part of town. Continuously attacked by TOW-armed helicopters and fighter bombers, the PAVN were pushed back on 31 May. By mid-June, when the siege of Kontum was relieved, the PAVN had lost around 80 tanks and suffered 4,000 casualties.
    The offensive against An Loc, near Saigon, was supported by the already deployed 171st Tank Battalion and the 20th and 21st Independent Tank Battalions, which were equipped with T-54s. The town was encircled and Route 13, which led to Saigon, was severed by the 20th Independent Tank Battalion, which had crossed the Saigon River undetected on a pontoon bridge. On 13 April, the 20th and 21st Independent Tank Battalions attacked An Loc in support of the 9th Infantry Division, but the coordination between artillery, tanks and infantry was poor. The ARVN soldiers held their ground with LAW anti-tank rockets. An entire column of six T-54Bs that had reached the main avenue of the town was completely wiped out. Another attack force, which was caught in a pre-planned B-52 strike area, lost an entire platoon of tanks.
    On 15 April, the 171st Tank Battalion joined the second offensive against An Loc. After losing a further dozen T-54s, the PAVN pulled back and besieged the city. An independent armored company was then set up with captured ARVN M-41 tanks and M-113 APCS. The remaining battered armored formations were regrouped within the 26th Armored Regiment, with two depleted tank battalions and one APC company. This provisional armored regiment was disbanded in 1973.
    On 9 May 1972, the PAVN tried one more time to take An Loc, launching an assault that was supported by 40 tanks. B52 strikes, fighter bombers and Cobra helicopters hit the attackers. On 12 May, the T-54s reached the northern and eastern parts of the city and commenced direct tank fire from entrenched positions. On 12 June, the last PAVN units were driven from An Loc after losing nearly all the 40 tanks committed.
    ...
    Most of the PAVN armor losses of 1972 were attributed to air strikes. The North Vietnamese had tried to protect their units by deploying a considerable number of 37mm and 57mm AA guns and SA-7 (A-12) missiles. Since 1969, some AA artillery units were also equipped with BTR-40As armed with twin 14.5mm machine guns. These armored vehicles operated within independent mobile AA artillery companies. In 1972 they were also used in scouting missions for the benefit of tank units. They were supported by a few ZSU-57-2 air defence vehicles and some locally modified T-34 tanks armed with twin 37mm AA guns mounted on an open turret. The PAVN also modified some BTR-50PK APCs by installing a platform on the rear deck mounting a 14.5mm machine gun. In December 1972, the 237th AA Artillery Regiment was re-equipped with the sophisticated ZSU-23-4 Shilka. During the 1975 campaign, only a battery of four Shilkas was effectively engaged in combat. The remaining vehicles of the regiment arrived too late, after the fall of Saigon.

    During the 1972 offensive, the PAVN lost around 400 tanks and APCS. The North Vietnamese then decided to reconstitute and expand their armored forces. The most obvious shortages were assessed, and the infantry divisions were trained to operate more closely in coordination with the artillery, air defense units, and armored forces. The PAVN identified two specific Blitzkrieg-style tactics for the use of armored forces: the "sudden assault" and the "deep advance". The notion of sudden assault implied crushing enemy resistance by a quick attack using the shock effect of tanks to throw the enemy off balance. A successful sudden assault would open the way for an effective deep advance, or pursuit.
    In 1973, the Soviets delivered ad***ional T-55, T-54, T-34-85 and PT-76 tanks and a small number of BTR-60PB APCS. US sources indicated that a small number of ISU-122 self-propelled assault guns was also delivered. If that proved correct, it was the heaviest armored vehicle that entered service with the PAVN. Little is known about the operational record and combat use of the SU-100 tank destroyer that was also received at the same time in order *****pplement the surviving SU-76s. China also delivered more Type 59 and Type 63 tanks and, more importantly, ad***ional K-63 APCS. In fact, the K-63 became the main PAVN APC used in the 1975 offensive.

    ...
    Learning the costly lessons of the Nguyen Hue Offensive, the PAVN believed that future combat would be fought at the combined army corps formation level. Each of these corps would have between three and four infantry divisions, one AA artillery division, one artillery brigade and one armored brigade. The 202nd Armored Regiment was the first unit to be brought to brigade strength, with five armored battalions, and was attached to the 1st Army Corps in October 1973. The 2nd Army Corps was set up on 15 May 1974, with the attached 203rd Armored Brigade. The remaining armored units were put directly under the command of the PAVN Armored Forces Directorate. In December 1974, two other unidentified armored brigades were created and placed under the control of the Strategic General Reserve.
    The 1975 offensive began with an assault against Ban Me Thout in the Central Highlands. Leading the attack was the 273rd Armored Regiment with a battalion of T-54s, a battalion of T-34-85s and another of K-63s. .... On 23 March 1975, the 574th Armored Regiment, attached to the Tri Thien Front, drove into Da Nang and crushed the last ARVN resistance in the area.
    ...
    By advancing in tight, combined arms groups, with infantry in APCS, trucks and captured vehicles, the tank units maintained constant pressure on the withdrawing enemy. When resistance was encountered, the leading units deployed for a sudden assault while following units bypassed the enemy location to continue the pursuit. By these means, the PAVN armored units were able to cover an average of 50 kilometers (31 miles) a day. Within two months of the beginning of the Ho Chi Minh Campaign, North Vietnamese tanks were in striking distance of Saigon.
    By mid-April 1975, the 1st Army Corps, with the attached 202nd Armored Brigade, was also deployed around Saigon. It was followed by the newly created 4th Army Corps, which had three armored battalions attached. Finally, from west and southwest of Saigon was created the 232nd Tactical Force, which grouped three infantry divisions, three battalions and one company of armored vehicles.
    During the final assault against Saigon, most of the PAVN armored units were still on the roads, speeding toward the South Vietnamese capital and crushing on the way the last pockets of ARVN resistance. Some regiments saw their organic battalions dispersed on different fronts. For example, the 206th Armored Regiment had relinquished its 1B Battalion, which was equipped with a company of Type 59 tanks and two companies of K-63s, to the 202nd Armored Brigade. The remaining 195th and 575th Armored Battalions, equipped with a mix of T-54, Type 59, T-34-85, Type 63 and K-63, were engaged independently *****pport clearing operations around Xuan Loc and Bien Hoa. ....

Chia sẻ trang này