1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nghệ thuật ngôn pháp

Chủ đề trong 'Văn học' bởi thuvienct, 05/07/2012.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. thuvienct

    thuvienct Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    21/05/2012
    Bài viết:
    12
    Đã được thích:
    0
    http://www.thuviencongtrinh.com.vn/forum

    Các em nhỏ gọi viết thư pháp là viết chữ xấu. Quan điểm này không khó chấp nhận. Vì chữ viết phải ngay ngắn thẳng hàng và đồng đều mới được gọi là điều kiện cần trong tiêu chuẩn đánh giá chữ đẹp để bổ sung cho điều kiện đủ là “đẹp”.

    Thế nhưng có người vừa nhìn vào một bức thư pháp đã cho là “đẹp” ngay, mặc dầu chữ viết xiên xẹo, lệch lạc, nguệch ngoạc, thiếu cân xứng. Cách thưởng thức này cũng được đa số người lớn chấp nhận dễ dàng vì nó đáp ứng được quan điểm mỹ học.
    Riêng “giới thư pháp” thì lại chưa hài lòng với những cách nhìn nhận trên.

    Nếu chỉ để đáp ứng cái khiếu thẩm mỹ thì thư pháp chỉ còn lại là một nghệ thuật viết chữ đẹp; hoặc như có người nói: đó chỉ là thư họa. Họan là vẽ, nghĩa là vẽ chữ: vẽ chữ đẹp!

    Người Trung hoa, Á rập nổi tiếng về nghệ thuật thư pháp không lấy gì làm lạ. Với chữ tượng hình thì họ chỉ cần viết chữ đẹp – bay ****, cách điệu và phối các nét thanh và các nét đậm vào trong một bố cục – thì họ cũng đã đạt đến nghệ thuật thư pháp rồi. Chữ của họ là chữ tượng hình nên tự nó có thể biểu đạt được ý nghĩa rồi nên ít cần đến nghệ thuật diễn ý. Ý đã hàm trong từ. Như một nhà thư pháp Trung hoa đã nói: “ Khi ý ở đầu ngọn bút, khỏi cần phải đi đến tận cùng ý.” [Hassan Massoudy-Người đưa tin UNESCO 12.1990-tr.38]. Và từ “thư pháp” của Trung hoa có nghĩa là “cách viết chữ” [callégraphy] tức “the Art of Written Forms” theo định nghĩa của Phương tây!

    Với định nghĩa như thế, nhà thư pháp Việt nam chưa hài long ! Chưa hài lòng vì Tiếng Việt thuộc loại từ ký âm chứ không thuộc loại từ biểu ý; nên cho dầu viết có đẹp mà chưa đạt ý thì họ chưa vừa long. Mà thư pháp thì không chịu dừng lại cho đối tượng thẩm mỹ.

    Mỗi bức thư pháp là một thông điệp ! Một tâm tình ! Một bản thể !
    Để đạt mong muốn đó, nhà thư pháp Việt nam hầu như phải tự đi tìm một con đường riêng – một trường phái – Có thể tên gọi thì còn chờ đợi…nhưng cách bức phá thì họ đã khai phá !

    Trình bày cái hệ ngôn ngữ ký âm như Tiếng Việt qua nghệ thuật thư pháp đòi hỏi người viết chữ phải vượt lên trên thư pháp (cách viết chữ) để đạt đến ngôn pháp (cách trình bày[viết] lời nói); vì điều họ viết ra gọi là ngôn (lời nói). Họ viết, không phải chỉ cốt trình cái chữ mà là trình cái bụng họ ra tức “ngôn vi tâm thanh” = lời nói là tiếng của tâm (tiếng lòng). Vì vậy, cái diễn bày tư tưởng ở ngôn pháp VN là chủ đạo chứ không phải cốt để trình bày chữ viết (thư pháp).
    Chỗ khác nhau giữa ngôn pháp và thư pháp là ở biểu ý chứ không phải biểu mỹ. Vì chữ của ta là “phát âm sao viết vậy”; nghĩa là “viết sao là nói vậy” – và họ viết tức là nói !
    http://www.thuviencongtrinh.com.vn/forum
    Họ mượn nghệ thuật viết để nói. Họ nói bằng nghệ thuật viết ! Có thể gọi đó là thuật nói chuyện của người viết chữ.
    Viết là tìm cách biểu đạt ngôn ý [ý trong lời nói], là thể hiện cách nói. Nói thế nào cho người khác hiểu lòng mình, ấy gọi là ngôn chí [bày tỏ cái ý chí của mình] và trình bày ra chữ viết thông qua nghệ thuật gọi là NGÔN PHÁP : nghệ thuật viết ra lời nói. Nói qua cách viết ! Vì chữ của ta là biểu âm: nói sao viết vậy !

    Khi nói, chính cái giọng điệu mới diễn đạt hết cái ý của người nói. Khi giận dữ, lúc yêu thương, khi cầu khẩn, lúc sai khiến, gợi ý hay chìu lòng…đều với một âm sắc riêng để bày tỏ cái tâm tình ấy. Khi hai cô gái Huế nói với nhau: “mái tóc con Thùy da…ài…ì…ì…!”. Một nhà diễn thuyết trình bày: “ lên NON, non TĨNH ! Xuống ĐOÀI, đoài YÊN !.” Chuyển thể từ cách viết này trong văn pháp qua ngôn pháp, nhà ngôn pháp sẽ diễn đạt từng con chữ mạnh, nhẹ, dứt khoát hay ngập ngừng hoặc lã lướt, uyển chuyển tùy vào từng âm tiết của lời nói hơn là trìng bày câu văn.

    Cái âm tiết Tiếng Việt là thanh, cho nên chính cái âm sắc/âm lượng khi nói mới là sức diễn đạt, và cũng chính âm sắc mới xác định ngữ nghĩa biểu đạt của từ hơn là chính nghĩa của từ. Và cũng chính vì thế mà Việt nam có một thể loại diễn ý một cách độc đáo và đặc sắc mà hầu như ít có dân tộc nào có được: đó là NGÂM THƠ!
    Cái “âm điệu trong ngâm thơ” tặng cho ngòi bút nhà ngôn pháp cái âm lượng để thành một trường phái ngôn pháp Việt nam độc đáo và độc lập.

    Tùy vào tâm trạng, tùy vào khí thế mà mỗi câu chữ có thể thể hiện qua cách ngâm Tao đàn, Sa mạc (bồng mạc), Lãy Kiều, Lục Vân Tiên (Bạc Liêu), Vè hay Ngâm Huế hoặc Hò…(Bắc, trung, Nam).

    Để diễn tả niềm vui hay phong kín, ta có thể dùng lối Nam xuân (Bắc) hoặc diễn bày nổi buồn, ai oán thì dùng lối Nam ai/Nam oán.

    Con chữ sẽ mạnh, nhẹ…dứt khoát hay kéo dài…theo với làn điệu ngân nga của thể thơ mà nhà ngôn pháp mượn làn hơi của người ngâm mà thể hiện qua ngọn bút !

    Vì thế, không chừng, nếu nhà ngôn phápViệt nam nhấn mạnh hoặc ẻo lã không đúng chỗ sẽ dẫn đến sự hiểu lầm trái ý mình. Trong trường hợp này, người thưởng lãm không hiểu sai ý người viết mà chính người viết trình bày sai ý mình.
    Và một bức tranh ngôn pháp cũng đáp ứng ba yếu tố cơ bản này: Chủ điểm – Bố cục và Nghệ thuật
    Chủ điểm : “Từ” chủ đạo được đặc biệt cường điệu, gây ấn tượng mạnh mẽ, thu hút ngay sự chú ý nơi người xem. Nhờ cách gợi ý đó mà điều họ muốn nói đã được quan tâm. Điều họ muốn nói đã nói ra lời (ngôn). Khi ấy bức ngôn pháp thành ra để “nghe” hơn là để ngắm. Ngôn pháp Việt nam đích thực là một thiền pháp, mà nhà ngôn pháp như một thiền sư bạo động với thiền sinh ngay ở chiêu đầu để đánh bật dậy cái tiềm thức cảm thụ uyên nguyên ngủ vùi trong mỗi con người cho sực tĩnh, như Tôn Ngộ Không đánh thức ngựa dậy khi ngựa ngủ - và ở bố cục sẽ làm nhiệm vụ lùa ngựa về chuồng khi ngựa đi rong -

    Bố cục : “Từ” được phối trí trong tiết tấu kỹ hà nên tạo được nét hài hòa và vị trí được thu xếp đúng chỗ đã đưa được cái hốn độn vào trật tự, làm cho người thưởng lãm không mất định hướng trước điệu vũ của các con chữ. Trong bố cục, nhà ngôn pháp không quên sức mạnh của “hư không” – cái không gian trống vắng trong bức tranh -. Chính cái khoảng trống – như khoảng lặng trong âm nhạc – đưa cái hư không đối diện với con người, làm cho con người bổng dưng rơi vào im vắng tịnh mịch. Im lặng, một nghệ thuật chiêu dụ trong thuật nói chuyện, kích thích sự chú tâm, chuẩn bị cho người nghe một sự đón nhận nôn nóng; mà nhà ngôn pháp mượn lại trong cách ngưng tĩnh đó để “nói” với người xem. Như thế, viết một bức tranh ngôn pháp hay chiêm ngắm đã trở thành một hành động tham gia, một hình thức suy tưởng để lời nói và ý nhẹ nhàng bộc lộ.
    http://www.thuviencongtrinh.com.vn/forum
    Nghệ thuật : thủ pháp của nhà ngôn pháp là mượn lại cái tính phóng túng của thiên nhiên trong phong thái bộc lộ để gợi mở cái mỹ cảm sơ nguyên cũng cơ hồ huyền ảo trong mỗi con người. Như thế, qua ngọn bút, họ phục hoạt lại cái nghệ thuật đột phá của thiên nhiên qua cái khí phách Baroque mạnh bạo, cái lã lướt, cái hờ hững trong ngôn pháp làm cho sức dẫn dụ càng thêm lôi cuốn để dễ tái tạo trong tâm người xem cái mà họ đánh mất trong lúc đi tìm – cái ngạc nhiên ban sơ ấy – Không gì kích thích bằng cái nữa kín nữa hở, thật thật hư hư, làm cho đối phương bị dục phải hạ quyết tâm khai mở: đó là biện pháp hư cấu trong ngôn pháp ! Khơi dậy được cái tình cảm ngạc nhiên là đánh thức cái động năng khám phá nơi con người, thì từ đó (ở đây là người xem tranh) họ mới liễu được cái ẩn dụ mà người viết chôn chặc tự đáy lòng.

    Lấy nét bút hòa cùng cái vô thường của thiên nhiên để đạt ý là cả một công phu nghệ thuật. Nhà ngôn pháp chỉ mong làm được điều ấy để xẻ chia cùng nổi niềm với người thưởng lãm.

    Với họ thì…
    Miếng ngon chẳng hưởng riêng mình,
    Chia nhau thưởng thức, cùng nhau đượm tình.
    Vĩũ Ngọc Anh

    NGHỆ THUẬT NGÔN TỪ VIỆT NAM

    Bản chất con người chỉ bộc lộ ra trong giao tiếp. Chữ "nhân" với nghĩa là "tính người" bao gồm chữ "nhị" và bộ "nhân đứng" - tính người bộc lộ trong quan hệ giữa hai người. Với tư cách là công cụ của giao tiếp, ngôn ngữ nói chung và ngôn từ tiếng Việt nói riêng chịu sự chi phối to lớn của văn hoá giao tiếp của người Việt, vì thế một sự tìm hiểu về nghệ thuật ngôn từ Việt Nam rất cần chú ý đến văn hoá giao tiếp. Trước hết, xét về thái độ của người Việt Nam đối với việc giao tiếp, có thể thấy được đặc điểm của người Việt Nam là vừa thích giao tiếp, lại vừa rất rụt rè. Vì coi trọng giao tiếp cho nên người Việt Nam rất Thích Giao Tiếp. Việc thích giao tiếp này thể hiện chủ yếu ở hai điểm: thích thăm viếng, tính hiếu khách. Đồng thời với việc thích giao tiếp, người Việt Nam lại có một đặc tính hầu như ngược lại là rất rụt rè - điều mà những người quan sát nước ngoài rất hay nhắc đến. Sự tồn tại đồng thời hai tính cách trái ngược nhau (tính thích giao tiếp và tính rụt rè ) này bắt nguồn từ hai đặc tính cơ bản của làng xã Việt Nam là tính cộng đồng và tính tự trị: Đúng là người Việt Nam xởi lởi, rất thích giao tiếp, nhưng đó là khi thấy mình đang ở trong phạm vi của cộng đồng quen thuộc, nơi tính cộng đồng (liên kết) ngự trị. Còn khi đã vượt ra khỏi phạm vi của cộng đồng, trước những người lạ, nơi tính tự trị phát huy tác dụng thì người Việt Nam, ngược lại, lại tỏ ra rụt rè. Hai tính cách tưởng như trái ngược nhau ấy không hề mâu thuẫn với nhau vì chúng bộc lộ trong những môi trường khác nhau, chúng chính là hai mặt của cùng một bản chất, là biểu hiện cách ứng xử linh hoạt của người Việt Nam.


    Xét về quan hệ giao tiếp, nguồn gốc văn hóa nông nghiệp với đặc điểm trọng tình đã dẫn người Việt Nam tới chỗ lấy tình cảm - lấy sự yêu sự ghét - làm nguyên tắc ứng xử, sống có lí có tình nhưng vẫn thiên về tình hơn. Khi cần cân nhắc giữa tình với lí thì tình được đặt cao hơn lí. Với đối tượng giao tiếp, người Việt Nam có thói quen ưa tìm hiểu, quan sát, đánh giá. Tuổi tác, quê quán, trình độ học vấn, địa vị xã hội, tình trạng gia đình (bố mẹ còn hay mất, đã có vợ/chồng chưa, có con chưa, mấy trai mấy gái,...) là những vấn đề người Việt Nam thường quan tâm. Do tính cộng đồng, người Việt Nam tự thấy có trách nhiệm phải quan tâm đến người khác, mà muốn quan tâm thì cần biết rõ hoàn cảnh. Mặt khác, do phân biệt chi li các quan hệ xã hội, mỗi cặp giao tiếp đều có những cách xưng hô riêng, nên nếu không có đầy đủ thông tin thì không thể nào lựa chọn từ xưng hô cho thích hợp được.

    Tính cộng đồng còn khiến cho người Việt Nam, dưới gốc độ chủ thể giao tiếp, có đặc điểm là trọng danh dự: Tốt danh hơn lành áo; Đói cho sạch rách cho thơm; Trâu chết để da, người ta chết để tiếng. Danh dự được người Việt Nam gắn với năng lực giao tiếp: Lời nói ra để lại dấu vết, tạo thành tiếng tăm, nó được truyền đến tai nhiều người, tạo nên tai tiếng. Không phải ngẫu nhiên mà từ "tiếng" trong tiếng Việt, từ nghĩa ban đầu là "ngôn ngữ" (vd: tiếng Việt ), đã được mở rộng ra để chỉ sản phẩm của ngôn ngữ (vd: tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa), và, cuối cùng, chỉ cái thành quả mà tác động của lời nói đã gây nên - đó là "danh dự, uy tín" (vd: nổi tiếng). Về cách thức giao tiếp, người Việt Nam ưa sự tế nhị, ý tứ và trọng sự hòa thuận. Lối giao tiếp ưa tế nhị khiến người Việt Nam có thói quen giao tiếp "vòng vo tam quốc", không bao giờ mở đầu trực tiếp, nói thẳng vào vấn đề như người phương Tây. Truyền thống Việt Nam khi bắt đầu giao tiếp là phải vấn xá cầu điền, hỏi thăm nhà cửa ruộng vườn. Cũng để tạo không khí, để đưa đẩy, người Việt Nam trước đây có truyền thống "miếng trầu là đầu câu chuyện". Với thời gian, trong chức năng "mở đầu câu chuyện" này, "miếng trầu" từng được thay thế bằng chén trà, điếu thuốc, ly bia... Để biết người đối ngoại với mình có còn cha mẹ hay không, người Việt Nam thường hỏi: Các cụ nhà ta vẫn mạnh giỏi cả chứ? Để biết người phụ nữ đang nói chuyện với mình có chồng hay không, người Việt Nam ý tứ sẽ hỏi: Chị về muộn thế liệu anh nhà (ông xã) có phàn nàn không? Còn đây là lời tỏ tình rất vòng vo của người con trai Nam Bộ - nơi mà người Việt có tiếng là bộc trực hơn cả: Chiếc thuyền giăng câu, Đậu ngang cồn cát, Đậu sát mé nhà, Anh biết em có một mẹ già, Muốn vô phụng dưỡng, biết là đặng không? (Ca dao). Lối giao tiếp "vòng vo tam quốc" kết hợp với nhu cầu tìm hiểu về đối tượng giao tiếp tạo ra ở người Việt Nam thói quen chào hỏi - "chào" đi liền với "hỏi": "Bác đi đâu đấy?", "Cụ đang làm gì đấy?"... Ban đầu, hỏi là để có thông tin, dần dần trở thành một thói quen, người ta hỏi mà không cần nghe trả lời và hoàn toàn hài lòng với những câu "trả lời" kiểu: "Tôi đi đằng này một cái" hoặc trả lời bằng cách hỏi lại: Cụ đang làm gì đấy? Đáp: Vâng ! Bác đi đâu đấy? Lối giao tiếp ưa tế nhị, ý tứ là sản phẩm của lối sống trọng tình và lối tư duy coi trọng các mối quan hệ (tư duy biện chứng). Nó tạo nên một thói quen đắn đo cân nhắc kĩ càng khi nói năng: Ăn có nhai, nói có nghĩ; Chó ba quanh mới nằm, người ba năm mới nói; Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe; Khôn cũng chết, dại cũng chết, ai biết thì sống; Người khôn ăn nói nữa chừng, Để cho kẻ dại nữa mừng nữa lo,... Chính sự đắn đo cân nhắc này khiến cho người Việt Nam có nhược điểm thiếu tính quyết đoán. Để tránh phải quyết đoán, và đồng thời để không làm mất lòng ai, để giữ được sự hòa thuận cần thiết, người Việt Nam rất hay cười. Nụ cười là một bộ phận quan trọng trong thói quen giao tiếp của người Việt; có thể gặp nụ cười Việt Nam vào cả những lúc ít chờ đợi nhất. Người Việt Nam có một hệ thống nghi thức lời nói rất phong phú. Trước hết, đó là sự phong phú trong hệ thống xưng hô bằng các từ chỉ quan hệ họ hàng. Hệ thống xưng hô này có các đặc điểm: Thứ nhất, có tính chất thân mật hóa (trong tình cảm), coi mọi người trong cộng đồng như bà con họ hàng trong một gia đình. Thứ hai, có tính chất xã hội hóa, cộng đồng hóa cao - trong hệ thống từ xưng hô này, không có cái "tôi" chung chung.
    http://www.thuviencongtrinh.com.vn/forum
    Quan hệ xưng hô phụ thuộc vào tuổi tác, địa vị xã hội, thời gian, không gian giao tiếp - chú khi ni, mi khi khác. Cùng là hai người, nhưng cách xưng hô có khi đồng thời tổng hợp được hai quan hệ khác nhau: Chú-con, bác-con, bác-em, anh-tôi,... Lối gọi nhau bằng tên con, tên cháu, tên chồng; bằng thứ tự sinh (Cả, Hai, Ba, Tư...). Thứ ba, thể hiện tính tôn ti kĩ lưỡng: Người Việt Nam xưng và hô theo nguyên tắc xưng khiêm hô tôn (gọi mình thì khiêm nhường, còn gọi đối tượng giao tiếp thì tôn kính). Cùng một cặp giao tiếp, nhưng có khi cả hai đều cùng xưng hô là em và đều cùng xưng là em và đều gọi nhau là chị. Việc tôn trọng, đề cao nhau dẫn đến tục kiêng tên riêng: người ta chỉ gọi tên cái ra để chửi nhau; đặt tên con cần nhất là không được trùng với tên của những người bề trên trong gia đình, gia tộc cũng như ngoài xã hội. Vì vậy mà trước đây có tục nhập gia vấn húy (vào nhà ai, hỏi tên chủ nhà để khi nói nếu có động đến từ đó thì phải nói lệch đi). Nghi thức lời nói trong lĩnh vực cách nói lịch sự cũng rất phong phú. Do truyền thống nặng về tình cảm và linh hoạt nên người Việt Nam không có những từ cảm ơn, xin lỗi khái quát dùng chung cho mọi người trường hợp như người phương Tây. Cũng như trong xưng hô, đối với mỗi người ta có một cách cảm ơn, xin lỗi khác nhau: Con xin chú (Cảm ơn khi nhận quà), Chị chu đáo quá, Anh tốt quá (cảm ơn khi được quan tâm), Bác bày vẽ quá (cảm ơn khi được tiếp đón nồng hậu), Quý hóa quá (cảm ơn khi có khách đến thăm), Anh quá khen (cảm ơn khi được khen),...

    Các đặc trưng cơ bản trong nghệ thuật ngôn từ Việt Nam

    Công cụ của giao tiếp là ngôn ngữ. W. Humboldt, nhà văn hóa lớn của nhân dân Đức, từng nói ngôn ngữ là "linh hồn của một dân tộc". Nhìn vào tiếng Việt, có thể nhìn thấy đúng là nó phản ánh rõ hơn đâu hết linh hồn, tính cách của người Việt Nam và những đặc trưng cơ bản của nền văn hóa Việt Nam.

    Trước hết, nghệ thuật ngôn từ Việt Nam có tính biểu trưng cao.

    Tính biểu tượng thể hiện ở xu hướng khái quát hóa, công thức (ước lệ) hóa với những cấu trúc cân đối, hài hòa. Xu hướng ước lệ bộc lộ ở chỗ tiếng Việt thích những cách diễn đạt bằng các con số biểu trưng. Trong khi người châu Âu nói de toutes parts (từ tất cả các phía), he opens his eyes (nó mở những con mắt của nó) thì người Việt nói từ ba bề bốn bên, từ khắp bốn phương trời, Nó mở to đôi mắt. Ở những trường hợp, người châu Âu dùng từ "tất cả" thì người Việt dùng các từ chỉ số lượng ước lệ: ba thu, nói ba phải, ba mặt một lời, năm bè bảy mối, tam khoanh tứ đốm, Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo..., trăm dâu đổ một đầu tằm, trăm khôn ngàn khéo, tiền trăm bạc vạn, trăm họ, vạn sự, muôn dân, muôn vật,... Lối tư duy tổng hợp mọi yếu tố, lối sống ổn định có quan hệ tốt với hết thảy mọi người dẫn đến xu hướng trọng sự cân đối hài hòa trong ngôn từ - một biểu hiện khác của tính biểu trưng.

    Tính cân xứng là một đặc tính rất điển hình của tiếng Việt.

    Theo nguyên lí cấu trúc loại hình, tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn tiết, song nó chứa một khối lượng không nhỏ các từ song tiết; điều quan trọng hơn nữa là mỗi từ đơn tiết lại hầu như đều có thể có những biến thể song tiết, dạng láy, cho nên thực chất trong ngôn từ, lời nói Việt thì cấu trúc song tiết lại là chủ đạo. Các thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt đều cấu tạo theo cấu trúc có 2 vế đối ứng: trèo cao/ ngã đau; ăn vóc/học hay; một quả dâu da/ bằng ba chén thuốc; biết thì thưa thốt/ không biết thì dựa cột mà nghe..
    http://www.thuviencongtrinh.com.vn/forum
    Tiếng Việt rất phát triển hình thức câu đối, rất phát triển thơ. Câu đối là một loại sản phẩm văn chương đặc biệt, nó vừa công phu tỉ mỉ, lại vừa cô đúc ngắn gọn. Trong một tác phẩm "mini" ấy thể hiện đủ cả cái đẹp cân đối nhịp nhàng của hình thức và cái uyên thâm của chiều sâu triết lí Đông Phương. ở Việt Nam xưa kia, nhà nhà, đình đình, chùa chùa... nơi nào cũng đều có treo câu đối.Người Việt Nam, hầu như ai cũng biết làm thơ. Văn hóa gốc nông nghiệp trọng âm, trọng tình cảm tất yếu sẽ có khuynh hướng thiên về thơ; văn hóa gốc du mục trọng dương, trọng lí trí tất yếu dẫn đến khuynh hướng thiên về văn xuôi. Văn học phương Tây mạnh về văn xuôi. Trung Hoa cũng thiên về văn xuôi hơn thơ, trong khi đó suốt lịch sử nhiều nghìn năm của Việt Nam đều là lịch sử của thơ ca - một thứ thơ ca có cấu trúc chặt chẽ (lục bát, song thất lục bát) và vần điệu nghiêm ngặt thể hiện sự cân đối hài hòa. Đây là một sự khác biệt mang tính chất nguyên lí, nó bắt nguồn từ chính sự khác biệt gốc rễ giữa hai loại hình văn hóa: Văn hóa gốc Du Mục với bản tính động tất thiên về trình bày các tình tiết sự kiện với bút pháp tả thực và lối diễn đạt tự do phóng túng - tất cả những đặc trưng đó chỉ có thể tìm thấy sự biểu hiện tập trung trong văn xuôi (ngay cả thơ phương Tây chủ yếu cũng là thơ tự do). Văn hóa gốc Nông Nghiệp với bản tính Tĩnh tất thiên về trình bày tâm lí tình cảm với bút pháp biểu trưng và lối diễn đạt cân xứng nhịp nhàng - tất cả những đặc trưng đó chỉ có thể tìm thấy sự biểu hiện tập trung trong thơ (ở Việt Nam, thơ tự do chỉ mới xuất hiện sau này - vào đầu thế kỉ XX, do ảnh hưởng của Phương Tây). Ở Việt Nam, văn xuôi truyền thống cũng là một thứ văn xuôi thơ, thế mạnh đó còn do tiếng Việt là một ngôn ngữ giàu thanh điệu, tự thân các thanh điệu đã tạo nên tính nhạc cho câu văn rồi. Từ những bài văn xuôi viết theo lối biền ngẫu như Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, hoặc tự do như thư dụ hàng của Nguyễn Trãi gửi địch, cho tới những lời văn nôm bình dân... khắp nơi, ta đều gặp một lối cấu trúc cân đối, nhịp nhàng, chặt chẽ và có tiết tấu, vần điệu.


    Báo cáo
    inu

    Thành viên

    BlogKết bạnTrêu chọcPM
    5#
    Đăng lúc 22-5-2012 13:37:07 |Xem tác giả này
    Thậm chí ngay cả trong việc chửi nhau, người Việt cũng chửi nhau một cách có bài bản, cân đối, nhịp nhàng, đầy chất thơ. Với lối chửi có vần điệu, có cấu trúc chặt chẽ, người Việt Nam có thể chửi từ giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác mà không hề nhàm chán. Đó là một thứ "nghệ thuật" độc đáo vô nhị mà không một dân tộc nào trên thế giới có được. Đây là lời chửi của một người đàn bà mất gà được ghi lại trong tiểu thuyết Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan: “Làng trên xóm dưới, bên trước bên sau, bên ngược bên xuôi ! Tôi có con gà mái xám nó sắp ghẹ ổ, nó lạc ban sáng, mà thằng nào con nào, đứa ở gần mà qua, đứa ở xa mà lại, nó dang tay mặt, nó đặt tay trái, nó bắt mất của tôi, thì buông tha thả nó ra, không tôi chửi cho đơới! Chém cha đứa bắt gà nhà bà! Chiều hôm qua, bà cho nó ăn nó hãy còn, sáng hôm nay con bà gọi nó nó hãy còn, mà bây giờ nó đã bị bắt mất. Mày muốn sống mà ở với chồng với con mày, thì buông tha thả bỏ nó ra, cho nó về nhà bà. Nhược bằng mày chấp chiếm, thì bà đào mả thằng tam tứ đại nhà mày ra, bà khai quật bật săng thằng ngũ đại lục đại nhà mày lên. Nó ở nhà bà, nó là con gà, nó về nhà mày, nó biến thành cú thành cáo, thành thần nanh đỏ mỏ; nó mổ chồng mổ con, mổ cả nhà mày cho mà xem. Ới cái thằng chết đâm, cái con chết xỉa kia! Mày mà giết gà nhà bà thì một người ăn chết một, hai người ăn chết hai, ba người ăn chết ba. Mày xuống âm phủ, mày bị quỷ sử thần linh rút ruột ra. Ơi cái thằng chết đâm cái con chết xỉa.”
    http://www.thuviencongtrinh.com.vn/forum
    Ngay trong những tiểu thuyết xuất hiện dưới ảnh hưởng của văn xuôi Phương Tây cũng vẫn mang rất đậm dấu ấn của truyền thống cân đối nhịp nhàng, biểu trưng ước lệ. Đây là những câu văn tả người của Tản Đà: Tiếng nói nhẹ nhàng bao nhiêu, dáng người mềm bấy nhiêu; mềm bao nhiêu, chín bấy nhiêu, tươi bấy nhiêu, tình bấy nhiêu. Như ghét, như yêu, như chiều, như ngượng. Lông mày ngài, đôi mắt phượng, cô chờ ai? (Giấc mộng con). Không chỉ tiểu thuyết, mà ngay cả văn chính luận Việt Nam cũng có thể mang đầy chất thơ nhờ sự cấu tạo cân đối nhịp nhàng. Đọc Tuyên ngôn độc lập hay những lời kêu gọi của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, hoặc những câu sau đây của Người, ta thấy rõ chất thơ đó: "Nếu không có nhân dân thì không đủ lực lượng. Nếu không có chính phủ thì không ai dẫn đường"; "Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân ta hết sức tránh".Đặc điểm thứ hai của nghệ thuật ngôn từ Việt Nam là nó rất giàu chất biểu cảm- sản phẩm tất yếu của một nền văn hóa trọng tình cảm.Về mặt từ ngữ chất biểu cảm này thể hiện ở chỗ các từ, bên cạnh yếu tố gốc mang sắc thái nghĩa trung hoà, thường có rất nhiều biến thể với những sắc thái nghĩa biểu cảm: Bên cạnh màu xanh trung tính, có đủ thứ xanh rì, xanh rờn, xanh rợn, xanh ngắt, xanh um, xanh lè... Bên cạnh màu đỏ trung tính có đỏ rực, đỏ âu, đỏ lòm, đỏ loét, đỏ hoe... Các từ lấy mang sắc thái biểu cảm mạnh cũng rất phổ biến trong tiếng Việt (ở các ngôn ngữ khác, kể cả tiếng Hán, đều hầu như không có). Ở trên vừa nói tiếng Việt thiên về thơ, mà thơ là mang đậm chất tình cảm rồi, cho nên từ láy với bản chất biểu cảm rất phù hợp với nó (xem thơ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương,..). Về mặt ngữ pháp, tiếng Việt sử dụng rất nhiều các hư từ có sắc thái biểu cảm: à, ư, nhỉ, chăng, chớ, hả, hở, phỏng, sao, chứ... Cấu trúc "iếc hóa" mang sắc thái đánh giá (sách siếc, bàn biếc,..) cũng góp phần quan trọng làm tăng cường hệ thống các phương tiện biểu cảm cho tiếng Việt. Sự phổ biến của thơ hơn văn xuôi đã nói đến ở trên không chỉ là sản phẩm của tính biểu trưng mà rõ ràng cũng đồng thời là sản phẩm của tính biểu cảm. Khuynh hướng biểu cảm còn thể hiện ở chỗ trong lịch sử văn chương truyền thống, không có những tác phẩm anh hùng ca đề cao chiến tranh; có nói đến chiến tranh chăng thì cũng chỉ là nói đến nỗi buồn của nó (vd: Chinh Phụ Ngâm).

    Nghệ thuật ngôn từ Việt Nam có đặc điểm thứ ba là tính động, linh hoạt.

    Tính động, linh hoạt này trước hết bộc lộ ở hệ thống ngữ pháp. Trong khi ngữ pháp biến hình của các ngôn ngữ châu Âu là một thứ ngữ pháp chặt chẽ tới mức máy móc thì ngữ pháp tiếng việt tổ chức chủ yếu theo lối dùng các từ hư để biểu hiện các ý nghĩa và quan hệ ngữ pháp, khiến cho người sử dụng được quyền linh hoạt tối đa. Ngữ pháp phương Tây là ngữ pháp hình thức, còn ngữ pháp Việt Nam là ngữ pháp ngữ nghĩa.Nói bằng một ngôn ngữ châu Âu, ta bắt buộc phải đáp ứng đầy đủ mọi đòi hỏi tai quái mà hệ thống ngữ pháp của ngôn ngữ đó yêu cầu. Còn trong tiếng Việt thì tùy theo ý đồ của người nói mà anh ta có thể diễn đạt, không thể diễn đạt hay diễn đạt nhiều lần một ý nghĩa ngữ pháp nào đó: Tôi đi Hà Nội, Tôi sẽ đi Hà Nội, Ngày mai tôi đi Hà Nội, Ngày mai tôi sẽ đi Hà Nội. Chính vì linh hoạt như vậy mà tiếng Việt có khả năng diễn đạt khái quát rất cao, có thể nói một câu không thời, không thể, không ngôi. Khả năng diễn đạt khái quát, mơ hồ chính là điều kiện rất quan trọng cho việc phát triển thơ ca đã nói đến ở trên.Tính động, linh hoạt của ngôn từ Việt Nam còn bộc lộ ở chỗ trong lời nói, người Việt rất thích dùng cấu trúc động từ: trong một câu có bao nhiêu hành động thì có bấy nhiêu động từ; trong khi đó thì các tiếng phương Tây có xu hướng ngược lại- rất thích dung danh từ. Trong khi người Việt nói: Cảm ơn anh đã tới nhà chơi thì người Anh nói: Thank you for your coming (Cảm ơn về sự đến chơi của anh). Tính linh hoạt, năng động còn nguyên nhân khiến cho tiếng Việt rất ít dùng cầu trúc bị động. Người Việt thậm chí dùng cấu trúc chủ động ngay cả trong câu bị động: Trong khi người Việt nói: Lan bị thầy giáo phạt thì người Anh nói Linda was punished by the teacher (Linda bị phạt bởi thầy giáo). Như vậy, có thể nói rằng trong giao tiếp, người Việt Nam có thiên hướng nói đến những nội dung tĩnh (tâm lí, tình cảm, dẫn đến nghệ thuật thơ ca và phương pháp biểu trưng) bằng hình thức động (kiến trúc động từ, ngữ pháp, ngữ nghĩa linh hoạt). Trong khi đó thì người phương Tây nói riêng và truyền thống văn hóa trọng dương nói chung lại có thiên hướng nói đến những nội dung động (hành động, sự việc, dẫn đến nghệ thuật văn xuôi và phương pháp tả thực) bằng hình thức tĩnh (kiến trúc danh từ, ngữ pháp hình thức chặt chẽ). Mới hay, ngôn ngữ thực sự là tấm gương phản chiếu văn hóa dân tộc và tác động của luật âm dương (trong âm có dương, trong dương có âm; âm sinh dương, dương sinh âm) thật là rộng lớn và sâu xa!
    http://www.thuviencongtrinh.com.vn/forum

Chia sẻ trang này