1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

NGHÌN LỜI GIẢI ĐÁP VỀ PHỤ NỮ VÀ CƠ THỂ NỮ GIỚI-tác giả DAVID ELIA GENEVÈVE DOUCET - người dịch Vũ Đì

Chủ đề trong 'Giáo dục Giới tính' bởi 9403, 21/03/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. bongxinh

    bongxinh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/09/2004
    Bài viết:
    954
    Đã được thích:
    1
    11.32. Làm ?otest? để tìm vi khuẩn trước lúc sinh nở.
    Những xét nghiệm thai trước khi ra đời là bắt buộc phải làm nhằm nhiều mục đích, trong đó việc tìm mầm bệnh giang mai. Thai nằm trong bụng mẹ chỉ được bảo vệ cho đến tháng thứ 4 nhờ nhau thai, sau đấy không còn được bảo vệ nữa và có thể nhiễm đủ thứ bệnh dẫn đến những thảm hoạ: sẩy thai bất chợt, đẻ non, thai chết hoặc thai nhi sinh ra chết ngay hoặc sống nhưng mắc bệnh giang mai.
    11.33. Cách chữa: Péniciline
    Cách chữa giang mai hết sức đơn giản và hiệu nghiệm: đó là dùng péniciline. Phải chữa cho đến khi thử máu không còn thấy vi khuẩn nữa. trong giai đoạn thứ nhất và thứ hai, thường xét nghiệm máu không thấy, nhưng giai đoạn ba thì rất rõ, lúc đó cần điều trị đến nơi đến chốn, mặc dù lúc thử máu lại thấy biểu hiện vi khuẩn chỉ còn rất ít. Xin nhắc lại: Bệnh giang mai cũng như lậu hiện vẫn chưa có vắc - xin phòng bệnh. Cho nên bạn cần hết sức cẩn thận.
    11.34. Sự tăng số bệnh hoa liễu do nguyên nhân nào?
    Trong khi thấy bệnh lậu và giang mai có phần giảm, y học lại đứng trước sự tăng nhanh đột xuất của hai "thảm hoạ" ấy, kèm theo cả các bệnh: do trùng chlamydia, bệnh herpes, bệnh siêu vi khuẩn papillome và bây giờ đến bệnh SIDA. Nguyên nhân do đâu? Trước hết là gần đây người ta được quá tự do veef********. Hai là sự pha trộn với các cư dân đang ở trình độ y tế thấp. Thường đám thanh niên, cả trung niên nữa, sau những chuyến du lịch ra nước ngoài, ra khỏi châu Âu, đem vi khuẩn và mầm bệnh về. Và cuối cùng là do có nhiều biện pháp ngừa thai mới mẻ, thuận tiện, người ta bỏ qua biện pháp dùng bao ********* là biện pháp ngừa bệnh hoa liễu rất có hiệu quả.
    Có người cãi: nếu bây giờ hạn chế tự do ******** thì lại tăng thêm tình trạng thần kinh ức chế, liệu có hại, thậm chí còn lớn hơn cái hại của bệnh hoa liễu không? Chúng tôi không tranh luận về vấn đề mà chỉ đưa ra lời khuyên: Các bạn nên tìm hiểu kỹ về các bệnh này và nên dùng bao ********* nếu như bạn không định sống theo kiểu một vợ một chồng và có những quan hệ ******** "ngẫu nhiên" đáng nghi ngờ. Và nếu lỡ thấy có hiện tượng gì khác thường, bạn phải đến thầy thuốc ngay.
    11.35. Bệnh SIDA là gì?
    Bắt đầu từ tháng 6 năm 1981, người ta phát hiện ra 5 trường hợp mắc căn bệnh mới mẻ này, lúc đó còn chưa có tên gọi. 2 tháng sau, bệnh được đặt tên là SIDA (hội chứng suy giảm miễn dịch) và từ đó đến nay, bệnh phát triển theo một tốc độ đáng sợ mà vẫn chưa có thuốc trị đạt hiệu quả chắc chắn. Siêu vi khuẩn gây bệnh được đặt tên là HIV (siêu vi khuẩn gây suy giảm miễn dịch).
    11.36. Đường lây truyền bệnh.
    1. Đường chính: Vi khuẩn HIV được lan truyền theo đường giao hợp và đường máu. Siêu vi khuẩn này cư trú rất nhiều trong tinh dịch nam giới, dễ truyền vào âm đạo, hậu môn hoặc miệng. Bệnh biểu hiện ra ngoài bằng những vết thương tổn rất nhỏ ở âm đạo hoặc *********. Cho nên chất nhờn âm đạo của phụ nữ mắc bệnh cũng chứa rất nhiều mầm bệnh. HIV còn lan truyền theo đường máu: truyền máu tiêm bằng kim và ông tiêm có mầm bệnh. Phụ nữ mắc bệnh rất dễ truyền bệnh cho thai nhi qua rau.
    2. Đường phụ: Thật ra không đáng ngại. Nhiều người đồn không đúng rằng siêu vi khuẩn HIV có thể trú ngụ trong nước mắt, nước bọt, nước tiểu, phân... Và nếu như có thì số lượng cũng quá ít không đủ gây bệnh. Đã có một thời, người ta không dám bắt tay, đắp chung chăn, dùng chung đĩa đựng thức ăn, ngủ giường của người khác, thậm chí người ta sợ cả bàn chải đánh răng và dao cạo râu... Còn về muỗi, giống côn trùng truyền bệnh sốt rét thì cho đến nay chưa có gì chứng minh rằng chúng sẽ truyền cả siêu vi khuẩn HIV.
    11.37. Ai là những người dễ mắc bệnh?
    Những người có quan hệ ******** đồng giới mắc trước tiên vì họ có nhiều đối tượng ********. ******** dị giới ít đối tượng ******** hơn. Khốn nỗi, không có ranh giới dứt khoát giữa ******** đồng giới và dị giới, cho nên bệnh SIDA có thể nói là "không biên giới". Sau đấy, đến người nghiện ma tuý và người mắc bệnh máu không đông và bây giờ thì lây lan ra đủ mọi ngoại người.
    11.38. Bệnh tiến triển ra sao? Cách chữa thế nào?
    Hiện ở Pháp có khoảng 200.000 người xét nghiệm máu thấy có HIV. Chỉ 1/2 có biểu hiện ban đầu của bệnh: sốt nhẹ, nổi vài hạch, hơi nhức tứ chi... chỉ giống như người bị cảm cum sbình thuờng. 5, 6 tháng hoặc hàng năm sau, mới lại xuất hiện những hội chứng như: Viêm hong liên tiếp, nổi hạch, sốt, mệt, tiêu chảy v.v... Những triệu chứng này tiến triển rất oái oăm, có khi tăng, có khi giảm và có khi đột ngột biến mất. Người mắc bệnh SIDA bi suy giảm hoặc mất đi khả năng miễn dịch, tức là khả năng kháng khuẩn. Cơ thể không còn chống đỡ nổi các bệnh tật khác. Và bệnh kapose là bệnh nguy hiểm nhất đối với người mang siêu vi khuẩn HIV, thường dẫn họ đến cái chết.
    Thuốc điều trị hiện nay để nhằm tiêu diệt vi khuẩn HIV gồm có: Ribarivène, Suramine, HPA - 23 và nhất là AZT, thứ thuốc người ta đặt nhiều hi vọng hơn cả. Còn vắc - xin phòng bệnh SIDA có lẽ phải đợi cho đến thế kỷ XXI may ra mới tìm được.
    11.39. Những ai cần đi khám và thử để phát hiện bệnh?
    Tất cả những người thuộc các nhóm dễ mắc: nghiện ma tuý, ******** đồng giới, ******** lưỡng tính, mắc bệnh không đông máu và những người được truyền máu trước năm 1985 và tất cả những ai có quan hệ ******** khả nghi. Cần khám cả cho phụ nữ, nhất là những người có thai hoặc đang muốn có thai.
    Việc thử phản ứng hiện nay rất chính xác. Tuy nhiên, cũng đã có một số trường hợp phản ứng dương tính nhưng thật ra không mắc bệnh cho nên người ta phải dùng đến kỹ thuật Westernblot, chỉ thực hiện được ở trung tâm có trang bị đặc biệt. Sau khi được khẳng định tại những trung tâm này, việc điều trị mới tiến hành.
    11.40. Các biện pháp đề phòng.
    Vì chưa có thuốc điều trị thật sự hiệu quả, nên việc đề phòng hết sức quan trọng:
    - Thầy thuốc nói chung, đặc biệt thầy thuốc ngoại khoa, răng hàm mặt... phải tiến hành vô trùng cần thận các dụng cụ.
    - Người nghiện ma tuý tuyệt đối không được trao đổi ống tiêm chích.
    - Giao hợp với những đối tượng mới quen biết phải dùng bao *********. Nên chọn loại hơi dầy cho bảo đảm và loại đã được bôi trơn hoặc tự bôi trơn bằng thuốc mỡ đựng trong hộp kèm theo. Khi đụng vào bao, chỉ dùng ngón tay mà không dùng móng tay để tránh làm rách bao. Rút ********* ra khỏi âm đạo từ từ khi vẫn còn cương, để tránh tụt bao lại trong âm đạo. Tuy biện pháp này "cổ lỗ" và giảm khoái cảm đôi chút nhưng nó là biện pháp duy nhất phòng bệnh SIDA hiện nay.
    11.41. Việc thông tin về bệnh SIDA.
    Hết sức cần thiết vì đó là bệnh dịch "nguy hiểm" nhất của thời đại hiện nay và lại chưa có biện pháp chữa trị hiệu quả. Chúng tôi rất mong có một cuốn sách chứa đựng những thông tin bình tĩnh, khách quan và dễ hiểu về căn bệnh hiểm nghèo này.
    (Mr. Cancer, mời!)
  2. cancer

    cancer Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/02/2002
    Bài viết:
    1.277
    Đã được thích:
    1
    Chương 6
    Thai nghén

    6.1. Chậm thấy kinh một, hai, ba, bốn, năm ngày, liệu đã có "gì" chưa?
    Có nhiều nguyên nhân khiến kinh nguyệt chậm (xem câu 40, 90 và nhũng câu tiếp theo0, những phụ nữ thường biết những dấu hiệu nào tỏ ra mình đã có thai và ít khi họ làm. Trước hết, bạn căn cứ vào nhân nhiệt lúc sáng sớm (xem câu 57): lên quá 37 độ đã 15 ngày rồi mà vẫn không tụt xuống. Rồi một vài "linh cảm" khó nói ra cụ thể, chẳng hạn lúc thức dậy buổi sáng thấy hơi khang khác... Chỉ là những dẫu hiệu nhỏ, nhưng khó rõ ràng (xem câu 90). Xem lịch thì đã 10, 12 ngày rồi mà chưa thấy kinh. Bạn hãy đến thầy thuốc để khám có đúng như mình dự đoán không?
    6.2. Nếu đến khám trước khi biết chậm thấy kinh đủ 15 ngày
    Thầy thuốc chưa thể nói chắc chắn, nhưng đã có thể phỏng đoán gần đúng (xem câu 90) và giúp bạn theo dõi thêm. Nếu bạn thấy hay buồn ngủ, luôn mót tiểu tiện, mệt mỏi, buồn nôn, vú nhạy cảm, dễ đau thì đấy là những dấu hiệu ít khi sai. Thầy thuốc khám còn cho biết thêm cổ tử cung có gì khác về hình dạng, màu sắc. Thầy thuốc có thể để nghị bạn làm xét nghiệm (xem câu 91, 92, 93). Và điều duẹ đoán thường không còn sai.
    6.3. Kết quả đúng thế: bạn có thai
    Nếu là lần đầu tiên, bạn thấy đất dưới chân như chao đảo. Ngay nếu là lần có thai thứ 2, 3 và bạn đã có 1, 2 con, cái cảm giác đứng trước một điều huyền bí nào đó vẫn cứ xuất hiện. Đấu là khi bạn cũng đang muốn có con. Bao nhiêu cảm xúc lẫn lộn: chút mừng vui, chút kiêu hãnh. Bạn đừng lấy làm lạ nếu thấy có những cảm giác đó. Và tất nhiên cạn cũng có đôi chút hồi hộp lo lắng. Đức trẻ trong bụng là trai hay gái? Liệu nó sẽ thế nào? Tốt nhất đừng băn khăn một mình mà bạn nên trao đổi với thầy thuốc hơn là với mẹ hay bà con, cô bác. Việc sinh đẻ ngày hôm nay, đâu còn bí mật và may rủi như thời cổ xưa nữa. Khoa học đã khám phá ra bao nhiều điều và sẽ giúp được bạn trong mọi tình huống một cách tốt đẹp.
    6.4. Những nỗi lo
    Sự có thai kéo theo bao nhiêu biến đổi trong cơ thể và tâm trạng bạn. Thân thể bạn nặng nề thêm, lại những nỗi mỏi mệt. Vú to ra và nặng, chân phù lên, da có thể mang những chấm nâu. Bạn hồi hộp và lo âu đủ thứ. Bản hỏi người hơn tuổi, đọc sách báo nói về sinh nở, tìm những lời khuyên. Tính tình bạn trở nên cả tin và dễ xúc động hơn.
    Bắt đầu có thai, bạn nên đi khám mỗi tháng một lần, ít nhất cũng trong bảy tháng đầu, rồi sau đó, hai tháng một lần cũng đủ. Tháng cuối cùng, bạn cần được theo dõi tỉ mỉ và chu đáo.
    6.5. Những dấu hiệu mà bạn phải lưu ý
    Thông thường sự mang thai và sinh nở diễu ra tốt đẹp. Tuy nhiên, bạn vẫn cần theo dõi và lưu ý những dấu hiệu sau:
    - Tháng đầu bạn có thể thấy những lúc quặn nhẹ, cảm giác nằng nặng ở bụng dưới. Nhưng nếu đau dữ dội và lặp lại liên tiếp thì đó là dấu hiệu không bình thường, bạn cần đến thầy thuốc khám.
    - Huyết ra: nếu có thai mà huyết ra là chuyện không bình thường. Tất nhiên, lúc mới có thai, huyết có thể ra vài lần nhưng ít và nguyên nhân do việc tiết hormon bị thay đổi. Dù sao bạn cũng nên khám phụ khoa để biết rõ nguyên nhân. Nếu huyết ra do chảy máu ở cổ tử cung thì không có chuyện gì, nhưng nếu là do vị trí của rau hay do thai thì bạn phải coi chừng. Biện pháp thăm bằng sóng siêu âm là các tốt nhất để biết thai có làm sao không.
    - Không thấy thai máy. Mới hôm qua thôi còn thấy nó đạp, nhưng bây giờ không thấy. Đây là dấu hiệu cực kỳ nghiêm trọng, bạn phải đi khám ngay.
    - Đi tiểu buốt và mót luôn. Rất có thể chỉ là nhiễm trùng đường tiết niệu, nhưng cũng cần đi khám bởi vì nếu nhiễm trùng đường tiết niệu hoặc bệnh về thận, rất dễ gây đẻ non hoặc có thể gây nhiều nguy cơ khác.
    6.6. Khi nào bắt đầu thấy bụng to
    Đây là dấu hiệu nhất thiết phải có. Tất nhiên bụng ro làm hình dáng bạn trở nên khác lạ, thậm chí xâu đi, nhưng bạn vẫn có thể tạo cho mình một ngoại hình dễ mến.
    Bụng bắt đau to, trước tháng thứ 3 hay thứ 4, bạn vẫn có giấy vì hình dạng bên ngoài không thay đổi. Tuy nhiên ngay từ tháng thứ nhất, bạn đã thấy có thây đổi, cạp quần hay váy trở nên chật, không phải do tử cung to ra (thật ra tử cung mới twf kích thước bằng quả lê nhỏ sang kích thước quả cam) mà do da và cơ bụng chứ nhiều nước, do estrogene thấm lâu vào máu gây nên. Đến tháng thứ 3, eo bạn biến mất nhưng nói chung, dáng người bạn vẫn chưa thay đổi nhiều lắm. Từ tháng thứ 4, tử cung lớn hẳn lên và nhô lên ngang rốn. Tháng thứ 5, tử cung cao vượt trên rốn và bụng phình ra lên phía vú. Tháng thứ 9, bụng to nhất (đo được 33cm) và lấn chiếm hết khu vực lõm ở nơi dạ dày. Hai vai ngả ra phía sau và dáng đi của bạn biến đổi hẳn.
    Thêm một nét nữa: một đường màu nâu chạy từ rốn xuống mu do sắc tố của da thay đổi do chịu ảnh hưởng của hormon. Vú nở to trong suốt thời gian mang thai và hai núm sẫm lại. Thường xuất hiện những mạch máu xanh chạy trên hai vú, ngay dưới da và nếu bóp vào núm, bạn sẽ thấy xuất hiện vài giọt nước trắng gọi là sữa non. Sắc da mặt cũng thay đổi, được gọi là "mặt nạ mang thai".
    6.7. Thời gian bình thường của quá trình mang thai
    Có hai cách tính: một cách tính từ ngày thụ thai nghĩa là 14 ngày trước kỳ thấy kinh đáng lẽ xảy ra nhưng đã không xảy ra. Ví du: vòng kinh 28 ngày thì ngày thụ thai được tính vào ngày thứ 14. Nhưng nếu vòng kinh là 34 ngày thì ngày thụ thai lại được tính là ngày thứ 20 của vòng kinh, nhưng cách tính này người ta đã bỏ vì vòng kinh có thể thay đổi, không đều. Ngày nay, thông thường người ta tính từ ngày thấy kinh cuối cùng và như thế thời gian thai nghén sẽ là 40,5 tuần hay 283 ngày. Nên nhớ rằng thời gian 283 ngày là trung bình, còn trên thực tế, thời gian mang thai xê dịch từ 265 ngày đến 294 ngày.
    6.8. Những sự biến hóa của cuộc sống thai nhi
    Hai, ba tháng đầu tiên đối với người mẹ không có gì phải lo lắng nhiều: buồn nôn, chóng ặmt và hơi mệt mỏi. Nhưng đối với thai nhi thì đây là thời kỳ quan trọng nấht và diễn ra những biến hsoa kỳ diệu nhất của cuộc sống. Y học gọi 10 tuần đầu tiên là thời kỳ "phôi thai" khi từ cái trứng biến thành một con người tuy mới đơn sơ. Từ một tế bào đầu tiên đã được nhân lên rất nhanh và các mô đã xuất hiện liên tiếp tạo nên những cơ quan. Lúc đầu phôi chưa có hình, chưa có mặt, mới chỉ là cái phôi mờ nhạt, nhưng nó phát triển theo một chương trình định trước, từng giây đồng hồ một, chính xác và nhanh đến chóng mặt.
    Tuần thứ 4, "đứa trẻ" đã dài 5mm, trông giống như hạt đậu nhưng đã có 4 cái núm nhỏ nhô ra để sau đất trở thành hai chân, hai tay. Xuất hiện dần dần dạ dày, ruột, gan, tuyến, tụy, thực quản, khí quản, phổi, thận, tim (mới chỉ là một cái ống đang nở dần), cột sống rồi não (mới chỉ là ba túi nhỏ xíu)
    Tuần thứ 5, "bé" dài đến 8mm, đã có một mẩu giống như cái đuôi, ruột dài ra, phế quản, tim lớn dần và não đã có thêm hai túi nhỏ.
    Tuần thứ 6 đã dài 12mm. Nhìn rõ đầu và tứ chi, trai hay gái, lúc này còn chưa rõ, nhưng tim đã bắt đầu đập. Não tiếp tục được tạo dựng, tai bắt đầu nhú ra.
    Tuần thứ 7, "bé" đã dài 17mm, thấy rõ các ngón. Đuôi nhỏ lại, mặt và cổ hiện ra. Thấy được cả hai mắt, và tim bắt đầu có van. Lúc này "bé" giống như cái cây đang mọc, nảy nở ra theo đúng "chương trình" đã định trước. Hai tháng, "bé" đã dài 2, 3 cm gần bằng con bọ hung và mọi bộ phần đã gần đủ.
    Lúc này không còn là phôi nữa mà đã thành thai. Bộ phận sinh dụng xuất hiện để em thành trai hay gái. Bộ xương bắt đầu hình thành. Hai tháng rưỡi, "bé" dài 4cm, đã có tuỷ sống, tụy, thanh đới bắt đầu xuất hiện. Ba tháng, "bé" dài 5, 6cm và mọi bộ phận hầu như đã đủ.
    Tháng thứ 4, "bé" lớn lên rất nhanh và dài 11cm, đã có mắt, mũi, miệng và cơ bắt bắt đầu cử động.
    Bụng bạn to dần và bạn hãy thật thanh thản.
    6.9. Lúc sắp ra, "bé" như thế nào?
    Thai nặng chừng 3,2kg và dài chứng 50cm, đã có đủ các móng chân, móng tay và tóc đã khá dài. Bạn sẽ thấy "bé" hơi lắm lông, nhưng không sao, rồi sẽ mất đi.
  3. cancer

    cancer Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/02/2002
    Bài viết:
    1.277
    Đã được thích:
    1
    Chương 6
    Thai nghén

    6.1. Chậm thấy kinh một, hai, ba, bốn, năm ngày, liệu đã có "gì" chưa?
    Có nhiều nguyên nhân khiến kinh nguyệt chậm (xem câu 40, 90 và nhũng câu tiếp theo0, những phụ nữ thường biết những dấu hiệu nào tỏ ra mình đã có thai và ít khi họ làm. Trước hết, bạn căn cứ vào nhân nhiệt lúc sáng sớm (xem câu 57): lên quá 37 độ đã 15 ngày rồi mà vẫn không tụt xuống. Rồi một vài "linh cảm" khó nói ra cụ thể, chẳng hạn lúc thức dậy buổi sáng thấy hơi khang khác... Chỉ là những dẫu hiệu nhỏ, nhưng khó rõ ràng (xem câu 90). Xem lịch thì đã 10, 12 ngày rồi mà chưa thấy kinh. Bạn hãy đến thầy thuốc để khám có đúng như mình dự đoán không?
    6.2. Nếu đến khám trước khi biết chậm thấy kinh đủ 15 ngày
    Thầy thuốc chưa thể nói chắc chắn, nhưng đã có thể phỏng đoán gần đúng (xem câu 90) và giúp bạn theo dõi thêm. Nếu bạn thấy hay buồn ngủ, luôn mót tiểu tiện, mệt mỏi, buồn nôn, vú nhạy cảm, dễ đau thì đấy là những dấu hiệu ít khi sai. Thầy thuốc khám còn cho biết thêm cổ tử cung có gì khác về hình dạng, màu sắc. Thầy thuốc có thể để nghị bạn làm xét nghiệm (xem câu 91, 92, 93). Và điều duẹ đoán thường không còn sai.
    6.3. Kết quả đúng thế: bạn có thai
    Nếu là lần đầu tiên, bạn thấy đất dưới chân như chao đảo. Ngay nếu là lần có thai thứ 2, 3 và bạn đã có 1, 2 con, cái cảm giác đứng trước một điều huyền bí nào đó vẫn cứ xuất hiện. Đấu là khi bạn cũng đang muốn có con. Bao nhiêu cảm xúc lẫn lộn: chút mừng vui, chút kiêu hãnh. Bạn đừng lấy làm lạ nếu thấy có những cảm giác đó. Và tất nhiên cạn cũng có đôi chút hồi hộp lo lắng. Đức trẻ trong bụng là trai hay gái? Liệu nó sẽ thế nào? Tốt nhất đừng băn khăn một mình mà bạn nên trao đổi với thầy thuốc hơn là với mẹ hay bà con, cô bác. Việc sinh đẻ ngày hôm nay, đâu còn bí mật và may rủi như thời cổ xưa nữa. Khoa học đã khám phá ra bao nhiều điều và sẽ giúp được bạn trong mọi tình huống một cách tốt đẹp.
    6.4. Những nỗi lo
    Sự có thai kéo theo bao nhiêu biến đổi trong cơ thể và tâm trạng bạn. Thân thể bạn nặng nề thêm, lại những nỗi mỏi mệt. Vú to ra và nặng, chân phù lên, da có thể mang những chấm nâu. Bạn hồi hộp và lo âu đủ thứ. Bản hỏi người hơn tuổi, đọc sách báo nói về sinh nở, tìm những lời khuyên. Tính tình bạn trở nên cả tin và dễ xúc động hơn.
    Bắt đầu có thai, bạn nên đi khám mỗi tháng một lần, ít nhất cũng trong bảy tháng đầu, rồi sau đó, hai tháng một lần cũng đủ. Tháng cuối cùng, bạn cần được theo dõi tỉ mỉ và chu đáo.
    6.5. Những dấu hiệu mà bạn phải lưu ý
    Thông thường sự mang thai và sinh nở diễu ra tốt đẹp. Tuy nhiên, bạn vẫn cần theo dõi và lưu ý những dấu hiệu sau:
    - Tháng đầu bạn có thể thấy những lúc quặn nhẹ, cảm giác nằng nặng ở bụng dưới. Nhưng nếu đau dữ dội và lặp lại liên tiếp thì đó là dấu hiệu không bình thường, bạn cần đến thầy thuốc khám.
    - Huyết ra: nếu có thai mà huyết ra là chuyện không bình thường. Tất nhiên, lúc mới có thai, huyết có thể ra vài lần nhưng ít và nguyên nhân do việc tiết hormon bị thay đổi. Dù sao bạn cũng nên khám phụ khoa để biết rõ nguyên nhân. Nếu huyết ra do chảy máu ở cổ tử cung thì không có chuyện gì, nhưng nếu là do vị trí của rau hay do thai thì bạn phải coi chừng. Biện pháp thăm bằng sóng siêu âm là các tốt nhất để biết thai có làm sao không.
    - Không thấy thai máy. Mới hôm qua thôi còn thấy nó đạp, nhưng bây giờ không thấy. Đây là dấu hiệu cực kỳ nghiêm trọng, bạn phải đi khám ngay.
    - Đi tiểu buốt và mót luôn. Rất có thể chỉ là nhiễm trùng đường tiết niệu, nhưng cũng cần đi khám bởi vì nếu nhiễm trùng đường tiết niệu hoặc bệnh về thận, rất dễ gây đẻ non hoặc có thể gây nhiều nguy cơ khác.
    6.6. Khi nào bắt đầu thấy bụng to
    Đây là dấu hiệu nhất thiết phải có. Tất nhiên bụng ro làm hình dáng bạn trở nên khác lạ, thậm chí xâu đi, nhưng bạn vẫn có thể tạo cho mình một ngoại hình dễ mến.
    Bụng bắt đau to, trước tháng thứ 3 hay thứ 4, bạn vẫn có giấy vì hình dạng bên ngoài không thay đổi. Tuy nhiên ngay từ tháng thứ nhất, bạn đã thấy có thây đổi, cạp quần hay váy trở nên chật, không phải do tử cung to ra (thật ra tử cung mới twf kích thước bằng quả lê nhỏ sang kích thước quả cam) mà do da và cơ bụng chứ nhiều nước, do estrogene thấm lâu vào máu gây nên. Đến tháng thứ 3, eo bạn biến mất nhưng nói chung, dáng người bạn vẫn chưa thay đổi nhiều lắm. Từ tháng thứ 4, tử cung lớn hẳn lên và nhô lên ngang rốn. Tháng thứ 5, tử cung cao vượt trên rốn và bụng phình ra lên phía vú. Tháng thứ 9, bụng to nhất (đo được 33cm) và lấn chiếm hết khu vực lõm ở nơi dạ dày. Hai vai ngả ra phía sau và dáng đi của bạn biến đổi hẳn.
    Thêm một nét nữa: một đường màu nâu chạy từ rốn xuống mu do sắc tố của da thay đổi do chịu ảnh hưởng của hormon. Vú nở to trong suốt thời gian mang thai và hai núm sẫm lại. Thường xuất hiện những mạch máu xanh chạy trên hai vú, ngay dưới da và nếu bóp vào núm, bạn sẽ thấy xuất hiện vài giọt nước trắng gọi là sữa non. Sắc da mặt cũng thay đổi, được gọi là "mặt nạ mang thai".
    6.7. Thời gian bình thường của quá trình mang thai
    Có hai cách tính: một cách tính từ ngày thụ thai nghĩa là 14 ngày trước kỳ thấy kinh đáng lẽ xảy ra nhưng đã không xảy ra. Ví du: vòng kinh 28 ngày thì ngày thụ thai được tính vào ngày thứ 14. Nhưng nếu vòng kinh là 34 ngày thì ngày thụ thai lại được tính là ngày thứ 20 của vòng kinh, nhưng cách tính này người ta đã bỏ vì vòng kinh có thể thay đổi, không đều. Ngày nay, thông thường người ta tính từ ngày thấy kinh cuối cùng và như thế thời gian thai nghén sẽ là 40,5 tuần hay 283 ngày. Nên nhớ rằng thời gian 283 ngày là trung bình, còn trên thực tế, thời gian mang thai xê dịch từ 265 ngày đến 294 ngày.
    6.8. Những sự biến hóa của cuộc sống thai nhi
    Hai, ba tháng đầu tiên đối với người mẹ không có gì phải lo lắng nhiều: buồn nôn, chóng ặmt và hơi mệt mỏi. Nhưng đối với thai nhi thì đây là thời kỳ quan trọng nấht và diễn ra những biến hsoa kỳ diệu nhất của cuộc sống. Y học gọi 10 tuần đầu tiên là thời kỳ "phôi thai" khi từ cái trứng biến thành một con người tuy mới đơn sơ. Từ một tế bào đầu tiên đã được nhân lên rất nhanh và các mô đã xuất hiện liên tiếp tạo nên những cơ quan. Lúc đầu phôi chưa có hình, chưa có mặt, mới chỉ là cái phôi mờ nhạt, nhưng nó phát triển theo một chương trình định trước, từng giây đồng hồ một, chính xác và nhanh đến chóng mặt.
    Tuần thứ 4, "đứa trẻ" đã dài 5mm, trông giống như hạt đậu nhưng đã có 4 cái núm nhỏ nhô ra để sau đất trở thành hai chân, hai tay. Xuất hiện dần dần dạ dày, ruột, gan, tuyến, tụy, thực quản, khí quản, phổi, thận, tim (mới chỉ là một cái ống đang nở dần), cột sống rồi não (mới chỉ là ba túi nhỏ xíu)
    Tuần thứ 5, "bé" dài đến 8mm, đã có một mẩu giống như cái đuôi, ruột dài ra, phế quản, tim lớn dần và não đã có thêm hai túi nhỏ.
    Tuần thứ 6 đã dài 12mm. Nhìn rõ đầu và tứ chi, trai hay gái, lúc này còn chưa rõ, nhưng tim đã bắt đầu đập. Não tiếp tục được tạo dựng, tai bắt đầu nhú ra.
    Tuần thứ 7, "bé" đã dài 17mm, thấy rõ các ngón. Đuôi nhỏ lại, mặt và cổ hiện ra. Thấy được cả hai mắt, và tim bắt đầu có van. Lúc này "bé" giống như cái cây đang mọc, nảy nở ra theo đúng "chương trình" đã định trước. Hai tháng, "bé" đã dài 2, 3 cm gần bằng con bọ hung và mọi bộ phần đã gần đủ.
    Lúc này không còn là phôi nữa mà đã thành thai. Bộ phận sinh dụng xuất hiện để em thành trai hay gái. Bộ xương bắt đầu hình thành. Hai tháng rưỡi, "bé" dài 4cm, đã có tuỷ sống, tụy, thanh đới bắt đầu xuất hiện. Ba tháng, "bé" dài 5, 6cm và mọi bộ phận hầu như đã đủ.
    Tháng thứ 4, "bé" lớn lên rất nhanh và dài 11cm, đã có mắt, mũi, miệng và cơ bắt bắt đầu cử động.
    Bụng bạn to dần và bạn hãy thật thanh thản.
    6.9. Lúc sắp ra, "bé" như thế nào?
    Thai nặng chừng 3,2kg và dài chứng 50cm, đã có đủ các móng chân, móng tay và tóc đã khá dài. Bạn sẽ thấy "bé" hơi lắm lông, nhưng không sao, rồi sẽ mất đi.
  4. cancer

    cancer Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/02/2002
    Bài viết:
    1.277
    Đã được thích:
    1
    6.10. Rau và dây rốn
    Rau làm nhiệm vụ tạo cho thai phát triển. Tiếng latin, rau (placenta) nghĩa là "cái bánh ngọt". Quả vậy, cái bánh đó bán vào thành tử cung và nối với thai bằng dây rốn, cung cấp các chất bổ cần thiết cho thai, làm trung gian giữa mẹ và thai trong suốt thời gian 9 tháng 10 ngày. Rau hình thành ngay từ lúc trứng thụ tinh vào "nằm ổ" và nờ nó mà thấy thuốc biết bạn có thai hay không. Rau lớn lên cùng với thai và đến tháng thứ 4, có đường kính 8cm. Khi bạn sinh con, rau đã có đường kính 20cm và nặng khoảng 0,5kg.
    Dây rốn nối rau với thai, dài chứng 50cm và đường kính 1-2cm. Rau không chỉ cung cấp chất bổ mà còn thải cặn bã. Nó làm nhiệm vụ thay phôi, thay bộ máy tiêu hóa và thận, đồng thời còn bảo vệ thai khỏi những tấn công của các vi khuẩn có thể có. Rau càng "khoẻ" thì thai càng phát triển tốt.
    6.11 Nước ối
    Trong thời kỳ bạn thai nghén, tử cung biến thành cái túi và đựng trong một thứ chất lỏng gọi là nước ối, trong hơi trắng, khối lượng chừng 0,5lít, chủ yếu là nước (99%) và các muối khoáng, đường mỡ và các hormon.
    Vai trò của nó là duy trì lượng nước cần thiết cho thai, đồng thời bảo vệ thai bởi vì chỉ trong môi trường nước như vậy, thai mới chuyển dịch dễ dàng và những va đập bên ngoài không ảnh hưởng trực tiếp được. Chẳng hạn, bạn ngã, vấp, vé được lớp nước ối che chở nên không bị va đập gì. Sau hết, lớp nước ối còn bảo vệ cho thai khỏi mọi tiếp cận của vi khuẩn độc hại trong suốt thời gian này. Đến lúc trở dạ, nước ối cũng tạo chất nhờn cho thai dễ dàng chui ra ngoài.
    6.12. Còn tử cung thì sao
    Đây là bộ phận quan trong bậc nhất cho thai. Nó thay đổi hình dạn vô cùng, bình thường chỉ là một cái túi nhỏ cao 7cm, rộng3cm, vậy mà đến khi bạn sinh nở, nó cao lên đến 32cm và rộng 22cm, nghĩa là dung tích tăng gấp 10 lần. Trọng lượng của nó từ 50g đến 1kg. Bình thường dung tích của nó chỉ 2-3ml, vậy mà cuối cùng lên đến 5l.
    Muốn vậy, cơ của nó thay đổi ghê gớm, biến thành hệ thống sợi có tính đàn hồi rất cao. Tử cung to ra, thành của nó cũng dày lên. Tất cả những biến đổi ấy là nhờ các hormon sinh dục, chủ yếu là progesterone.
    Tuy nhiên, trong thời gian mang thai, cơ thể bạn cũng phải thích ứng với những biến đổi trên. Bàng quang của bạn bị đẩy lên phía trước, ruột lui ra phía sau, sang hai bên, khiến bạn luôn thấy mót tiểu tiện và bị táo bón. Dạ dày bị đẩy lên trên khiến bạn hay thấy bụng óc ách. Nhưng yên tâm, sau khi vị khách quý chui ra ngoài, mọi thứ sẽ trở lại bình thường như ngày trước.
    6.13. Buồn nôn và nôn
    Thai nghén kèm theo những cơn buồn nôn trong thời gian đầu, bạn rất khó chịu trong người. Đây là một trong những dẫu hiệu thụ thai và mức độ khó chịu tăng giảm tùy theo từng người. Nôn hoặc chỉ buồn nồn xuất hiện và sáng sớm hoặc trong các bữa ăn. Bạn tưởng như do các mùi lạ (mùi thơm dưới bếp, mùi thuốc là) nhưng không phải. Triệu chứng buồn nôn mát đi vào tháng thú 4. Nguyên nhân có lẽ do các hormon tăng lên. Nếu nôn nhiều quá, ảnh hưởng đến sức khoẻ, bạn hãy hỏi thầy thuốc.
    6.14. Đau lưng và đau dây tọa
    Đau lưng nhói đau ở xung quanh lưng cũng như đứng lâu, ngồi lâu thấy mỏi, đều là những"khó chịu nhỏ" kèm thêm. Nguyên nhân là do phải đỡ cái bụng mỗi lúc một nặng, bạn phải ngửa lưng và bắt cột sống phải chịu những tư thế chưa quan, các cơ bắp bên dưới lưng cũng không thích hợp kiph. Tốt nhất là bạn nên thường xuyên "nghỉ lưng" nhất là vào những tháng cuối. Tránh đứng lâu và tránh làm việc nặng. Có khi bạn phải dùng phương pháp động lực học giảm nhẹ cho bạn những khó chịu đó ở lưng.
    6.15 Trĩ
    Là những giãn tĩnh mạch nhỏ ở hậu môn, nhiều khi rất đau và chảy máu. Nếu như trĩ xuất hiện liên tiếp trong thời gian mang thai thì bắt nguồn từ hai nguyên nhân: một do táo bón, phải rặn nhiều, hai ở tử cung phìn ra, ép vào ruột và bụng khiến các tĩnh mạch nở to, tạo dễ chảy máu.
    Người ta thường dùng thuốc mỡ bôi. Nếu trĩ vẫn tiếp tục sau khi đẻ (trường hợp hiếm) thì phải tiêm một số thuốc sclerose, trĩ mới khỏi hẳn được. Bệnh này không có gì nguy hiểm.
    6.16. Ra nưóc bọt nhiều, làm thế nào?
    Có khi ra tới 1 lít trong một tiếng đồng hồ, khiến bạn hết sức mất thời gian, không còn làm được gì và triệu chứng này kéo dài cho tới tháng thứ 7, thậm chí cho tới lúc sinh. Nhưng có điều nước bọt ngừng tiếp ra trong giấc ngủ. Phải chăng đây là dấu hiệu của thần kinh không ổn định.
    6.17. Và cơ đau rát như bỏng
    Ở dạ dày và kéo lên đến thực quản, thường xuất hiện vào những tháng cuối, đặc biệt là trong lúc bạn nằm ngửa hoặc cúi người về phía trước. Khi đứng thẳng, bệnh hết. Phương pháp chữa đơn giản nhất là đề nghị thầy thuộc kê đơn cho mua thứ bột uống để tráng lên thành dạ dày và thực quản một lớp bảo vệ.
    6.18. Coi chứng táo bón
    Rất phiền toái tuy không có gì nguy hiểm. Bạn không nên dùng thuốc. Nên ăn các thức ăn mền và dùng viên nhuận tràng gốc thực vật hoặc dầu parafine. Phải quan tâm hàng ngày mới hy vọng giảm được nỗi khó chịu do táo bón gây ra.
  5. cancer

    cancer Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/02/2002
    Bài viết:
    1.277
    Đã được thích:
    1
    6.10. Rau và dây rốn
    Rau làm nhiệm vụ tạo cho thai phát triển. Tiếng latin, rau (placenta) nghĩa là "cái bánh ngọt". Quả vậy, cái bánh đó bán vào thành tử cung và nối với thai bằng dây rốn, cung cấp các chất bổ cần thiết cho thai, làm trung gian giữa mẹ và thai trong suốt thời gian 9 tháng 10 ngày. Rau hình thành ngay từ lúc trứng thụ tinh vào "nằm ổ" và nờ nó mà thấy thuốc biết bạn có thai hay không. Rau lớn lên cùng với thai và đến tháng thứ 4, có đường kính 8cm. Khi bạn sinh con, rau đã có đường kính 20cm và nặng khoảng 0,5kg.
    Dây rốn nối rau với thai, dài chứng 50cm và đường kính 1-2cm. Rau không chỉ cung cấp chất bổ mà còn thải cặn bã. Nó làm nhiệm vụ thay phôi, thay bộ máy tiêu hóa và thận, đồng thời còn bảo vệ thai khỏi những tấn công của các vi khuẩn có thể có. Rau càng "khoẻ" thì thai càng phát triển tốt.
    6.11 Nước ối
    Trong thời kỳ bạn thai nghén, tử cung biến thành cái túi và đựng trong một thứ chất lỏng gọi là nước ối, trong hơi trắng, khối lượng chừng 0,5lít, chủ yếu là nước (99%) và các muối khoáng, đường mỡ và các hormon.
    Vai trò của nó là duy trì lượng nước cần thiết cho thai, đồng thời bảo vệ thai bởi vì chỉ trong môi trường nước như vậy, thai mới chuyển dịch dễ dàng và những va đập bên ngoài không ảnh hưởng trực tiếp được. Chẳng hạn, bạn ngã, vấp, vé được lớp nước ối che chở nên không bị va đập gì. Sau hết, lớp nước ối còn bảo vệ cho thai khỏi mọi tiếp cận của vi khuẩn độc hại trong suốt thời gian này. Đến lúc trở dạ, nước ối cũng tạo chất nhờn cho thai dễ dàng chui ra ngoài.
    6.12. Còn tử cung thì sao
    Đây là bộ phận quan trong bậc nhất cho thai. Nó thay đổi hình dạn vô cùng, bình thường chỉ là một cái túi nhỏ cao 7cm, rộng3cm, vậy mà đến khi bạn sinh nở, nó cao lên đến 32cm và rộng 22cm, nghĩa là dung tích tăng gấp 10 lần. Trọng lượng của nó từ 50g đến 1kg. Bình thường dung tích của nó chỉ 2-3ml, vậy mà cuối cùng lên đến 5l.
    Muốn vậy, cơ của nó thay đổi ghê gớm, biến thành hệ thống sợi có tính đàn hồi rất cao. Tử cung to ra, thành của nó cũng dày lên. Tất cả những biến đổi ấy là nhờ các hormon sinh dục, chủ yếu là progesterone.
    Tuy nhiên, trong thời gian mang thai, cơ thể bạn cũng phải thích ứng với những biến đổi trên. Bàng quang của bạn bị đẩy lên phía trước, ruột lui ra phía sau, sang hai bên, khiến bạn luôn thấy mót tiểu tiện và bị táo bón. Dạ dày bị đẩy lên trên khiến bạn hay thấy bụng óc ách. Nhưng yên tâm, sau khi vị khách quý chui ra ngoài, mọi thứ sẽ trở lại bình thường như ngày trước.
    6.13. Buồn nôn và nôn
    Thai nghén kèm theo những cơn buồn nôn trong thời gian đầu, bạn rất khó chịu trong người. Đây là một trong những dẫu hiệu thụ thai và mức độ khó chịu tăng giảm tùy theo từng người. Nôn hoặc chỉ buồn nồn xuất hiện và sáng sớm hoặc trong các bữa ăn. Bạn tưởng như do các mùi lạ (mùi thơm dưới bếp, mùi thuốc là) nhưng không phải. Triệu chứng buồn nôn mát đi vào tháng thú 4. Nguyên nhân có lẽ do các hormon tăng lên. Nếu nôn nhiều quá, ảnh hưởng đến sức khoẻ, bạn hãy hỏi thầy thuốc.
    6.14. Đau lưng và đau dây tọa
    Đau lưng nhói đau ở xung quanh lưng cũng như đứng lâu, ngồi lâu thấy mỏi, đều là những"khó chịu nhỏ" kèm thêm. Nguyên nhân là do phải đỡ cái bụng mỗi lúc một nặng, bạn phải ngửa lưng và bắt cột sống phải chịu những tư thế chưa quan, các cơ bắp bên dưới lưng cũng không thích hợp kiph. Tốt nhất là bạn nên thường xuyên "nghỉ lưng" nhất là vào những tháng cuối. Tránh đứng lâu và tránh làm việc nặng. Có khi bạn phải dùng phương pháp động lực học giảm nhẹ cho bạn những khó chịu đó ở lưng.
    6.15 Trĩ
    Là những giãn tĩnh mạch nhỏ ở hậu môn, nhiều khi rất đau và chảy máu. Nếu như trĩ xuất hiện liên tiếp trong thời gian mang thai thì bắt nguồn từ hai nguyên nhân: một do táo bón, phải rặn nhiều, hai ở tử cung phìn ra, ép vào ruột và bụng khiến các tĩnh mạch nở to, tạo dễ chảy máu.
    Người ta thường dùng thuốc mỡ bôi. Nếu trĩ vẫn tiếp tục sau khi đẻ (trường hợp hiếm) thì phải tiêm một số thuốc sclerose, trĩ mới khỏi hẳn được. Bệnh này không có gì nguy hiểm.
    6.16. Ra nưóc bọt nhiều, làm thế nào?
    Có khi ra tới 1 lít trong một tiếng đồng hồ, khiến bạn hết sức mất thời gian, không còn làm được gì và triệu chứng này kéo dài cho tới tháng thứ 7, thậm chí cho tới lúc sinh. Nhưng có điều nước bọt ngừng tiếp ra trong giấc ngủ. Phải chăng đây là dấu hiệu của thần kinh không ổn định.
    6.17. Và cơ đau rát như bỏng
    Ở dạ dày và kéo lên đến thực quản, thường xuất hiện vào những tháng cuối, đặc biệt là trong lúc bạn nằm ngửa hoặc cúi người về phía trước. Khi đứng thẳng, bệnh hết. Phương pháp chữa đơn giản nhất là đề nghị thầy thuộc kê đơn cho mua thứ bột uống để tráng lên thành dạ dày và thực quản một lớp bảo vệ.
    6.18. Coi chứng táo bón
    Rất phiền toái tuy không có gì nguy hiểm. Bạn không nên dùng thuốc. Nên ăn các thức ăn mền và dùng viên nhuận tràng gốc thực vật hoặc dầu parafine. Phải quan tâm hàng ngày mới hy vọng giảm được nỗi khó chịu do táo bón gây ra.
  6. cancer

    cancer Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/02/2002
    Bài viết:
    1.277
    Đã được thích:
    1
    6.19. Mất ngủ: hảy xảy thai
    Vào những tháng 5, 6, 7. Tuy tầm thường nhưng bạn đừng coi thường vì làm bạn dễ mệt mỏi. Đừng ngại dùng loại thuốc an thần nhẹ vì không ảnh hưởng gì đến thai hết mà giúp bạn thoải mái lúc sáng dậy. Thời gian thai nghén cần được nghỉ ngơi đầy đủ.
    6.20. Nước da người mang thai
    Nhiều bạn thấy xuất hiện những chấm nâu, như thể rám nắng ở trán, má khiến vẻ mặt bạn xấu đi. Đành chịu vậy thôi, đẻ xong alf hết, những tốt nhất tránh phơi nắng.
    6.21. Những vết chân chim
    Do vỡ những sợi đàn hồi ở da, xuất hiện ở háng, bụng, vú. Nhiều bạn không có nhưng nhiều bạn lại đầy những vệt dài, phân nhánh như vết chân chim. Những thuốc thấy bán ở thị trường nói chung đều không công hiệu. Chỉ có một cách nên áp dụng là giữa vệ sinh da và xoa dầu hạnh nhân.
    6.22. Nhiễm độc thai nghén: có nghiêm trọng hay không
    Nghiêm trọng, khoảng 5% phụ nữ có thai mắc phải bệnh này. Biểu hiện là trong nước tiểu có protein, phù hai mắt cá chân, sưng mi mắt và huyết áp lên cao. Nếu bệnh được phát triện và điều trị kịp thời thì không sao, đứa trẻ ra đời vẫn khoẻ mạnh. Nhưng nếu không phát hiện ra và điều trị, sẽ gây sản giật, nguyen hiểm đến tính mạng cả mẹ và con.
    Để biết trước, thầy thuốc theo dõi cần thường xuyên đo huyết áp, xét nghiệm nước tiểu, tìm protein và cảnh giác với những hiện tượng phù.
    6.23. Bệnh cúm: coi chừng
    Có nhiều thứ cảm, có những kiểu cúm chỉ cần uống một chút rượu quế là khỏi. Nhưng coi chừng bệnh cúm "thật sự", nghĩa là bạn sốt cao tới 39-40 độ liền trong 8 ngày. Bạn phải mời thầy thuốc điều trị thực sự. Bệnh cúm do virus gây hậu quả xấu, chẳng hạn đẻ non. Cho nên, nếu mắc, bạn đừng ngại dùng kháng sinh để tránh bội nhiễm. CÒn đề phòng, bạn có thể tiêm phòng, ăn uống đủ chất, nhất là trong mùa đông, dùng vitamin C để tăng sức đề kháng, tranh những nơi dễ lây bệnh, đặc biệt trong thời gian có dịch cúm. Tuy nhiên, bạn nên nhớ rằng không phải cứ bị cúm là đẻ non. Hậu quả này có khi xảy ra có khi không và thường không xảy ra nếu bạn điều trị cẩn thận.
    6.24. Tránh bệnh quai bị
    Bệnh quai bị dễ gây sẩy thai, điều đó đã được xác nhận, nhưng không gây dị dạng cho thai bao giờ.
    6.25. Bệnh sởi cũng cần đề phòng
    Bạn có thai cần tránh vì bệnh sởi làm nửa số thai bị chết. Tuy chưa có ai dám khẳng định, nhưng nhiều trường hợp sởi vào đầu thời kỳ thai nghén đã làm biến dạng thai.
    6.26. Bệnh rubéol
    Bệnh rubéol bản thân là bệnh nhẹ ít ai quan tâm đến. Triệu chứng chỉ là vài mảng đỏ hồng, hạch ở cổ và nhiệt độ tăng lên đôi chút. khoảng 38 độ và biến mất sau hai ngày. Nhưng ngày nay, y học phát hiện ra, bệnh này thường gây dị dạng cho thai, nhất là nếu bạn mắc vào đầu thời kỳ thai nghén. Tốt nhất là phụ nữa đang tuổi sinh nở dùng thuốc phòng. Hiện đã có thứ vacxin chống bệnh này, chỉ một mũi trích dưới da là yên tâm.
    Khi khám một phụ nữ có thai, thầy thuộc vội tìm ngay xem trong máu có kháng thể bệnh rubéol không và xác định đó là kháng thể do hiện đang mắc bệnh hay do thuốc phòng dùng trước đây tạo nên trong máu, hay do đã bị bệnh này từ nhỏ mà quyết định cách xử lý. Nếu từ nhỏ bạn đã mắc bệnh thì cơ thể bạn có sẵn kháng thể, lần sau không thể mắc lại nữa. Cho nên các bà mẹ khi thấy có dịch đừng ngại để con lây và mắc. Vì bị mắc một lần từ nhỏ, sau này sẽ không mắc lại nữa.
    6.27. Bệnh toxoplasmose
    Toxoplasmose là một ký sinh trùng vào theo đường miệng, do ăn thịt sống hoặc tái. Bệnh mắc vào thời kỳ đầu thai nghén dễ gây biến dạng cho thai. Khi mắc lúc thường, bệnh này đơn giản và không gây nguy hiểm gì: sốt nhẹ và nổi hạch vài ngày là khỏi. Bệnh rất phổ biến. Sau tháng thú 3, bệnh này hâu như không biểu hiện gì và hậu quả của nó nhiều khi đứa trẻ lớn lên mới thấy xuất hiện dị tật ở mắt.
    nếu người mẹ trước kia bị bệnh này và hiện đang có kháng thể trong người thì không sao. Nhưng nếu chưa hề mắt mà bây giờ mới mắc thì rất nguy hiểm. Khám phụ nữ có thai, thầy thuốc bao giờ cũng thử lấy máu trong phôi xét nghiệm để xem mẹ đã được miễn dịch chưa, và nếu chưa mà bây giờ mới mắt thì thường phải hủy thai. Gần đây, người ta tìm ra loại kháng sinh để chữa và nhiều trường hợp chữa được không phải hủy thai. Tuy nhiên, đứa trẻ sinh ra cũng không thể hoàn toàn bình thường như trẻ khác, mặc dù hậu quả có được giảm nhiều.
  7. cancer

    cancer Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/02/2002
    Bài viết:
    1.277
    Đã được thích:
    1
    6.19. Mất ngủ: hảy xảy thai
    Vào những tháng 5, 6, 7. Tuy tầm thường nhưng bạn đừng coi thường vì làm bạn dễ mệt mỏi. Đừng ngại dùng loại thuốc an thần nhẹ vì không ảnh hưởng gì đến thai hết mà giúp bạn thoải mái lúc sáng dậy. Thời gian thai nghén cần được nghỉ ngơi đầy đủ.
    6.20. Nước da người mang thai
    Nhiều bạn thấy xuất hiện những chấm nâu, như thể rám nắng ở trán, má khiến vẻ mặt bạn xấu đi. Đành chịu vậy thôi, đẻ xong alf hết, những tốt nhất tránh phơi nắng.
    6.21. Những vết chân chim
    Do vỡ những sợi đàn hồi ở da, xuất hiện ở háng, bụng, vú. Nhiều bạn không có nhưng nhiều bạn lại đầy những vệt dài, phân nhánh như vết chân chim. Những thuốc thấy bán ở thị trường nói chung đều không công hiệu. Chỉ có một cách nên áp dụng là giữa vệ sinh da và xoa dầu hạnh nhân.
    6.22. Nhiễm độc thai nghén: có nghiêm trọng hay không
    Nghiêm trọng, khoảng 5% phụ nữ có thai mắc phải bệnh này. Biểu hiện là trong nước tiểu có protein, phù hai mắt cá chân, sưng mi mắt và huyết áp lên cao. Nếu bệnh được phát triện và điều trị kịp thời thì không sao, đứa trẻ ra đời vẫn khoẻ mạnh. Nhưng nếu không phát hiện ra và điều trị, sẽ gây sản giật, nguyen hiểm đến tính mạng cả mẹ và con.
    Để biết trước, thầy thuốc theo dõi cần thường xuyên đo huyết áp, xét nghiệm nước tiểu, tìm protein và cảnh giác với những hiện tượng phù.
    6.23. Bệnh cúm: coi chừng
    Có nhiều thứ cảm, có những kiểu cúm chỉ cần uống một chút rượu quế là khỏi. Nhưng coi chừng bệnh cúm "thật sự", nghĩa là bạn sốt cao tới 39-40 độ liền trong 8 ngày. Bạn phải mời thầy thuốc điều trị thực sự. Bệnh cúm do virus gây hậu quả xấu, chẳng hạn đẻ non. Cho nên, nếu mắc, bạn đừng ngại dùng kháng sinh để tránh bội nhiễm. CÒn đề phòng, bạn có thể tiêm phòng, ăn uống đủ chất, nhất là trong mùa đông, dùng vitamin C để tăng sức đề kháng, tranh những nơi dễ lây bệnh, đặc biệt trong thời gian có dịch cúm. Tuy nhiên, bạn nên nhớ rằng không phải cứ bị cúm là đẻ non. Hậu quả này có khi xảy ra có khi không và thường không xảy ra nếu bạn điều trị cẩn thận.
    6.24. Tránh bệnh quai bị
    Bệnh quai bị dễ gây sẩy thai, điều đó đã được xác nhận, nhưng không gây dị dạng cho thai bao giờ.
    6.25. Bệnh sởi cũng cần đề phòng
    Bạn có thai cần tránh vì bệnh sởi làm nửa số thai bị chết. Tuy chưa có ai dám khẳng định, nhưng nhiều trường hợp sởi vào đầu thời kỳ thai nghén đã làm biến dạng thai.
    6.26. Bệnh rubéol
    Bệnh rubéol bản thân là bệnh nhẹ ít ai quan tâm đến. Triệu chứng chỉ là vài mảng đỏ hồng, hạch ở cổ và nhiệt độ tăng lên đôi chút. khoảng 38 độ và biến mất sau hai ngày. Nhưng ngày nay, y học phát hiện ra, bệnh này thường gây dị dạng cho thai, nhất là nếu bạn mắc vào đầu thời kỳ thai nghén. Tốt nhất là phụ nữa đang tuổi sinh nở dùng thuốc phòng. Hiện đã có thứ vacxin chống bệnh này, chỉ một mũi trích dưới da là yên tâm.
    Khi khám một phụ nữ có thai, thầy thuộc vội tìm ngay xem trong máu có kháng thể bệnh rubéol không và xác định đó là kháng thể do hiện đang mắc bệnh hay do thuốc phòng dùng trước đây tạo nên trong máu, hay do đã bị bệnh này từ nhỏ mà quyết định cách xử lý. Nếu từ nhỏ bạn đã mắc bệnh thì cơ thể bạn có sẵn kháng thể, lần sau không thể mắc lại nữa. Cho nên các bà mẹ khi thấy có dịch đừng ngại để con lây và mắc. Vì bị mắc một lần từ nhỏ, sau này sẽ không mắc lại nữa.
    6.27. Bệnh toxoplasmose
    Toxoplasmose là một ký sinh trùng vào theo đường miệng, do ăn thịt sống hoặc tái. Bệnh mắc vào thời kỳ đầu thai nghén dễ gây biến dạng cho thai. Khi mắc lúc thường, bệnh này đơn giản và không gây nguy hiểm gì: sốt nhẹ và nổi hạch vài ngày là khỏi. Bệnh rất phổ biến. Sau tháng thú 3, bệnh này hâu như không biểu hiện gì và hậu quả của nó nhiều khi đứa trẻ lớn lên mới thấy xuất hiện dị tật ở mắt.
    nếu người mẹ trước kia bị bệnh này và hiện đang có kháng thể trong người thì không sao. Nhưng nếu chưa hề mắt mà bây giờ mới mắc thì rất nguy hiểm. Khám phụ nữ có thai, thầy thuốc bao giờ cũng thử lấy máu trong phôi xét nghiệm để xem mẹ đã được miễn dịch chưa, và nếu chưa mà bây giờ mới mắt thì thường phải hủy thai. Gần đây, người ta tìm ra loại kháng sinh để chữa và nhiều trường hợp chữa được không phải hủy thai. Tuy nhiên, đứa trẻ sinh ra cũng không thể hoàn toàn bình thường như trẻ khác, mặc dù hậu quả có được giảm nhiều.
  8. cancer

    cancer Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/02/2002
    Bài viết:
    1.277
    Đã được thích:
    1
    6.28. Bệnh listerisse
    Hậu quả cũng giống như bệnh rubeol và bệnh toxoplasome và cũng là do mầm bệnh có trong thịt sống hoặc tái. Khi thấy có sự nghi ngờ phải đi khám và tìm kháng thể sớm để liệu đối phó.
    6.29. Bệnh sốt rét
    Làm cho người mang thai bị nôn nhiều và rất khó chịu, dễ gây sẩy thai hoặc đẻ non. Tốt nhất là người mẹ điều trị bằng quinine là thuốc không gây sẩy thai như nhiều người lầm tưởng.
    6.30. Virus HIV
    Người ta tìm thấy virus HIV có thể lọt qua rau thai và có nhiều khả năng đứa con sinh ra cũng mắc bệnh giống như mẹ. Hiện chưa có thuốc chữa. Phụ nữ mang virus HIV không nên có thai và nếu đã có thai mới phát hiện bệnh thì phải hủy thai ngay.
    6.31. Bệnh giang mai
    Xét nghiệm để tìm vi khuẩn giang mai là việc bắt buộc đối với tát cả các bà mẹ sắp sinh nở. Kết quả là từ 1-2% bà mẹ được khám mắc bệnh. Hậu quả của bệnh giang mai tới đứa trẻ là:
    - sẩy thai muộn vào tháng thứ 5.
    - đẻ non.
    - thai chết lưu.
    - đứa con nếu sinh ra cũng mang nhiều di chứng.
    Việc điều trị phải tiến hành trước tháng thứ 5 và bằng penicilline cho cả mẹ lẫn con, vì sau tháng thứ 5 thai đã mang mầm bệnh của mẹ rồi. Việc chữa sớm và đúng phương pháp thường đem lại kết quả tốt.
    6.32 Viêm gan virus
    Bệnh có thể gây sẩy thai hoặc đẻ non, trên thực tế chưa có cách chữa công hiệu.
    6.33. Viêm ruột thừa
    Tỷ lệ mắc bệnh là 1 phần nghìn, nghĩa là hết sức hiếm. Nhưng nếu mắc? Nếu mắc vào những tháng đầu, xử trí như với viêm ruột thừa thông thường và không gây hậu quả nào hết. Nếu mắc vào thời kỳ cuối (tháng thứ 8 hoặc 9) thì rất nguy hiểm cho cả mẹ và con. Tuy nhiên đây là trường hợp cực kỳ hãn hữu.
    6.34. Bệnh đái tháo đường
    Gây rát nhiều phiền toái: huyết áp cao, nước tiểu có protein, nêu không bị thai thai chết trong tử cung mà đẻ được thì lại đẻ rất khó vì đứa trẻ quá to, thường trên 4kg. Đẻ con thường bị nhiễm trùng và đứa trẻ cũng sẽ mắc bệnh đái tháo đường giống mẹ. Tuy nhiên, không thể cấm phụ nữ mắc bệnh đái tháo đường không được có con, nhưng thời gian có thai phải được theo dõi hết sức cẩn thận và chu đáo do hai thầy thuốc chuyên khoa nội tiết và sản khoa.
    6.35. Thời gian mang thai có được tiêm chủng không?
    Tùy loại vacxin, nếu vacxin dùng virus đã chết (vacxin bại liệt, uốn ván hay tả) thì hoàn toàn vô hại. Nhưng vacxin chống bệnh rubeol, thương hàn và phó thương hàn, ho gà thì không được vì rất nguy hiểm.
    6.36. Dùng thuốc trong lúc mang thai có thật sự là nguy hiểm không?
    Rất khó trả lời. Bản thân thầy thuốc nhiều khi cũng lúng túng không biết thứ thuốc đó có hai cho người mang thai hay không. Hơn nữa, cần phần biệt thuốc dùng trong ba tháng đầu và thuốc dùng trong sáu tháng cuối.
    Ba tháng đầu, có nguy cơ biến dạng phôi. Một thời, thuốc an thần thalidomie tưởng vô hại vậy mà đã gây nên bao nhiêu quái thai. Tuy nhiên nhiều loại thuốc an thần khác lại dùng không sao. Dù sao nên tránh dùng thuốc trong khi mang thai.
    Đối với hormon (hormon sinh dục nam có thể "nam hóa" một phôi nữ) hoàn toàn không nên dùng. Trong 6 tháng cuối, cần đề phòng nhiễm độc thai, tránh các loại thuốc có thuốc phiện, thuốc an thần, barbiturique dùng liều cao, cortisone. Còn trong các thuốc kháng sinh, tránh loại cycline vì làm hỏng răng đứa trẻ sau này. Cẩn thận với streptomycine có thể gây điếc tai. Cố tránh dùng các lại sulfamide kháng khuẩn, đặc biệt thuốc đông máu rất nguy hiểm.
  9. cancer

    cancer Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/02/2002
    Bài viết:
    1.277
    Đã được thích:
    1
    6.28. Bệnh listerisse
    Hậu quả cũng giống như bệnh rubeol và bệnh toxoplasome và cũng là do mầm bệnh có trong thịt sống hoặc tái. Khi thấy có sự nghi ngờ phải đi khám và tìm kháng thể sớm để liệu đối phó.
    6.29. Bệnh sốt rét
    Làm cho người mang thai bị nôn nhiều và rất khó chịu, dễ gây sẩy thai hoặc đẻ non. Tốt nhất là người mẹ điều trị bằng quinine là thuốc không gây sẩy thai như nhiều người lầm tưởng.
    6.30. Virus HIV
    Người ta tìm thấy virus HIV có thể lọt qua rau thai và có nhiều khả năng đứa con sinh ra cũng mắc bệnh giống như mẹ. Hiện chưa có thuốc chữa. Phụ nữ mang virus HIV không nên có thai và nếu đã có thai mới phát hiện bệnh thì phải hủy thai ngay.
    6.31. Bệnh giang mai
    Xét nghiệm để tìm vi khuẩn giang mai là việc bắt buộc đối với tát cả các bà mẹ sắp sinh nở. Kết quả là từ 1-2% bà mẹ được khám mắc bệnh. Hậu quả của bệnh giang mai tới đứa trẻ là:
    - sẩy thai muộn vào tháng thứ 5.
    - đẻ non.
    - thai chết lưu.
    - đứa con nếu sinh ra cũng mang nhiều di chứng.
    Việc điều trị phải tiến hành trước tháng thứ 5 và bằng penicilline cho cả mẹ lẫn con, vì sau tháng thứ 5 thai đã mang mầm bệnh của mẹ rồi. Việc chữa sớm và đúng phương pháp thường đem lại kết quả tốt.
    6.32 Viêm gan virus
    Bệnh có thể gây sẩy thai hoặc đẻ non, trên thực tế chưa có cách chữa công hiệu.
    6.33. Viêm ruột thừa
    Tỷ lệ mắc bệnh là 1 phần nghìn, nghĩa là hết sức hiếm. Nhưng nếu mắc? Nếu mắc vào những tháng đầu, xử trí như với viêm ruột thừa thông thường và không gây hậu quả nào hết. Nếu mắc vào thời kỳ cuối (tháng thứ 8 hoặc 9) thì rất nguy hiểm cho cả mẹ và con. Tuy nhiên đây là trường hợp cực kỳ hãn hữu.
    6.34. Bệnh đái tháo đường
    Gây rát nhiều phiền toái: huyết áp cao, nước tiểu có protein, nêu không bị thai thai chết trong tử cung mà đẻ được thì lại đẻ rất khó vì đứa trẻ quá to, thường trên 4kg. Đẻ con thường bị nhiễm trùng và đứa trẻ cũng sẽ mắc bệnh đái tháo đường giống mẹ. Tuy nhiên, không thể cấm phụ nữ mắc bệnh đái tháo đường không được có con, nhưng thời gian có thai phải được theo dõi hết sức cẩn thận và chu đáo do hai thầy thuốc chuyên khoa nội tiết và sản khoa.
    6.35. Thời gian mang thai có được tiêm chủng không?
    Tùy loại vacxin, nếu vacxin dùng virus đã chết (vacxin bại liệt, uốn ván hay tả) thì hoàn toàn vô hại. Nhưng vacxin chống bệnh rubeol, thương hàn và phó thương hàn, ho gà thì không được vì rất nguy hiểm.
    6.36. Dùng thuốc trong lúc mang thai có thật sự là nguy hiểm không?
    Rất khó trả lời. Bản thân thầy thuốc nhiều khi cũng lúng túng không biết thứ thuốc đó có hai cho người mang thai hay không. Hơn nữa, cần phần biệt thuốc dùng trong ba tháng đầu và thuốc dùng trong sáu tháng cuối.
    Ba tháng đầu, có nguy cơ biến dạng phôi. Một thời, thuốc an thần thalidomie tưởng vô hại vậy mà đã gây nên bao nhiêu quái thai. Tuy nhiên nhiều loại thuốc an thần khác lại dùng không sao. Dù sao nên tránh dùng thuốc trong khi mang thai.
    Đối với hormon (hormon sinh dục nam có thể "nam hóa" một phôi nữ) hoàn toàn không nên dùng. Trong 6 tháng cuối, cần đề phòng nhiễm độc thai, tránh các loại thuốc có thuốc phiện, thuốc an thần, barbiturique dùng liều cao, cortisone. Còn trong các thuốc kháng sinh, tránh loại cycline vì làm hỏng răng đứa trẻ sau này. Cẩn thận với streptomycine có thể gây điếc tai. Cố tránh dùng các lại sulfamide kháng khuẩn, đặc biệt thuốc đông máu rất nguy hiểm.
  10. cancer

    cancer Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/02/2002
    Bài viết:
    1.277
    Đã được thích:
    1
    6.37. X quang cũng cần tránh
    Dùng trong tuần lễ thứ nhất có thể giết chết trứng, từ tuần lế thứ 2 đến thứ 8 có thể làm biến dạng phôi. Tất nhiên, cũng còn tùy chụp hoặc soi X quang bộ phận nào. Nếu X quang sọ thì đỡ (dùng 2 bản âm), nhưng X quang ruột (dùng 15 bản âm) thì rất nguy hiểm. Dù sao cũng nên cố tránh, chẳng hạn X quang phổi sau tháng thứ 6 đã có thể gây nguy hiểm.
    6.38. Mỗi lần có thai mất một cái răng
    Đó là dư luận sai. Răng hỏng là theo tuổi tác, đâu phải do chửa đẻ. Tất nhiên nếu bạn đang đau răng thì mang thai có thể làm đau thêm. Cho nên tốt nhất nên chữa răng đi đã và việc chữa trong thời kỳ thai nghén là hoàn toàn được, dù có phải gây tê tại chỗ cũng không sao. Dùng các thuốc can-xi để bổ dùng là việc không cần thiết.
    6.39. Thắt lưng dành cho người chửa: không nên dùng
    Không có tác dụng gì hết mà lại có hại. Nếu bạn muốn giữ cho khỏi quá xồ xề thì tốt nhất hãy tập thể dụng hàng ngày, làm vài động tác bụng nhẹ nhàng.
    6.40. Dùng nịt vú?
    Nếu như nịt vú cần thiết lúc bình thường thì thời gian mang thai lại càng cần thiết. Vú to lên, nặng ra, rất cần được đỡ bên dưới. Mọi động tác thể dục đều không giúp ích gì được bạn đâu. Bạn có thể đeo cả ban đêm nếu thấy dễ chịu. Nịt vú tốt là đỡ vú mà không bó chặt đến mức khiến bạn thấy tức thở. Đeo nịt vú còn giúp bạn tránh được hiện tượng chân chim.
    Còn việc chuẩn bị để sau này có sữa cho con bú thì không còn. Làm gi lúc này cũng quá sớm và không có tác dụng gì hết.
    6.41. ĐI chơi buổi tối được không?
    Tại sao không? Chỉ cần đừng thức quá khuya. Nên giữ sinh hoạt bình thường, chỉ cần chú ý ngủ đủ. Nhớ rằng người mang thai cần ngủ nhiều hơn người bình thường, hầu như ngủ cho cả đứa còn nữa.
    6.42. Tắm thì sao?
    Một số người quan niệm phụ nữ có thai tắm dễ trượt chân khi bước ra khỏi bồn tắm và trong thời kỳ cuối dễ để nước lọt vào tử cung vì cổ tử cung lúc đó không khép hẳn như lúc không có thai. Tất cả điều đó đều không đúng. Bạn nên giữ sinh hoạt bình thường, chỉ cần cẩn thận hơn, thí dụ nước tắm không nên lạnh quá hoặc nóng quá để tránh thay đổi nhiệt độ đột ngột lúc ra khỏi bồn tắm.
    6.43. Có cần kiêng giao hợp không?
    Không. Nhiều sợ ảnh hưởng đến thai hoặc sợ cửa mình phụ nữ bị bẩn... Tất cả những lo sợ đó không có căn cứ. Chỉ có điều, nếu bạn quen với các kiểu giao hợp oái oăm thì tạm thời bớt đi. Thậm chí, gần đây y học còn nhận thấy quan hệ ******** bình thường giữa bố và mẹ lúc có thai còn tạo cho bộ ba bố - mẹ - con một sự hòa hợp ảnh hưởng tốt đến sự phát triển của thai cũng như tinh thầnh của đữa con sau này.
    6.44. Đứa trẻ trong bụng có thấy cảm xúc của mẹ không?
    Hiện khoa học chưa chứng minh được rõ ràng, nhưng ta có thể dự đoán, cảm xúc vui buồn của mẹ được truyền đạt tới thai bằng ngôn ngữ của các hormon rồi tới não của đứa trẻ qua rau thai. Người mẹ vui, đứa con cũng sẽ vui. Mẹ lo buồn, đứa con cũng lo buồn theo.
    6.45. Đứa con trong bụng có nghe thấy gì không/
    Có. Thai nhi không nhìn thấy nhưng nghe được âm thanh. Bạn thí nghiệm xem. Bạn mở nhạc sẽ thấy cử động của cái thai phần nào chịu tác động tiết tấu vui buồn hay giận dữ của bản nhạc. Tại sao nó lại biết thế nào là nhạc vui , nhạc buồn? Điều đó vẫn còn là điều huyền bí, cho nên chúng ta đừng coi thường môi trường âm thanh bao quanh cái thai.
    Cũng cần biết thêm rằng, nằm tỏng bụng mẹ, đứa bé được nghe tiếng tim đập, tiếng sóng nước ối, tiếng trò chuyện của bố mẹ. Và khi ra đời, những ấn tượng ấy vẫn ghi dấu trong thế giới tiềm thức của nó, tạo nên tình cảm gắn bó.
    Người ta làm thí nghiệm cho một đứa trẻ sơ sinh nghe băng ghi tiếng tim đập của mẹ, nó ngừng khóc ngay và như lắng nghe. Trong khi mở băng ghi tiếng tim đập của người khác thì không thấy có tác động như trên. Kinh nghiệm nuôi con nếu ban đêm con khóc, bạn nhấc nó đặt lên bụng bạn rồi áp tai nó lên chỗ tim bạn, đứa bé sẽ thôi khóc ngay và ngủ thiếp ngon lành.

Chia sẻ trang này