1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

NGỌN ĐÈN SOI SÁNG NĂM GIAI ĐOẠN - Những chỉ dẫn về Mật điển Bí Mật Tập Hội (Guhyashamaja Tantra)

Chủ đề trong 'Yoga - Khí công - Nhân điện - Thiền' bởi Prahevajra, 28/05/2016.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Prahevajra

    Prahevajra Thành viên quen thuộc Staff Member

    Tham gia ngày:
    04/09/2015
    Bài viết:
    168
    Đã được thích:
    0
    Bất cứ nơi nào trí tuệ bất nhị được dạy trong một mật điển, ở đó thực tại tối hậu hiện diện. Nơi nào nó không được dạy, thực tại đó không hiện diện:

    Ý nghĩa cô đọng của mọi tantra,

    Sự bất khả phân giữa tính không và từ bi,

    Bất cứ nơi nào nó được dạy,

    ở đó có dấu ấn của Như Lai,

    Hai âm tiết E và VAM,

    Bất cứ nơi đâu không được tìm thấy,

    Sẽ không tìm thấy thực tại đích thực.​

    Guhyasiddhi có đoạn:

    Được đặt lên đầu các mật điển,

    Bản chất tối thượng của tối thượng

    Được đấng đại lạc dẫn đường

    Gọi là thực tại bí mật,

    Cội nguồn hạnh phúc của chư Phật,

    Bồ tát và tất cả chúng sinh,

    Tàng chứa trong Bí Mật Tập Hội,

    Tantra vua của quán tưởng bí mật.

    Các âm tiết thanh tịnh E và VAM

    Toàn thể tam giới cúi đầu kính trọng.​

    Ngoài ra:

    Trong “cõi giới không gian”,

    Như một quả vừng,

    Chư Như Lai

    Nhiều như cát sông Hằng.

    Nhờ dựa vào phương tiện

    Thực tại của những âm tiết đó

    Chư Phật và Bồ tát

    Đạt tới quả vị cao nhất.​

    Và:

    Ở đây, nếu hai âm tiết,

    Không khởi đầu ở một mật điển,

    Điều đó là không thể chấp nhận.​

    Điều này nói rằng hai âm tiết này phải được trình bày trong phần giới thiệu mở đầu của mọi mật điện tối thượng. Nói cách khác, ngay cả khi các âm tiết EVAM không được trình bày, ý nghĩa đích thực của chúng cần phải được bày tỏ.

    Chữ E của EVAM giới tính, loại thứ ba của EVAM, nghĩa là sự hỗ trợ, là hoa sen của phối ngẫu nữ. Chữ VAkim cương của bản tôn nam được hỗ trợ bởi hoa sen. Giọt M chứa đựng trong kim cương là nền tảng của tất cả lạc thọ, giống như đại lạc của Vajrasattva và các vị khác biến hiện ra nhiều hóa thân:

    Chữ E có đặc tính của bhaga,

    Được biết là hoa sen hỗ trợ,

    Cái được hỗ trợ gọi là kim cương.

    Các dạng giọt chứa đựng bên trong

    Nắm giữ bởi kim cương được hỗ trợ,

    Biến hiện ra nhiều hóa thân;

    Chúng là nền tảng của mọi lạc

    Đại lạc của Vajrasattva Mahasukha.​

    Đoạn này dạy phương pháp khởi đầu con đường EVAM bằng cách phối hợp bản tôn và phối ngẫu – EVAM giới tính. Vì là một phương pháp khởi đầu con đường EVAM từ việc thâm nhập vào các điểm sinh lực trong thân thể, một EVAM giới tính được bố trí ở các điểm vi tế được dạy trong Samputa Tantra như sau:

    Chữ E thực sự xuất hiện

    Ở các luân xa đỉnh đầu và rốn;

    Hiện diện ở luân xa tim và cổ họng,

    Chữ VAM cũng tương tự như vậy.​

    Ý nghĩa của EVAM ở đây được giải thích là hình thức của chữ E như một hình tam giác ở luân xa đỉnh đầu và rốn, còn chữ VA như hình tròn ở luân xa tim và cổ họng. Ở đây, giới tính là giới tính được lấy từ biểu tượng của các hình thức.

    Khi đã hiểu mục tiêu EVAM, nếu bạn muốn đạt đến nó, bạn cần học phương pháp kết hợp E và VAM của pháp môn như được dạy trong hai loại tantra (cha và mẹ). Bạn cần trở nên thành thạo trong các phương pháp đi vào pháp môn đó, đó là EVAM giới tính bên ngoài – sự hợp nhất với phối ngẫu, và EVAM giới tính bên trong của sự thâm nhập vào các luân xa. Tất cả những điểm chính yếu của hai loại tantra đã được bao gồm trong các phương pháp dẫn đến pháp môn đó. Vì vậy, nếu bạn hiểu quá trình của tất cả các tantra như là ý nghĩa của hai âm tiết và các thành phần của nó, bạn sẽ hiểu những lời tán tụng vĩ đại trong các tantra dành cho hai âm tiết vốn thể hiện những ý nghĩa trọng yếu.
  2. Prahevajra

    Prahevajra Thành viên quen thuộc Staff Member

    Tham gia ngày:
    04/09/2015
    Bài viết:
    168
    Đã được thích:
    0
    Giải thích rộng hơn về EVAM

    1. Giải thích chi tiết về ý nghĩa rốt ráo của E và VAM

    2. Cho biết để sản sinh ra ý nghĩa đó của EVAM, người ta phải thâm nhập vào các điểm sinh lực trong thân thể bằng phương tiện của EVAM giới tính

    Giải thích chi tiết ý nghĩa rốt ráo của EVAM

    Ý nghĩa chính yếu của EVAM là ý nghĩa chủ đạo của mọi tantra, và ý nghĩa tận cùng của nó là tính không và từ bi, vậy ý nghĩa của hai thành phần này là gì? Chúng có hai phần:

    1. Tính không và từ bi của lạc - không bất khả phân

    2. Tính không và từ bi của hai chân lý bất khả phân

    Tính không và từ bi của lạc – không bất khả phân

    Chữ E và cội nguồn thực tại, dharmodaya185, đều là hình tam giác và biểu tượng cho chân như của vô ngã. Trong khi đó, hình tam giác còn biểu tượng cho ba cửa giải thoát.186 Do vậy, ý nghĩa biểu tượng của âm tiết E là không tính, không dấu hiệu, không mong cầu, là sự trống vắng của bản tính chân thực, được biểu hiện lần lượt trong thế giới hiện tượng là thực thể, nguyên nhân và kết quả. Do vậy, những biểu hiện của thế giới hiện tượng gồm thực thể, nguyên nhân và kết quả, đối với ý nghĩa của chữ E lại lần lượt là không tính, không dấu hiệu, không mong cầu. Vì thế, nếu chưa có cái thấy đích thực về tính không, ý nghĩa của chữ E sẽ không đầy đủ. Ngay cả khi đã có cái thấy hoàn chỉnh, nếu thiếu đại lạc nảy sinh từ sự thâm nhập vào các điểm sinh lực ở trong và ngoài thân thể, ý nghĩa của chữ VA sẽ không đầy đủ. Ngay cả khi đã có cả hai điều trên, nếu không biết cách làm thế nào để chứng đắc cái thấy về tính không trong giai đoạn tan chảy của lạc, và cách hợp nhất lạc và không, trong đó không là đối tượng còn lạc là chủ thể, xác định cái trước không nhầm lẫn với cái sau, thì khi đó, ý nghĩa của giọt M vẫn chưa đầy đủ.

    Bởi vậy, nếu bạn muốn hiểu về ý nghĩa EVAM như sự hợp nhất bất khả phân của lạc và không, bạn cần phải hiểu những điểm đó. Điều này có ba phần:

    1. Ý nghĩa của không

    2. Ý nghĩa của lạc

    3. Làm thế nào để lạc và không hợp nhất

    Ý nghĩa của không

    1. Nhận dạng gốc rễ của luân hồi

    2. Các truyền thống tìm kiếm thị kiến vô ngã chấm dứt luân hồi giống nhau thế nào

    3. Bác bỏ lời khẳng định các truyền thống trên là không giống nhau
  3. Prahevajra

    Prahevajra Thành viên quen thuộc Staff Member

    Tham gia ngày:
    04/09/2015
    Bài viết:
    168
    Đã được thích:
    0
    Do thói quen tìm kiếm và bám víu vào những gì hiện hữu, khiến hiểu lầm cái không thực trở thành cái thực, bạn trôi lăn trong luân hồi, chừng nào bạn còn nhận thức thực tại bằng cách hiểu này, bạn sẽ không được giải thoát khỏi luân hồi. Ở điểm này, Tràng hoa báu nhận định:

    Khi bạn còn ôm giữ các uẩn,

    Bạn còn ôm giữ cái ngã.

    Khi bạn còn ôm giữ cái ngã, sẽ có nghiệp,

    Và từ nghiệp, sẽ có tái sinh.199

    Bởi vậy, nếu bạn không chấm dứt thói quen nắm giữ những gì hiện hữu có liên hệ với ngũ uẩn, bạn sẽ không thể ngừng tái sinh do nghiệp lực và phiền não.

    Sự giống nhau của các truyền thống có chánh kiến về vô ngã giúp chấm dứt luân hồi

    Bởi vậy, điều cần thiết là không chỉ giác ngộ tính không để nhận ra các uẩn vốn không thật, để xóa bỏ hoàn toàn các dấu vết của sự chấp thủ vào những gì hiện hữu, gốc rễ của luân hồi, mà còn cắt đứt chuỗi nhân duyên trong luân hồi dưới ảnh hưởng của nghiệp lực và phiền não, điều quan trọng là sở đắc được tuệ giác để thấu hiểu không tính. Vì thế, các hành giả thanh văn và độc giác đã cắt đứt chuỗi luân hồi cũng từng hành thiền về chủ đề này trước đó. Điều này đã được giải thích rộng rãi ở nhiều nơi.

    Trong cuốn Bình luận về Bồ đề tâm có đoạn:

    Những người không biết về tính không

    Chẳng có nền tảng để giải thoát.

    Trong ngục tù của sự hiện hữu

    Của sáu nẻo chúng sinh,

    Những loài vô minh mà họ sẽ lang thang.192

    Anangavajra còn nói rằng:

    Do đó, ba loại chúng sinh

    Khao khát hạnh phúc và hưởng lạc,

    Nếu ao ước giải phóng bản thân khỏi thói quen sai lầm,

    Cần từ bỏ sự bám víu vào sự vật hiện tượng

    Bằng cách nương tựa vào một vị thiện tri thức.192

    Theo chỉ dẫn của đoạn trên, không chỉ đối với những người thuộc thừa Triết Học193 mà ngay cả trong Kim cương thừa, điều cần thiết là tìm hiểu chánh kiến về tính không vô ngã và thiền quán về ý nghĩa của nó để ngừng bám luyến vào sự vật hiện tượng, gốc rễ của luân hồi. Mật điển Sự trang hoàng của tinh yếu kim cương cho biết:

    Hiểu về yoga duy nhất,

    Sống trong cô tịch và tinh tấn,

    Những hành vi xấu ác sẽ chuyển hóa thành giác ngộ ngay trong đời này;

    Thiền quán về tính vô ngã của mọi hiện tượng,

    Họ sẽ biết về cái toàn tri.194

    Đoạn này giải thích yoga duy nhất cần được hiểu và hành thiền trong cô tịch, sẽ mang lại giác ngộ trong một đời, là thiền quán về tính vô ngã của mọi hiện tượng. Có nhiều ví dụ tương tự.

    Để ngừng bám luyến vào sự vật hiện tượng và nhận ra không có cái ta, điều cần thiết là bác bỏ các đối tượng được ý thức nắm giữ như cái của ta, và nhận thức rằng chúng không tồn tại thực sự. Nếu chỉ rút tâm trí ra khỏi các đối tượng, mà vẫn quan niệm rằng chúng là có thật, thì không đủ. Vị thầy nhân minh học nói rằng:

    Nếu chẳng bác bỏ cái của ta,

    Thì không thể diệt trừ cái ta.195

    Aryadeva cũng nhận định:

    Khi thấy tất cả đối tượng là vô ngã,

    Bạn sẽ hủy diệt hạt giống luân hồi.196

    Và trong Nhập trung đạo:

    Cần thấy rằng tất cả đau khổ phiền não

    Khi nảy sinh phải được nhìn nhận qua cái thấy của chánh kiến về sự giả hợp vô thường,

    Và nhận thức rằng cái ta cũng là đối tượng của chánh kiến này,

    Yogi sẽ từ bỏ được cái ta.197

    Cách hiểu đúng đắn về chánh kiến vô ngã được giải thích trong các luận thư của mật thừa và Trung quán là như nhau. Bồ đề tâm luận của Long Thọ có đoạn:

    Những bồ tát thực hành mật chú cần phát triển bồ đề tâm, có bản chất là khát vọng, và là tương đối, sau đó nhờ vào định lực, họ cần triển khai bồ đề tâm tuyệt đối. Vì vậy, tôi sẽ nói về điều đó.198

    Sau đó, Long Thọ phủ nhận cái ngã của con người như được khẳng định bởi những truyền thống khác, và cái ngã của các pháp như được thừa nhận bởi những người trong truyền thống của chúng ta, chẳng hạn các vị Thanh Văn khẳng định một sự tồn tại thực sự tách biệt giữa cái hiểu và đối tượng được hiểu, trong khi Yogacara (du già hành tông) khẳng định một tâm thức tồn tại thực sự, chẳng có sự tách biệt giữa cái hiểu và cái được hiểu như những thực thể khác nhau. Đoạn văn sau đó xác nhận tính vô ngã. Bởi vậy, đối với những người trong mật tông, để phát triển bồ đề tâm tuyệt đối thông qua định lực, cách hiểu về vô ngã cần phải phù hợp với những gì được dạy trong các luận thư của Trung Quán.
  4. Prahevajra

    Prahevajra Thành viên quen thuộc Staff Member

    Tham gia ngày:
    04/09/2015
    Bài viết:
    168
    Đã được thích:
    0
    Hai phái Thanh Văn chấp nhận sự tồn tại của thế giới hiện tượng bên ngoài, khẳng định sự tách biệt giữa cái hiểu của ý thức và đối tượng được hiểu, nhưng các thánh Thanh Văn và Bích chi Phật không xác nhận như vậy. Tuy nhiên, đối với những người bình thường đi vào những đạo lộ thanh văn này, cả hai dạng khẳng định trên đều có thể chấp nhận được.

    Bác bỏ khẳng định rằng các truyền thống trên không giống nhau

    Có người, để ủng hộ quan điểm của mình đã trích dẫn trong Tóm lược Giáo lý:

    Tính không đến từ phân tích các uẩn,

    Giống như cây chuối, không có bản chất.

    Tính không với các đặc trưng tối thượng

    Thì lại không phải như vậy.199

    Họ tranh luận rằng, thiền về tính không nhờ vào phân tích đối tượng bằng trí phân biệt của cái ngã thì không phải là truyền thống của Mật thừa. Xin trả lời: Bạn khẳng định rằng thiền về ý nghĩa của vô ngã, vốn đã được xác định rõ ràng trong các kinh thư và luận điểm, chính là thiền về sự trống rỗng trong bản chất, thì bạn quả là rất trí tuệ!200 Ý nghĩa của đoạn trích trên được tìm thấy trong chương năm của Bình luận Ánh Sáng Vô Nhiễm:

    Tính không, đến từ sự phân tích các hiện tượng vốn là tập hợp của nhiều phần tử, khác xa với tính không của sự trống rỗng không tồn tại.201

    Khi chưa đạt đến cái hiểu chính xác về các đối tượng được phủ nhận bằng lý luận trong Trung Quán, thông qua phân tích ngũ uẩn, họ nghĩ rằng sự sinh, diệt, vân vân, hoàn toàn không tồn tại chính là ý nghĩa của vô tự tính. Dạng không tồn tại này của tính không bị bác bỏ ở đây. Đó chẳng phải là trường hợp phân tích bằng trí phân biệt rồi sau đó phủ nhận mọi thứ. Nếu là như vậy, nó sẽ mâu thuẫn với chương hai của Bình luận Ánh Sáng Vô Nhiễm:

    Tâm thức tồn tại tối thượng,

    Không được xác nhận bởi người trí;

    Không có bản tính của một hay nhiều,

    Giống như hoa sen của bầu trời.202

    Ở đây, sử dụng luận điểm của một và nhiều, cùng với ví dụ hoa trời, các uẩn của tâm thức được phân tích thành không có tự tính.

    Thực tế này được nhận ra bởi Trung Quán

    Và:

    Sự thành lập của vô ngã và những điều tương tự được trình bày vắn tắt. Một giải thích chi tiết hơn cần được tìm hiểu trong các kinh văn sâu rộng hơn.203

    Đoạn này nói rằng giáo lý vô ngã được đề cập ngắn gọn trong văn bản này tốt hơn nên được hiểu quả các tác phẩm khác, như các tài liệu của Trung Quán. Luận điểm trên mâu thuẫn với đoạn này. Ngoài ra, trong Bình luận Ánh Sáng Vô Nhiễm có đoạn:

    “Kim cương” là không thể bị phá hủy và chia tách. Khi một thứ tương tự trở thành một cỗ xe, nó là Cỗ Xe Kim Cương; con đường Mật thừa và con đường hoàn thiện, kết quả và nguyên nhân, hợp nhất.204

    Đoạn này nghĩa là cái thấy của tính không trong Đại thừa, thừa nguyên nhân, và đại lạc của Mật thừa, thừa kết quả, hợp lại thành một. Do đó, nhận định truyền thống Kalachakra có cái thấy khác với Đại thừa là hoàn toàn sai.

    Định hướng về cái thấy của tính không được dạy nhiều lần trong Tantra gốc Gyhyashamaja. Ở chương hai, Vairochana cho biết:

    Trống rỗng mọi hiện tượng;

    Các uẩn, thành phần, nguồn gốc,

    Hiểu và được hiểu tất cả bị tử bỏ;

    Với tính bình đẳng vô ngã của mọi hiện tượng,

    Tâm thức của bạn, bất sinh từ vô thủy,

    Là bản chất của tính không.205

    Đây là phần tính không thuộc giáo lý về bồ đề tâm,206 trong tác phẩm Bình luận về Bồ Đề Tâm. Dòng đầu tiên bác bỏ cái ngã được quan niệm bởi những người ngoại đạo. Hai dòng tiếp theo bác bỏ sự tồn tại thực sự tách biệt giữa nhận thức và đối tượng được nhận thức theo cách quan niệm như là hai thành phần tồn tại bên ngoài. Phần còn lại của đoạn thơ bác bỏ sự tồn tại thực sự của tâm trí theo cách quan niệm của các học giả phái Cittamatrin.207

    Tiếp theo tác phẩm của Nagarjuna:

    “Các hiện tượng” là một khái niệm.208

    Sự trống vắng các khái niệm là tính không.

    Ở đâu các khái niệm xuất hiện,

    Làm sao tính không có thể xuất hiện ở đó?

    Tâm thức có các khái niệm và khái niệm hóa

    Chẳng được biết đến bởi Như Lai.

    Nơi nào có các khái niệm và khái niệm hóa,

    Nơi đó không có giác ngộ.209

    “Khái niệm” là ba loại khái niệm như cái ngã của con người, vân vân, nhưng nó không ám chỉ đến từng loại khái niệm.

    Đoạn tiếp theo:

    Bồ đề tâm của chư Phật không bị che khuất

    Vì mang bản chất của tính không210

    Chẳng bị che khuất bởi sự tạo tác các khái niệm

    Về ngã, các uẩn, vân vân

    Ý nghĩa của tuyên bố mọi thứ giống như những giấc mơ trong chương 15 của Tantra gốc được trình bày trong giai đoạn tự cúng dường của năm giai đoạn. Cách thức phân tích của trí phân biệt được mô tả trong mật điển chú giải Tiết lộ Ẩn Ý , bình luận về chương chín của Tantra gốc cho biết, khi không được phân tích, kết quả có nảy sinh từ nguyên nhân, nhưng khi được phân tích,chúng chẳng được tìm thấy ở đâu.211 Chương 16 của Tràng hoa Kim cương nói về cách phân chia mỗi thời thành ba thời rồi phân tích lần lượt.212 Phương pháp của mật điển Sự trang hoàng của Bản tính Kim cương, cũng giống với Bí mật tập hội, phân tích hiện tượng vật chất bằng cách nhìn vào các mặt của các phần tử cấu thành, phân tích tâm trí bằng cách phân chia thành ba thời, nhờ đó xác định được tính không.213 Như vậy họ trình bày một phương thức để có được cái thấy về tính không giống như trong Đại thừa.
  5. Prahevajra

    Prahevajra Thành viên quen thuộc Staff Member

    Tham gia ngày:
    04/09/2015
    Bài viết:
    168
    Đã được thích:
    0
    Guhyasiddhi cho biết:

    Phân tích thực tại của tam giới

    Để thấy không có thực tính214 của một hoặc nhiều.

    Ngoài ra:

    Trong cả tam giới

    Đến đỉnh cao tồn tại

    Khi được khảo sát với phân tích con đường,

    Các uẩn được thấy là không có thật.

    Những người với trí tuệ phân biệt,

    Bất cứ thứ gì họ phân tích ở đây,

    Sẽ nỗ lực duy nhất trong việc này,

    Chừng nào họ còn phân tích,

    Chừng đó tất cả là tịnh quang 215

    Những câu thơ này không nói về khởi sự tìm kiếm quan điểm ban đầu mà quá trình thiền định sau này. Điều này không nên được xem như là cuộc khảo sát lặp đi lặp lại bằng trí tuệ phân biệt vào lúc hợp nhất lạc và không sau khoái lạc, loại thứ tư của lạc, và tịnh quang, loại thứ tư của tính không, đã ló rạng, đúng là bạn không thực hiện trí tuệ phân biệt để phân tích lặp đi lặp lại, mà bạn thực hiện sau khi thiền định lúc đã đạt được trạng thái quân bình hậu thiền. Để gặt hái được trí tuệ đặc biệt trong thiền định quân bình, những người vẫn còn trong giai đoạn niềm tin phân tích đi phân tích lại với trí tuệ phân biệt. Điều này được dạy trong Thừa Ba la mật và hai loại thực hành trí tuệ phân biệt này là không khác nhau.

    Tóm lại, các quan điểm về tính không được tìm thấy trong các văn bản lớn có thể được phân chia thành bốn cấp độ từ thấp đến cao. Sự vô ngã của con người được xác định bởi Sautrantika (Kinh Lượng Bộ) và được chấp nhận bởi tất cả các nhà Đại Thừa, ngoại trừ Prasangika Madhyamaka (Trung Quán Cụ Duyên), tính không được nhận định bởi Yogachara (Du Già Hành Tông), là tính không của sự quy định giữa cái biết và đối tượng được biết như là những thực thể riêng biệt, và đối với các hiện tượng, tính không của sự quy định đó tồn tại bằng cách tự quy định đặc điểm dựa trên bản chất và đặc trưng của các hiện tượng này; thứ ba, tính không khẳng định bởi Svatantrika Madhymaka (Độc lập luận chứng Trung quán) những người một cách quy ước không bác bỏ sự tồn tại đơn thuần bằng các đặc tính, mà bác bỏ toàn bộ tồn tại thực sự nằm ngoài điều đó, và quan điểm không có bản thể của Trung quán Cụ duyên, những người bác bỏ sự tồn tại bằng đặc tính của cả hai chân lý.

    Trong bốn giáo lý này, tính không của lạc và không hợp nhất được dạy cho đệ tử xuất sắc nhất như ngọc quý của Mật thừa Du già Tối cao là giáo lý thứ tư. Liên quan đến tính không của lạc và không hợp nhất cho các hạng để tử khác, quan điểm của Cittamatra (Duy thức) và Svatantrika, cả hai đều có thể xuất hiện tùy vào loại đệ tử. Bốn giáo lý này được phân loại là thấp nhất, trung bình, tốt nhất và tốt nhất trong những thứ tốt nhất trên cơ sở quan niệm của họ về vô ngã. Trong khi đúng là ở các luận giải mật thừa, có một truyền thống giải thích sự hợp nhất lạc và không trên cơ sở lập trường của Citamatra, không có truyền thống nào giải thích sự kết hợp này chỉ trên cơ sở quan điểm vô ngã của con người như đã nói đến trước đây. Vì vậy, liên quan đến tính không trong lạc và không hợp nhất, ít nhất bạn phải xác định được một kiểu tính không là tính không của cái biết và đối tượng được biết như là riêng biệt, như đã được thừa nhận bởi Vijnanavadin (Duy thức). Một trình bày rộng hơn về các luận điểm này có thể tìm thấy ở nơi khác.

    Ý nghĩa của lạc

    Thế nào là lạc và không hợp nhất? Bằng cách chỉ phát triển định của tâm trí nhất niệm, tâm trí hoàn toàn có thể thích nghi, điều này làm các loại khí trong thân thể trở nên rất dễ sử dụng, sản sinh ra một khả năng thích ứng hoàn hảo cho thân thể. Nhờ vậy mà có lạc của thân và hỷ của tâm. Điều này được dạy trong Các giai đoạn của Du già Hành tông của Asanga.Lạc này xuất hiện trong quá trình tu luyện lâu dài bằng cách đặt tâm trong trạng thái vô niệm, là một thực hành phổ biến đối với Phật tử và những người không phải Phật tử, Đại thừa và Tiểu thừa, kinh điển và mật điển. Điều này đã được giảng cùng với kinh văn đã được xác thực Đại luận về các Giai trình trên con đường Giác ngộ. Loại hỷ lạc ấy không phải là lạc của lạc và không.

    Hơn nữa, trong Thừa Triết học, thiền về hơi thở vào và ra cùng các loại thiền được dạy trong Thiền Hậu Kỳ tác mật và Giác Ngộ Đại Nhật hành mật về việc ngăn chặn hơi thở rời khỏi cơ thể và giữ nó bên trong, được dạy là “thiền guru yoga kiểm soát hơi thở”, cũng sinh ra các định làm sản sinh hỷ lạc trong thân và tâm. Tuy nhiên chúng không phải là các loại yoga khí liên quan việc thâm nhập vào các điểm sinh lực tại các luân xa trong thân, và vì vậy nó không phải là lạc của lạc và không trong Tối Thượng Thừa Yoga. Không nên nhầm lẫn những pháp này với pháp trì tụng kim cương khí công và yoga thở cái bình. Acarya Buddhaguhya cũng sắp đặt thực hành niêm giữ hơi thở, giữ nó lại bên trong, và thiền quán bản tôn vào lớp dù già mật.

    Ngoài những điều trên, sự trình bày yoga cái bình trong một bản bình luận về Tâm Kinh và các kỹ thuật thâm nhập điểm sinh lực của các cấp mật tông cao hơn được mô tả bởi các nhà bình luận trong một số phần của các cấp mật tông thấp hơn chỉ là bịa đặt bởi những người không hiểu đúng về sự khác nhau giữa con đường kinh điển và mật điển, giữa lớp cao hơn và thấp hơn của mật tông, và do đó không đáng tin cậy.

    Một cách ngắn gọn, trong ba lớp mật tông thấp hơn, từ mật tông yoga xuống và trong Thừa Triết học, có những mô tả về nhiều trường hợp đạt được lạc thọ vô nhiễm phi thế gian thông qua thiền định không sai lầm về ý nghĩa của tính không. Tuy nhiên chúng không mô tả nội lạc trong sự tan chảy của giọt bồ đề tâm chỉ có được thông qua việc thổi bùng ngọn lửa được nhóm lên bởi khí lực đi vào kinh mạch từ thực hành xuyên thấu vào các điểm sinh lực của các kênh luân xa trong thân thể, do vậy, lạc thọ (ở các thừa thấp) đó không thỏa mãn tiêu chí để làm lạc của lạc và không hợp nhất.
  6. Prahevajra

    Prahevajra Thành viên quen thuộc Staff Member

    Tham gia ngày:
    04/09/2015
    Bài viết:
    168
    Đã được thích:
    0
    Các tập chỉ dẫn nói:

    “Tuy nhiên người ta nói rằng những người đã đạt được định đầu tiên sẽ trải nghiệm lạc thọ như một vị chuyển luân vương. Vì vậy cần gì phải đề cập đến lạc thọ của những người nhận ra hai loại vô ngã? Ngoài ra, chẳng phải cấp đầu tiên được biết có tên là đại hoan hỷ như vậy bởi vì hỷ lạc đặc biệt và phi thường của nó?” Điều đó đúng nhưng lạc thọ đó không phải là cực khoái do đó nó không phải là đại lạc. Hơn nữa, ở giai đoạn của người mới bắt đầu, chẳng có phương pháp nào để đạt được lạc thọ như vậy. Cái lỗ trên một lỗ kim có thể là một lỗ hổng của không gian, nhưng chỉ mỗi nó thôi thì chẳng thể coi là không gian. 216

    Như đã được dạy rằng ngay cả khi đạt được định đầu tiên mà chưa giác ngộ vô ngã, vẫn có sự phát sinh lạc thọ lớn lao. Nếu đúng vậy thì cần gì phải đề cập đến sự phát sinh đại lạc từ thiền định về tính không của hành giả Thừa Ba la mật, người đã nhận thức không sai lầm về hai loại vô ngã rồi sau đó thiền về nó trong thời kỳ lâu dài? Cấp đầu tiên được gọi là đại hoan hỷ là vì hỷ lạc đặc biệt được trải nghiệm ở cấp độ đó. Cho nên bạn có thể thắc mắc “về mặt lạc thọ, có lẽ Thừa Yoga Tối Thượng không vượt trội hơn Thừa Ba la mật.” Câu trả lời: “Đúng là có lạc thọ to lớn đến từ thiền về tính không nhưng nó chẳng phải là cực khoái và vì vậy nó chẳng phải là đại lạc được đề cập đến trong mật tông tối thượng du già. Hơn nữa, trong Thừa Ba la mật, không có phương pháp tạo nên cực khoái nào được dạy trong các giai đoạn khởi đầu. Do vậy thừa của vô thượng du già vẫn cao siêu hơn về mặt đại lạc.

    Cùng văn bản có đoạn:

    Nhưng trong trí tuệ ba la mật chẳng phải có nói về “lạc thọ của sự giác ngộ viên mãn và tối thượng” hay sao? Đúng là có, nhưng nó chẳng dạy phương pháp nào để đạt được trạng thái đó bởi vì nó chẳng dạy phương pháp để đạt được đại lạc cực khoái. Vì vậy chỉ ở cấp độ thực hành này điều đó mới có thể được biết. 217

    Thừa ba la mật không dạy cực khoái nguyên nhân của con đường như là phương pháp để đạt đến đại lạc kết quả của giác ngộ. Do đó, mặc dù có thể nói về đại lạc của giai đoạn kết quả, vẫn có sự khác biệt rất lớn giữa hai thừa. [54]

    Guhyasiddhi nói rằng:

    Hơn nữa, tatva trú ẩn trong các mật điển

    Thì rõ ràng trong Bí Mật Tập Hội vinh quang,

    Được soạn thảo rất chi tiết,

    Và ở những nơi khác được dạy bí mật.

    Trong các phần hành động và thực hiện

    Và trong các rổ kinh văn, kinh điển,

    Hỷ lạc tối thượng duy nhất trú ngụ dưới nhiều hình thức,

    Trong bình chứa các uẩn quý giá,

    Chúng sinh với những cảm xúc cụ thể,

    Cố gắng đạt được tatva, thứ được che giấu,

    Sau đó được trình bày bởi Phật bảo hộ. 218

    Tattva của cực khoái bị che giấu và không được dạy ở các thừa thấp hơn của kinh và mật. Do đó tuyên bố rằng hỷ lạc tối thượng duy nhất trú ngụ trong nhiều hình thức có nghĩa là bạn dần dần được dẫn dắt đến tattva của cực hỷ và được dạy nó trong nhiều hình thức khác nhau. Nó chẳng nói rằng tattva này thực sự được dạy ở đó. Nếu đúng vậy thì những lễ quán đỉnh cao hơn cũng được truyền thụ ở đó, bởi vì nếu không được ban cho quán đỉnh bí mật và những nghi thức tương tự, các giáo lý về tattva của đại lạc bị nghiêm cấm.

    Giáo lý tối thượng này, về cực khoái là một đặc điểm ngoại lệ không tìm thấy trong các thừa khác và mật điển khác, được mô tả trong tất cả các mật điển tối thượng yoga và các bình giảng chân thực của chúng, nhưng vì sợ quá lời, tôi sẽ không viết nó ra đây. Tuy nhiên đối với những người được đào tạo bài bản về chủ đề này, thực tế là có nhiều trường hợp hỷ lạc vô nhiễm phát sinh từ thiền định lâu dài về sự minh định chính xác tính không nhưng đó chẳng phải là cực khoái có thể được biết đến thông qua kiến thức thô thiển về Thừa ba la mật. Ngoài ra, lạc thọ như vậy được gán cho thiền quán bản tôn rất ổn định và vững chắc có thể được hiểu không phải là vô thượng yoga của giai đoạn thành tựu cao nhất từ sự hiểu biết thô thiển về kinh văn của các mật điển thấp hơn. Bởi vì năng lực tinh thần của họ vẫn còn ở mức rất yếu, tuy nhiên, có rất nhiều người nắm giữ ngay cả loại lạc thọ đầu tiên, như đã giải thích trước đây, như là đại lạc của lạc và không hợp nhất. Do đó, lạc thọ được nói đến như là “lạc và không hợp nhất” là cực khoái, sự phát triển ban đầu của nó đến từ việc mang các loại khí từ các kinh mạch trái và phải vào trong avadhuti 219 (trung mạch) để thổi bùng lên ngọn lửa candali, khiến cho giọt bồ đề tâm tan chảy. Loại lạc thọ này và loại lạc thọ được mô tả trước đây có thể cùng tên nhưng sự khác biệt giữa chúng là cực lớn. Cho nên chúng cần được phân biệt rõ ràng.

    Lạc thọ này còn được gọi là từ bi không lĩnh hội. [55] Tập chỉ dẫn nói:

    Phương pháp là từ bi không lĩnh hội, làm việc vì chúng sinh, và sở hữu bản chất của đại khoái lạc. 220

    Có nhiều tài liệu tham khảo như vậy.

    Lạc và không hợp nhất như thế nào

    1. Phần chính

    2. Bác bỏ

    Phần chính

    Làm thế nào mà lạc thọ vốn là lòng từ không lĩnh hội bất khả phân hợp nhất với tính không? Về điều này Samputa tantra nói:

    Nó với bản chất không tạo tác

    Được gọi là trí tuệ,

    Và nó giống như ngọc như ý

    Làm việc cho tất cả chúng sinh là lòng từ

    Trí tuệ an trú trong không lĩnh hội

    Và lòng từ không lĩnh hội

    Cùng trú ngụ trong tâm trí,

    Như không gian vào trong không gian. 221

    Ý nghĩa của điều này được tìm thấy trong Xác minh phương pháp và trí tuệ:

    Với ý thức và đối tượng của ý thức tách biệt,

    Khi được khảo sát với yêu cầu

    Các hiện tượng không có bản thể,

    Điều này được gọi là trí tuệ.

    Đó là thứ xua tan toàn bộ đại dương đau khổ

    Và nguyên nhân của đau khổ

    Là lòng từ gắn liền với chúng sinh

    Và do đó được gọi là tham 222
  7. Prahevajra

    Prahevajra Thành viên quen thuộc Staff Member

    Tham gia ngày:
    04/09/2015
    Bài viết:
    168
    Đã được thích:
    0
    Tách hình thể và tâm trí ra rồi khảo sát chúng để xác định không có bản thể là trí tuệ, và cực khoái hoặc tham ái mong muốn mang lại lợi ích cho chúng sinh thông qua nhiều phương thức khác nhau gọi là từ bi. Văn bản tiếp tục:

    Mang hai thứ đó lại với nhau

    Với yoga bất nhị,

    Như nước pha với sữa,

    Được biết đến là phương tiện và trí tuệ 223

    Do vậy nó hòa quện với nhau như nước hòa với sữa.

    Vì lạc thọ không thể tách rời khỏi thực tại của chính nó, chỉ cần hiện diện thôi thì lạc thọ đã là thực thể chẳng thể tách rời khỏi tính không của chính nó, vì vậy chẳng cần phát triển chúng thành một yoga bất khả phân. Ngoài ra, sự hợp nhất này của lạc và không chẳng phải là trường hợp của một tâm trí riêng biệt nhận biết một tính không và bị niêm phong bởi lạc thọ, hoặc trường hợp phát sinh lạc thọ rồi niêm phong nó với một cái thấy tách biệt về tính không, bởi vì tính không và lạc thọ đó một cách cá thể chẳng trở thành thực thể khác. Ví dụ, bố thí và các thực hành khác có thể được hiểu trên quan điểm vô ngã, nhưng chúng không thể trở thành thực thể của quan điểm.

    Vậy làm thế nào để nó được phát triển? Chủ thể nhận thức được phát triển thành thực thể cực khoái và nhận thức không sai lầm đối tượng của nó là tính không. Sự hợp nhất giữa chủ thể và khách thể này chính là sự kết hợp không thể tách rời giữa lạc và không. Vào thời điểm phát sinh cực khoái thực sự, khách thể và chủ thể trở thành nhất vị, giống như sữa đổ vào nước, và ngay cả hình tướng nhị nguyên vi tế nhất cũng bị loại trừ. [56] Trước khi cực khoái được phát sinh, thực tại của các hiện tượng không được lĩnh hội trực tiếp, và bạn phải tương tác với thực tại đó thông qua niềm tin. 224 Vì vậy chỉ có niềm tin vào hai điều này là nhất vị.

    Đây là cách hợp nhất bất nhị với đối tượng của tính không. Do đó cách để tâm trí nhận ra tính không và lạc thọ hợp nhất bất khả phân thành một thực thể là hai tâm này phát sinh thành một hiện thể không tách rời trong bản chất. 225

    Về cái hiệu tối hậu đối với tính không, chẳng có gì hơn những thứ đã được tìm thấy trong Trung Quán. Không có quan kiến cao hơn hay thấp hơn lần lượt về tính không được tìm thấy trong thừa này và trong Thừa ba la mật. Đối tượng được xác định là như nhau, nhưng ở đây trong thừa này, tâm trí thực thi việc xác định là cực khoái, cái mà, về mặt sở hữu năng lực xác định tính không, là chẳng giống với bất kỳ loại tâm thức nào khác. Vì vậy, tuy không có sự khác biệt về đối tượng, điều được dạy là về phương pháp của lạc thọ, thừa này vượt trội hơn.

    Nếu chẳng xác nhận tính không tối hậu là vô ngã, sẽ không có giải thoát khỏi luân hồi. Nếu chẳng phát triển tâm trí xác định cực khoái, nguyên lý sống còn của con đường mật chú tối thượng sẽ bị khuyết thiếu. Đó là lý do vì sao người ta được dạy rằng có cái này hoặc cái kia là không đủ mà cả hai đều cần thiết. Như Sahara nói:

    Sống trong tính không thiếu vắng lòng từ,

    Những người đó chẳng tìm thấy con đường tối thượng.

    Nhưng những ai chỉ thiền về từ bi

    Sẽ chẳng thoát khỏi dính mắc trong luân hồi này.

    Ai kết hợp hai thứ này lại với nhau

    Sẽ chẳng ở trong luân hồi hoặc niết bàn. 226

    Vì ông giải thích trong Các bài ca kho báu của ông rằng trí tuệ cao siêu bản nhiên là bản chất của con đường, nên “từ bi” ở đây phải ám chỉ đến cực khoái.

    Nếu bạn phát triển loại cực khoái như được mô tả ở trên, thì mọi tư tưởng khái niệm thô thiển sẽ bị loại bỏ, và tâm trí tự nhiên rơi vào trạng thái tĩnh lặng. Vì điều này, nếu nghĩ rằng chỉ thiền định trong vô niệm, mà tâm trí không lang thang đến bất cứ đối tượng nào, thì đã là nội hàm của thiền định về tính không, thì sẽ không đúng khi nói rằng chỉ thiền về tâm bi mẫn thôi sẽ không mang lại giải thoát khỏi luân hồi. Cho nên điều cần thiết là trau dồi một trạng thái xác định đúng đắn ý nghĩa của vô ngã.

    Bác bỏ

    Có thể nói rằng: “Nếu việc trau dồi một ý thức xác nhận bao gồm cực khoái đã khẳng định được ý nghĩa của vô ngã là thiền về tính không, thì điều đó không mẫu thuẫn với đoạn sau đây trong mật điển samputa, đừng thiền định bằng cách nắm giữ tính không hoặc phi tính không?”

    Đừng thiền định về tính không;

    Đừng thiền định về phi tính không;

    Chẳng từ bỏ tính không, yogi

    Chẳng từ bỏ phi tính không

    Nắm giữ tính không và phi tính không,

    Nhiều hơn một chút sự khái niệm hóa sẽ xuất hiện.

    Từ bỏ là khái niệm hóa;

    Do đó hãy từ bỏ cả hai. 227

    Ý nghĩa của trích dẫn này được giải thích trong Tập chỉ dẫn của Abhayakaragupta theo cách sau: [57] Sắc tướng và những gì tương tự một cách tối hậu là không tồn tại, do vậy cực đoan của tồn tại thường hằng bị từ bỏ, nhưng chúng chẳng phải là không tồn tại tương đối, do vậy cực đoan của sự không tồn tại bị bác bỏ. Vì vậy, những dòng này bác bỏ thiền định bám vào tính không của hiện hữu tương đối và tính không của hiện hữu tối hậu. Sắc tướng và những thứ tương tự, một cách tuyệt đối không có bản chất, chỉ là bản chất tương đối của hình tướng và những gì tương tự. Cho nên văn bản này giải thích rằng sẽ là không đúng khi từ bỏ một thực tại là trống rỗng trong tối hậu và không trống rỗng trong trạng thái tương đối. Bởi vậy, nắm giữ chúng không để rơi vào trống rỗng tối hậu và trống rỗng trong cảm quan của không tồn tại tương đối sẽ sản sinh ra tất cả những khái niệm dẫn đến những cực đoan. Nếu trống rỗng tối hậu bị từ bỏ, bạn phát sinh khái niệm nghiêng về cực đoan thường hằng. Nếu tồn tại phi trống rỗng tương đối bị từ bỏ, bạn sẽ phát sinh khái niệm về sự không tồn tại của nhân quả. Đây là ý nghĩa của đoạn văn. Nó chẳng giống như bạn 228 giải thích. Hơn nữa, đoạn văn ngay trước đoạn này trong cùng văn bản nói rằng:

    Đại bình đẳng của pháp giới,

    Được giữ như cây mã đề. 229
  8. Prahevajra

    Prahevajra Thành viên quen thuộc Staff Member

    Tham gia ngày:
    04/09/2015
    Bài viết:
    168
    Đã được thích:
    0
    Ở đây nó nói về việc cho rằng các hiện tượng không có bản chất. Hơn nữa, cùng tác phẩm có nói:

    Ước muốn chấm dứt mọi đau khổ

    Và đạt đến tối thượng hỷ lạc của giác ngộ hoàn hảo,

    Làm cho tâm trí ổn định, cố gắng phân tích,

    Và thấy bản chất của nó như là phi hiện tượng. 230

    Vì thế, siêng năng phân tích và xác nhận vô tính là nguyên nhân dẫn đến chấm dứt mọi đau khổ và đạt đến hạnh phúc tối thượng.

    “Chấp vào cái phi không” có thể cũng có nghĩa là bám vào tồn tại thực sự của các hiện tượng, trong khi “chấp vào cái không” có thể mang nghĩa mặc dù các hiện tượng không thực sự tồn tại, bạn chấp vào tồn tại thực sự của cái không, có nghĩa là không của những hiện tượng thực sự tồn tại. Phương pháp xác minh và trí tuệ cho biết:

    Những người có một người bạn đạo muốn xua tan mê lầm

    Từ bỏ bám chấp vào các hiện tượng.

    Mặc dù những cái tên đơn thuần có thể khác nhau,

    Trong sự khái niệm hóa chúng không tách rời.

    Người có học do đó từ bỏ việc bám chấp vào các hiện tượng,

    Chẳng khái niệm hóa về phi hiện tượng.

    Một ngọn lửa có thể được dập tắt

    Nhưng khi đã dập tắt chẳng thể làm gì được nữa.

    Bám chấp các hiện tượng có thể được xử lý tương tự,

    Nhưng bám chấp vào phi hiện tượng thì không thể. 234

    Bám chấp vào tồn tại thực sự của các hiện tượng ở đây được viết tắt là “chấp vào các hiện tượng”. Điều đó phải được từ bỏ. Tương tự, sự bám chấp tồn tại thực sự này có thể có tên khác từ bám giữ tồn tại thực sự của tính không của các hiện tượng thực sự tồn tại, nhưng về mặt khái niệm hóa tồn tại thực sự, chúng không khác nhau. Do đó, nó cũng phải bị từ bỏ. Những dòng bắt đầu với “Một ngọn lửa ...” có nghĩa là đối với những hiện tượng thực sự tồn tại, nếu nó được chứng minh là không tồn tại thực sự, thì chẳng khó để phủ nhận bám chấp vào tồn tại thực sự. Tuy nhiên, nếu tính không của các hiện tượng là thực sự tồn tại – thứ bác bỏ tồn tại thực sự của các hiện tượng – tự nó được coi là thực sự tồn tại, thì bạn sẽ bị ám ảnh bởi một quan điểm không thể sửa chữa được, giống như điều được dạy trong kinh sách Trung quán, điều này rất giống uống thuốc khó tiêu mà bản thân nó ngay lập tức trở thành khó tiêu. [58] Về điểm này Bồ đề tâm luận nói:

    Cái được gọi là “không sinh”, “không”

    Và “vô ngã” đều là không.

    Thiền về bất cứ thứ gì ít hơn

    Không phải là thiền về điều đó. 232

    Điều này cũng nên được hiểu là bác bỏ thiền bám chấp vô sinh và vô ngã là thực sự tồn tại. Tán dương sự siêu nghiệm nói:

    Cam lồ của tính không đã được dạy

    Để loại trừ tất cả khái niệm sai lầm,

    Vậy là bạn phỉ báng

    Những ai dính mắc vào nó. 233
  9. Prahevajra

    Prahevajra Thành viên quen thuộc Staff Member

    Tham gia ngày:
    04/09/2015
    Bài viết:
    168
    Đã được thích:
    0
    Những đoạn văn kiểu như thế này được tìm thấy xuyên suốt các lời dạy của Phật và các bình luận chú giải. Ngoài ra, nhiều tham khảo về việc coi các hiện tượng là trống rỗng, vô ngã, vô sinh, vân vân và thiền về chúng nên được hiểu theo cách này là không mâu thuẫn, và không tạo ra các chướng ngại cho việc xác nhận vô ngã sẽ cắt đứt gốc rễ luân hồi. Một khẳng định như vậy ở cấp độ của người bình thường chẳng phải là loại tâm trí phi khái niệm tách rời khỏi tâm trí khái niệm vi tế nhất, nhưng nó rất giống với trí tuệ cao siêu phi khái niệm, và thiền về nó sẽ sản sinh ra phi khái niệm. Điều này được dạy rõ ràng trong bình luận Guhyashamaja, Những bông hoa hoan hỷ của Ratnakarashanti, cũng như Tập chỉ dẫn của Abhyakaragupta, Nhập vào nghi quỹ Tự tính của Buddhasrijnana. Chủ đề này đã được dạy rộng rãi ở nơi khác và vì sợ quá nhiều chữ nên tôi không viết nó ra đây.

    Tóm lại, khẳng định rằng trong các hiện tượng tạo nên luân hồi và niết bàn, hiển nhiên chẳng có điều gì bạn có thể tập trung vào để đáp ứng các tiêu chí cần thiết cho việc lĩnh hội được sự tồn tại chân thực, nhưng vẫn thấy, trong thực tại đó, mọi hoạt động của nhân, quả và duyên khởi là hoàn toàn đúng đắn, là ý nghĩa của việc thoát khỏi hai cực đoan. Trên cơ sở đó, sự giác ngộ tính không được xác nhận thông qua năng lực nhận thức đúng đắn có lợi ích vô cùng, như đã được nói đến nhiều lần trong các giáo lý và bình luận. Ngay cả việc nảy sinh một nghi ngờ đúng đắn về tính không cũng có khả năng xé tan luân hồi. Trên hết, Kim cương thừa nói rằng sự chứng ngộ đó được xác nhận bởi một tâm thức rất đặc biệt của cực lạc và rằng tâm thức đại lạc này mang lại lợi ích vô lượng, cả tức thời và tối hậu, chẳng hạn như được ban cho thành tựu tối thượng ngay trong đời này. Do vậy người sáng suốt nên tham gia vào các giáo lý cốt lõi quyết định về quan điểm xác thực cái thấy về ý nghĩa đích thực của vô ngã và phương pháp tạo ra đại lạc độc nhất rồi sau đó nỗ lực tìm kiếm trí tuệ bản nhiên cao siêu của lạc và không hợp nhất bất khả phân.

    Hậu kỳ Bí mật tập hội hỏi rằng cái gì là ý nghĩa của bồ đề tâm như được dạy trong Mật điển gốc và trả lời rằng bồ đề tâm là tính không và từ bi bất khả phân. 234 Bình luận các giáo lý về bồ đề tâm trong chương hai của Tantra gốc [59] Candrakirti trong Minh đăng nói về tịnh quang và giai đoạn hợp nhất như là hai loại bồ đề tâm tối thượng. Cái trước là tịnh quang bản nhiên thực sự. Vì thế, chẳng phải là bồ đề tâm tính không và từ bi của lạc không bất khả phân không được dạy trong truyền thống Guhyashamaja. Năm giai đoạn cũng nói:

    Trong 84 000 pháp môn

    Được dạy bởi đức Phật vĩ đại,

    Rằng với đặc điểm của giai đoạn làm chủ

    Được dạy là tinh túy của tinh túy. 235

    “Giai đoạn làm chủ” của tịnh quang thật sự, được nói đến như là tinh túy của tinh túy, cũng ám chỉ đến bồ đề tâm của cực lạc bất khả phân với tính không.

    Trong một số mật điển dù già tối thượng và các bình luận giải thích chân thực của chúng, sự trình bày về lạc là rõ ràng, nhưng những phương pháp để nhận ra tính không thì chẳng rõ ràng như vậy. Ở những văn bản khác, cách để nhận ra tính không được trình bày rõ ràng, trong khi lạc thì lại không. Nhưng ngay cả những tác phẩm này cũng nên được coi là phục vụ cho mục đích kết hợp lạc và không. Đừng mắc sai lầm khi coi chúng là được dạy về hai hiện tượng cá biệt. Cụm từ “lạc và không bất khả phân” được lan truyền như gió, nhưng để biết đại lạc khác biệt với các loại lạc khác, tính không tối hậu khác các loại không kia, và cách để hai thứ này hợp nhất là rất hiếm. Với điều này trong tâm trí, Sahara nói:

    Hết nhà này đến nhà khác họ nói về nó,

    Nhưng không có kiến thức đầy đủ

    Về các nguyên lý của đại lạc. 236

    Vì vậy đừng hài lòng với kiến thức cục bộ, mà hãy nỗ lực lâu dài và bền bỉ để hiểu được ý nghĩa của điều này, điều thậm chí còn bí mật hơn cả bí mật.
  10. Prahevajra

    Prahevajra Thành viên quen thuộc Staff Member

    Tham gia ngày:
    04/09/2015
    Bài viết:
    168
    Đã được thích:
    0
    Tính không và từ bi của hai chân lý bất khả phân

    1. Quan điểm thậy sự

    2. Sự cần thiết của một bản trình bày như vậy

    Quan điểm thật sự

    Nếu tính không và từ bi của lạc và không bất khả phân là ý nghĩa của evam như đã mô tả ở trên, thì làm sao bồ đề tâm là tính không và tư bi của hai chân lý bất khả phân được trình bày như là ý nghĩa của evam? Nhiều nhà bình luận của các mật điển yogini (du già nữ), khi bình luận về lạc và không như mô tả ở trên, nói về một trạng thái hợp nhất của lạc và không, và một trạng thái hợp nhất của hai chân lý. Ý của sự hợp nhất trong truyền thống Arya có thể được hiểu theo cách này. Tuy nhiên quan điểm trong truyền thống của Đạo sư Long Thọ là sự hợp nhất không nên chỉ được gán cho mỗi cực lạc và không thực sự. Ngoài ra, Mật điển hậu kỳ Guhyashamaja nói:

    Không có khởi đầu, chẳng có kết thúc, và an bình

    Những hiện tượng và phi hiện tượng không kết thúc và cao nhất, 237 [60]

    Tính không và từ bi bất khả phân,

    Đây là bồ đề tâm.238

    Bồ đề tâm ở đây là bồ đề tâm của giai đoạn hợp nhất từ hai loại bồ đề tâm đã giải thích ở trên, và điều này sẽ được giải thích. Tính không được gọi là “phi hiện tượng”, trong khi từ bi được gọi là “hiện tượng”. Hai điều này cũng được gọi là phương tiện và trí tuệ. Trong mục giải thích rằng phương tiện và trí tuệ trong sự hợp nhất thiền định là ý nghĩa của yoga, Mật điển hậu kỳ Guhyashamaja nói:

    Cái phi hiện tượng là trí tuệ.

    Phương tiện có đặc điểm của hiện tượng. 239

    Trong mục yoga thứ sáu của yoga sáu nhánh, khi Mật điển hậu kỳ Guhyashamaja nói về ý nghĩa của phương tiện và trí tuệ trong thiền định hợp nhất, Minh đăng của Candrakirti sự hợp nhất giữa chân lý tương đối và chân lý tối hậu là “trạng thái hợp nhất”. Nhìn chung có nhiều loại phương tiện và trí tuệ, nhưng ở đây, sự hợp nhất giữa phương tiện và trí tuệ được xác định. Ý nghĩa thực sự của chân lý tối hậu là thực tại phi duyên hợp của các pháp, nhưng ở đây khi đề cập đến trí tuệ cao cả tịnh quang của thực tại tối hậu và đại lạc cùng an trú trong nhất vị, thường không có sự khác biệt giữa chân lý tối hậu là chủ thể nhận thức và chân lý tối hậu là đối tượng nhận thức.

    Trí tuệ cao quý, nguyên sơ, chân thực này được tìm thấy trong những trường hợp tịnh quang thực sự của chính nó, và trong trường hợp của trạng thái hợp nhất. Đầu tiên trong số này là giai đoạn làm chủ, hoặc tịnh quang, được dạy như là giai đoạn bốn của năm giai đoạn đoạn. Thứ hai là một phần của giai đoạn hợp nhất. Do đó, tịnh quang nguyên sơ chân thực của lạc và không bất khả phân được dạy đâu đó là dạng tịnh quang tối thượng từ hai dạng tối thượng được tìm thấy trong bốn dạng, 240 nhưng còn một dạng trạng thái hợp nhất tối thượng cao hơn dạng ở trên, thì nó vẫn chưa đạt tới.

    Nếu mặt tối hậu của giai đoạn hợp nhất như được mô tả ở trên, thì phần chân lý tương đối của giai đoạn hợp nhất là gì? Các tác phẩm khác giải thích chân lý tương đối theo cách khác nhau. Ở đây trong truyền thống này, người ta giải thích đi giải thích lại rằng chân lý tương đối ám chỉ thân huyễn thanh tịnh, cái trở thành một thực thể với trí tuệ cao cả của tính không, và là cái được tô điểm bằng những dấu hiệu và đặc điểm giác ngộ được hình thành từ nguyên nhân chính là năng lượng trí tuệ của khí ngũ sắc đóng vai trò như là vật cưỡi cho trí tuệ cao cả của tính không. Vào lúc kết thúc ba trạng thái không trong cô lập ý, có thân huyễn thông thường hình thành từ khí ngũ sắc. Đây là thân huyễn được biết đến là giai đoạn tự dâng cúng hoặc giai đoạn ba trong năm giai đoạn. Các loại thân huyễn này sẽ được giải thích rộng rãi sau này.

    Bởi vậy, tịnh quang đích thực như đã giải thích trước đây và thân huyễn hoàn toàn thanh tịnh được kết hợp bất khả phân, là ý nghĩa của các chữ evà. Cái trước là tâm trí còn cái sau là thân hình được kết hợp thành một thực thể là ý nghĩa của m. Điều này là do ý nghĩa thứ hai của evam là sự hợp nhất tối hậu. [61] Mật điển chú giải Guhyashamaja, Mật điển được thỉnh cầu bởi Indra, phát biểu:

    Trong hai chữ evam này,

    Toàn tri an trú trong ảo tưởng.

    Do đó, lúc bắt đầu các giáo lý thiêng liêng,

    Evam được dạy. 241

    “Ảo tưởng” được đề cập đến ở đây nói về giai đoạn hợp nhất và do đó mô tả ý nghĩa thứ hai của evam. Có hai cấp độ của giai đoạn hợp nhất: cái của thực hành và cái của không thực hành nữa. Còn về giai đoạn hợp nhất, truyền thống Arya cũng dùng thuật ngữ trí tuệ và từ bi. Năm giai đoạn cho biết:

    Hiểu trí tuệ và từ bi như một,

    Gắn liền vào đó gọi là hợp nhất,

    Và trạng thái này là cảnh giới của một vị Phật. 242

    Từ thời điểm giai đoạn thứ ba tự dâng cúng trở đi, sự hợp nhất của thân huyễn và trí tuệ cao cả của tính không mang ý nghĩa của evam bởi vì đây là evam trong ý nghĩa ẩn giấu của nó. 243

Chia sẻ trang này