1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

NGỌN ĐÈN SOI SÁNG NĂM GIAI ĐOẠN - Những chỉ dẫn về Mật điển Bí Mật Tập Hội (Guhyashamaja Tantra)

Chủ đề trong 'Yoga - Khí công - Nhân điện - Thiền' bởi Prahevajra, 28/05/2016.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Prahevajra

    Prahevajra Thành viên quen thuộc Staff Member

    Tham gia ngày:
    04/09/2015
    Bài viết:
    168
    Đã được thích:
    0
    Trong các truyền thống, các giáo lý về bốn loại tính không, trong các mật điển yogini và các bình luận giải thích của chúng, được thay thế bằng các giáo lý về bốn lạc. Trong truyền thống hiện tại, có một mô tả về thân huyễn được hình thành từ các loại khí và tâm sinh ra giữa trạng thái không thứ ba và thứ tư, không có sự mô tả tương tự về một thân huyễn phát sinh từ lạc thứ ba và thứ tư trong thân của các mật điển yogini. Ngoài ra trong truyền thống này, có mô tả về một thân huyễn được hình thành đơn thuần từ các loại khí và tâm xuất hiện sau tịnh quang thực sự, trong khi ở truyền thống khác, sau cực lạc, không có mô tả tương tự như vậy. Vì vậy, mô tả rõ ràng về thân huyễn hình thành từ các loại khí được tìm thấy ở giai đoạn thực hành hợp nhất, đóng vai trò là một nguyên nhân trực tiếp tạo thành sắc thân kết quả (của Phật), và mô tả rõ ràng về thân huyễn hình thành từ các loại khí ở giai đoạn ba đóng vai trò là nguyên nhân trực tiếp hình thành thân huyễn trước đó là một đặc điểm vô song của truyền thống tối cao này.

    Sự cần thiết của bản thuyết trình như vậy

    Nếu nhất thiết phải dạy cách đạt được một thân huyễn như vậy trong các mật điển tối thượng yoga, thì khẳng định trên là đúng. Tuy nhiên ở đâu nói rằng cách thức để đạt đến thân huyễn như vậy nhất định cần được dạy? Hỡi người thông minh, hãy lắng nghe. Tôi sẽ giải quyết các luận điểm khó khăn nhất này với các bằng chứng xác thực, trong đó có bốn:

    1. Chứng minh bằng nguyên nhân độc nhất của sắc thân

    2. Chứng minh bằng các nguyên lý của nền tảng tịnh hóa

    3. Chứng minh bằng cách dựa vào nguyên lý phát sinh hóa thần

    4. Chứng minh bằng cách dựa vào nguyên lý thực thể bất khả phân giữa phương tiện và trí tuệ.

    Chứng minh bằng nguyên nhân độc nhất của sắc thân

    Sự trang hoàng của Giác ngộ viết:

    Phát tâm giác ngộ

    là mong cầu giác ngộ hoàn hảo viên mãn

    vì lợi ích của những người khác. 244

    Đối với những người bị hành hạ bởi cơn khát, sự chú ý chủ yếu của họ là tìm thứ gì đó để uống, [62] nhưng để làm điều đó, họ sẽ cần một bình chứa. Tương tự, đối với những người thuộc Đại Thừa , những người có lòng đại bi không thể chịu đựng được khi biết chúng sinh đang bị hành hạ bởi đau khổ và không có hạnh phúc, sự chú ý chủ đạo của họ là cố gắng vì lợi ích của những người khác. Tuy nhiên họ nhận ra rằng nếu không trở thành một vị Phật thì chẳng có cách nào để hoàn thành điều đó một cách hoàn hảo.Trong việc tìm kiếm giác ngộ hoàn hảo như là cách để hoàn thành lợi ích cho những người khác, hai con đường Đại thừa của Mật chú và Ba la mật là tương tự như nhau bởi vì không có sự khác biệt trong bồ đề tâm giữa chúng. Trong trường hợp đó, thực sự xuất hiện trước chúng sinh và hoàn thành tâm nguyện của họ là được thực hiện bởi sắc thân (rupakaya) từ hai loại thân giác ngộ chứ không phải nhờ pháp thân. Do đó trọng tâm chính trong nỗ lực của họ là sắc thân. Bởi vì điều này, một căn nguyên đặc biệt, có đặc điểm tương tự với sắc thân, được sử dụng như một phương tiện để đạt được sắc thân, là một điểm đặc biệt và vô song không tìm thấy ở các thừa khác, trong các lớp mật điển khác, và trong giai đoạn phát sinh, mà chỉ có trong giai đoạn thành tựu. Tuy nhiên nếu đặc điểm này không chứa đựng trí tuệ giác ngộ tính không, sẽ chẳng thể đạt được tự do giải thoát từ xiềng xích luân hồi. Một trí tuệ như vậy có trong Tiểu thừa, nhưng vì thiếu phương tiện nhân quả hoàn chỉnh cho sắc thân ở đó, nên bất kể họ thiền định bao nhiêu về tính không, cho dù họ có đạt được giải thoát khỏi luân hồi, họ sẽ không đạt được trạng thái toàn giác. Vì thế, giác ngộ tính không là trọng yếu trong các phương pháp nhân quả để đạt đến sắc thân. Tương tự, để nhận thức đó về tính không trở thành nhận thức đặc biệt dẫn đến pháp thân, thiền định về phương tiện hoàn hảo cũng là tối quan trọng. Đây là quan điểm của cả hai truyền thống Đại thừa.

    Đại thừa Ba la mật trình bày thiền định trên một con đường tương tự với pháp thân, nhưng vì không có thiền quán bản tôn yoga tương tự với sắc thân, nên có sự khác nhau về tính ưu việt giữa các phương pháp để đạt được sắc thân. Điểm này, và cách thức mà cả hai truyền thống Đại thừa đều cơ bản đồng ý về việc liệu thiền định trên hai con đường tương tự như hai thân có cần thiết hay không, và thực tế là việc trình bày như vậy cần được khẳng định cho các con đường của cả bốn loại mật điển, cùng với những quan điểm có liên hệ khác, tất cả đã được giải thích trộng rãi hơn trong Con đường tiệm tiến Kim cương trì, 245 vì vậy tôi sẽ không làm rõ hơn ở đây.

    So với tối thượng mật tông yoga, các bản tôn yoga của ba lớp mật tông thấp hơn chỉ là những nguyên nhân xa xôi của sắc thân. Các yoga bản tôn của của giai đoạn đầu tiên trong tối thượng mật tông yoga chỉ đơn thuần làm chín các gốc rễ công đức cần thiết cho các loại trí tuệ của giai đoạn thành tựu. Điều này có nghĩa là các yoga bản tôn của giai đoạn thành tựu, vượt trội hơn nhiều so với các giai đoạn trước đó, phải là những nguyên nhân cho sắc thân nói chung, và đặc biệt ở cuối con đường của giai đoạn thành tựu, chúng phải là căn nguyên nảy sinh loại sắc thân được trang hoàng bởi các hảo tướng và đặc điểm của giác ngộ và đóng vai trò là nguyên nhân chính yếu cho ra kết quả là sắc thân. Về điểm này trong Thừa ba la mật, nguyên nhân chung của sắc thân là tích tập vô lượng công đức. Cụ thể, đối với nguyên nhân cho các hảo tướng và đặc điểm cá nhân của giác ngộ, [63] ví dụ như hộ trì đạo sư, bạn phải tích lũy công đức qua rất nhiều kiếp. Một khi các cấp độ của bậc thánh được đạt đến, một thân tướng được tạo ra tương ứng với các hảo tướng và đặc điểm của giác ngộ. Điều này được phát triển khi bạn vượt qua các cấp cao hơn, cho đến khoảnh khắc cuối cùng của luân hồi, bạn đạt được những hảo tướng và đặc điểm cuối cùng của con đường thực hành Thừa ba la mật. Khi thực sự trở thành một vị Phật, các hảo tướng và đặc điểm giác ngộ đã được phát triển trước đó của chính sắc thân đó tạo thành những nguyên nhân cùng loại cho những tướng và đặc điểm của thân kết quả. Đây là điều mà Thừa ba la mật dạy. Nó chẳng dạy rằng không có sự hình thành trước đó của một thân được trang hoàng với các dấu hiệu và đặc điểm giác ngộ hoặc thân đó chỉ chuyển hóa tự nhiên thành sắc thân kết quả.
  2. Prahevajra

    Prahevajra Thành viên quen thuộc Staff Member

    Tham gia ngày:
    04/09/2015
    Bài viết:
    168
    Đã được thích:
    0
    Tương tự, ngay cả khi trở thành một vị Phật chỉ trong một kiếp sống duy nhất trên con đường tối thượng dù già mật, người ta không dạy rằng từ thời điểm thân thể bạn được hình thành, nó phải được tô điểm bằng những dấu hiệu và đặc điểm giác ngộ. Nếu chẳng đạt được một thân được tô điểm bởi những hảo tướng và đặc điểm này trên con đường tu tập, sẽ chẳng có nguyên nhân cùng loại, và hệ quả là sẽ không có sự chuyển hóa tự nhiên của thân đó. Do vậy, điều cần thiết là sản sinh ra một thân được trang hoàng với những dấu hiệu và đặc điểm giác ngộ khi đang trên con đường thực hành của giai đoạn thành tựu. Cơ thể thô trọc của nghiệp chín muồi này sẽ không phát triển thành một thân tướng được trang hoàng với những hảo tướng và vẻ đẹp giác ngộ thông qua thiền quán bản tôn yoga, và thân được tạo ra chỉ bởi tâm trí quán tưởng về thân tướng của một hóa thần, như được làm trong giai đoạn phát sinh, là không đủ. Bạn cần một loại thiền quán bản tôn rất đặc biệt, thứ sẽ thành tựu một thân tướng được trang hoàng bởi các hảo tướng và đặc điểm giác ngộ, khác biệt so với những loại thân này. Căn nguyên quan trọng để hình thành một thân như vậy không thể là gì khác ngoài các loại khí. Do đó, một phương pháp đạt được thân huyễn từ các loại khí là chắc chắn cần thiết.

    Hơn nữa, bằng cách sử dụng mật điển chú giải Tràng hoa kim cươngLý giải mục đích, sẽ được xác định sau đây rằng thân thể của chúng sinh ở trạng thái cơ bản sở hữu một cơ thể thô trọc tạm thời và một thân thể nguyên thủy được hình thành từ tâm và các loại khí. Giống như lời khẳng định rằng trong trạng thái này, tâm bản nhiên ban sơ tạo thành nguyên nhân chính yếu cho Pháp thân trí tuệ cao cả, tương tự, điều cần thiết là sắc thân cũng được tạo ra từ một nguyên nhân quan trọng là một thân nguyên thủy được hình thành chỉ từ tâm và khí. Điều này sẽ được giải thích sau.

    Chứng minh bằng các nguyên lý của nền tảng tịnh hóa

    Các mật điển du già cao hơn dạy quá trình tạo mới “vật chứa”, là thiên cung bảo vệ, và “nội dung” đặc biệt của vật chứa đó, là các vị hóa thần gia hộ. Về việc tạo ra vật chứa, người ra đồng ý rộng rãi, và cũng là tư tưởng của lớp mật điển này rằng điều này được thực hiện tương ứng với quá trình sáng tạo và hủy diệt thế giới. Từ đó có thể hiểu rằng quy trình tạo ra nội dung, hoặc các hóa thần, phải phù hợp với các trạng thái sinh, tử và trung ấm của chúng sinh trong trạng thái cơ bản. Điều này không những phải được làm trong giai đoạn phát sinh, mà còn phải được thực hiện trong giai đoạn thành tựu. Vào những thời điểm như vậy, sau khi tịnh quang hiển lộ tương ứng với quá trình chết, các uẩn thô phân tách khỏi cơ thể cũ, [64] và quá trình của một thân trung ấm, được tạo ra chỉ bởi tâm và khí, được hoàn thành. Tương tự, khi kết thúc quá trình tịnh quang, quá trình của một thân huyễn được hình thành chỉ từ tâm và khí được hoàn thành. Điều này được trình bày rất chi tiết trong luận Thuyết trình về nghi quỹ Bí mật tập hội của Nagabodhi vinh quang, 246 nên tôi không làm rõ hơn ở đây. Thuyết trình được tìm thấy trong Tràng hoa kim cương về các giai đoạn thành tựu tương ứng với những sự kiện trên sẽ được giải thích sau.

    Chứng minh dựa trên nguyên lý phát sinh hóa thần

    Các mật điển từ lớp hành động trở đi dạy rằng khi nghi thức phát sinh hóa thần được thực hiện, sẽ có một sự phát sinh tiếp theo trong hình tướng của một hóa thần sau khi nhập vào tính không. Ở đây, cuối cùng, trong giai đoạn thành tựu, sau khi nhập vào tính không, hành giả phải xuất hiện trong hình tướng của một hóa thần mà, không giống như trên, chẳng phải được tạo ra chỉ do tưởng tượng. Lúc đó, nếu biết cách làm sao thành tựu được thân huyễn, một thân tướng như vậy sẽ xuất hiện. Nếu chẳng phải như vậy thì đã không có những giáo lý đề cập ở trên. Vì vậy có thể nói rằng sau khi đi vào tịnh quang tương ứng với quá trình chết, thân tướng của một vị hóa thần bản tôn được cấu thành từ các loại khí và tâm trí được tạo ra, như trong trạng thái trung ấm. Toát yếu thực hành của Arya đặt câu hỏi, nếu chẳng có thân tướng hóa thần giữa giai đoạn phát sinh và cô lập thân, hoặc trong cô lập khẩu và ý, làm thế nào thân trí tuệ cao cả được hình thành?Câu trả lời mô tả cơ bản việc tạo ra thân huyễn được tạo thành từ các loại khí. Mặc dù văn bản nói về việc đi vào tính không và sự sản sinh sau đó của một thân tướng hóa thần ngay từ đầu của giai đoạn phát sinh, nhưng chẳng có truyền thống nào tạo ra một thân tướng hóa thần từ những giai đoạn này mà lại chẳng phải là do trí tưởng tượng đơn thuần. Sau những giai đoạn đó, như câu trả lời cho câu hỏi đã chỉ ra, cách để tạo ra thân tướng hóa thần bản tôn là thông qua thân huyễn.

    Chứng minh dựa trên nguyên lý thực thể bất khả phân giữa phương tiện và trí tuệ

    Sau khi hoàn thành giai đoạn phát sinh và được rèn luyện tốt trong giai đoạn thành tựu, bạn sẽ trở sẽ phù hợp để bước vào các hoạt động mật tông. Khi thực hiện các hoạt động này, bạn phải thực thi một cách khái niệm các hoạt động phức tạp khác nhau, như thao tác các thủ ấn, vân vân, như đã mô tả. Ở các thời sau thiền, bạn phân tích sự vô tự tính của các pháp, vân vân. Ngoài các thời thực hành này, các hoạt động liên quan đến phòng thờ, đọc tụng kinh điển, cúng dường mandala, vân vân, cùng với các hình thức tích lũy công đức thường được cử hành ở sau các thời thiền và được dạy trong ba lớp mật điển thấp hơn cũng như trong Thừa ba la mật, đều bị nghiêm cấm ở đây. Guhyasiddhi nói:

    Không đỉnh lễ các vị thần

    Làm bằng gỗ, đá, hoặc đất sét.

    Thay vào đó, hãy thờ thân thể

    Thực hiện các cử chỉ tôn trọng đạo sư.

    Không tham gia vào các hoạt động

    Liên quan kinh văn hoặc điện thờ

    Làm từ gỗ, đá hoặc đất sét.

    Ngay cả trong mơ cũng đừng bắt ấn

    Liên quan đến mandala và tương tự.

    Đừng đỉnh lễ những người

    Trú ngụ trong ba thừa. 247 [65]

    Nhiều mật điển khác cũng nói giống như vậy. Đặc biệt, điều được dạy là trong khi tham gia vào các hoạt động không phức tạp, ngoài các sinh hoạt cơ bản như ăn uống, đại tiểu tiện, tất cả các hoạt động phức tạp phải được từ bỏ, và bạn chỉ đơn giản thiền trên bản thân tịnh quang bằng các quá trình dẫn nhập tịnh quang.
  3. Prahevajra

    Prahevajra Thành viên quen thuộc Staff Member

    Tham gia ngày:
    04/09/2015
    Bài viết:
    168
    Đã được thích:
    0
    Trong Kinh thập địa, phần luận về bát địa, nói rằng khi tất cả phiền não và hạt giống của nó đã bị chấm dứt, bạn chỉ thiền định về nhẫn nhục tối hậu tức là tập trụng vào ý nghĩa của thực tại. Xuất sinh từ thiền định đó, đức Phật nói: “Các bạn vẫn chưa có thân tướng của tôi, trí tuệ cao siêu của tôi, hoặc cõi Phật vô lượng. Hãy nỗ lực hoàn thành những việc này, và đừng từ bỏ cánh cửa nhẫn nhục này.” 248 Vì không khuyến khích họ chỉ thiền về trí tuệ cao siêu vô niệm, thay vào đó đức Phật khuyến khích họ tích lũy công đức làm nguyên nhân cho sắc thân cho các thời thiền sau.

    Nếu người trí khảo sát hai hệ thống này, thì nó rõ ràng như thiền về cực lạc và loại thứ tư của tính không, hoặc tịnh quang, như được dạy trong các mật điển tối thượng yoga, có các nguyên nhân cùng loại độc đáo cho hai loại thân giác ngộ. Trong Thừa ba la mật, ở thiền định cao siêu vô niệm, nguyên nhân phối hợp cho sắc thân được trình bày, mặc dù căn nguyên chính yếu rõ ràng là không đầy đủ. Để hiểu làm thế nào mà căn nguyên này là đầy đủ trong yoga cao nhất, chẳng khó để hiểu là cực lạc hoặc trí tuệ cao siêu của đại lạc là căn nguyên chính yếu của pháp thân, còn căn nguyên cho sự hình thành của sắc thân có thể rõ ràng nhận thấy được tạo ra từ khí ngũ sắc, thứ được an trú như một thực thể duy nhất với trí tuệ cao siêu của tính không. Theo cách này, phương tiện và trí tuệ tồn tại như một thực thể duy nhất bất khả phân trên nền tảng làm căn nguyên chủ yếu cho hai thân. Bất cứ lời giải thích nào khác đều rất khó chấp nhận.

    Hơn nữa, điều này được dạy vào thời điểm thực hành các hoạt động mật thừa như là các thực hành nâng cao của giai đoạn thành tựu, khi, như đã giải thích từ trước, bạn đã được đào tạo thuần thục trên các con đường phổ thông, đã nhận các quán đỉnh, đã giữ trọn các thệ nguyện, đã hoàn thành giai đoạn phát sinh. Chúng không được dạy ở những nơi khác. Nói rằng có một con đường nhanh chóng không liên quan đến bất cứ thực hành nào trong số này và cản trở các hoạt động tích lũy công đức bao la này là tự làm tha hóa chính mình và những người khác. Kho tàng các bài ca và các tác phẩm khác của bà la môn vĩ đại [Sahara] lấy cốt lõi của chúng là tuyển tập giáo lý về những con đường cao cấp của trí tuệ cao siêu bẩm sinh, trong đó tất cả các công phu khác đã bị gạt sang một bên, như đã mô tả trước đây, và đưa ra các chỉ dẫn làm sao để nó được phát triển. Hình dung rằng nó dạy một truyền thống tự phát cho các đệ tử thông minh ngay từ khoảnh khắc đầu tiên nhập đạo là sai lầm. Cần thiết phải khảo sát riêng biệt cuốn Tuyển tập tinh hoa của các Thành tựu giả với độ chính xác cao. [66]

    Nếu bạn hiểu rằng, bằng những luận điểm đã giải thích ở trên, rằng phương tiện và trí tuệ của lạc và không bất khả phân được dạy trong các tác phẩm khác, vốn tạo thành một phần của sự hợp nhất của hai chân lý bất khả phân như được khẳng định bởi truyền thống Arya, là một giáo lý thống nhất như ý nghĩa của evam, thì điều này rất quan trọng để đạt được hiểu biết đầy đủ về các truyền thống khác. Ý nghĩa thiết yếu của “Toàn thể bí mật của tất cả tập hội Như lai” theo bốn cách giải thích là giai đoạn thứ ba của thân huyễn theo cách giải thích ẩn, và thân của sự hợp nhất theo cách giải thích tối hậu. Do vậy, bí mật , bí mật nhất, và điểm bí mật vĩ đại này không được dạy ở bất cứ nơi nào khác ngoại trừ truyền thống này. Ngoài ra, ngay cả khi bạn tu tập một thời gian dài trong truyền thống này, nhưng vẫn rất khó để đạt được một sự hiểu biết chính xác cho dù là thô thiển về ý nghĩa của nó. Vì thế, những người thông minh nên nỗ lực hết mình để hiểu nó nhờ vào lòng tốt của một đạo sư uyên bác mà các bạn đã phụng sự lâu dài.

    9. Sự Cần Thiết của việc Tập trung vào các Điểm sinh lực trong thân thể

    Đối với việc tạo ra ý nghĩa chuẩn xác của evam cho thấy sự cần thiết của việc tập trung vào các điểm sinh lực bằng cách của evam giới tính

    1. Sự cần thiết của việc thâm nhập vào các điểm sinh lực trong thân để tạo ra sự sinh khởi của lạc và không bất khả phân

    2. Sự cần thiết thâm nhập vào các điểm sinh lực trong thân để tạo nên sự hợp nhất bất khả phân của hai chân lý

    Sự cần thiết của việc thâm nhập vào các điểm sinh lực trong thân để tạo ra sự sinh khởi của lạc và không bất khả phân

    1. Giải thích chung về hai phương pháp

    2. Giải thích từng phương pháp

    Giải thích chung về hai phương pháp

    Như đã giải thích trước đây, trong phần trình bày sự hiểu biết về ý nghĩa tối hậu của thực tại vô ngã, chẳng có gì trong mật thừa cao hơn Thừa ba la mật. Không hủy bỏ sự tỉnh giác nắm bắt thực tại, chỉ bằng cách bác bỏ hoàn toàn tính hợp lý của các đối tượng được nhận biết, và chỉ thu rút tâm trí vào bên trong, sẽ không gây tổn hại gì đến việc nắm bắt thực tại, bởi vì một trạng thái tinh thần như vậy không chống lại cách nhận thức thực tại. Ngoài ra đối với các đối tượng mà sự phủ nhận của nó sẽ dẫn đến vô ngã, khi bất cứ hệ thống nào thô thiển hơn những gì được giảng dạy bởi Trung quán Cụ duyên được áp dụng và vô ngã được tìm kiếm, bất cứ sự nắm bắt thực tại nào từ cấp độ vi tế sẽ không bị phủ nhận, và do vậy vẫn còn lại cái gì đó nắm bắt thực tại (sự tỉnh giác). Nếu sự phủ nhận liên quan đến bất cứ thứ gì tinh vi hơn những điều đã được dạy bởi Trung Quán Cụ Duyên (phủ nhận cả sự tỉnh giác), [67] sẽ không có chỗ cho năng lực nhận thức, có hiệu lực tạo ra sự chắc chắn của lý duyên khởi tương thuộc trên đối tượng đó, rồi nó sẽ rơi vào tính không của sự không tồn tại, hư vô.

    Vì vậy không có sự khác biệt giữa hai thừa trong cách thức xác định ý nghĩa của vô ngã. Tuy nhiên khi thiền định về vô ngã, nếu các luồng khí của các kinh mạch trái và phải được đưa vào trung mạch dhuti, nơi chúng hòa tan và khiến ngọn lửa candali bùng cháy, làm tan chảy giọt bồ đề tâm và chắc chắn khởi sinh đại lạc rồi mới thiền định về tính không, chẳng có ý thức nào khác giống như tâm trí này được khởi sinh với quyền năng loại bỏ nhanh chóng các dấu vết của các che chướng. Do đó điều trọng yếu là sản sinh ra lạc thọ này. Tuy nhiên việc này chẳng thể đạt được nếu không thâm nhập vào các điểm sinh lực của thân thể, và với mục tiêu này trong tâm trí, hai phương pháp để thực hiện đã được dạy. Chúng là phương pháp dựa vào một vị phối ngẫu và phương pháp thiền về các kinh mạch, các loại khí, và các giọt, vân vân.

    Đối với phương pháp thứ nhất, các mật điển thấp, khi tập trung vào một phối ngẫu với các hoạt động cười, nhìn ngắm, tương tự, thậm chí chẳng nói về thực hiện các hoạt động này với tâm ham muốn, chứ đừng nói đến việc thực hiện chúng với phối ngẫu nghiệp thực sự. Tuy vậy, chúng mô tả thiền quán về các nữ hóa thần không hợp nhất với hành giả liên quan đến các hoạt động cười, nhìn ngắm, nắm tay, vân vân. Bởi vậy các mật điển này được gọi là các tantra cười, vân vân.

    Các tantra cao nhất nói về phương pháp hợp nhất với các nữ hóa thần như là phối ngẫu nghiệp (người thật) và phối ngẫu trí tuệ (người tưởng tượng). Những mật điển này được gọi là mật điển hợp nhất. Những mật điển nào không dạy sản sinh đại lạc nhờ hợp nhất với một phối ngẫu nghiệp sẽ không dạy hợp nhất với phối ngẫu trí tuệ. Tuy thế, chúng cũng sẽ không dạy phương pháp tạo ra đại lạc thông qua sự tan chảy của giọt bồ đề tâm bằng cách thiền quán khí, mạch, giọt. Bất cứ nơi nào điều thứ nhất được dạy, hai điều kia cũng sẽ được dạy. Trong các tantras dạy phương pháp thâm nhập vào các điểm sinh lực trong thân thể, sự hợp nhất với hai loại phối ngẫu cũng được dạy. Điều này do các phương pháp này giống nhau trong việc đưa các luồng khí của kinh mạch trái và phải vào trung mạch dhuti, nơi chúng hòa tan để tạo ra đại lạc. Vì thế, mục đích của chúng là phát sinh, nơi trước đây chưa từng có, một trạng thái khoái lạc hoạt động như một ý thức đặc biệt để xác nhận tính không hoặc để duy trì dòng tương tục của một hành giả đã phát sinh và tăng cường nó.


    Giải thích từng phương pháp

    1. Phương pháp phối ngẫu ấn
    2.
    2. Phương pháp thiền quán về nội mạch, khí, giọt, vân vân​
    Phương pháp phối ngẫu ấn

    Nếu những phương pháp thâm nhập vào các điểm sinh lực của thân thể là phương pháp để đưa khí của các kinh mạch trái, phải vào trung mạch dhuti, thì có thể nói một cách đúng đắn rằng thiền quán về nội mạch, khí, giọt, vân vân, sẽ thành tựu điều này. [68] Nhưng sự hợp nhất với hai loại phối ngẫu không thể làm được điều đó, và có sai không khi nói rằng tất cả các phương pháp trên đều có khả năng tạo ra kết quả này? Để dựa vào một phối ngẫu nghiệp có khả năng tạo ra một kết quả như vậy, các phẩm chất đòi hỏi ở cả đối tượng lẫn tuyến cơ sở 249 phải được đáp ứng hoàn toàn. Bởi vì điều đó quá hiếm nên nó không được dạy cho các chúng sinh khác. Đối với những người đáp ứng đủ điều kiện, Tập chỉ dẫn nói:

    Với phương pháp hợp nhất thiền quán với trí tuệ, các luồng khí từ các kinh mạch lalanarasana sẽ đi vào avadhuti, và lửa candali sẽ bùng cháy. Các uẩn và tương tự bị thiêu đốt, và mặt trăng tan chảy. 250​

Chia sẻ trang này