1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

NGÔN NGỮ HỌC cho mọi người (sưu tầm, mục lục trang 1)

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi yeungon, 19/06/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. yeungon

    yeungon Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/08/2003
    Bài viết:
    1.308
    Đã được thích:
    0
    Ới nhà bác gì ơi!
    Không sợ khó, không sợ khổ, mà cũng không sợ khô (vì đã có personal lubricant!)
    và tất nhiên là vì box tiếng Việt ... đã có bác Esu nhiệt tình như thế này.
  2. esu

    esu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/04/2004
    Bài viết:
    1.244
    Đã được thích:
    0
    Câu là gì ?
    Câu là đơn vị trên ngữ đoạn. Câu được định nghĩa như là đơn vị tối thiểu có khả năng chuyển tải tư tưởng.
  3. esu

    esu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/04/2004
    Bài viết:
    1.244
    Đã được thích:
    0
    Những bài viết sắp theo sau đây là trích từ một giáo trình ngôn ngữ học, tớ post lên đây cho các bác đọc chơi lúc rảnh rỗi nhé.
    Lịch sử ngôn ngữ học
    Phải trải qua 4 giai đọan, ngôn ngữ học mới nhận ra đối tượng thật sự và duy nhất của nó.
    1. Ðầu tiên, người ta nghiên cứu ngôn ngữ dưới tên gọi của một ngành học mà người ta gọi là Ngữ pháp .
    Ở phương Ðông, ngành học này được khai sinh nhờ công của người Ấn Ðộ và Trung Quốc; ở phương Tây, ngôn ngữ học được khởi đầu nhờ công của người Hy-Lạp, Rô-ma... Ðiểm qua lịch sử nghiên cứu ngành học ở giai đoạn này, có thể nêu một số đóng góp đáng kể của các dòng ngôn ngữ học truyền thống như sau ( khái niệm truyền thống được các nhà ngữ học dùng để chỉ giai đoạn đầu của sự hình thành ngành học ngôn ngữ với tên gọi có phần hơi phiến diện ):
    1.1. Dòng Ấn Ðộ.
    Vùng này còn được gọi là tiểu lục địa Ấn Ðộ bao gồm Ấn Ðộ và các nước láng giềng ngày nay. Khu vực này chịu ảnh hưởng mạnh của tiếng Xanxkrit. Tiếng Xanxkrit có nghĩa đen là tiếng tinh luyện, đối lập với tiếng Prakrit có nghĩa là tiếng bình dân. Nó là một ngôn ngữ có hệ thống biến hình rất phong phú. Di tích chữ viết của thứ tiếng này xuất hiện rất sớm, khoảng TK II-I trước CN. Nhưng có thể nói, khoảng 1500 năm trước CN, người Aryen có công trong việc hình thành bộ kinh Vêđa hiểu biết, tri thức , mà các kinh Vêđa vốn ban đầu là những tác phẩm truyền miệng sau được viết lại bằng thứ tiếng này: Atharvêđa, Rigvêđa, Samavêđa, Yajurvêđa...
    Trong các kinh Vêđa, người cổ xưa đã sớm ý thức đến ngôn ngữ. Họ xem ngôn ngữ như một vị thần, có tên là Vak, và đã cùng với các vị thần khác lập nên thế giới này.
    Trên thực tế, hệ thống triết học Ấn Ðộ dù chính thống hay không chính thống cũng đều đề cập đến vấn đề ngôn ngữ, đó là vấn đề nắm bắt và biểu thị hiện thực. Song, ngôn ngữ chỉ thực sự trở thành đối tượng của ngành học dưới cái nhìn của các nhà ngữ pháp học.
    Ngay từ thời kỳ này, các khái niệm như: pađa (nghĩa đen), aksara (âm tiết), svara (trọng âm)... đã xuất hiện; sự giải thích từ theo qui tắc liên tưởng là mầm mống của công tác từ điển học cũng đã bắt đầu được hình thành.
    Tác phẩm khác có liên quan đến ngành học là loại sách Nirukta (sách của những tên gọi) của Yaska. Ðóng góp chủ yếu của công trình này là lĩnh vực từ nguyên học. Có thể nói công trình của Yaska là công trình độc nhất ở thời kỳ có bàn đến từ nguyên. Còn trên lĩnh ngữ pháp, tuy ông cũng có công lao nhất định, nhưng thành tựu của ngữ pháp học cổ đại Ấn Ðộ phải kể đến Panini.
    Công trình của Panini nổi tiếng đến mức đã hình thành một ngành học trên thế giới là Panini học. Tác phẩm của ông được viết vào khoảng thế kỷ thứ V trước CN. Tác phẩm gồm tám tập, mỗi tập có nhiều mục, mỗi mục có nhiều qui tắc. Tổng cộng có 3996 qui tắc. Có thể nói, hơn tất cả các nhà ngữ pháp thế giới từ thời thượng cổ đến giữa thế kỷ XX, Panini là người miêu tả đầy đủ nhất, có hệ thống nhất các chức năng cú pháp của danh từ, là người duy nhất so sánh một cách nhất quán các hình thức biến cách với các loại chức năng. Ông là người biết dựa chắc vào việc phân tích cấu trúc của toàn bộ ngôn ngữ một cách tỉ mỉ, kể cả việc phân tích từ ra thành căn tố, thân từ và biến tố. Việc sắp xếp hệ hình biến cách của danh từ cũng đã sớm tuân theo một trật tự nghiêm ngặt: chủ cách, tân cách, công cụ cách, tặng cách, trạng cách, sinh cách, vị trí cách...
    1.2. Dòng Trung Quốc.
    Trung Quốc vốn là một đất nước gồm nhiều quốc gia, nhiều dân tộc mà dân tộc đại diện cho chủ thể quốc gia này là người Hán, với tiếng Hán và chữ Hán. Thực tế, ở Trung Quốc, ngoài tiếng Hán ra, còn có trên 70 ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số, thuộc các họ Hán-Tạng; Nam Á; Ấn Âu...
    Chữ Hán là một trong những loại văn tự của con người có tuổi đời rất cổ, trên 3500 năm. Dấu tích của những chữ này được tìm thấy trên những mai rùa, xương bò, quẻ khắc. Những chữ này là những chữ tượng hình. Nhờ có chữ viết sớm, Người Hán cũng đã sớm có những bản viết trên đồng, trên thẻ tre và cuối cùng là trên giấy ( sử TQ cho rằng, Thái Luân đã làm ra giấy từ thế kỷ đầu của CN (105)).
    Về nội dung ngành học, người Trung Quốc xa xưa đã quan tâm tới 3 việc:
    1. Vấn đề triết học-ngôn ngữ, đó là mối quan hệ giữa tên gọi (danh) với hiện thực (thực) và vấn đề câu.
    2. Việc nghiên cứu chữ Hán thông qua hai ngành học: Huấn hỗ học và Tự thư học.
    3. Việc nghiên cứu âm và vần tiếng Hán: Âm vận học.
    Ðề cập tới vấn đề triết học-ngôn ngữ nói riêng và những vấn đề chính trị-xã hội, tư tưởng nói chung, người nay thường hay nhắc tới nhà tư tưởng lớn nhất Trung Quốc cổ đại, đó là Khổng Tử (551-479 trước CN). Ông có những tư tưởng khái quát hết sức độc đáo. Chẳng hạn, khi có một người học trò hỏi ông: Vua nước Vệ vời thầy ra làm chính trị thì thầy làm gì trước ?, ông không ngần ngại trả lời: Phải làm cho đúng tên gọi (chính danh). Ông giải thích thêm: Tên gọi không đúng thì lời không xuôi. Lời không xuôi thì việc không thành. Việc không thành thì lễ, nhạc không dấy lên được. Lễ, nhạc không dấy lên được thì hình phạt không trúng. Hình phạt không trúng thì dân không biết xoay trở chân tay ra sao.. Ta cũng có thể hiểu thêm chủ trương của Khổng Tử qua câu ông trả lời Tề Cảnh Công khi vua hỏi ông về chính trị: Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử.. Ðứng từ bình diện ngôn ngữ học, đây chính là một nội dung quan trọng của ngành học.
    Ðề cập tới việc nghiên cứu chữ Hán, từ thời Xuân Thu, người Hán đã viết sách dạy chữ cho trẻ nhỏ, gọi là tiểu học. Trong tiểu học, một quan niệm mới của những nhà nghiên cứu đi sau đã đề cập ba hiện tượng có liên quan mật thiết tới ngành học ngôn ngữ, đó là: hình chữ, âm của chữ, nghĩa của chữ là không thể tách rời. Khi đặt chữ, phải có nghĩa rồi mới có âm, có âm rồi mới có hình. Nghiên cứu kinh sách, không gì quan trọng bằng nghĩa, muốn nắm được nghĩa, không gì gắn bó với nó bằng âm.
    Ðề cập tới việc nghiên cứu âm và vần tiếng Hán, từ đời Hán, người ta cũng đã sáng chế ra phiên thiết. Phiên thiết là lối chua âm một chữ bằng hai chữ khác, trong đó chữ trước đại diện cho âm đầu (kể cả âm đầu zêrô), chữ sau đại diện cho vần.
    Gọi chữ được chua âm là A; trong hai chữ phiên thiết, chữ trước là B, chữ sau là C, thì công thứcv trình bày của phiên thiết là: A, BC thiết ( thiết có nghĩa là gần nhau, díu lại).
    B bao giờ cũng phải cùng âm đầu với A (song thanh), C bao giờ cũng phải cùng vần với A (điệp vận): công được chua là cổ hồng thiết, tức công = k+ông.
    Ðối với các chữ viết ghi âm ttó thì thủ pháp phiên thiết là không thích hợp, nhưng đối với lọai chữ viết mà mỗi tiếng ứng với một âm tiết như chữ Hán thì thủ pháp này là giải pháp giúp người Hán chua âm chữ cổ truyền của họ, và đó cũng là một bước chuẩn bị cho sự ra đời của âm vận học sau này.
    Ngoài phiên thiết là việc sáng chế ra 36 chữ chua âm. Hệ thống chữ chua âm này phản ánh hệ thống ngữ âm tiếng Hán đời Ðường-Tống (thế kỷ IX-XI).
    1.3. Dòng Hi-La.
    Hi Lạp là một trong những cái nôi của nền văn minh châu Âu và cũng là cái nôi của nền văn minh thế giới. Có những tên tuổi lớn trong lĩnh vực triết học-ngôn ngữ như Ðêmôcrit, Platon, Arixtôt...
    Ðêmôcrit (460-370 trước CN), đưa ra ý kiến về ngôn ngữ của mình được các đồ đệ của Platon sau này đưa ra bàn bạc: Ông nói rằng danh từ tồn tại theo quy định và chứng minh điều đó bằng bốn luận cứ: 1) tính một tên gọi-hiện tượng đồng âm; 2) tính nhiều tên gọi-hiện tượng đa danh; 3) sự thay đổi tên gọi của sự vật; 4) không có sự tương ứng về tạo từ.
    Ðêmôcrit còn quan tâm đến nhiều vấn đề ngôn ngữ như: Về các tên gọi, Về vẻ đẹp của từ, Về sự nói năng, Về nhịp điệu và sự hài hoà...
    Platon (427-347 trước CN) là học trò của Sôcrat. Sau khi thầy qua đời, Platon đã viết lại nhiều quyển sách dưới hình thức đối thoại, mà trong các đối thoại ấy, Cratilơ là tác phẩm có bàn kỹ về ngôn ngữ.
    Platon còn phát biểu ý kiến của mình về ngôn ngữ trong một số tác phẩm khác. Trong những tác phẩm này ông chú ý mối quan hệ giữa tư tưởng và lời nói. Ông đã trình bày ý kiến này tương đối rõ trong các tập Thêêtet và Sophist. Ông cho rằng, có sự thống nhất hoàn toàn giữa tư tưởng và sự biểu đạt bằng lời nói. Cái khác duy nhất là sự biểu đạt bằng lời phải kèm theo âm thanh: ý kiến là sự biểu đạt bằng lời, nhưng nếu không có sự tham gia của giọng nói và nếu không nói với người khác thì chỉ là sự yên lặng, hướng về bản thân (Thêêtet); ý kiến, hệt như tấm gương hay làn nước, được phản ánh theo dòng chảy phát ra từ cửa miệng (Thêêtet); Bởi vậy, tư tưởng và lời nói là một, ngoại trừ cuộc nói chuyện của tinh thần với chính mình, chỉ nảy ra ở bên trong nó và không thành tiếng, mà ta gọi là tư duy (Sophist).
    Nếu trong Cratilơ, Platon chỉ nói về từ, thì trong hai tập đối thoại vừa nêu, ông đề cập chủ yếu về câu.
    Arixtôt (384-322 trước CN) là học trò của Platon, nhưng ông đã tiếp thu tư tưởng của thầy mình một cách sáng tạo. Mác gọi ông là nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời cổ.
    Trong các tác phẩm của Arixtôt, không có một công trình nào hoàn toàn đề cập riêng vấn đề ngôn ngữ, song những nhận xét, những lời bàn của ông thì thấy xuất hiện ở nhiều tác phẩm. Các nhà ngữ học cũng chưa tập hợp được tất cả các quan điểm của ông để tổng kết chúng thành một hệ thống quan điểm chặt chẽ, nhưng có thể thấy một số vấn đề mà ông đặt biệt quan tâm như: nghệ thuật ngôn từ, sự biểu thị phán đoán bằng ngôn ngữ...
    Người Rôma đã có một thời xâm chiếm đất đai của người Hi Lạp, nhưng người Rôma cũng đã biết học tập rất nhiều ở người Hi lạp để rồi sáng tạo nên một nền văn hoá riêng của mình. Có những tên tuổi lớn về văn hoá như: Xtilon, Varô, Xixêrô...
    Xtilon (150-90 trước CN) là người đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về chữ Latin ở các văn bản cổ. Ông cũng khảo cứu về ngữ pháp tiếng Latin. Có thể xem công trình Về những câu tường thuật đơn giản (De proloquiis) là công trình đầu tiên nghiên cứu về cú pháp tiếng Latin.
    Varô (116-27 trước CN) là học trò của Xtilon. Tác phẩm của ông đề cập vấn đề ngôn ngữ là quyển Về tiếng Latin. Ngoài tác phẩm này ra, ông còn viết những tác phẩm khác như: Về sự giống nhau của các từ, Về việc dùng lời nói, Về nguồn gốc tiếng Latin...
    Được esu sửa chữa / chuyển vào 02:31 ngày 25/06/2004
  4. esu

    esu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/04/2004
    Bài viết:
    1.244
    Đã được thích:
    0
    Các dòng khác:

    . Dòng Ai Cập đã có những đóng góp rất sớm về lĩnh vực ngữ học. Tuy không có những luận thuyết có tính chất khoa học về ngôn ngữ, nhưng người Ai Cập có quan tâm đến những vấn đề ngôn ngữ như chữ viết và việc dạy chữ.
    Dòng Lưỡng Hà đã để lại dấu ấn của mình trên vương quốc cổ Babylon, mà sau này đã bị người Ba Tư tiêu diệt. Ðặc điểm nổi bật của dòng ngữ học này là hệ thống các chữ hình đanh với vài trăm ký hiệu.
    Giai đoạn nghiên cứu này có những nhược điểm như sau: Không hề có một quan điểm khoa học và vô tư đối với bản thân ngôn ngữ; Chỉ nhằm đưa ra những qui tắc để phân biệt những hình thức đúng - sai; Ðó là bộ môn có tính chất quy phạm xa lạ hẳn với sự quan sát thuần túy, chỉ nhằm chú ý đến những vấn đề của chữ viết; Quan điểm của ngành học rất hẹp do việc nhìn nhận đối tượng hẹp.
    2. Giai đoạn hai được đánh dấu bằng thành tựu của ngôn ngữ học châu Âu thế kỷ V đến thế kỷ XVIII.

    Có thể chia thành các giai đoạn như sau: ngôn ngữ học trung đại (V-XIV), ngôn ngữ học thời kỳ phục hưng (XV-XVI), ngữ pháp học duy lý (XVII), ngôn ngữ học thế kỷ XVIII.
    2.1. Ngôn ngữ học trung đại (V-XIV).

    Trong các dòng ngữ học đã nêu, chỉ có dòng Hi-La là có sự tiếp tục phát triển và trở thành dòng chủ đạo chuẩn bị cho sự ra đời của ngành khoa học ngôn ngữ chân chính. Song nó cũng phải trải qua một thời kỳ dài trì trệ như bao lĩnh vực khác ở thời kỳ này.
    Nền giáo dục thời kỳ này dựa vào bảy môn nghệ thuật tự do, đó là: ngữ pháp, phép biện chứng (lôgích), phép hùng biện, âm nhạc, số học, hình học và thiên văn học. Ba môn học đầu tạo thành một bộ ba, bốn môn học sau tạo thành một bộ tư, và ngữ pháp học được xem như môn học cơ sở đầu tiên. Thời kỳ này, người ta chú ý nhiều đến ngữ pháp, mà chủ yếu là ngữ pháp tiếng Latin. Tuy vậy, cũng có thể nêu một số đóng góp tiêu biểu của thời kỳ này ở lĩnh vực ngôn ngữ như sau:

    Về ngữ nghĩa học, người ta thường nhắc tới công trình về từ điển học, từ nguyên học của Ixiđorơ ở Xêvilơ ( Isidore de Séville, 560-636). Công trình này gồm 20 tập, nhưng xét về mặt khoa học vẫn không đi xa hơn những công trình thời cổ xưa.
    Về ngữ pháp học, đây là thời kỳ phát triển mạnh của triết học kinh viện, trong đó việc nghiên cứu ngôn ngữ có vị trí quan trọng; đồng thời, đó cũng là thời kỳ phát triển của văn học, kiến trúc làm cơ sở cho sự hình thành một số trường đại học ở châu Âu. Ðáng chú ý là có một số sách ngữ pháp miêu tả những ngôn ngữ không phải làtiếng Latin, chẳng hạn: ngữ pháp tiếng Aixơlen, tiếng Galơ... Ðặc biệt đáng nói là vào thế kỷ XII, một người Aixơlen vô danh đã biên soạn một quyển Sách ngữ pháp đầu tiên với những suy nghĩ độc lập và độcđáo. Trong công trình này, ông muốn dùng chữ Latin để phiên âm tiếng Aixơlen theo những nguyên lý của âm vị học mà sau này mãi 800 năm, chúng ta thấy ở trường pháp âm vị học Praha.
    Bộ mặt mới của ngữ pháp trung đại là ở sự ra đời của ngữ pháp tư biện còn gọi là ngữ pháp triết lý. Theo tinh thần ấy của thời đại, Pierơ Hêli (Pierre Hélie) đã soạn quyển Tổng hợp ngữ pháp (Summa grammaticae). Trong công trình này, ông dùng triết học để giải thích các quy tắc ngữ pháp do Prixianuxơ xây dựng. Ðiều khác với các nhà ngữ pháp trước đây chỉ nhằm dạy viết và nói đúng với chuẩn mực, Hêli coi ngữ pháp học là một khoa học, nhấn mạnh tính chất có quy tắc chặt chẽ của việc sử dụng ngôn ngữ và hơn nữa nhấn mạnh vào khả năng của con người trong việc sử dụng ngôn ngữ.
    Khuynh hướng lôgích còn có thể thấy trong những cố gắng tìm hiểu ngữ nghĩa tiếng Latin, qua tác phẩm Tổng hoà lôgich (Summulae Logicales) của Giulianô. Theo ông, ý nghĩa là quan hệ giữa từ với cái mà nó biểu hiện. Trong công trình, ông đặc biệt muốn đề cập tới các phổ niệm ngữ pháp. Ví dụ: Homo có nghĩa là người và có thể có giá trị (giả định) là Socrat hay ai đó. Ý nghĩa có trước giả định và khi các ý nghĩa của nhiều từ được kết hợp lại trong các kết cấu thì giả định của chúng sẽ bị thu hẹp lại.
    Thành tựu của thời kỳ này, ngoài ngữ pháp tư biện ra còn phải kể đến việc xây dựng chữ viết cho một số ngôn ngữ ở châu Âu. Trong khi truyền giáo, người ta gặp phải tình trạng bất đồng ngôn ngữ. Từ đó, vấn đề phiên dịch trở thành một vấn đề mang tính chất kích thích cho sự phát triển khoa học ngôn ngữ. Xanh Giêrôm (Saint Jérome 347-420) đã có công dịch Kinh Thánh cùng các sách thánh khác từ tiếng Do Thái sang tiếng Latin. Ongđã sớm quan tâm tới lý thuyết dịch: lấy ý dịch ý chứ không nên lấy từ dịch từ.
    2.2. Ngôn ngữ học thời kỳ phục hưng (XV-XVI).

    Thời kỳ này, trong phần lớn các nước châu Âu, có sự tăng cường về hoạt động lý luận và thực tiễn ngôn ngữ học. Có những vấn đề chính như sau:
    Sự hình thành ngôn ngữ dân tộc và việc bảo vệ nó;
    Các chuẩn mực của ngôn ngữ văn học dân tộc;
    Việc biên soạn ngữ pháp và việc miêu ả các mặt khác của các ngôn ngữ nói trên;
    Việc nghiên cứu tiếng Latin và tiếng Hi Lạp...
    Việc bảo vệ các ngôn ngữ dân tộc Italia, Pháp, Nga. Ở Italia, nơi diễn ra phong trào Phục hưng sớm nhất thế giới, Ðantê (1265-1321) là người sớm có ý thức về sự cần thiết phải xây dựng một ngôn ngữ văn học dân tộc.
    Ở Pháp, vai trò đi đầu trong việc bảo vệ tiếng dân tộc Pháp khi đó thuộc về nhà thơ Gio-chim Du Ben-lây (Joachim Du Bellay 1522-1560) với sự cộng tác của nhà thơ Rôngxa (Ronsard 1524-1585) và các bạn bè tập hợp trong nhóm chòm sao Thất hùng.
    Cũng vào những thế kỷ XV-XVI, ngôn ngữ của bộ tộc Ðại Nga cũng vươn lên trở thành ngôn ngữ dân tộc vào thế kỷ XVII.
    Ðặc điểm thứ hai của ngôn ngữ học thế kỷ XV-XVI là sự phát triển của việc nghiên cứu các cấp độ của các ngôn ngữ dân tộc, nhất là việc nghiên cứu ngữ pháp. Chẳng hạn, việc nghiên cứu ngữ pháp tiếng Pháp, tiếng Latin, tiếng Xlavơ cổ đại, tiếng Bồ Ðào Nha...; đồng thời, những cuộc tranh luận ề chính tả, phát âm nổ ra ở Pháp, Tây Ban Nha, Italia, Anh...
    Ngoài những ngôn ngữ, chữ viết ở Tây Âu ra, người ta đã bắt đầu chú ý tới các ngôn ngữ khác ở châu Âu và các khu vực khác. Nhiều giáo sĩ thuộc dòng Tên sang Ấn Ðộ, Trung Quốc, Nhật Bản...Ðến đâu, họ cũng ghi chép ngôn ngữ ở đó. Ðây là thế kỷ của những từ điển đa ngữ.

    Tiếng Latin và tiếng Hi Lạp được nghiên cứu theo phương pháp so sánh với các ngôn ngữ dân tộc đang hình thành cũng là một trong những đặc điểm của thời kỳ này.
    Vấn đề nguồn gốc các ngôn ngữ là vấn đề đã có từ lâu, nhưng ở thời kỳ này, nó lại được những nhà nghiên cứu ngôn ngữ đề cập tới. Tính chất một nguồn của ngôn ngữ được khẳng định và nhiều người vẫn tin rằng tiếng Do Thái là tiếng mẹ đẻ của các ngôn ngữ.
    Về lý luận ngôn ngữ học, người ta thường nhắc tới nhà ngữ học Pie Ðơ La Ramê và Franxixcô Xanziô. Xanziô cho rằng ngôn ngữ có tổ chức lôgich và có thể miêu tả tỉ mỉ được.
    Tóm lại, đến cuối thế kỷ XVI, khoa học về ngôn ngữ đã dần dần tách khỏi các bộ môn gần gũi và, mặc dù, nói chung, tuy vẫn còn dựa vào lôgích, nó đã không còn là một bộ môn tư biện hoàn toàn nữa mà là một khoa học dựa vào sự quan sát.
    2.3. Ngữ pháp học duy lý (XVII).
    Ở thời kỳ này, một nhân tố đóng góp cho sự phát triển của thực tiễn ngôn ngữ ở các nước châu Âu là sự thành lập các Viện hàn lâm ở các nước này.Ở thời kỳ này, với những tên tuổi lớn như F. Bâycơn, Rơnê Ðêcac, Lepnich, nhất là Ðêcac đã có ảnh hưởng đến việc hình thànhmột khuynh hướng rõ rệt trong ngôn ngữ học đương thời, đó là Ngữ pháp học tổng quát và duy lý Po-Roayan. Ngữ pháp học tổng quát và duy lý, trên thực tế, được tiến hành nghiên cứu ở các mặt sau: 1) Bản chất của từ; 2) Các nguyên lý chung, phổ biến của ngôn ngữ; 3) Giải thích các hiện tượng tồn tại trên cơ sở kết cấu và hoạt động của ngôn ngữ; 4) Giải thích quan hệ giữa các phạm trù và hiện tượng ngôn ngữ với các phạm trù tư duy.
    Một đặc điểm nữa của ngôn ngữ học thế kỷ XVII là sự quan tâm đến các ngôn ngữ nước ngòai và những cố gắng bước đầu xây dựng những lý thuyết lịch sử của ngôn ngữ. Có lẽ Vựng tập đa ngữ của J. Mêgisơ (Mégiser), 1603, chiếm kỷ lục về số ngôn ngữ thu thậ ở thế kỷ này: 400 ngôn ngữ.

    Có thể nói rằng, thế kỷ XVII có những cống hiến vĩ đại trên con đường chuẩn bị cho ngôn ngữ học tổng quát - thường gọi là ngôn ngữ học đại cương ra đời.
    2.4. Ngôn ngữ học thế kỷ XVIII.

    Ðối với ngôn ngữ học, thế kỷ XVIII là thế kỷ mang tính chất lý luận. Nhiều người tiếp tục phát triển tư tưởng của trường pháp ngữ pháp học tổng quát và duy lý Po-Roayan. Ở thời kỳ này, có những tên tuổi lớn như:
    Côngđiăc (1715-1780) với các tác phẩm chính: Tiểu luận về các hệ thống (1749), Ngữ pháp (1775), Lôgích (1794)...
    Ðiđơrô (1713-1793) là linh hồn của nhóm biên soạn Bách khoa toàn thư. Dưới sự chỉ đạo của ông, mục ngôn ngữ trong Bách khoa toàn thư khái quát hoá tư tưởng đương thời như sau: Mọi ngôn ngữ đều có chung một mục đích là biểu đạt tư tưởng các phạm trù ngữ pháp có tính phổ quát; cú pháp xây dựng một cách lôgích trên trật tự của các từ vừa là kết quả của sự phân tích của tư duy, vừa là của sự phân tích lời nói, dù nói bằng bất kỳ ngôn ngữ nào.
    Nghiên cứu nguồn gốc của ngôn ngữ vẫn chiếm một phần chú ý của các học giả thế kỷ XVIII. Có thể kể đến một số nhà khoa học như: J.J. Rutxô (Jean Jacques Rousseau, 1712-1778), J. Hecđơ (1744-1803), Vicô (1668-1744)...
    3. Giai đoạn ba-Ngôn ngữ học thế kỷ XIX.
    Bước sang thế kỷ XIX, ngôn ngữ học châu Âu đã tích lũy được nhiều tri thức về các tiếng làm cơ sở cho sự hình thành ngữ pháp so sánh-lịch sử. Có hai nhân tố chủ yếu đạt được ở thời kỳ này là: 1) Việc sưu tập các mẫu ngôn ngữ trên thế giới và so sánh chúng; 2) Việc dùng những tài liệu của tiếng Xanxkrit vào việc so sánh các ngôn ngữ. Thời kỳ này có những đóng góp đáng lưu ý như:
    3.1. Phương pháp nghiên cứu của Lép-nich (Lepnich).
    Về phương pháp nghiên cứu Lép-nich có những tư tưởng khá độc đáo ở thời điểm lúc bấy giờ. Ông chủ trương, tại sao không bắt đầu bằng cái đã biết mà lại bắt đầu bằng cái chưa biết ? Do đó, ông cho rằng, chúng ta phải bắt đầu bằng việc nghiên cứu những ngôn ngữ mà ta có thể có được, để so sánh chúng với nhau mà tìm ra những điểm giống nhau và khác nhau giữa chúng; sau đó, tiến lên nghiên cứu những ngôn ngữ thời trước, vạch ra quan hệ thân thuộc và nguồn gốc của chúng rồi dần dần đi ngược lên tới ngôn ngữ cổ nhất như vậy mới hợp lý.
    3.2. Việc sưu tập các mẫu ngôn ngữ.
    Người hưởng ứng tích cực đề nghị của Lép-nich là nữ hoàng Nga Catêrin II (1729-1796). Theo ý kiến của bà, Ðumarescơ soạn quyển Từ vựng so sánh các ngôn ngữ phương Ðông.
    Từ sự hưởng ứng nhiệt tình kế hoạch trên của các đại sứ nên năm 1787, quyển từ điển khâm định mang tên Từ vựng so sánh các ngôn ngữ toàn cầu xuất bản tại Pêtecbua. Quyển từ điển có sự đối chiếu với 51 thứ tiếng châu Âu và 149 thứ tiếng châu Á.

    Lần xuất bản thứ hai do Miriêvô chủ biên, có quy mô lớn hơn trước với 280 thứ tiếng: 52 thứ tiếng châu Âu, 185 thứ tiếng châu Á, 28 thứ tiếng châu Phi và 15 thứ tiếng châu Mỹ.
    Năm 1800, Hecvasơ cho xuất bản quyển Mục lục các ngôn ngữ với trên 300 thứ tiếng. Tác phẩm này rất phong phú về mặt nội dung, có nhiều lập luận chính xác. Hecvasơ cũng là người đề xuất quan hệ thân thuộc chân chính giữa các ngôn ngữ, chủ yếu là do những chứng cớ về ngữ pháp quyết định chứ không phải do những sự giống nhau về từ vựng quyết định. Chứng minh cho quan điểm ấy, ông dùng biến cách của danh từ và biến ngôi của động từ trong các tiếng Do Thái, Xyri, Arập... để so sánh và đi tới kết luận.
    Ađêlung (1732-1806) cũng đã sưu tập khoảng 500 ngôn ngữ và phương ngôn. Tuy tác phẩm còn nhiều hạn chế, nhưng đây vẫn là bộ sách nổi tiếng và về phương pháp, nó cũng cố gắng đi theo quan hệ cội nguồn của ngôn ngữ.
    Lomonosov (1711-1765) cũng đã đề cập tới quan hệ họ hàng và tính cộng đồng về nguồn gốc của một số ngôn ngữ trong tác phẩm Ngữ pháp tiếng Nga (1755).
    Ngoài ra, còn có sự đóng góp của một số tác giả khác như: Sacđanh (Chardin), Mônbôđô (Monboddo) và Catê (Kate)...
  5. esu

    esu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/04/2004
    Bài viết:
    1.244
    Đã được thích:
    0
    Việc so sánh với tiếng Xanxkrit.
    Nếu không có một hướng mới thì có lẽ chưa biết đến bao giờ mới hình thành được ngôn ngữ học khoa học. Hướng mới ấy là việc so sánh các ngôn ngữ ở châu Âu với tiếng Xanxkrit.
    Những người đầu tiên đã sớm nhìn thấy mối quan hệ này là Xaxetti, Cơđu, Giôn, và Bactêlômi.
    Philippô Xaxetti (Filippo Sassetti)- người Ý- có lẽ là người đầu tiên đề cập tới mối quan hệ này. Ông đã nêu ý kiến về mối quan hệ giữa tiếng Xanxkrit và tiếng Italia, trong một bức thư viết từ Ấn Ðộ gửi về gia đình.
    Cơđu (Coeurdoux) là giáo sĩ dòng Tên được vua Lui XIV cử sang Ấn Ðộ cũng đã có những dẫn chứng để làm nổi bật sự đồng nhất giữa các tiếng Xanxkrit, Ðức và Xlavơ.
    Giôn (William Johns)- Viên thẩm phán Anh làm việc cho công ty Ðông Ấn- có lẽ được chú ý hơn cả. Năm 1786, trong một bản luận văn nổi tiếng, ông viết: Tiếng Xanxkrit dù nó cổ xưa thế nào chăng nữa, vẫn có một cấu trúc tuyệt vời: hoàn hảo hơn tiếng Hi Lạp, phong phú hơn tiếng Latin, tinh tế lạ lùng hơn cả hai thứ tiếng ấy, tuy vậy, lại có quan hệ họ hàng khá chặt chẽ với cả hai thứ tiếng đó, cả về căn tố của các động từ và về các hình thức ngữ pháp, điều này không phải tình cờ. Sự phát hiện của Giôn có tính tập trung và khẳng định cao hơn đã thúc đẩy được việc nghiên cứu tiếng Xanxkrit trong các nhà nghiên cứu ở châu Âu.
    3.4. Sự ra đời của ngôn ngữ học so sánh-lịch sử.

    Người có công lớn là Frăng Bôp (Franz Bopp, 1791-1867), người Ðức. Ở Pari, ông đã viết công trình Về hệ thống biến ngôi của động từ trong tiếng Xanxkrit so sánh với các ngôn ngữ Hi Lạp, Latin, Ba Tư và Giécman. Tác phẩm này đã đưa Bôp lên vị trí người sáng lập ra ngôn ngữ học so sánh. Và cũng chính từ tác phẩm này, ông đã khẳng định vững vàng quan niệm về tính thống nhất của họ ngôn ngữ Ấn-Âu.
    Có thể nói, nếu tiếng Xanxkrit chưa được phát hiện thì Bôp khó lòng có thể tiến hành so sánh để tìm thấy mối quan hệ họ hàng. Ở đây, tiếng Xanxkrit xuất hiện như một nhân chứng thứ ba bên cạnh tiếng Hi Lạp và tiếng Latin, đã cung cấp cho ông một cơ sở nghiên cứu rộng hơn và vững hơn. Thuận lợi này lại được nhân lên vì một may mắn tình cờ là tiếng Xanxkrit có những điều kiện đặc biệt thuận lợi để soi sáng cho việc so sánh này.
    Xét một số chuỗi biến cách:
    Latin: Genus - Genus, Generis, Genere, Genera, Generum...
    HiLạp: Génos - Génos, Géneos, Génei, Génea, Géneon...
    Hai chuỗi biến cách này không nói lên một điều gì hết, nhưng sự tình lại khác hẳn khi thêm chuỗi biến cách của tiếng Xanxkrit:
    Xanxkrit: Ganas - Ganas, Ganasas, Ganasi, Ganassu, Ganasam...
    Ngay từ đầu, người ta thấy đã xuất hiện bên cạnh Bôp, những nhà ngôn ngữ học ưu tú như: Jacob Grimm (1785-1863), August Pott (1802- 1887), Adalbert Kuhn (1812-1881), Theodor Benfey (1809- 1881) và August Schleicher (1821- 1868)...
    4. Giai đoạn bốn-Ngôn ngữ học thế kỷ XX.

    Ngôn ngữ học thế kỷ XX được đánh dấu bằng tên tuổi lớn của Ferdinand De Saussure (1857-1913). Có thể nói không quá đáng rằng, trong ngôn ngữ học hiện đại, không có một học thuyết chung nào mà không nhắc tới ông, bởi vì khó mà tránh khỏi phải dựa vào, hoặc nếu không thì phải phản bác, một vài luận điểm quan trọng nào đó của của Ferdinand De Saussure. (E. Benveniste).
    Ferdinand De Saussure là người Thuỵ Sĩ, năm 21 tuổi, khi đang còn là sinh viên học ở Ðức, ông đã viết tác phẩm Nghiên cứu về hệ thống nguyên thủy các nguyên âm trong các ngôn ngữ Ấn-Âu. Ðây là một tác phẩm làm nhiều người ngạc nhiên và ba bốn chục năm sau vẫn có người đánh giá là chưa bao giờ có một quyển sách về ngữ pháp học so sánh vững vàng, mới mẻ và đầy đủ như vậy! (A. Meillet).
    Sau khi ông mất 1913, hai người học trò của ông là Charles Bally và Albert Séchehaye- lúc bấy giờ đã là những nhà ngôn ngữ học nổi tiếng- đã dựa và bản thảo, tài liệu ghi chép của Ferdinand De Saussure và những tư liệu của sinh viên mà soạn thành Giáo trình Ngôn ngữ học đại cương (Cours de linguistique générale) và cho xuất bản năm 1916. Ðó là bản khai sinh nền ngôn ngữ học hiện đại.
    Aính hưởng của học thuyết Saussure và những luận điểm của ông trong ngôn ngữ học đã tạo ra sự đổi mới lớn lao trong việc nghiên cứu ngôn ngữ. Xuất phát từ luận điểm ngôn ngữ là công cụ giao tiếp, một số nhà nghiên cứu đã đi tìm chức năng của các yếu tố, các lớp, các cơ chế xuất hiện trong ngôn ngữ. Vì thế, họ được gọi là nhà chức năng luận. Trường phái ngôn ngữ học Praha, còn gọi là trường phái chức năng đã ra đời.
    Hoạt động của trường phái ngôn ngữ học Praha và lý thuyết ngôn ngữ học qua các công trình nghiên cứu của họ có những đóng góp đáng kể cho ngôn ngữ học hiện đại. Tuy nhiên, ngoài lĩnh vực âm vị học, các công trình khác chưa gây được ảnh hưởng quốc tế và tiếng vang lớn. Ðóng góp hết sức quan trọng của hai đại biểu ở trường phái này là công trình âm vị học của Trubetskoy và Jakobson.
    Tấm gương sáng chói của Câu lạc bộ ngôn ngữ học Praha và những thành công rực rỡ của nó về âm vị học đã khích lệ L. Hjelmslev (1899-1965) thành lập Câu lạc bộ ngôn ngữ học Copenhagơ, tức trường phái Copenhagơ năm 1931 với học thuyết Ngữ vị học của mình (1936). Cộng tác tích cực với Hjelmslev để xây dựng cơ sở học thuyết này có Udall, Brondall và Holt.
    Học thuyết của Hjelmslev góp phần làm cho một số nhà ngôn ngữ học suy nghĩ về cơ sở nhận thức luận trong công tác khoa học của mình, nhất là về mặt phân tích ngữ nghĩa. Trường phái Copenhagơ đã tác động đến sự phát triển bộ môn ngữ nghĩa học, trong những năm 60.
    Cùng với trường phái Praha, trường phái Copenhagơ được coi như là đại diện cho xu hướng cấu trúc ở châu Âu, phát triển từ học thuyết của Ferdinand De Saussure nửa đầu thế kỷ XX. Cùng thời, xu hướng cấu trúc ở châu Mỹ phát triển một cách độc lập. Tuy có những nét giống với học thuyết của Saussure, như nét hình thức trong phân tích ngôn ngữ, nhưng do điều kiện thực tế của mước Mỹ, cần miêu tả gấp tiếng nói của người da đỏ, nó cũng có những điểm khác biệt rõ được thể hiện qua trường phái miêu tả do L. Bloomfield chủ trì.
    Trường phái miêu tả bắt đầu từ L. Bloomfield với công trình nổi tiếng Language (Ngôn ngữ), in năm 1933, đã xây dựng phương pháp phân bố, nhằm định rs một cách chặt chẽ sự phân đoạn chuỗi lời nói, và xây dựng phương pháp thành tố trực tiếp, định ra một sự phân tích các đơn vị thu được bằng sự phân đoạn. Trường phái miêu tả Mỹ được tiếp tục phát triển với Z. Harris, K. Pike, R. Wells, Ch. Hockett... và chi phối nền ngôn ngữ học Mỹ cho tới cuối những năm 50 của thế kỷ này.
    Khi tiếp thu và nghiên cứu ngôn ngữ học theo phương pháp phân bố của Z. Harris, Noam Chomsky nhận thấy rằng, tuy phương pháp này được xây dựng một cách chặt chẽ và có hiệu lực để miêu tả ngôn ngữ, nhưng vẫn có hàng loạt vấn đề lý thuyết ngôn ngữ cần được đặt ra và nghiên cứu lại. Từ 1960, trên thế giới, và trước hết ở Mỹ đã hình thành một trường phái mới là Ngữ pháp tạo sinh, nó cạnh tranh một cách mạnh mẽ với trường phái miêu tả.
  6. esu

    esu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/04/2004
    Bài viết:
    1.244
    Đã được thích:
    0

    Vị trí của ngôn ngữ trong các sự kiện của hoạt động ngôn ngữ.

     

              Có thể hình dung bằng sơ đồ sau:  
                            [​IMG]
              Vòng tuần hoàn dưới dạng thức đã trình bày trên có thể phân tích thành:
                1)     Một phần bên ngoài (sự chấn động của các âm đi từ miệng đến tai) và một phần bên trong gồm tất cả những gì còn lại;
                2)     Một phần tâm lý và một phần phi tâm lý, phần thứ hai gồm cả những hiện tượng tâm lý diễn ra trong các khí quan cũng như những hiện tượng vật lý ở bên ngoài người nói;
                3)     Một phần chủ động và một phần thụ động: chủ động là tất cả những gì đi từ trung tâm liên hệ của một trong hai người đến tai người kia và thụ động là tất cả những gì đi từ tai người này đến trung tâm liên hệ của mình;
                4)     [​IMG] [​IMG]Cuối cùng, trong phần tâm lý định vị trong bộ não, có thể gọi tất cả những gì là chủ động ( C  I ) là thi hành và tất cả những gì thụ động ( I  C ) là tiếp nhận.
                5)     Cần phải thêm vào đây một năng lực liên hệ và kết hợp, năng lực này hiện rõ ngay khi nào không phải chỉ có những tín hiệu biệt lập nữa; chính cái năng lực này đóng vai trò quan trọng nhất trong việc tổ chức ngôn ngữ với tính cách là một hệ thống.
     
        Giữa tất cả những cá nhân được hoạt động ngôn ngữ liên kết lại như vậy, sẽ hình thành một thứ trung bình: mọi người đều sẽ thể hiện lại-dĩ nhiên, không phải là đúng hệt, mà chỉ gần đúng-những tín hiệu như nhau mà những tín hiệu ấy liên hệ với những khái niệm giống nhau.
        Chính là nhờ hoạt động của năng lực tiếp nhận và năng lực liên hệ mà ở những người tham gia hoạt động ngôn ngữ hình thành những dấu vết dần dần đi đến chỗ trở thành gần như thống nhất cho tất cả mọi người.
        Có thể tổng kết các đặc tính của ngôn ngữ như sau:
                1) Nó là một đối tượng tách bạch trong cái mớ hỗn tạp những sự kiện của hoạt động ngôn ngữ. Có thể định vị nó trong cái quãng nhất định của đường tuần hoàn mà một hình tượng thính giác được liên hệ với một khái niệm.
    Nó là một bộ phận xã hội của hoạt động ngôn ngữ, tồn tại ở bên ngoài cá nhân: một cá nhân không thể tự mình sáng tạo ra ngôn ngữ hay thay đổi nó đi; nó chỉ tồn tại chiểu theo một khế ước giữa các thành viên của cộng đồng.
    Mặt khác, cá nhân phải trải qua một thời gian tập dượt mới biết được cách hoạt động của nó; đứa trẻ dần dần mới tiếp thu được nó.
              Nó là một sự vật tách biệt rõ ràng đến nỗi một người mất khả năng nói thành lời vẫn có thể giữ được ngôn ngữ, miễn là người đó hiểu những dấu hiệu ngữ âm mà họ nghe được.
                2) Ngôn ngữ, phân biệt với lời nói, là một đối tượng mà người ta có thể nghiên cứu riêng.
                3) Trong khi hoạt động ngôn ngữ có tính chất không thuần nhất thì bản thân ngôn ngữ, sau khi đã được phân giới như vậy, lại có tính chất nhất thể: đó là một hệ thống tín hiệu trong đó điều cốt yếu duy nhất là sự kết hợp giữa ý nghĩa với hình tượng âm, và trong đó hai bộ phận của tín hiệu đều có tính chất tâm lý như nhau.
                4) Ngôn ngữ cũng là một đối tượng có tính chất cụ thể không kém gì lời nói, và đó là một thuận lợi lớn cho việc nghiên cứu. Các tín hiệu ngôn ngữ tuy về căn bản có tính chất tâm lý, vẫn không phải là những sự trừu tượng hóa; đó là những sự liên hệ được sự thỏa thuận của tập thể chấp nhận, những sự liên hệ mà gộp chung lại, thì làm thành ngôn ngữ, những sự liên hệ đó là những thực thể tồn tại trong bộ óc.
              Ngoài ra, những tín hiệu của ngôn ngữ có thể nói là có thể sờ mó được; văn tự có thể ghi nó lại bằng những hình ảnh ước định, trong khi không thể nào chụp ảnh lại những hành động nói năng với đủ các chi tiết; quá trình phát âm một từ dù ngắn đến đâu cũng gồm có vô số động tác của các cơ thịt rất khó biết rõ và hình dung. Trong ngôn ngữ thì ngược lại, chỉ cfon có hình tượng âm, và hình tượng này có thể dịch ra thành một hình tượng thị giác cố định.
              Việc trừu tượng hóa cái mớ động tác cần thiết cho việc thực hiện hình tượng đó trong lời nói, thì mỗi hình tượng thính giác, như ta sẽ thấy, chỉ là tổng số của một số yếu tố hay âm vị (phonème), và những yếu tố này, đến lượt nó, lại có thể được gợi lên bằng một số ký hiệu tương ứng trong chữ viết.
              Chính nhờ khả năng ghi lại những sự kiện thuộc ngôn ngữ mà một cuốn từ điển và một cuốn ngữ pháp có thể là hình ảnh trung thành của ngôn ngữ, vốn là cái kho lưu trữ những hình tượng thính giác, mà chữ viết là dạng thức có thể sờ mó được của những hình tượng này.
  7. esu

    esu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/04/2004
    Bài viết:
    1.244
    Đã được thích:
    0

    Quan hệ của ngôn ngữ học với các khoa học khác

     

              Với tư cách là công cụ giao tiếp và tư duy của con người, ngôn ngữ được xem như một phương tiện trọng yếu dùng để chuyển tải những tri thức khoa học của các môn khoa học khác. Không có một môn khoa học nào mà không sử dụng phương tiện ngôn ngữ như là một công cụ để nắm bắt và lưu giữ thông tin. Vì vậy, khoa học nghiên cứu về ngôn ngữ có tác dụng hỗ trợ cho các ngành khoa học khác sử dụng công cụ tiếng nói trên các bình diện một cách có hiệu quả hơn.
              Ngôn ngữ có hai mặt: mặt cấu trúc và mặt chức năng. Hai mặt này có tính độc lập tương đối; đồng thời, có sự gắn bó khăng khít với nhau. Ðề cập tới mặt chức năng là nhắm tới phạm vi những vấn đề của xã hội-ngôn ngữ học, trong đó, sự tương tác của ngôn ngữ với các khoa học xã hội khác là mối quan hệ hai chiều, chẳng hạn mối quan hệ giữa ngôn ngữ học với dân tộc học, lịch sử học, tâm lý học, địa lý học, văn học... Có thể nêu một số ý khái quát như sau:
              Mối quan hệ giữa ngôn ngữ học với dân tộc học: Ngôn ngữ của mỗi một dân tộc có những đặc điểm riêng, vì vậy, lý giải những đặc trưng của một ngôn ngữ không thể không tính đến những đặc trưng, hòan cảnh xã hội của dân tộc. Dân tộc học sẽ cung cấp những cơ sở lậûp luận khoa học hỗ trợ cho việc nghiên cứu ngôn ngữ học; mặt khác, đề cập tới dân tộc không thể không nói đến ngôn ngữ. Ngôn ngữ học sẽ cung cấp những cơ sở lậûp luận khoa học hỗ trợ cho việc nghiên cứu dân tộc học.
    Mối quan hệ giữa ngôn ngữ học với lịch sử học: Ngôn ngữ tuy có quá trình vận động phát triển theo quy luật riêng của nó, nhưng nó vẫn là sự phản ánh hiện thực xã hội. Ðể lý giải những hiện tượng ngôn ngữ nhà ngữ học cũng cần sự hỗ trợ của khoa học lịch sử; mặt khác, nghiên cứu những vấn đề sử học, nhà nghiên cứu cũng cần những tri thức của khoa học ngôn ngữ.
    Mối quan hệ giữa ngôn ngữ học với tâm lý học: Mối quan hệ giữa khái niệm và hình tượng âm tương ứng là  là một hiện tượng hoàn toàn có tính chất tâm lý. Việc nghiên cứu ngôn ngữ cũng cần phải dựa trên cơ sở của khoa học tâm lý: ý nghĩa của từ vốn được xây dựng trên cơ sở của khái niệm; mặt khác, việc nghiên cứu tâm lý cũng cầm sự hỗ trợ của ngôn ngữ học: mọi hiện tượng tâm lý cuối cùng cũng được biểu hiện thông qua các hình thức của ngôn từ, vì con người không phải chỉ sử dụng ngôn từ vào một mục đích là phản ánh những hiện tượng xã hội, mà còn phản ánh những hiện tượng tâm lý của con người.
    Mối quan hệ giữa ngôn ngữ học với địa lý học: Trong khi nghiên cứu ngôn ngữ, một đặc điểm đập vào mắt ta trước tiên là tính đa dạng của nó. Tính đa dạng địa lý đã được trình bày dưới dạng thức lý tưởng của nó: có bao nhiêu lãnh thổ là có bấy nhiêu ngôn ngữ riêng biệt, vì sự phân chia địa lý vẫn là nhân tố phổ biến nhất của tính đa dạng ngôn ngữ. Vì vậy, việc nghiên cứu ngôn ngữ cần những sự hiểu biết về mặt địa lý học; mặt khác, đề cập vấn đề lãnh thổ, dân tộc người nghiên cứu cũng cần sự hiểu biết về ngôn ngữ học.
    Mối quan hệ giữa ngôn ngữ học với văn học: Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học (M. Gorơki ). Không thể bỏ qua những tri thức ngữ học trong khi nghiên cứu văn học; mặt khác, việc nghiên cứu ngữ học cũng cần những cơ sở của các tác phẩm văn chương. Hai bộ môn này có mối quan hệ khăng khít với nhau khiến cho nhiều người có sự nhầm lẫn về đối tượng của hai ngành học này.
  8. esu

    esu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/04/2004
    Bài viết:
    1.244
    Đã được thích:
    0

    Vấn đề nguồn gốc của ngôn ngữ

     

              Từ xa xưa, người ta đã cố đi tìm và giải thích nguồn gốc của ngôn ngữ bằng nhiều giả thuyết. Có giả thuyết cho rằng, ngôn ngữ là do các vị thần linh ban cho loài người; có giả thuyết xem ngôn ngữ là do chính con người tạo nên. Các nhà triết học cổ Hi lạp thuộc hai trường phái triết học duy vật và duy tâm cũng quan tâm rất nhiều đến nguồn gốc của ngôn ngữ khi tìm hiểu mối liên hệ giữa sự vật và tên gọi của nó. Có thể nêu một số khuynh hướng lý giải nguồn gốc của ngôn ngữ như sau:
              Phái duy vật (tiêu biểu là Dêmôcrit, 460-370, trước CN) khẳng định mối liên hệ giữa tên gọi và sự vật là ngẫu nhiên do chính con người đặt ra và xem ngôn ngữ kết qủa của quá trình sáng tạo của con người, không phải do thần thánh mang lại.
              Phái duy tâm (tiêu biểu là Platon, 427-347, trước CN) xem tên gọi các sự vật là do ngay từ bản chất của các vật thể và như vậy, ngôn ngữ là quà tặng của đấng tối cao ban tặng cho con người trong quá trình người xây dựng nên trời đất này.
              Các nhà khoa học ở những thời kỳ sau này cũng đã đưa ra nhiều giả thuyết khác nhau để lý giải nguồn gốc của ngôn ngữ, chẳng hạn: Có người cho ngôn ngữ hình thành đầu tiên là do bắt chước những âm thanh trong thiên nhiên, trong thực tại gọi là thuyết tượng thanh (Lepnich); có người cho ngôn ngữ hình thành do tiếng kêu vì cảm xúc, sợ hãi, kinh ngạc và vui sướng của con người nguyên thủy gọi là thuyết cảm xúc (J.J. Rutxô); có thuyết cho rằng, ngôn ngữ hình thành là do tiếng kêu có tiết tấu trong lao động (L. Nuare)...
              Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mïác xem xét vấn đề trên cơ sở của phép biện chứng duy vật đã lý giải nguồn gốc của ngôn ngữ trong mối quan hệ với sự hình thành nguồn gốc cọn người. Trong bài, vai trò của lao động trong quá trình chuyển biến từ vượn thành người, Ăngghen khẳng định rằng, ngôn ngữ bắt nguồn từ lao động và cũng nảy sinh ra với lao động. Ngôn ngữ xuất hiện khi con người được biến đổi từ vượn mà thành.
              Như vậy, theo Ăng-ghen, bắt nguồn từ lao động và sau đó cùng với lao động tiếng nói được hình thành và phát triển.


           5. Sự phát triển của ngôn ngữ

     

              Khi nghiên cứu những sinh hoạt tinh thần của những tộc người ở thời kỳ bán khai, thời kỳ con người chỉ biết dựa vào tự nhiên: săn bắt, hái lượm và hoàn toàn chưa có chữ viết, thì các nhà ngôn ngữ đã nhìn nhận có một hình thức ngôn ngữ được dùng trong sinh hoạt dân gian. Dạng ngôn ngữ ở thời kỳ này có thể có hai chức năng: chức năng làm công cụ giao tiếp giữa các thành viên trong sinh hoạt thường ngày và chức năng làm công cụ của văn học dân gian truyền khẩu.
              Ðến thời kỳ con người phát minh ra văn tự chính là thời kỳ của các quốc gia cổ đại, mà ở đó, dân tộc chủ thể trong quốc gia chiếm hữu nô lệ là dân tộc có chữ viết. Khi con người phát hiện ra chữ viết cũng là lúc con người ý thức được vai trò của ngôn ngữ không chỉ đơn thuần là giao tiếp mà ở dạng chữ viết con người có thể ghi chép để lưu giữ lại những gì con người cần và như vậy con người bắt đầu sáng tác văn học viết cũng như ý thức được việc ghi chép lại những gì tìm tòi có giá trị khoa học. Từ đó, những gì được lưu lại trong sách vở ngoàimục đích lưu truyền còn có ý nghĩa như một phương tiện giáo dục. Bởi đó, ngôn ngữ ở thời kỳ này đã có được nhiều chức năng hơn: Ngoài hai chức năng như đã được đề cập ở thời kỳ sơ khai, ngôn ngữ thời kỳ này còn là công cụ hành chính của nhà nước; đồng thời, nó còn là công cụ của văn học viết và công cụ giáo dục buổi đầu của nhà trường. Ba chức năng sau chính là nhờ con người phát hiện ra văn tự, một hình thức biểu thị khác của ngôn ngữ loài người.
              Sang thời kỳ phong kiến, ngôn ngữ của dân tộc cũng thực hiện các chức năng như đã nêu. Có điều, con người chú ý nhiều hơn đến tầm quan trọng của văn tự. Ba chức năng sau của ngôn ngữ được con người khai thác triệt để hơn. Nhờ đó, xã hội có được điều kiện phát triển và đạt được những tiến bộ đáng kể về mặt văn hoá-xã hội.
     
              Ở thời đại hiện nay, yêu cầu hoàn thiện ngôn ngữ ở cả hai dạng nói và viết sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh của xã hội. Vì thế, vấn đề chuẩn hóa ngôn ngữ được đạt ra. Một trong những yêu cầu của chuẩn hóa cũng là nhằm hướng tới việc thông tin nhanh và có tính phổ cập. Ðây cũng là thời kỳ yêu cầu hoàn thiện ngôn ngữ dân tộc trên mọi bình diện nhằm hướng tới sự chuẩn hóa cả trên bình diện phong cách chức năng.
  9. esu

    esu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/04/2004
    Bài viết:
    1.244
    Đã được thích:
    0
    Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt

    Con người khác với các động vật khác là ở chỗ con người có ngôn ngữ. Ngôn ngữ là một loại phương tiện mà con người dùng để giao tiếp với nhau. Nó không phải là một hiện tượng của tự nhiên, cũng không phải là sự phản xạ có tính bản năng như phản xạ có điều kiện ở một số sinh vật. Nó cũng không phải là một hiện tượng có tính cá nhân, tuy rằng ngôn ngữ có liên quan tới mỗi cá nhân con người, nhưng lại không lệ thuộc vào cá nhân con người. Nó là sản phẩm của tập thể, nó tồn tại và phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Vì là sản phẩm của tập thể nên sự tồn tại và phát triển của nó có phụ thuộc vào sự tồn tại và phát tiển của cộng đồng người sử dụng ngôn ngữ ấy. Mặt khác, nói nó là một hiện tượng xã hội vì ngôn ngữ tồn tại trong xã hội loài người với tư cách là một công cụ mà con người dùng để giao tiếp, trao đổi thông tin với nhau. Trong cuốn Hệ tư tưởng Ðức, Mác và Ăn-ghen cho rằng: Ngông ngữ là ý thức thực tại, thực tiễn, ngôn ngữ cũng tồn tại cho cả người khác nữa, như vậy là cũng tồn tại lần đầu tiên cho bản thân tôi nữa. Và cũng như ý thức, ngôn ngữ chỉ sinh ra do nhu cầu, do cần thiết phải giao dịch với người khác.
    Khi đề cập tới một hiện tượng xã hội, người ta thường xem xét chúng trên cơ sở của hai phạm trù của một cơ cấu xã hội: cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
    Dĩ nhiên, không thể xếp ngôn ngữ vào cơ sở hạ tầng, bởi tự nó không là công cụ sản xuất mà cũng không là quan hệ sản xuất. Nó chỉ là phương tiện mà con người dùng để giao tiếp với nhau.
     
    Cũng không thể xếp ngôn ngữ vào thiết chế thuộc thượng tầng kiến trúc vì mọi thiết chế của thượng tầng kiến trúc như nhà nước, pháp luật, thể chế chính trị, tôn giáo... đều dựa trên cơ sở của hạ tầng. Cơ sở hạng tầng còn thì kiến trúc thượng tầng còn, cơ sở hạng tầng thay đổi thì kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. Trong khi, với tư cách là công cụ giao tiếp và tư duy, ngôn ngữ không bị biến đổi khi cơ sở hạ tầng thay đổi. Mặt khác, ngôn ngữ không mang tính giai cấp như hệ thống triết học, luật pháp, chính trị... mang tính giai cấp, vì tư tưởng của mọi thời đại là tư tưởng thống trị. Nói khác đi, ngôn ngữ không phải là tài sản riêng của
    một giai cấp nào, nó là tài sản của toàn xã hội. Vì lẽ đó, các nhà ngôn ngữ đều nhìn nhận ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội nhưng là một hiện tượng xã hội đặc biệt.
     
    Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt

              Ðề cập tới tín hiệu là đề cập tới cái gì đó có tính vật chất mà người ta có thể tiếp cần được bằng các giác quan như: nghe, thấy, sờ...; mặt khác, nó được dùng để biểu thị một điều gì đó, nói khác đi, nó phải chứa đựng một ý nghĩa tượng trưng nào đó. ( Cần phân biệt với dấu hiệu- dấu hiệu cũng biểu thị một cái gì đó như là nguyên nhân hay kết quả của một hiện tượng và không có tính hệ thống ). Mối quan hệ giữa hai mặt của một tín hiệu này được xây dựng trên sự quy ước của cộng đồng xã hội; đồng thời, mối quan hệ này phải được đặt trong một hệ thống nhất định thì sự quy ước ấy mới có cơ sở tồn tại. Nói cách khác, ý nghĩa của một tín hiệu là ý nghĩa được cộng đồng người thừa nhận dựa trên mối quan hệ hai mặt của một tín hiệu và được xem xét trong mối tương quan hệ thống, chẳng hạn: đèn đỏ có ý nghĩa dừng lại, đó là sự quy ước được cộng đồng người tiếp nhận và ý nghĩa này của đèn đỏ chỉ có trong mối quan hệ của hệ thống đèn giao thông.
              Với cách hiểu này, ngôn ngữ cũng là một hệ thống tín hiệu biểu hiện những ý niệm, và do đó, có thể so sánh với chữ viết, với chữ của người câm điếc, với các nghi lễ tượng trưng, với các hình thức  lễ độ, với các tín hiệu nói chung như: tín hiệu giao thông, tín hiệu còi (Morse), tín hiệu cờ Xê-ma-pho, tín hiệu nhà binh...Có điều, so với các hệ thống tín hiệu này thì ngôn ngữ là hệ thống quan trọng nhất. Vì tín hiệu trong một chừng mực nhất định, bao giờ cũng vượt ra ngoài ý chí của cá nhân hay của xã hội, đó là đặc tính căn bản của nó; nhưng đó cũng lại là cái đặc tính mà thoạt nhìn khó thấy rõ nhất; trong khi đó, đặc tính này chỉ lộ rõ trong ngôn ngữ. Có thể nói, nhờ đặc tính này mà những biểu hiện của những tín hiệu ngôn ngữ không bao giờ có ý nghĩa tận cùng, trong khi, các hệ thống tín hiệu khác thì lại có ý nghĩa giới hạn, chẳng hạn, các hệ thống tín hiệu này không thể dùng trong mọi hoàn cảnh giao tiếp được. Bởi đó, theo quan điểm của Saussure, ông cho rằng, vấn đề ngôn ngữ học trước hết là một vấn đề tín hiệu học. Và tất cả những luận điểm của ông đều rút ra ý nghĩa của chúng từ cái sự kiện quan trọng này.
  10. esu

    esu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/04/2004
    Bài viết:
    1.244
    Đã được thích:
    0
    Hai chức năng của ngôn ngữ

    Ðề cập tới chức năng ngôn ngữ, người ta thường nói tới hai chức năng, đó là chức năng giao tiếp và chức năng tư duy trừu tượng. Và nên hiêu hai chức năng này trong mối tương quan không thể tách rời nhau, nghĩa là, trong khi ngôn ngữ thực hiện chức năng giao tiếp thì cũng đồng thời thực hiện luôn cả chức năng tư duy trừu tượng và ngược lại, khi ngôn ngữ làm chức năng tư duy trừu tượng thì cũng có nghĩa là ngôn ngữ đang tiến hành đồng thời cả chức năng giao tiếp.       Nói khác đi, trong quá trình giao tiếp của con người, con người cũng dùng ngôn ngữ  để tư duy ( tư duy để giao tiếp ); mặt khác, trong quá trình tư duy, con người lại dùng ngôn ngữ để giao tiếp ( giao tiếp thầm lặng ). Phải thấy đặc điểm này để hiểu rằng, chỉ có con người mới có công cụ ngôn ngữ cùng một lúc thực hiện hai chức năng trên.
    Hiểu ngôn ngữ như là một loại tín hiệu chỉ đơn thuần làm chức năng trao đổi dễ đi đến lập luận rằng,các loài vật cũng có ngôn ngữ, vì chúng cũng dùng một số tín hiệu nào đó để thông tin cho nhau, chẳng hạn, ngôn ngữ loài ong, ngôn ngữ cá heo, các loài chim biết nói...
              Thực ra, chúng ta có thể giao tiếp với nhau bằng nhiều hình thức tín hiệu khác, chứ không nhất thiết chỉ bằng ngôn ngữ.. Chẳng hạn, ta dùng tiếng chuông, cái gật đầu, sự nháy mắt cũng là một hình thức giao tiếp, nhưng nào có phải là ngôn ngữ.
              Có điều, chúng ta nói, hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ xảy ra khi người nói dùng ngôn ngữ để truyền đạt một nhận thức, một tư tưởng tình cảm, thái độ của mình về một thực tế chủ quan, khách quan nào đó cho người nghe, nhằm làm cho người nghe, người đọc có được cùng tư tưởng, tình cảm như mình đối với thực tế khách quan đang được nói tới, hay ít ra cũng có sự hiểu biết nào đó về những vấn đề mình đưa ra, để cuối cùng họ cũng có được hành động như người nói mong muốn.
              Vậy thì, một hoạt động giao tiếp có hai mục đích:
    Mục đích nhận thức: Làm cho người nghe có được nhận thức tình cảm như người nói. Ở đây là nói tới tính thuyết phục.
    Mục đích hành động: Nói là để cho người nghe hiểu như người nói hiểu, hiểu để rồi làm cái việc nào đó mà người nói mong muốn. Ở đây là nói tới tính bắt buộc.
    Ðể thực hiện được hai chức năng của một hoạt động giao tiếp, người nói phải dùng những tín hiệu ngôn ngữ và những đơn vị tín hiệu này có thể mang một trong các chức năng sau: chức năng biểu vật, chức năng biểu niệm, chức năng biểu thái...
              Có thể phân tích một ví dụ để hiểu thế nào là chức năng tín hiệu học của các đơn vị tín hiệu của một ngôn ngữ: - Chưa đâu lão. Săn heo rừng phải lì đợi chớ. Hai Mẫn đánh coi như ăn gỏi, con nhỏ lanh kỳ cục lắm đó !
              1. Ðoạn này nói về một nhân vật khác, cô xã đội trưởng Hai Mẫn và một trận đánh giáp lá cà xảy ra do cô chỉ huy. Các từ ngữ, các câu trong văn bản trước hết có nhiệm vụ chỉ ra, biểu thị cho được hai thực tế đó ( Cô xã đội & trận đánh xáp ) ( Chức năng biểu vật.
              2. Qua câu nói, Tư Luân muốn truyền đạt cho Thiêm hiểu biết của mình về Hai Mẫn và dự đoán của mình về trận đánh. Các yếu tố trong văn bản lại phải biểu thị cho được các nội dung trên ( Về hai Mẫn & về dự đoán trận đánh xáp ) ( Chức năng biểu niệm.
              3. Nghe câu nói trên, chúng ta ( cả Thiêm ) cũng nhận ra, ngoài việc nhận ra các hiểu biết của Tư Luân về đối tượng, còn nhận ra sự đánh giá cao, tấm lòng trìu mến của người nói đối với hai Mẫn ( con nhỏ lanh kì cục lắm đó ), cũng như sự khinh bỉ của anh đối với kẻ thù ( săn heo rừng; như ăn gỏi ) ( Chức năng biểu thái.
              4. Mặt khác, câu nói trên và điều này có thể không nằm trong ý định truyền đạt của người nói, nhưng nó cũng biểu thị cho ta đoán biết một số thông tin như: Người nói à một người lao động chân tay ( săn heo rừng ), ở miền Nam trung bộ hoặc Nam bộ gì đó ( heo, coi như, con nhỏ lanh ); hơn nữa, giữa người nói và đối tượng được phản ánh có thể có mối quan hệ lớn-nhỏ, trên-dưới, chẳng hạn, quan hệ cha, chú-con, cháu ( con nhỏ ); giữa người nói và người nghe cho quan hệ ngang bằng, thân mật ( chưa đâu lão )...( Chức năng bộc lộ.
              5. Vì thấy người nghe bồn chồn, lo lắng trước việc Mẫn vào làng chỉ huy trận đánh, người nói mới nói câu trên để cho người nghe yên tâm. Câu nói hướng vào người nghe, tạo ra ở người nghe một trạng thái tâm lý an tâm nhất định. ( Chức năng hiệu lệnh.
              6. Có những đơn vị tín hiệu trong văn bản: chớ, lắm đó..., tuy không góp phần trực tiếp tạo ra thông tin, nhưng sự có mặt của chúng góp phần làm cho văn bản được liền lạc, duy trì mối quan hệ giao tiếp. ( Chức năng đưa đẩy.
              Các chức năng trên có liên quan tới các nhân tố phi ngôn ngữ trong một hoạt động giao tiếp. Các chức năng trên góp phần tạo nên nội dung văn bản. Ngoài ra, còn có các chức đối với bản thân văn bản như: chức năng ngữ pháp, chức năng định phong cách...
              Hoạt động tư duy trừu tượng đòi hỏi con người cũng phải dùng ngôn ngữ để tư duy. Loài vật có thể dùng một kiểu tín hiệu nào đó để thông tin cho nhau, nhưchắc rằng chúng không thể dùng nó để tư duy. Vì bản thân chúng không có tư duy, những tín hiệu chúng có là do một phản xạ có điều kiện nào đó. Còn đối với con người, tuy con người còn dùng nhiều hệ thống tín hiệu khác để thông tin, nhưng con người không thể dùng những tín hiệu mà con người đã nghĩ ra đó để làm phương tiện tư duy. Chúng ta không thể tư duy bằng hình ảnh, màu sắc, con số. Nói tóm lại, chúng ta không thể tiến hành tư duy nếu con người không có ngôn ngữ.          Nhưng như đã nói, trong tư duy trừu tượng con người cũng đồng thời dùng ngôn ngữ để giao tiếp.

Chia sẻ trang này