1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

NGÔN NGỮ HỌC cho mọi người (sưu tầm, mục lục trang 1)

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi yeungon, 19/06/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. yeungon

    yeungon Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/08/2003
    Bài viết:
    1.308
    Đã được thích:
    0
    Hihi bác esu soạn bài lâu quá!
  2. esu

    esu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/04/2004
    Bài viết:
    1.244
    Đã được thích:
    0
    Hê hê ... định nghỉ xả hơi một tí, rồi lại post tiếp ấy mà. Thôi tiếp tục nhé !
    Ngôn ngữ học xã hội (sociolinguistics)
    Từ Sassure cho đến Chomsky, các nhà ngôn ngữ học chưa hề để ý đến những sự khác biệt về cách dùng trong một ngôn ngữ xác định, do họ thừa nhận rằng ngôn ngữ học chỉ nghiên cứu trường hợp người phát và người nhận lý tưởng, tức là thuộc về một cộng đồng ngôn ngữ thuần nhất. Dưới thúc đẩy của các nhà nghiên cứu Mỹ, ra đời một trào lưu khoa học mới với nhiệm vụ là nghiên cứu những khác biệt nội tại trong cùng một cộng đồng ngôn ngữ, rồi nghiên cứu quan hệ giữa sự khác biệt đó với cấu trúc xã hội. Trào lưu này mang tên ngôn ngữ học xã hội. Ông Edward Sapir đã từng ghi nhận rằng trong bộ lạc Yana ở California, đàn ông và đàn bà dùng những hình thái ngữ pháp và từ vựng khác nhau. Tuy nhiên vào thời của ông, người ta xem những chuyện đó như là những hiện tượng nhân chủng học độc đáo. Ông William Labov, với công trình nghiên cứu Anh ngữ ở New York, đã gây ít nhiều ngạc nhiên khi khám phá ra rằng một số khác biệt về ngữ âm có quan hệ chặt chẽ với tầng lớp xã hội. Hơn nữa, theo ông này, việc phát âm một âm vị nhất định cũng phụ thuộc vào tình huống giao tiếp. Ví dụ: ta không phát âm một âm nào đó theo cùng một cách khi ta nói chuyện phiếm và khi ta đọc diễn văn.
    Nhà tâm lý học Karl Buhler đã từng gán cho ngôn ngữ một vai trò đôi. Ngoài chức năng truyền nghĩa ra, ngôn ngữ còn có chức năng "diễn tả", tức là một số khía cạnh của ngôn ngữ có thể chỉ ra đặc điểm của người nói: nguồn gốc, nghề nghiệp, mức độ học vấn vv. Về mặt này, ngôn ngữ cũng có vai trò như là một dụng cụ nhận biết xã hội.
    Ngôn ngữ học xã hội ngày nay đang nghiên cứu cái chức năng diễn tả này, và cũng mở rộng định nghĩa của nó. Sử dụng một sắc thái ngôn ngữ nhất định, đó là bằng chứng cho việc người sử dụng hoà nhập vào một nhóm nhất định - từ một nhóm tuổi, một cộng đồng nghề nghiệp cho đến nhóm người chung xuất xứ. Những người chung nhóm sử dụng chung một "xã hội ngữ" riêng, nói rõ hơn là không những có một vốn từ đặc thù cho nhóm mình, mà còn có những sắc thái ngữ âm, ngữ pháp cố định.
  3. esu

    esu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/04/2004
    Bài viết:
    1.244
    Đã được thích:
    0
    Ngôn ngữ dân tộc học (ethnolinguistics)
    Ngành này nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và đời sống văn hoá, xã hội. Ngôn ngữ dân tộc học là môn học đặt căn bản trên giả thuyết được phát biểu bởi các nhà ngôn ngữ học Mỹ Edward Sapir và Benjamin Lee Whorf: mỗi ngôn ngữ là một thế giới quan chặt chẽ, hợp lý và mỗi dân tộc sở hữu riêng cho mình một vũ trụ văn hoá đặc thù.
    Từ những năm 1920, các nhà ngôn ngữ học đã khám phá ra sự phức tạp và giàu có của các thứ tiếng thổ dân da đỏ Bắc Mỹ - đặc tính đi liền với những mô hình xã hội ít phát triển. Nhờ vào công trình đồ sộ của Franz Boas (cuốn Handbook of American Indian languages với nội dung hơn một ngàn thứ tiếng nằm trong một trăm năm mươi nhóm), các nhà ngôn ngữ học khám phá ra sự quan trọng của ngôn ngữ trong đời sống dân tộc. Cho đến đó, họ có thói quen không để ý đến ngôn ngữ của những dân tộc họ nghiên cứu và miêu tả. Người ta trước đấy đơn giản chỉ miêu tả đời sống kinh tế hoặc văn hoá chứ không bận tâm đến vốn từ được sử dụng.
    Mặt khác, những nhà ngôn ngữ học đầu thế kỷ 20 lại không quan tâm đến khía cạnh xã hội của ngôn ngữ. Trong một số ngôn ngữ, ngay cả những câu dù đơn giản nhất vẫn không thể hiểu được nếu câu đó không được nói với đúng người nhận. Bằng cách nghiên cứu các tập quán của các bộ lạc châu Úc, Malinowsky đã từng ghi nhận tầm quan trọng lớn lao của tình huống giao tiếp trong việc hiểu các ngôn ngữ sơ khai.
    Trở lại ông Edward Sapir (đã được nhắc đến nhiều lần ở trên ...), ông ta có công nhấn rất mạnh lên mối liên hệ không thể tách rời giữa ngôn ngữ và toàn bộ đời sống văn hoá. Công trình nghiên cứu của ông chủ yếu nhắm vào việc thu ngắn khoảng cách giữa nghiên cứu ngôn ngữ học và nghiên cứu dân tộc học. Ông Benjamin Lee Whorf, phụ giảng ông ta ở đại học Yale, đã từng soạn thảo nhiều bài viết với cùng tinh thần, bằng cách nghiên cứu tiếng Hopi. Cả hai người đều quan tâm mạnh mẽ đến những sự kiện cho đến bấy giờ là ít được quan tâm.
    Như thế, môi trường vật chất cũng có ảnh hưởng không nhỏ lên sự tổ chức từ vựng khác nhau của các ngôn ngữ khác nhau. Nếu tiếng Việt chỉ có một từ tuyết, tiếng Exkimô có một từ khác nhau tuỳ theo loại tuyết khác nhau. Ngược lại, các ngôn ngữ Inca chỉ dùng độc một từ vừa để chỉ mưa vừa để chỉ nước, trong khi tiếng Việt có hai. Đầu thế kỷ, người Đan Mạch Joos Trier đã kêu gọi sự quan tâm đến những khác biệt trong hệ thống gọi tên màu sắc và quan hệ gia đình giữa các ngôn ngữ trên thế giới.
  4. esu

    esu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/04/2004
    Bài viết:
    1.244
    Đã được thích:
    0
    Ngôn ngữ tâm lý hoc
    Đây là môn khoa học nghiên cứu những quá trình tâm lý diễn ra đối với sự sử dụng và lãnh hội một ngôn ngữ. Song song với môn phân tích các mối quan hệ giữa xã hội và ngôn ngữ - ngôn ngữ xã hội học, một vài nghiên cứu gia đã tìm tòi sâu hơn về các mối quan hệ giữ nội dung giao tiếp người phát-người nhận và trạng thái tâm lý của những người này.
    Đây là môn khoa học nằm giữa tâm lý học và ngôn ngữ học, nó ra đời năm 1951, vào lúc những nhà tâm lý học (C.E. Osgood, J.B. Caroll) và ngôn ngữ học (T.E. Sebeok, F.G. Lounsbury), họp lại ở đại học Cornwell, Hoa Kỳ, phát kiến ra và đặt tên cho môn này. Đối với họ đây là sự sử dụng triệt để những quá trình miêu tả đã được nhà ngôn ngữ học Z. Harris tìm ra lẫn lý thuyết toán học về thông tin của C.E. Shannon, người đã nghiên cứu những quá trình mã hoá và giải mã thông điệp trong nhiều ngữ cảnh khác nhau và tùy theo nhiều đối tượng giao tiếp khác nhau (người nói và nghe). Đầu tiên, môn ngôn ngữ tâm lý học có nhiệm vụ phân tích cách mà những ý định của người phát được chuyển thành thông điệp mà người nhận có thể hiểu.
    Lãnh vực của môn này ngày càng mở rộng và trở nên khổng lồ ngày nay. Môn này bao hàm trước tiên các vấn đề về lãnh hội ngôn ngữ ở trẻ nhỏ - lãnh hội và nhận thức âm thanh, ý nghĩa, các mối liên hệ, các đơn vị ngôn ngữ vv, cũng như những bệnh ngôn ngữ khác nhau. Môn này còn bao hàm những tiến trình tâm lý có liên quan mật thiết đến việc sử dụng ngôn ngữ: nghiên cứu các quan hệ giữa hình thức thông điệp ngôn ngữ và những biến số về tính cách của người phát ra thông điệp đó, phân tích các đặc điểm ngôn ngữ ở người tâm thần.  Như vậy, một bảng xác suất về ngôn ngữ "bình thường" và ngôn ngữ "bệnh hoạn" chỉ ra rằng tồn tại một liên quan tỷ lệ nghịch giữa cân bằng cảm xúc của người giao tiếp và tỉ số động từ/tính từ.
  5. esu

    esu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/04/2004
    Bài viết:
    1.244
    Đã được thích:
    0
    Thiệt thòi ngôn ngữ xã hội
      Nhà ngôn ngữ học và xã hội học người Anh Basil Bernstein trở nên nổi tiếng nhất là bởi những nghiên cứu của ông về hiện tượng thất bại trên học đường. Theo ông ta, học sinh nào có nguồn gốc từ tầng lớp lao động (hoặc theo một cách chung chung hơn là nguồn gốc bình dân) phải gánh chịu vài thiệt thòi trên bình diện ngôn ngữ. Thực vậy, cách ăn nói trong học đường không tương ứng với cách ở nhà đối với những môi trường khó khăn về mặt xã hội. Tồn tại, theo ông ta, hai cách nói cơ bản, được minh hoạ trong ví dụ sau đây: một đứa trẻ đang đi học phải kể lại cho một người đã trưởng thành nghe về một cuốn chuyện tranh nó đã đọc trong khi người lớn ấy đọc cuốn truyện này cùng lúc. Một số trẻ nhỏ tiết lộ rất ít thông tin về cốt truyện, do xem như người lớn đã biết câu chuyện. Phương pháp ngôn ngữ xã hội học này, là cái bao hàm tất cả những ý nghĩa tiềm ẩn, được gọi là mã hạn chế. Một số trẻ con khác lại miêu tả cụ thể những hình ảnh đã thấy trong cuốn truyện tranh, không bỏ qua chi tiết nào, như thể người nghe chúng chưa hề biết gì về câu chuyện: cách diễn đạt hoàn toàn rõ ràng này được gọi là mã minh bạch. Bernstein cho rằng những đứa trẻ nào xuất thân từ hoàn cảnh khó khăn sẽ chỉ biết cách dùng mã hạn chế, trong khi những đứa trẻ xuất thân từ tầng lớp cao hơn sẽ biết dùng cả hai loại mã.
      Ông Bernstein còn khẳng định tồn tại một mối tương quan giữa hình thức ngôn ngữ được dùng và thái độ của đứa trẻ. "Ngôn ngữ nói là cách hiệu quả nhất giúp cá nhận hấp thụ những quy luật xã hội."
     
    Được esu sửa chữa / chuyển vào 19:24 ngày 07/07/2004
  6. khongtenso6

    khongtenso6 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/06/2003
    Bài viết:
    51
    Đã được thích:
    0
    Bác esu biết nhièu vè ngôn ngữ học nhỉ? Bác viết kỹ hơn chút nữa về Pragmatics đi.
  7. esu

    esu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/04/2004
    Bài viết:
    1.244
    Đã được thích:
    0
    Không dám nhận là biết nhiều đâu ạ, chẳng qua là sưu tầm, tổng hợp từ nhiều nguồn thôi. [​IMG] Ở trên có nói: Pragmatics nghiên cứu quan hệ giữa tình huống và ngôn ngữ được dùng trong tình huống đó, vì bạn đã hỏi xin triển khai thêm ý này:
      Pragmatics (ngôn ngữ học thực dụng ?) là môn học nghiên cứu cách mà mối quan hệ giữa người phát và người nhận được thiết lập khi họ giao tiếp.
      Một cách thật là ngắn gọn, pragmatics không quan tâm đến cấu trúc của ngôn ngữ, mà là cách người ta sử dụng nó. Đây là môn học có nhiều ảnh hưởng lên các khoa học về nhận thức khác như tâm lý học, triết học, thậm chí tin học. Lĩnh vực môn này vô cùng rộng, từ việc sử dụng ngôn ngữ cho đến độ dễ hiểu của các lời nói, tính hợp lý của các kết luận, lập luận, cách dùng từ vân vân và vân vân.
      Pragmatics ra đời vào thập niên 70. Theo môn này, sự giao tiếp mang theo mình một trong hai mục đích đặc biệt. Một là mục đích thông tin, còn gọi nghĩa câu; hai là mục đích giao tiếp, còn gọi nghĩa người nói. Người ta gọi khả năng tạo ra hoặc hiểu sự giao tiếp là khả năng pragmatic (pragmatic competence), khả năng này bao hàm sự hiểu biết về chức vị xã hội giữa người nói và người nghe cũng như những kiến thức văn hoá khác, nhất là sự lễ độ, cuối cùng là hiểu biết về ngôn ngữ.
      Nói rõ hơn, môn này nghiên cứu những phạm trù sau:
     Deixis: trong đối thoại bằng miệng, deixis được hiểu theo nghĩa hẹp như là nghĩa theo văn cảnh của các đại từ (tôi, anh, nó, cái này, cái kia ... tùy theo văn cảnh mà chỉ từng thứ khác nhau), và theo nghĩa rộng như là một ý nghĩa nhất định được người nói gán cho một đoạn văn nhất định. Deixis có nghĩa là "chỉ đến".
      Tiền giả định: tức là nghĩa lôgíc có thể suy ra được từ một đoạn giao tiếp nhất định.
      Biểu hiện: tức là khi một người nói không chỉ nói mà còn làm một việc gì khác cùng lúc: cho thông tin, biểu thị thái độ, quan điểm ...
      Ý ngầm: là thứ mà người nói muốn nói nhưng ta không suy ra được từ cách hiểu quy ước của ngôn ngữ người này dùng.
      Các chuyên gia còn quan tâm đến việc làm cách nào người ta có thể đối thoại với nhau thành công. Theo họ, người giao tiếp phải tuân theo một số quy định, luật lệ rõ ràng mới đối thoại thành công được.  Một trong những quy định đó là Nguyên tắc hợp tác, đòi hỏi người giao tiếp phải hợp tác với nhau bằng cách đóng góp vào dòng ngữ lưu. Một nguyên tắc khác có tên là Nguyên tắc lễ phép, theo đó mỗi người phải lễ độ với người kia, vì người ta kính trọng khuôn mặt của nhau. (còn tiếp).
     
  8. Vietrung

    Vietrung Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/06/2004
    Bài viết:
    65
    Đã được thích:
    0
    Tôi thấy bác Esu rành về ngôn ngữ quá ! Định gửi một bài tham gia nhưng không được ?
  9. cup79

    cup79 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/06/2003
    Bài viết:
    416
    Đã được thích:
    1
    Xin phép chen vào góp thêm với bác esu một tý nhé.
    1) Pragmatics đã được các nhà ngôn ngữ học Việt Nam dịch là ngữ dụng học đôi khi ngắn gọn là dụng học. Bác thấy đưọc chứ ạ?
    2) Nếu tôi nhớ không nhầm thì người đầu tiên nhắc đến thuật ngữ Pragmatics là Charle Morris từ những năm 30 của thế kỷ XX cơ. Ông định nghĩa Pragmatics là ngành nghiên cứu mối quan hệ giữ ngôn ngữ và người dùng nó .
    3) Deixis: dã đưọc dịch là chỉ xuất
    4) Ý ngầm còn hay đưọc gọi là hàm ngôn (implicature)
    5) Bác nói thêm tí nữa về chỗ biểu hiện đi nhé. Mà tôi nghĩ có lẽ bác cũng nên cho ví dụ minh hoạ để mọi người dễ hiểu thì hay hơn.
    Thôi mời bác tiếp tục.
    Được cup79 sửa chữa / chuyển vào 18:04 ngày 09/07/2004
  10. esu

    esu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/04/2004
    Bài viết:
    1.244
    Đã được thích:
    0
    Dịch là dụng học nghe khá lắm, vì trong pragmatics có ý thực tiễn, tức là ngôn ngữ khi được đem ra sử dụng. Phần còn lại những điều bác nói hoàn toàn chính xác, cám ơn bác cup79 nhiều !!!
    Charle Morris, triết gia Mỹ, vào năm 1938, khi viết cho một cuốn từ điển bách khoa, đã phân các khoa học ngôn ngữ làm 3 loại: cú pháp, xêmantic (hic lại kẹt từ tiếng Việt ....) và dụng học. Theo tác giả, dụng học nghiên cứu quan hệ giữa ký hiệu được dùng và người dùng chúng. Theo ông Morris, lĩnh vực môn này chủ yếu chỉ nghiên cứu các đại từ (tôi, anh, nó ...) và trạng từ thời gian (bây giờ, hôm qua, ngày nay) không gian (ở đây, đàng kia ...) - tóm lại là tất cả các yếu tố có nghĩa nằm ngoài ngôn ngữ, mà phụ thuộc vào tình huống giao tiếp.
    Trở về cái gọi là biểu hiện, là thế này: (xin lưu ý luôn là từ biểu hiện không phải cách gọi đảm bảo, vì tiếng Việt chưa thấy dùng từ nào thay thế, tớ mạo muội xin tạm dịch như vậy đấy...)
    Sau đây là quan điểm của ông Austin lúc ban đầu:
    Những câu mà người dùng dùng để miêu tả thế giới được gọi là câu nhận xét (constative sentence), ví dụ: trời mưa, con mèo ngủ. Những câu này mô tả thế giới khách quan và có đặc điểm là có thể được gán cho tính chất "đúng" hoặc "sai".
    Ngoài ra còn những câu không miêu tả thế giới, mà những câu này được nói ra để chuyển đổi thế giới, đó là những câu tạm gọi "biểu hiện": tôi yêu cầu anh câm miệng, tôi hứa đấy vv... Những câu này có đặc điểm là luôn ở ngôi thứ nhất (tôi, chúng tôi, ta ...), kèm theo một động từ kiểu hứa, ra lệnh, yêu cầu ... Những động từ này cũng được gọi động từ biểu hiện.
    Tuy nhiên, do nhận thấy rằng một số câu biểu hiện không còn ở ngôi thứ nhất nữa và không kèm theo động từ biểu hiện nữa, Về sau, quan điểm này đã thay đổi:
    Bất kỳ câu hoàn chỉnh nào cũng hoàn thành ba loại hành động ngôn ngữ cơ bản:
    (1) Locutionary act: hành động được hoàn thành đơn giản bằng cách nói một điều gì.
    (2) Illocutionary act: hành động hoàn thành với việc nói một điều gì.
    (3) Perlocutionary act: hành động hoàn thành qua việc nói một điều gì.
    Để dễ hiểu, xin ví dụ thế này:
    Ông cha bảo: "con đi ngủ đi." thằng con trả lời: "Con chưa buồn ngủ". Theo Austin, đứa con đã làm ba hành động khi nói câu trên:
    (1) Một hành động locutionary, đó là khi thằng con phát âm câu "con chưa buồn ngủ."
    (2) Một hành động illocutionary, do thằng con tuyên bố, khẳng định rằng nó không buồn ngủ.
    (3) Một hành động perlocutionary, do nó thuyết phục ba nó để chưa đi ngủ.
    Định nghĩa mới của cái biểu hiện bây giờ trở thành định nghĩa của hành động illocutionary.

Chia sẻ trang này