1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Ngôn ngữ học "giang hồ"

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi HCMPusan, 29/11/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. HCMPusan

    HCMPusan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/09/2004
    Bài viết:
    225
    Đã được thích:
    0
    Ngôn ngữ học "giang hồ"

    Có vài ý kiến cho rằng, NNH được bàn ở TTVNOL là loại NNH "giang hồ. Chúng ta là những "giang hồ hiệp khách". Hôm nay, xin post một bài tình cờ bắt gặp của một "võ sĩ môn phái", để bọn "giang hồ hiệp khác" chúng ta "luyện chưởng". Mại zô:
    Sự tương tác giữa cấu trúc ngữ nghĩa của danh ngữ với vị ngữ trong việc xác định giá trị thể trong tiếng Việt

    Tóm tắt:
    Interaction between NP Semantic Structure with Aspectual Value of the Sentence in Vietnamese

    The aspectual category has been considered at the verb level. However, it does not function in a separate way, but in interaction with the arguments of the verb like noun phrases (NP). The semantic properties of NP such as countness and definiteness or the properties which Dowty called cumulativity and quantization, lead to changes of situation types and to aspectual shifts in the sentence.
    In ad***ion to that, we try to explain the process of describing the objects and the choice of NP classes to represent these objects in cognitive and psychological approach.
    By describing this interaction, we want to conclude that the aspect is not only a verb level phenomenon, but a sentence level one.


    Chính văn:

    1. Cơ sở lý thuyết:

    Khi nghiên cứu lý thuyết về cấu trúc của thể, các nhà ngữ học đặc biệt quan tâm đến sự tương tác giữa cấu trúc thời gian của vị từ với cấu trúc phi thời gian (atemporal structure) gắn với các tham tố của vị từ. Theo hướng tiếp cận của M. Krifka thì sự khác biệt giữa tính hữu đích và tính vô đích, vốn là sự khác biệt ngữ nghĩa, cần phải được khảo sát thông qua tính định lượng (quantization) và tính lũy tích (cumulativity) của các tham tố DN có mặt trong quan hệ phân lượng (incremental relation) với vị ngữ. Về mặt thông tin, một vị ngữ được gọi là vị ngữ lũy tích (cumulative predicates) nếu nó ứng với một thực thể x và một thực thể y nào đó thì nó cũng ứng với tổng các thực thể x và tổng các thức thể y. Còn vị ngữ được gọi là vị ngữ định lượng hóa (quantized predicates) thì có thuộc tính ngược lại. Vị ngữ phân lượng miêu tả những sự thể trong mối quan hệ một đối một với các tham tố của chúng; tính phân lượng đảm bảo sự hoán chuyển sang sự tình những thuộc tính mà DN biểu đạt. Dowty gọi các tham tố có mặt trong quan hệ phân lượng với vị ngữ là tham tố phân lượng (Incremental Theme). Dowty định nghĩa tính phân lượng như một thuộc tính của vị từ mà diễn tiến của nó có thể được đồ chiếu trên cấu trúc nội tại của một trong những tham tố của nó. Sự tình Mary ate the sandwich được định lượng, vì DN the sandwich, tham tố phân lượng, cũng được định lượng và có mặt trong quan hệ đồng hình với vị ngữ ate the sandwich.
    Sự phân tích trên có thể dự đoán chính xác tính hữu đích hay tính vô đích của vị ngữ. Chẳng hạn, khi [ate NP] là vị ngữ phân lượng thì ate an apple là vị ngữ hữu đích (hay được lượng hóa) vì an apple được lượng hóa, ate apples là vị ngữ lũy tích vì apples là DN lũy tích.
    Trong bài viết này, chúng tôi cố gắng miêu tả sự tương tác giữa các tham tố trên với vị từ trong việc xác định giá trị thể của toàn bộ phát ngôn dựa trên cơ sở lý thuyết phân loại cấu trúc nội tại của DN. Ngoài ra, chúng tối cũng cố gắng lý giải cơ chế miêu tả sự vật cũng như thao tác chọn lựa các lớp DN để miêu tả các sự vật đó của chủ thể ngôn ngữ.
    2. Cấu trúc ngữ nghĩa của DN và giá trị thể của câu
    2.1. Tương tác giữa tham tố chủ ngữ và vị ngữ:
    a. Sự tác động của tham tố chủ ngữ đối với vị ngữ
    Tính lũy tích (cumulativity) của DN thường được biểu đạt bằng DN đếm được số nhiều, DN tập hợp là một tham số để lý giải giá trị thể của câu hay phát ngôn. Hãy xét các câu dưới đây:
    1. a. Dân làng đang chết vì đói rét ở ngoài kia.
    b. *Anh ta đang chết vì đói rét.
    c. Bom đạn đang nổ thế này mà đi đâu không biết!
    d. *Quả bom ấy đang nổ thì anh ta bước đến.
    2. a. Mọi người đang vào khán phòng.
    b. Người đàn ông ấy đang vào một cửa hàng.

    Trong (1a) và (1c), tính tập hợp hay khái quát hơn là tính lũy tích của các DN đã tạo ra sự phù ứng của các vị từ điểm tính, hữu đích (punctual verbs) với chỉ tố đánh dấu thể chưa hoàn thành đang. Thông thường, những câu như (1b) và (1d) được xem là những câu sai ngữ pháp như (1b) hoặc cần phải lý giải bằng cách chuyển loại vị từ (động ® tĩnh) hoặc theo ý đồ của người phát ngôn là kéo giãn sự tình để nêu bật thông tin cần miêu tả. Sự xuất hiện của các DN chủ ngữ trong (1a) và (1c) không những tạo ra sự tương thích giữa vị từ điểm tính (chết, nổ) với chỉ tố đang, vốn chỉ kết hợp. với những vị từ đoạn tính (Nam đang ngủ;Tôi đang đọc sách) mà còn tạo ra sự dịch chuyển giá trị thể của cả câu:
    - Dân làng đang chết đói ngoài kia.
    - Bom đạn đang nổ thế này mà đi đâu không biết.
    Sự tình trong hai câu trên được giải thích như những sự tình tái diễn (iteratives). Nói cách khác, đó là chuỗi bao gồm những sự tình cùng loại diễn ra trong những phân đoạn thời gian kế tiếp nhau. Có thể miêu tả các sự tình trên theo sơ đồ sau :


    (Trong X là sự tình điểm tính)
    Hình 1 : Sơ đồ miêu tả chuỗi sự tình cùng loại

    Câu (2a), với lượng từ mọi trong DN làm chủ ngữ hay nói cách khác DN chủ ngữ đã được lượng hóa, có thể diễn đạt hai sự tình có những thuộc tính thời gian khác nhau. Sự tình thứ nhất là sự tình tái diễn như các câu trong (1) và cũng được miêu tả như sơ đồ trên, còn sự tình thứ hai là sự tình không được biểu đạt bằng chính vị ngữ vào khán phòng, mà ở trường hợp này, (2a) miêu tả phân đoạn trước sự tình và có thể được miêu tả theo sơ đồ dưới đây:

    ? vào?
    ------///////////// I------------F------
    ? đang vào?
    (I: khởi điểm ; F: kết điểm)

    Hình 2: Sơ đồ miêu tả phân đoạn trước sự tình (H. 2)

    Phân đoạn trước sự tình vào khán phòng được biểu diễn bằng những đoạn gạch nghiêng (----////////---) trên trục thời gian. Trong (2b), DN người đàn ông ấy và vị ngữ vào một cửa hàng được định lượng hóa (quantized). Nói một cách chi tiết hơn, vào một cửa hàng là vị ngữ hữu đích (telic predicate). Trên phương diện cấu trúc ngữ nghĩa, kết cấu [...đang + VN hữu đích] sẽ miêu tả một sự tình đang dần tiến đến kết điểm hay đích của sự tình ở thời đoạn phát ngôn hoặc ở một thời đoạn quy chiếu nào đó. Chẳng hạn, Nam đang đóng một cái ghế miêu tả một sự tình hữu đích, đoạn tính và sự tình này được phóng chiếu lên chính vị ngữ đang đóng một cái ghế. Vị ngữ trong (2b) là vị ngữ được định lượng hóa, tức có hạn định thời gian, và ở đây là vị ngữ điểm tính. Về mặt cấu trúc ngữ nghĩa thì một vị ngữ điểm tính sẽ không tương thích với chỉ tố đánh dấu thể liên tiến hay chưa hoàn thành. Do vậy, (2b) được xem như miêu tả phân đoạn trước (a preliminary stage) sự tình được biểu đạt bằng vị ngữ. So với (2a) thì (2b) chỉ miêu tả sự tình (H. 2) dưới một góc độ thể, thể khởi phát (inchoative) do chủ ngữ là DN hạn định, số ít.
  2. HCMPusan

    HCMPusan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/09/2004
    Bài viết:
    225
    Đã được thích:
    0
    b. Sự tác động của vị ngữ đối với tham tố chủ ngữ
    Ở phần trên, chúng tôi trình bày sự tác động của DN làm chủ ngữ đến vị ngữ, cũng đến việc hình thành giá trị thể của câu. Ở phần này, chúng tôi sẽ trình bày tác động của cấu trúc ngữ nghĩa của vị ngữ đến cấu trúc ngữ nghĩa của DN chủ ngữ. Trong các tiếng như tiếng Pháp, chủ ngữ thường quy định hình thức của vị từ, về phạm trù số và giống chẳng hạn:
    Tiếng Pháp:
    a. Les enfants jouent du football sur la plage
    b. Ils sont tous partis.
    c. Ma fille est arrivée hier.
    Các biến tố của vị từ như ?" ent trong jouent (a), ?" s trong partis (b) hoặc ?" e trong arrivée (c) là những chỉ tố ngữ pháp có vai trò tạo ra sự tương hợp ngữ pháp giữa vị từ và chủ ngữ. Các biến tố trong (a) và (b) đánh dấu sự phù ứng về số của vị từ đối với DN (les enfants) hoặc đại từ (ils) và ở đây là số phức. Còn biến tố (c) thì đánh dấu sự tương hợp của vị từ về giống (giống cái/féminin) đối với DN chủ ngữ ma fille. Trong tiếng Pháp, hình thức của DN chủ ngữ gán định hình thức của vị từ và sự gán định này hoàn toàn ngữ pháp.
    Trong tiếng Việt, tình hình lại hoàn toàn ngược lại. Cấu trúc ngữ nghĩa của vị từ hoặc vị ngữ có thể gán định thuộc tính ngữ nghĩa của DN chủ ngữ. Xét các câu sau đây:
    d. Khán giả ùa vào sân vận động.
    e. Liên quân Anh-Mỹ tràn vào thành phố...
    f. Đám đông đổ ra đường ăn mừng chiến thắng của đội nhà.
    g. Mọi người đổ xô về phía cửa hàng.
    h. Đặc công của ta và biệt kích Mỹ giành giật từng góc phố.
    i. Trẻ em xúm quanh chiếc máy chiếu phim.
    j. Bà con kéo đến thăm hỏi bố tôi..
    k. Họ chụm đầu vào nhau.
    Các vị từ in nghiêng trong (d ?" k), về mặt cấu trúc ngữ nghĩa, là những vị từ chỉ các tập hợp bao gộp nhiều hoạt động cùng loại, diễn ra tiếp nối nhau, cùng theo một hướng (d ?" g và j) hoặc ngược hướng (h, i, k). Ngoài ra, quy kích của các sự tình được biểu đạt bằng loại vị từ trên đòi hỏi các DN chủ ngữ cũng phải có quy kích tương đương. Cấu trúc của các vị từ (d - h) đòi hỏi quy kích của vật sở chỉ mà DN biểu đạt lớn hơn so với cấu trúc ngữ nghĩa của các vị từ trong các câu (i - k). Người ta khó có thể nói:
    l. Vài khán giả ùa vào sân vận động.
    m. Hai người đổ ra đường...
    n. Hai chúng tôi xúm quanh chiếc máy...
    o. Hàng chục người chụm đầu vào nhau, thầm thì chuyện gì đấy...
    p. Hai đứa bé giành giật đồ chơi.
    Song lại có thể nói một cách tự nhiên:
    q. Hai chúng tôi kéo đến nhà hàng...
    r. Mấy người ấy chụm đầu vào nhau, thầm thì chuyện gì đấy...
    Sự khác biệt trên có thể được lý giải bằng việc cấu trúc ngữ nghĩa của vị từ gán định quy kích của chủ thể mà DN chủ ngữ biểu đạt. Mặt khác, những vị từ như ùa vào, tràn vào, đổ ra... thường đòi hỏi tính tập hợp của DN làm chủ ngữ hoặc cung cấp thông tin về số của DN và thường là số phức.
    Về mặt cấu trúc của sự tình, các câu trên miêu tả các tập hợp gồm những sự tình đồng loại, diễn ra tuần tự theo trật tự trước sau. Như vậy, các sự tình này có thể được miêu tả như sự tình bất biến, tức những sự tình gồm những phân đoạn không đổi. Vì vậy, chúng được miêu tả dưới giác độ tĩnh (stative viewpoint) và là những sự tình vô đích.
    c.Tính [± hữu sinh] của DN chủ ngữ và việc chuyển loại sự tình
    Trong tiếng Việt thuộc tính [± hữu sinh] của DN làm chủ ngữ cũng có một vai trò đáng được chú ý trong việc tác động đến loại sự tình cũng như giá trị thể của cả câu hoặc phát ngôn. So sánh các câu dưới đây:
    a. Bố tôi đã treo bức tranh ấy trên tường.
    b. Bức tranh ấy treo trên tường.
    c. Mẹ Nam để ly nước chanh trên bàn.
    d. Ly nước chanh để trên bàn.
    e. Bố Nam đặt bức tượng ấy ở góc phòng khách.
    f. Bức tượng ấy đặt ở góc phòng khách.
    Trong (a), (c) và (e), DN hữu sinh làm chủ ngữ cho biết các vị từ chỉ vị trí treo, để là những vị từ động và sự tình được miêu tả trong (a), (c) và (e) là những sự tình động, hữu đích vì khi sự tình kết thúc thì vị trí của sự vật được thể hiện bằng DN sẽ thay đổi. Như vậy, các sự tình này được miêu tả dưới giác độ thể kết quả (resultatives). Trong khi đó, (b), (d) và (f) với DN [-hữu sinh] làm chủ ngữ miêu tả các sự tình dưới giác độ tĩnh với các thuộc tính thời gian như đoạn tính (durative), vô đích (atelic). Các vị từ trong (b), (d) và (f) có thể được thay bằng vị từ chỉ vị trí « ở »:
    - Bức tranh ấy ở trên tường.
    - Ly nước chanh ở trên bàn.
    - Bức tượng ấy ở góc phòng khách.
    Các sự tình trong (b) và (c) được xem là sự tình kết quả nảy sinh khi các sự tình trong (a) và (b) kết thúc. Như vậy, tính [± hữu sinh] của DN làm chủ ngữ cũng được xem là một trong những yếu tố tạo ra sự chuyển loại sự tình: động « tĩnh, hữu đích « vô đích và giác độ thể: hoàn thành« chưa hoàn thành. Trong tiếng Anh, tình hình cũng diễn ra tương tự, chỉ có khác ở chỗ ý nghĩa được thể hiện qua hình thái của vị từ:
    - The picture was hanging on the wall.
    - Your drink is sitting on the table.
    Hình thái tiếp diễn của vị từ trong câu tiếng Anh gán định ý nghĩa kết quả cho sự tình được biểu đạt bằng những vị từ chỉ vị trí (positional verbs).
    Ngoài ra, DN vô sinh làm chủ ngữ trong các phát ngôn có chưa các vị từ tạo tác hay vị từ hủy diệt tạo ra sự chuyển đổi giác độ thể của phát ngôn. Xét các câu sau:
  3. HCMPusan

    HCMPusan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/09/2004
    Bài viết:
    225
    Đã được thích:
    0
    a. Mẹ tôi nấu cơm rồi.b. Cô ấy xé bức thư ấy rồi.c. Ai đó đã mở cửa rồi. a?T. Cơm nấu rồi.b?T. Bức thư ấy xé rồi.c?T. Cửa đã mở rồi.
    Cũng giống như trên, sự xuất hiện của các DN vô sinh ở vị trí chủ ngữ đã tạo ra nhiều chuyển biến về phương diện ngữ nghĩa. Đầu tiên là sự chuyển loại của vị từ: động ® tĩnh. Vị từ nấu trong (a?T), xé trong (b?T) và mở trong (c?T) không miêu tả các hoạt động như trong (a ?" c) mà miêu tả những trạng thái của sự vật được DN biểu đạt. Chuyển biến thứ hai nảy sinh từ chuyển biến đầu tiên. Do vị từ, hạt nhân của vị ngữ, là tĩnh nên cả vị ngữ - hình chiếu của sự tình - cũng được miêu tả dưới giác độ tĩnh. Vì vậy, các sự tình (a?T ?" c?T) đều là những sự tình tĩnh, song ở đây là những sự tình tĩnh hệ quả của các sự tình (a ?" c) và chuyển biến thứ ba là sự chuyển dịch giác độ thể Các sự tình (a ?" c) là những sự tình hữu đích, đã kết thúc, còn các sự tình (a?T ?" c?T) là những sự tình tĩnh miêu tả trạng thái đang hiện tồn ở thời đoạn phát ngôn hoặc một thời đoạn quy chiếu nào đó. Như vậy, việc miêu tả thể được dịch chuyển từ giác độ hoàn thành® giác độ tiếp diễn. Trong tiếng Anh, tiếng Pháp, sự xuất hiện của DN vô sinh ở vị trí đề hay chủ ngữ đều dẫn đến sự thay đổi hình thái của vị từ (ở đây là vị từ tạo tác hay vị từ huỷ diệt). Chẳng hạn trong câu tiếng Pháp dưới đây:
    - Pierre a ouvert la porte ´ La porte est ouverte.
    (Pierre đã mở cái cửa đó) (Cái cửa đó mở rồi)
    -Anne a déchiré la chemise La chemise est déchirée
    (Anne đã xé cái áo sơmi ấy) (Cái sơmi ấy rách rồi)
    Sự chuyển đổi hình thái vị từ từ thức chủ động (voix active) sang thức bị động (voix passive) để miêu tả trạng thái hệ quả của sự vật.
    2.2. Tham tố bổ ngữ
    DN làm bổ ngữ và DN làm chủ ngữ có những chức năng thông tin, ngữ pháp khác biệt nên chúng cần được khảo sát theo những cách thức khác nhau. DN làm bổ ngữ tác động trực tiếp đến toàn bộ vị ngữ. Những thuộc tính ngữ nghĩa-cú pháp của nó có thể làm thay đổi thuộc tính ngữ nghĩa của vị ngữ, sau đó là sự thay đổi ngữ nghĩa và các thông tin liên quan của cả câu hay cả phát ngôn. Xét các câu sau:
    3. a. Nam đang uống rượu.
    b. Nam đang ăn nho.
    c. Nam đang ăn cam.
    Vị ngữ trong (3) có bổ ngữ trực tiếp là những danh từ khối (mass noun) có thuộc tính lũy tích.Vì vậy, các vị ngữ này là những vị ngữ vô đích (atelic predicates). Điều này có nghĩa là các sự tình được miêu tả trong (3) đều không có kết điểm (endpoints) và được xem là những sự tình hoạt động (activities).Do vậy, khi chỉ tố thể đang kết hợp với những vị ngữ vô đích thì kết hợp này miêu tả đoạn giữa của sự tình ở thời đoạn phát ngôn hoặc một thời đoạn quy chiếu nào đó: Lúc tôi gọi điện cho anh thì Nam đang uống rượu. Tuy nhiên, khi các DN thuộc vị ngữ được định lượng hóa (quantized) hoặc được xác định bằng từ chỉ định thì tình hình đã bắt đầu thay đổi:
    4. a. Nam đang uống một ly Whisky/ ly Whisky ấy.
    b. Nam đang ăn một trái nho/ trái nho ấy.
    c. Nam đang ăn một trái cam/ trái cam ấy.
    Vị ngữ trong các câu này là những vị ngữ hữu đích (telic predicates). Đây là một sự biến đổi quan trọng vì nó tạo ra một sự chuyển dịch ngữ nghĩa cơ bản: sự tình hoạt động trong (3) trở thành sự tình đoạn tính hữu đích (accomplishments) trong (4). Do vậy, các sự tình trong (4) đều là những sự tình có kết điểm, tức một khi quá trình như uống một ly whisky đạt đến kết điểm thì nó không thể tiếp diễn nữa, hay nói cách khác là sự tình hoàn thành. Như vậy, sự tình được miêu tả trong (4) là sự tình đang đạt đến kết điểm hay sự tình tiếp diễn (progressives). Kết cấu của vị ngữ trong (4) hoàn toàn tương thích với chỉ tố đã hoặc rồi để biểu đạt ý nghĩa hoàn thành:
    5. a. Nam đã uống một ly whisky/ ly whisky ấy (rồi).
    b. Nam đã ăn một trái nho/ trái nho ấy (rồi)
    c. Nam đã ăn một trái cam/ trái cam ấy (rồi).
    Ngoài ra, quy kích (dimension) của sự vật được bổ ngữ miêu tả hay cái không gian của sự vật lại là một yếu tố làm cho phát ngôn trở nên khiêng cưỡng, cần phải được diễn đạt đầy đủ hơn. Chẳng hạn trong (4b), nho do kích cỡ nhỏ nên thường được hình dung như một chùm nho hay một hộp nho (khô). Vì vậy, sự tình Nam đang ăn nho có thể được miêu tả như một sự tình tái diễn (iterative situation). Còn trong (5b), cũng do kích cỡ nhỏ của trái nho nên thật sự không tự nhiên khi nói câu này. Nó sẽ tự nhiên hơn nếu chủ thể với kích cỡ tương xứng với bổ ngữ trái nho được thay vào:
    d. Con chim đang ăn một trái nho/ trái nho ấy.
    Nói cách khác, sự tình Nam đang ăn một trái nho... không tương thích với sự mong đợi (expectation) của người nghe, tức nó không thỏa mãn các điều kiện về tính thích hợp trong giao tiếp. Xét tiếp các phát ngôn có chưa các vị từ tạo tác (verbs of creation) sau:
    6. a. Nam đang vẽ một bức tranh.
    b. *Nam đang vẽ một vòng tròn.
    c. *Nam đang viết một từ.
    Về phương diện ngữ pháp thì không thể nói (6b), (6c) sai, còn (6a) đúng. Theo chúng tôi cả hai câu đều đúng ngữ pháp. Nhưng tại sao (6b), (6c) không chấp nhận được, còn (6a) lại hoàn toàn tự nhiên? Cái không gian thực tế của sự vật trong (6a) hoàn toàn phù hợp với hình ảnh tâm lý trong nhận thức của người quan sát hay người phát ngôn, mặc dù bức tranh Nam đang vẽ chỉ mới được thực hiện một phần. Trái lại, sự vật trong (6b), (6c) không phù ứng với sự mong đợi của người quan sát. Trong nhận thức của người quan sát, hình ảnh tâm lý vẫn không được xác định cho đến khi nào Nam vẽ xong cái sự vật được gọi là vòng tròn hoặc Nam viết xong cái được gọi là từ. Như vậy, quy kích không gian của sự vật được bổ ngữ miêu tả trong các câu có vị từ huỷ diệt (verbs of conpsumtion) hay vị từ tạo tác (verbs of creation) là yếu tố quan yếu trong việc thích hợp hợp hóa thông tin trong quá trình giao tiếp.
    Ngoài quy kích không gian-tâm lý của sự vật, chất liệu tạo nên sự vật cũng là yếu tố tạo nên nghĩa của câu hay của phát ngôn. Xét các ví dụ sau:
    7. a. Nam đang xây một ngôi nhà.
    b. Nam đang xây một lâu đài cát.
    (7a) là một câu lưỡng nghĩa. Nó có thể miêu tả hai sự thể hoàn toàn khác nhau. (1) Nếu Nam là tác nhân trong sự tình xây một ngôi nhà thì đây là một sự tình động, đang đạt đến kết điểm của nó. Như vậy, sự tình được miêu tả dưới giác độ tiếp diễn (progressive viewpoint). (2) Nam không phải là tác nhân mà là người bỏ tiền ra để xây nhà thì câu này cần được khảo sát một cách chi tiết hơn. Về mặt ngữ nghĩa thì đây là một câu có ý nghĩa gây khiến-thụ nhân (causative-benificiary meaning) và có thể được diễn đạt như sau:
    Nam đang bỏ tiền ra để thợ xây nhà cho mình.
    Và sự tình được miêu tả theo (2) là sự tình tĩnh do bản chất ổn định của nó và miêu tả một trạng thái tạm thời (temporal state). Ý nghĩa của (2) được nhận biết một cách rất tự nhiên trong thực tế giao tiếp.
    Trái lại, trong (7b) vai tác nhân của chủ thể là điều không ai bác bỏ trong quá trình giao tiếp tự nhiên. Như vậy, (7b) miêu tả một sự tình tiếp diễn, đang đạt đến kết điểm của nó ở thời đoạn phát ngôn hoặc ở một thời đoạn quy chiếu nào đó.
    Tại sao có sự khác biệt như vậy giữa hai câu có cấu trúc ngữ pháp tương tự? Danh ngữ một lâu đài cát được hạn định bằng một định ngữ chỉ chất liệu (substance) cát và chính sự xuất hiện của định ngữ chỉ chất liệu này trong (7b) đã góp phần xóa bỏ sự mơ hồ ngữ nghĩa như trong (7a). Tuy nhiên, chính cái cơ chế tâm lý diễn ra trong quá trình nhận thức hiện thực khách quan của người phát ngôn mới là yếu tố quyết định. Với một sự vật có quy kích không gian như thế này, được làm từ những chất liệu như thế này thì sẽ có một thao tác miêu tả diễn trình và đồng nhất hóa chủ thể của diễn trình đó trong hiện thực. Xét các kết hợp sau:
    8. a. dựng một căn nhà.
    b. xây một căn nhà.
    c. cất một căn nhà.
    Với (8a), người nghe thường hình dung ra một căn nhà bằng gỗ hay bằng vật liệu nhẹ như tre, nứa...và một người có thể làm được. (8b) cho biết đó là một căn nhà bằng xi măng hay bằng một loại vật liệu kiên cố và cần phải có nhiều người để thực hiện. Trong khi đó, (8c) lại là một kết cấu lưỡng nghĩa vì nó bao gộp cả (8a) và (8b).
    3. Cấu trúc ngữ nghĩa của danh ngữ bổ ngữ và chuyển loại sự tình
    Cấu trúc DN làm bổ ngữ, như đã nói ở trên, giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành kết cấu thể (aspectual composition) trong nhiều ngôn ngữ. Các DN được định lượng hóa có vai trò hoàn toàn khác với DN lũy tích mặc dù cả hai đảm nhận cùng chức năng bổ ngữ trong câu. Nếu chỉ xét về chức năng thì chúng ta không thể nhận biết cách thức hành chức của mỗi loại kết cấu DN trong kết cấu vị ngữ cũng như trong kết cấu của cả câu.
    9. a. Nam đã đọc sách (một tiếng / *mất một tiếng).
    b. Nam đã đọc quyển sách ấy (một tiếng / mất một tiếng).
    c. Nam đã vẽ tranh (một ngày / *mất một ngày).
    d. Nam đã vẽ bức tranh ấy (*một ngày/ mất một ngày).
    e. Nam đã uống rượu (một tiếng / *mất một tiếng).
    f. Nam đã uống hết chai rượu ấy (*một tiếng / mất một tiếng).
    Trong (9), tất cả các DN đều là bổ ngữ trực tiếp, nhưng điều này không nói lên được điều gì liên quan đến cấu trúc ngữ nghĩa - ngữ pháp của (9). Điều này được chứng minh khi có sự xuất hiện của các yếu tố hạn định thời gian (temporal delimiters). Sự khác biệt giữa (9a) và (9b) là (9b) có thể tương thích với cả hai hạn tố thời gian, còn (9a) chỉ hợp ngữ pháp khi kết hợp với một tiếng. Đâu là nguyên nhân của sự khác biệt này? DN sách trong (9a) là DN khối, có tính luỹ tích (cumul), vì vậy kết cấu vị ngữ [V + DN khối] không miêu tả một cái đích đạt đến. Trên phương diện cấu trúc sự tình thì kết cấu này tương ứng với sự tình hoạt động. Sự tình hoạt động sẽ không tương thích với hạn tố chỉ thời đoạn cần thiết để sự tình đạt đến kết điểm của nó (mất một tiếng). Còn trong (9b), do DN quyển sách ấy là DN đơn vị, được định lượng hóa (quantized) nên kết cấu [V + DNđv] là một vị ngữ được định lượng hóa. Kết cấu [V + DNđv] có thể ứng với hai loại sự tình: (1) Nam đã đọc quyển sách ấy một tiếng không cho biết Nam đã đọc quyển sách ấy xong chưa nên (1) là sự tình hoạt động và (2) Nam đã đọc quyển sách ấy mất một tiếng cho biết sự tình đã đạt đến kết điểm, tức đã kết thúc nên (2) là sự tình đoạn tính hữu đích (accomplishment). Như vậy, DN góp phần chủ yếu vào sự chuyển loại sự tình của phát ngôn.
    Tuy nhiên, điều này không hoàn toàn phù hợp với các vị ngữ chứa các vị từ tạo tác hay vị từ tiêu huỷ có bổ ngữ trực tiếp là DN khối (lũy tích). Kết cấu vị ngữ này miêu tả chuỗi thay đổi trạng thái (changes of states) của sự vật mà bổ ngữ biểu đạt. Chuỗi biến đổi trạng thái này có thể được miêu tả qua sơ đồ sau:
    t1 t2 t3 t4 tn
    x: x0 x1 x2 x3
    Hình 5: Sự biến đổi trạng thái của sự vật qua các thời đoạn, biểu trưng cho diễn tiến của sự tình.
    Sự vật chịu tác động biến đổi trạng thái qua từng thời đoạn. Chẳng hạn như ở thời đoạn {t1, t2}, sự vật ở trạng thái {x0}, nhưng ở một thời đoạn khác như {t2, t3} trên trục thời gian thì sự vật ở một trạng thái khác {x1} và sự vật cứ biến đổi như thế cho đến khi sự tình đạt đến kết điểm. Tuy nhiên, thông tin về kết điểm của sự tình không được đề cập đến trong (9c) và (9e). Như vậy có thể xem những sự tình trong (9c) và (9e) là những sự tình hoạt động. Trong (9d) và (9f), tình hình có khác do DN làm bổ ngữ trực tiếp được định lượng hóa hay được hạn định bằng chỉ định từ (ấy). Kết cấu vị ngữ [V + DN hạn định] với V là vị từ tạo tác hoặc vị từ tiêu hủy miêu tả một quá trình biến đổi trạng thái có kết điểm của sự vật được biểu đạt bằng DN bổ ngữ. Điều này có nghĩa là [V + DN hạn định] là vị ngữ hữu đích. Vị ngữ hữu đích có tính hữu hạn nên tương thích với các hạn tố thời gian (temporal delimiters) như mất một ngày. Như vậy, các sự tình được miêu tả trong (9d) và (9f) là những sự tình đoạn tình hữu đích (accomplishments). (9d) và (9f) khác với (9b) ở chỗ nó bao hàm chuỗi biến đổi trạng thái của sự vật được biểu đạt bằng DN bổ ngữ, còn (9d) không bao hàm ý nghĩa thay đổi như vậy do cấu trúc ngữ nghĩa của vị từ đọc: nó không tạo ra sự biến đổi trạng thái của sự vật như các vị từ tác động khác. Trên cơ sở này, một số nhà ngữ học như J. Maslov đã phân biệt hai ý nghĩa của thể hoàn thành. (1) Sự tình với vị từ tạo tác hay vị từ hủy diệt (d và f) được miêu tả dưới giác độ thể kết quả (resultatives) và (2) sự tình hoàn thành thuần túy, tức sự tình khi kết thúc không dẫn đến một sư biến đổi trạng thái của bất kỳ tham tố nào trong câu (b).
  4. HCMPusan

    HCMPusan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/09/2004
    Bài viết:
    225
    Đã được thích:
    0
    Tương tự, các vị ngữ chứa vị từ chuyển động cũng chịu sự tác động như vậy của các hạn tố thời gian hoặc không gian. Xét các câu dưới đây :
    10. a. Nam đi bộ một tiếng / *mất một tiếng.
    b. Nam đi bộ từ nhà đến trường *một tiếng / mất một tiếng.
    c. Nam lái xe một tiếng / *mất một tiếng.
    d. Nam lái xe từ nhà đến trường *một tiếng / mất một tiếng.
    Các sự tình trong (10a) và (10c) là những sự tình vô đích, không có kết điểm nên không tương thích với các hạn tố thời gian mất một tiếng. Do đó, (10a) và (10c) là những sự tình hoạt động. Trong khi đó, nhờ hạn tố không gian từ nhà đến trường, các sự tình (10b) và (10d) hữu đích, có kết điểm và hiển nhiên tương thích với hạn tố thời gian mất một tiếng. Vì vậy, (10b) và (10d) miêu tả những sự tình đoạn tính hữu đích.
    Từ quá trình miêu tả trên, chúng tôi có thể đưa ra một cái nhìn tổng thể về sự tương tác giữa cấu trúc ngữ nghĩa của DN với vị từ trong việc xác định các tham tố thể như sau:
    Kết cấu vị ngữ chứa vị từ tạo tác hoặc vị từ tiêu hủy Kết cấu vị ngữ chứa vị từ chuyển động
    V + DN lũy tích = sự tình vô đích = hoạt động V + tham tố bất kỳ = sự tình vô đích = hoạt động
    V + DN hạn định = sự tình hữu đích = đoạn tính hữu đích V + tham tố đích = sự tình hữu đích = đoạn tính hữu đích
    4. Kết luận
    Qua những miêu tả và phân tích cấu trúc ngữ nghĩa của DN, chúng tôi nhận thấy DN có một vai trò đặc biệt trong việc xác định các thành tố thể trong câu. Cấu trúc của DN làm bổ ngữ trực tiếp góp phần phân định tính hữu đích và tính vô đích của vị ngữ. DN lũy tích (cumulative noun phrase) được thể hiện bằng DN khối hay DN số nhiều là yếu tố xác định tính vô đích của vị ngữ. Sự tình được miêu tả bằng vị ngữ lũy tích được xem là chuỗi biến đổi trạng thái của sự vật được biểu đạt bằng DN. Tuy nhiên, những biến đổi này không có kết điểm nên loại sự tình này là sự tình hoạt động và thường được miêu tả dưới góc độ tái diễn. Trong khi đó, DN định lượng hay hạn định (quantized), được thể hiện bằng DN đơn vị, DN đếm được là tham tố xác định tính hữu đích của vị ngữ. Sự tình được phóng chiếu trên vị ngữ có chứa DN hạn định là một chuỗi biến đổi trạng thái có kết điểm. Vì vậy, nó được xem là sự tình đoạn tính hữu đích (accomplishment). Sự tình đoạn tính hữu đích, cùng với sự tình điểm tính hữu đích (achievement), tương thích với giác độ thể hoàn thành (perfective viewpoint). Trong khi đó, sự tình hoạt động không được khảo sát dưới giác độ này.
    Mặt khác, trên phương diện tâm lý, quy kích thực tế hay chất liệu của sự vật được miêu tả cũng tác động đến việc chọn lựa hình thức và cấu trúc của DN, cũng như tính khả chấp của phát ngôn trong qua trình giao tiếp. Việc chọn lựa DN của người phát ngôn được thực hiện nhằm thỏa mãn nguyên tắc thích hợp (relevance) trong giao tiếp.
    ----------------------------
    Tài liệu tham khảo
    1. Cao Xuân Hạo Tiếng Việt, sơ thảo ngữ pháp chức năng, quyển 1. Nxb Khoa học xã hội, 1991.Tiếng Việt, mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa. Nxb Giáo dục, 1998.
    2. Dowty, D. R. ?oToward a semantic analysis of verb aspect and the English ?~Imperfective?T progressive? Linguistics and Philosophy 1, 45-79, 1977.?oThematic Proto-Roles and Argument Selection?. Language 67, 547-619. 1991.
    3. Krifka, M ?oThe Expression of Quantization (Boundedness).? Paper presented at the Workshop on Cross-Linguistic Variation in Semantics. LSA Summer Institute. Cornell. 1997?oThe origin of Telicity.? Rothstein, S. (ed) Events and Grammar. Dordrecht/Boston/London: Kluwer Academic Publishers, pp. 197-235. 1998.
    4. Langacker Ronald W. Foundations of Cognitive Grammar.Vol 1: Theoretical Prequisites. Stanford University Press,1987.Concept, image, and symbol: The cognitive basis of grammar. Berlin; New York: Mouton de Gruyter, 1990.
    5. Nedjalkov V.P Typology of Resultative Constructions. Amsterdam/Philadelphia: John Benjamin Publishing Company. 1988.
    6. Vendler Z. Linguistics in Philosophy. Ithaca, Cornell University Press, 1967.
  5. HCMPusan

    HCMPusan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/09/2004
    Bài viết:
    225
    Đã được thích:
    0
    Các bác có ý kiến gì không?
    Được HCMPusan sửa chữa / chuyển vào 08:41 ngày 05/12/2004
  6. yeungon

    yeungon Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/08/2003
    Bài viết:
    1.308
    Đã được thích:
    0
    Tôi xin có 2 ý kiến ngắn.
    1) Tôi thấy cách đặt danh mục tài liệu tham khảo như trên không có tác dụng gì, và rất chi là ... điển hình trong giới khoa học Việt Nam. Chỉ biết là tác giả nói tác giả đã tham khảo từng ấy sách/tài liệu (chắc gì đã phải thế! có khi ông/bà ấy thêm vào cho nó oai thôi, thêm cả vài chục cuốn nữa cũng chả sao!), tác giả lại không cho biết ý nào trong chính văn là của tác giả, còn ý nào là tham khảo từ những nguồn kia.
    2) Tôi chả thấy câu 6b và 6c có vấn đề gì cả. Nếu cần, tớ tình huống hóa được ngay.
    Được yeungon sửa chữa / chuyển vào 05:41 ngày 06/12/2004
  7. yeungon

    yeungon Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/08/2003
    Bài viết:
    1.308
    Đã được thích:
    0

    Tôi không tán thành.
    Mẹ: Cái trái nho ủng ấy đâu rồi, Lan?
    Lan: Thằng Tũn nó ăn (mất) trái nho ấy rồi mẹ ạ.
    Có gì là không tự nhiên đâu nào?
    9. a. Nam đã đọc sách mất một tiếng mà chả được mấy trang. đàu óc cứ để đâu ấy. (???)
    d. Nam đã vẽ bức tranh ấy một ngày/ mất một ngày (mà mới chỉ được cái đầu./ mà vẫn chưa đâu vào đâu cả/ mà vẫn chưa xong cái đầu.) Nghe tự nhiên qúa đi chứ!
  8. HCMPusan

    HCMPusan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/09/2004
    Bài viết:
    225
    Đã được thích:
    0
    Còn các câu có dấu * ở đây, chẳng lẽ cũng không sai?
  9. yeungon

    yeungon Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/08/2003
    Bài viết:
    1.308
    Đã được thích:
    0
    Còn các câu có dấu * ở đây, chẳng lẽ cũng không sai?
    [/QUOTE]
    Nếu chấp nhận 1a là OK thì, theo tôi, 1b cũng OK /vẫn tự nhiên.
    Tuy nhiên tôi cảm thấy cả 1a và 1b đều không được tự nhiên lắm. Có lẽ người Việt nói thế này cơ.
    a. Dân làng đang chết đói chết rét ở ngoài kia (kìa).
    b. Nó đang chết đói chết rét ở ngoài đồng đấy. Chạy nhanh lên, con ạ. Suốt từ sáng đến giờ chả được hột cơm nào vào bụng. Trời thì như cắt da xả thịt. (lời bà mẹ giục con dâu mang cơm cho chồng đi cày ruộng vào vụ đông giá rét.)
    1c thì ok rồi. Còn 1d thì quả là chướng tai thật. Vì cái sự nổ của một quả bom nó là tức thời chứ đâu phải là một quá trình kéo dài. Nói ngưọc lại mới xuôi tai hơn.
    Anh ta đang bước đến thì quả bom ấy nổ.
    Xem ra chỉ cần vài ''chưởng'' phản ví dụ của lục lâm yeungon tôi đã đánh gục lão ''võ sĩ giang hồ'' kia rồi!!!
  10. HCMPusan

    HCMPusan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/09/2004
    Bài viết:
    225
    Đã được thích:
    0
    Ui cha, bị chưởng mấy cái đâu như kiến cắn. Hì hì. Lần này cho ngươi chưởng nữa nhé. Chưởng được không đấy? Uống bia đi cho nó khoẻ rồi chưởng.

Chia sẻ trang này