1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Ngữ pháp học (hay khoa học viết). J. Derrida

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi Tran_Thang, 23/11/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    Ngữ pháp học (hay khoa học viết). J. Derrida

    Tôi không có năng khiếu mấy về ngôn ngữ học. Vào các hiệu sách nhìn cả gian mấy trăm cuốn về ngôn ngữ học, chẳng cuốn nào có thể "nuốt" nổi. Chỉ có tác phẩm này của J.Derrida là khá hay về một cách tiếp cận theo cả bề sâu lẫn bề rộng. Phải mất...6 tháng để dịch, suy ngẫm và cắt tỉa, được khoảng 15 nghìn chữ , và mang lên đây để chia sẻ cùng nhiều bạn yêu thích ngôn ngữ nói chung và tiếng Việt nói riêng.

    Ngữ pháp học.
    (J. Derrida).

    Phần 2 : Ngôn ngữ học và Ngữ pháp học.

    "Viết chẳng là gì mà chỉ là đại diện cho việc nói. Lạ lùng là ta chú trọng nhiều đến việc xác định hình tượng hơn là đối tượng? (J. Rousseau).
    (Writing is nothing but the representation of speed; it is bizarre that one gives more care to the determining of the image than to the object)

    Khái niệm viết phải định nghĩa lĩnh vực của 1 khoa học. Nhưng nó có thể được quyết định bởi những học giả và ở bên ngoài những tiền định lịch sử - siêu hình học mà ta đã định vị 1 cách quá lâm sàng không ? Khoa học viết có thể biểu thị cái gì, nếu nó được cho là :
    1.Là chính ý tưởng của khoa học, đã được sinh ra trong 1 thời đại viết nào đó.
    2. Là nó đã được suy nghĩ và trình bày rõ ràng, như bài tập, ý tưởng, dự án, trong 1 ngôn ngữ hàm ý 1 tương quan xác định nào đó, có cấu trúc và giá trị, giữa nói và viết.
    3. Là, trong phạm vi đó, nó trước hết liên quan đến khái niệm và sự thám sát việc viết ngữ âm, được bình ổn như là cứu cánh (telos) của mọi việc viết, thậm chí cái gì là kiểu mẫu mang tính khoa học - như toán học - thì nó vẫn xa rời mục đích đó.
    4. Là khai sinh ra ý niệm chặt chẽ nhất của khoa học viết tổng quát, vì những lý do xác định, trong suốt 1 thời kỳ nào đó của lịch sử thế giới (bắt đầu khoảng trong thế kỷ 18) và trong phạm vi 1 hệ thống các quan hệ xác định nào đó giữa việc nói năng và viết, khắc.
    5. Là viết không phải là phương tiện bổ sung trong 1 ngành khoa học và đối tượng khả dĩ của nó - mà trước hết, như Husserl trong ?oNguồn gốc của hình học? (The origin of geometry), là điều kiện về khả năng của những đối tượng lý tưởng (the con***ion of the possibility of ideal objects) và do đó là của tính khách quan khoa học (scientific objectives). Trước khi là đối tượng (của khoa học), viết là điều kiện của nhận thức luận. (Epistèmè).
    6. Là tính chất lịch sử tự nó bị ràng buộc vào khả năng viết nói chung, ngoài những hình thức viết đặc biệt mà nhân danh chúng, ta đã nói mãi về những dân tộc không viết và không lịch sử. Trước khi là đối tượng của lịch sử - của khoa học lịch sử - viết mở ra lĩnh vực lịch sử - của sự tương xứng lịch sử. Và cái đi trước (lịch sử ở Đức) bao hàm cái đi sau.
    Khoa hoc viết vì thế nên tìm kiếm đối tượng của nó ở những cội rễ mang tính khoa hoc. Lịch sử viết nên hướng về căn nguyên của sự thật lịch sử. Có nên có 1 ngành khoa học khả năng ? Khoa học của khoa học là hình thức ngữ pháp mà không là hình thức logic? Lịch sử về khả năng của lịch sử không là ngành khảo cổ học, triết học hay lịch sử hay lịch sử triết học ?
    Khoa học viết thực chứng và cổ điển buộc phải ngăn chặn những câu hỏi thuộc loại này. Đến 1 điểm xác định nào đó, việc ngăn chặn này thậm chí cần thiết cho việc nghiên cứu tiến triển. Bên cạnh việc vẫn còn được xem như là logic triết học, vấn đề bản chất mang tính hiện tựợng và bản thể (the ontophenomenological question of essence), căn nguyên của việc viết, có thể bằng chính nó, làm tê liệt hoặc triệt tiêu việc nghiên cứu mang tính hình học và lịch sử đối với các sự kiện.
    Sự chú trọng của tôi vì vậy không phải là cân nhắc vấn đề hơn thiệt, mà nó khá rõ ràng, cần thiết, và là 1 vấn đề khá hời hợt về quyền, chống lại quyền lực và tính hiệu quả của việc nghiên cứu thực chứng mà ta có thể chứng kiến ngày nay. Sự hình thành và hệ thống chữ viết chưa bao giờ dẫn đến việc khảo sát sâu, rộng và chắc chắn cả. Nó không thực sự là vấn đề cân nhắc vấn đề chống lại sự quan trọng của việc khám phá, vì các vấn đề đều quá nhẹ, ta không thể cân nhắc được. Nếu vấn đề không hoàn toàn như thế, có lẽ vì việc ngăn chặn của nó có những hệ quả thực sự ngay ở chính nội dung của những nghiên cứu, mà trong trường hợp hiện tại và mang tính ưu tiên, chúng luôn được sắp đặt quanh quẩn ở những vấn đề về định nghĩa và khởi đầu.

    Nhà ngữ pháp học tối thiểu có thể tránh việc tự hỏi về bản chất đối tượng của anh ta ở hình thức 1 vấn đề về căn nguyên như : ?oViệc viết là gì ?? nghĩa là ?onơi nào và khi nào việc viết bắt đầu ??. Các phản hồi nói chung sẽ đến rất nhanh. Chúng lưu thông trong phạm vi những khái niệm mà chúng ít bị phê phán và dịch chuyển trong phạm vi chứng cớ mà chúng dường như luôn tự chứng. Một loại hình và viễn cảnh phát triển của việc viết luôn được tổ chức quanh những phản hồi này. Mọi công việc đối phó với lịch sử của việc viết đều được soạn thảo doc theo cùng 1 đường lối : một sự phân loại mang tính triết học và cứu cánh sẽ làm cạn kiệt những vấn đề về phê bình trong 1 vài trang sách, một bước kế tiếp nào đó để đi đến phơi bày các sự kiện. Ta có sự tương phản mỏng manh giữa lý thuyết tái cấu trúc và sự dồi dào của thông tin mang tính lịch sử, khảo cổ và dân tộc học.

    Vấn đề nguồn gốc của việc viết và vấn đề nguồn gốc của ngôn ngữ thì khó mà tách rời nhau. Các nhà ngữ pháp học, những người nói chung gần với những nhà lịch sử thực tập, nhà nghiên cứu văn khắc và khảo cổ học, rất it liên hệ nghiên cứu của họ với khoa học ngôn ngữ hiện đại. Điều đáng ngạc nhiên hơn tất cả là, trong ?okhoa học về nhân loại?, ?ongôn ngữ chính là 1 khoa học mà tính chất khoa học của nó được xem như là 1 tấm gương về sự nhất trí bền bỉ và nhiệt huyết? (linguistics is the one science whose scientificity is given as an example with a zealous and insistent unanimity).

    Sau đó liệu ngữ pháp học có quyền mong đợi ở ngôn ngữ học sự tồn tại bản chất mà nó đã hầu như chẳng bao giờ tìm kiếm ? Ngược lại, nó có tìm kiếm giả định bất biến về mối quan hệ giữa nói và viết 1 cách hiệu quả trong công việc không, ngay thời điểm mà ngôn ngữ học được xem như là 1 khoa học ? Liệu giả định đó không ràng buộc kết cấu của khoa học viết tổng quát ? Liệu việc nâng lên của giả định đó không là 1 sự lật đổ nền tảng mà trên đó khoa học ngôn ngữ đã được thiết lập 1 cách hoà bình ? Để tốt hơn hay để xấu hơn ? Để mù quáng cũng như hiệu quả ? Đây là loại câu hỏi thứ 2 mà tôi muốn phác thảo. Để phát triển câu hỏi này, tôi muốn tiếp cận, như 1 ví dụ ưu tiên, công trình và văn bản của F. de Saussaure. Nếu đặc điểm của ví dụ không can thiệp vào tính tổng quát lập luận của tôi thì đó là 1 điểm mà tôi, đôi khi, sẽ gắng thử không xem là điều hiển nhiên.

    Ngôn ngữ học vì vậy mong muốn trở thành khoa học ngôn ngữ. Ta hãy dẹp qua 1 bên các quyết định tuyệt đối đã được thiết lập như là 1 dự án và tất cả các câu hỏi về nguồn gốc của nó mà sự dồi dào của khoa học này cho phép để lại tiềm năng. Trước hết ta hãy đơn giản xem xét tính chất khoa học của khoa học đó thường được chấp nhận vì sự sáng lập ngữ âm. Ngữ âm học, như nó thường được nói hôm nay, truyền đạt tính chất khoa học cho ngôn ngữ học, mà lần lượt nó phục vụ như là mô hình nhận thức cho tất cả các khoa học về nhân loại (Phonology, it is often said today, communicates its scientificity to linguistics, which in turn serves as the epistemological model for all the sciences of man). Vì sự thận trọng và định hướng hệ thống ngữ âm của ngôn ngữ học tạo sự chú ý ban đầu của Saussure, tôi sẽ, đôi chút nhất thời, tự giới hạn vào cái đi sau. Liệu lập luận của tôi có là 1 nốt căng tương thích với những hình thức nhấn mạnh nhất của ngữ âm học ? Vấn đề tối thiểu sẽ được bắt đầu.

    Khoa học ngôn ngữ học quyết định ngôn ngữ - Lĩnh vực khách quan của nó - ở bản chất trong trường hợp đơn giản sau cùng và tối giản, như đơn vị của âm, lưỡi, và thần ngôn (logos). Sự quyết định này bằng quyền lợi, được đặt trước tất cả những sự khác biệt cuối cùng có thể làm nảy sinh trong phạm vi các hệ thống thuật ngữ của các trường phái khác nhau: ngôn ngữ/nói (language/speed), mật mã/thông điệp; (code/message), thời biểu/sử dụng (scheme/usage), ngôn ngữ học/luận lý (linguistic/logic), âm vị học/âm vị/ngữ âm học/ ngữ vị học (phonology/phonematics/phonetics/glossematics). Và thậm chí nếu ta giữ tính kêu vang ở về 1 phía của cái ký hiệu hữu hình và ngẫu nhiên mà nói đúng ra là không thể, khi mà sự đồng nhất hình thức sẽ cách ly trong phạm vi đa số hữu hình vốn sẵn lý tưởng và thiếu hiểu biết, nó lẽ ra đã được chấp nhận là sự hài hòa ưu tiên và tức thời lập nên nghĩa (the immediate and privileged unity which founds significance), và hoạt động của ngôn ngữ là sự hòa hợp khớp nối âm thanh và giác quan trong phạm vi ngữ âm (the acts of language is the articulated unity of sound and sense within the phonic). Liên quan đến sự hòa hợp này, viết sẽ luôn là sự phát sinh (derivative), ngẫu nhiên (accidental), cá biệt (particular), bề ngoài (exterior), và là sự nhân đôi của dấu hiệu = phát âm. ?oDấu hiệu của dấu hiệu? như Aristotle, Rousseau, và Hegel đã nói.
    Tuy nhiên khái niệm kiến tạo nên ngôn ngữ học tổng quát là 1 khoa học luôn trong phạm vi mâu thuẫn ở khía cạnh này. Mục đích được tuyên bố của nó quả thực, như nói những gì chỉ để mà chẳng nói, thừa nhận sự lệ thuộc của ngữ pháp học, sự suy giảm mang tính lịch sử - siêu hình của việc viết xuống thành 1 công cụ bị nô dịch hóa thành ngôn ngữ nói 1 cách đầy đủ và sáng tạo (the historico-mytephysical reduction of writing to the rank of an instrument enslaved to a full originarily spoken language). Nhưng 1 hành động nữa (không phải tuyên ngôn mục đích, vì ở đây những gì không xảy ra mà không nói thì cũng được thực hiện, được viết mà không được nói, không được lưu hành) đang giải phóng tương lai của ngữ pháp học mà ngôn ngữ học ?" âm vị học của nó sẽ chỉ là 1 lĩnh vực phụ thuộc và có giới hạn. Ta hãy dõi theo sự căng thẳng này, giữa hành động và tuyên ngôn của Saussure.

    ----------------------------------

    Trước khi pot tiếp, mời bạn cho ý kiến và tự do thảo luận.
  2. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    Cái bên ngoài và cái bên trong.
    (The outside and the inside)
    Mặt khác, sự thực đối với truyền thống phương Tây là nó kiểm soát không những trong lý thuyết mà còn trong thực tế (trong nguyên tắc thực tế của nó) các mối quan hệ giữa nói và viết. Saussure không nhận thấy cái đi sau (viết) không gì hơn là 1 chức năng hạn hẹp (narrow) và phát sinh (derivative). Hạn hẹp vì nó chẳng là gì mà chỉ là 1 phương thức giữa các phương thức khác, một phương thức các sự kiện có thể xảy ra đối với 1 ngôn ngữ mà bản chất, như các sự kiện có vẻ chứng tỏ, do viết, có thể còn mãi sáng trong. ?oNgôn ngữ luôn có truyền thống nói độc lập với viết? (language does have an oral tra***ion that is independent of writing). Phát sinh vì nó là kí hiệu đại diện kí hiệu đầu tiên (representative signifier of the first signifier), sự đại diện của tiếng nói tự tại (self-present voice), của kí hiệu tức thời, tự nhiên, và trực tiếp của ý nghĩa (của cái được kí hiệu, của khái niệm, của đối tượng lý tưởng, vân vân).
    Saussure tiếp tục định nghĩa viết truyền thống sẵn có ở Plato và Aristotle mà nó đã bị giới hạn trong mô hình viết ngữ âm (phonic script) và ngôn ngữ từ ngữ (the language of words). Ta hãy xem lại định nghĩa của Aristotle : ?oTừ ngữ nói là biểu tượng của kinh nghiệm tinh thần và từ ngữ viết là biểu tượng của từ ngữ nói? (Spoken words are the symbols of mental experience and written words are the symbols of spoken words) .Còn Saussure : ?o Ngôn ngữ và viết là 2 hệ thống khác biệt của dấu hiệu; cái thứ 2 tồn tại cho mục đích đại diện duy nhất của cái thứ I? (language and writing are two distint systems of signs; the second exists for the sole purpose of representing the first).
    Xác quyết mang tính đại diện này, bên cạnh việc truyền đạt không chút nghi ngờ bản chất lý tưởng của dấu hiệu (sign), không chuyển tải 1 sự chọn lựa hoặc ước lượng, không tiết lộ 1 giả định tâm lý hoặc siêu hình riêng biệt của Saussure; nó mô tả hoặc đúng hơn phản ánh cấu trúc của 1 kiểu viết nào đó : viết ngữ âm, mà ta đang sử dụng và trong phạm vi mà những yếu tố nhận thức nói chung (khoa học, triết hoc), ngôn ngữ học nói riêng, có thể được thiết lập. Phải chăng ta nên nói về phương thức hơn là cấu trúc; Nó không phải là vấn đề 1 hệ thống được cấu trúc và có chức năng hoàn chỉnh, mà là 1 lý tưởng rõ ràng hướng tới 1 chức năng quả thực chưa bao giờ hoàn toàn mang tính ngữ âm.
    Thực ra, và cũng vì những lý do bản chất mà tôi sẽ thường xuyên trở lại. Để bảo đảm là bản tường trình viết ngữ âm này là đồ sộ, vì nó điều khiển toàn bộ văn hóa và toàn bộ khoa học, và chắc không chỉ 1 sự kiện giữa những sự kiện khác. Tuy nhiên nó không đáp ứng bất kỳ sự cần thiết về 1 bản chất chung và tuyệt đối. Sử dụng điều này như 1 điểm xuất phát, Saussure định nghĩa dự án và đối tượng ngôn ngữ học tổng quát : ?o Đối tượng ngôn ngữ học không được định nghĩa bởi sự kết nối giữa từ nói và từ viết : thể nói tự nó kiến tạo đối tượng? (The linguistic object is nót defined by the combination of the written word and the spoken word: the spoken form alone constitutes the object?.
    Hình thức của vấn đề mà ông ta hưởng ứng vì thế gây ra sự phản ứng. Đó là việc biết loại từ gì là đối tượng ngôn ngữ học và mối quan hệ gì kết nối những đơn vị nguyên tố là những từ nói và từ viết. Giờ thì từ (nói) đã là 1 sự hòa hợp giác quan và âm thanh (unity of sense and sound), của khái niệm và tiếng nói, hoặc, nói 1 cách nghiêm khắc theo ngôn ngữ Saussure, của cái được kí hiệu (signified) và kí hiệu (signifier). Thuật ngữ cuối cùng này phải chăng được đưa ra trước tiên chỉ trong phạm vi ngôn ngữ nói, trong ngôn ngữ học với ý thức hạn hẹp mà không thuộc phạm vi dấu hiệu học (?otôi đề xuất dùng từ ?odấu hiệu? (sign) để chỉ cái toàn thể (the whole) và để thay thế khái niệm âm thanh-hình ảnh theo thứ tự bởi cái được kí hiệu và kí hiệu?). Từ này vì thế đã là 1 đơn vị được kiến tạo, một hiệu ứng của ?o?một sự kiện có vẻ bí ẩn?mà ?osuy nghĩ-âm thanh? (thougnt-sound) hàm ý sự phân hóa?. Thậm chí từ này đến lượt nó được phát âm rõ ràng, thậm chí nếu nó hàm ý những phân hóa khác, chừng nào mà ta truy hỏi vấn đề mối quan hệ giữa nói và viết trong ánh sáng của những đơn vị không thể phân chia của cặp ?osuy nghĩ-âm thanh? thì sẽ luôn có sẵn những hồi đáp. Viết sẽ là ?ongữ âm?, nó sẽ là cái bên ngoài, là đại diện bề ngoài của ngôn ngữ và của cặp ?osuy nghĩ-âm thanh? này. Cần thiết là nó phải áp dụng từ những đơn vị đã được kiến tạo của nghĩa, trong hình thức mà nó chẳng có vai trò gì.
    Rõ ràng những khái niệm chắc chắn, vĩnh cửu, thường niên mà ở đây chúng hỗ trợ việc suy nghĩ về mối quan hệ giữa nói và viết thì quá lỏng lẻo và dẫn đến hình thức kém tính phê phán. Chúng cần nhiều chú ý và phân tích tỉ mỉ hơn. Áp dụng tương tự đối với sự giải thích mà dựa vào đó ?ođa số chú ý đến ấn tượng hình ảnh hơn đơn giản vì chúng sắc nét và tồn tại lâu hơn ấn tượng âm thanh? (most people pay more attention to visual impressions simply because these are sharper and more lasting than aural impressions). Lý giải sự ?ochiếm đoạt? (usurpation) này không những là kinh nghiệm hình thức, mà còn là vấn đề nội dung. Nó tham chiếu đến siêu hình học và sinh lý học xưa, khả năng gíac quan thường trực, không được chứng minh bởi khoa học, bởi kinh nghiệm ngôn ngữ và bởi chính cơ thể cũng như ngôn ngữ. Nó mặc nhiên làm những yếu tố viết hữu hình, đơn giản, cơ bản trở nên rõ ràng. Quan trọng hơn hết, trong việc xem xét cái hữu thanh (audible) như là môi trường tự nhiên trong phạm vi mà ngôn ngữ phải là những phân đoạn tự nhiên và khớp nối với các dấu hiệu đã được kiến tạo. Vì thế sử dụng tính độc đoán đó, việc lý giải này bao gồm tất cả các khả năng, cả mối quan hệ tự nhiên nào đó giữa nói và viết, tại thời điểm mà nó khẳng định nó. Thay vì thận trọng giải thể các khái niệm tự nhiên và được kiến tạo vẫn thường dụng mà nó nên được sử dụng trước tiên, thì nó lại từ chối cả hai. Cuối cùng và quan trọng nhất là nó mâu thuẫn với khẳng định mang tính nguyên tắc mà dựa vào đó ?o những cái kiến tạo nên ngôn ngữ là (trong ?obản chất của ngôn ngữ?)?không quan hệ đến đặc tính ngữ âm của dấu hiệu ngôn ngữ học? (the thing that constitutes language [l''essentiel de la langue] is . . . unrelated to the phonic character of the linguistic sign). Khẳng định này sẽ sớm thuyết phục chúng ta. Trong phạm vi đó mặt kia của định đề Saussure lên án ?oảo tưởng viết khắc? (illusions of script) sẽ giữ vị trí dẫn đầu.
    Nguồn:http://www.marxists.org/reference/subject/philosophy/works/fr/derrida.htm

  3. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    (tiếp)
    Thế những giới hạn và giả định này biểu thị cái gì ? Trước tiên là 1 ngôn ngữ học không phổ biến chừng nào mà nó định nghĩa cái bên trong và cái bên ngoài của nó trong thuật ngữ những mô hình ngôn ngữ học xác định. Chừng nào mà nó không phân biệt khắt khe bản chất ở sự kiện với những mức độ chung tương ứng. Hệ thống viết nói chung không ngoài hệ thống ngôn ngữ tổng quát, trừ khi người ta cho là sự phân hóa giữa bên trong và bên ngoài trải qua cái bên trong của bên trong hoặc cái bên ngoài của bên ngoài, đến điểm mà tính nội tại của ngôn ngữ được phơi bày bản chất trước sức mạnh can thiệp hoàn toàn xa lạ đối với hệ thống của nó. Cùng 1 lý do thì viết không phải là ?ohình? (image) hay ?odạng? (figuration) của ngôn ngữ nói chung, trừ khi tính tự nhiên, logic và chức năng của hình ảnh trong phạm vi hệ thống mà từ đó ta muốn ngăn chặn việc xét lại. Viết không phải là dấu hiệu của dấu hiệu, trừ khi ta nói về nó với toàn bộ dấu hiệu, mà đó sẽ là sự thực sâu sắc hơn. Nếu mỗi dấu hiệu đều tham chiếu đến 1 dấu hiệu, và nếu ?odấu hiệu của dấu hiệu? (sign of a sign) biểu thị việc viết thì chắc chắn sẽ dẫn đến những kết luận nào đó mà tôi sẽ xem xét ở 1 thời điểm thích hợp. Những gì Saussure đã thấy mà chưa tỏ, đã biết mà chưa thể kê ra, theo truyền thống siêu hình ban sơ nó là 1 mô hình viết nào đó cần thiết nhưng bị áp đặt tạm thời (nhưng đối với nguyên tắc sai, sự kiện chưa đầy đủ, sự chiếm đoạt thường niên ) như công cụ và kỹ thuật đại diện cho 1 hệ thống ngôn ngữ. Và trào lưu này, 1 phong cách độc nhất vô nhị, đã quá thâm sâu không cho phép ta nghĩ đến, trong phạm vi ngôn ngữ, các khái niệm tương tự như dấu hiệu, kỹ thuật, đại diện, ngôn ngữ. Hệ thống ngôn ngữ liên kết với viết ngữ âm theo bảng chữ cái mà trong phạm vi siêu hình học dĩ ngôn vi trung, quyết định giác quan tồn tại như là hiện diện, đã được sản sinh (The system of language associated with phonetic-alphabetic writing is that within which logocentric metaphysics, determining the sense of being as presence, has been produced). Chủ nghĩa dĩ ngôn vi trung và thời đại nói độc tôn này, đã luôn được đặt trong ngoặc đơn, luôn lơ lửng, luôn bị đàn áp vì những lý do bản chất. Mọi phản ánh tự do về căn nguyên và trạng thái viết, mọi khoa học viết không phải công nghệ hay lịch sử công nghệ, tự nó dựa vào thần thoại và phép ẩn dụ viết tự nhiên. Đây chính là chủ nghĩa dĩ ngôn vi trung mà nói chung giới hạn hệ thống ngôn ngữ bên trong bởi sự trừu tượng xấu xa, đã ngăn cản Saussure và đa số những người thừa kế ông việc xác định đầy đủ và tuyệt đối cái được gọi là ?ođối tượng tích hợp và cụ thể của ngôn ngữ học? (the integral and concrete object of linguistics).
    Nhưng ngược lại, như tôi đã loan báo ở trên, đó là ông ta không chú trọng xử lý viết, khi ông ta cảm thấy đã đóng ngoặc vào cái chủ thể ấy, thì Saussure đã mở ra lĩnh vực ngữ pháp học tổng quát. Nó không những không còn bị loại trừ khỏi ngôn ngữ học tổng quát, mà còn đóng góp và bao hàm nó trong phạm vi chính nó. Khi đó ta nhận ra cái gì được theo đuổi đến những giới hạn, vật rơi vãi của ngôn ngữ học, quả thực chưa bao giờ chấm dứt ám ảnh ngôn ngữ như khả năng sơ khai và sâu kín nhất. Khi đó điều gì chưa bao giờ được nói đến chẳng là gì khác hơn chính việc viết như căn nguyên của ngôn ngữ đã bộc lộ chính nó trong ngôn ngữ Saussure. Khi đó ta đã làm lóe sáng hạt nhân kiến giải gián tiếp và thâm sâu của việc chiếm đóng và những cạm bẫy bị lên án ở chương 6. Sự kiến giải này sẽ lật đổ thậm chí hình thức vấn đề đã có sẵn câu trả lời .
    =====================
    Nhận xét: Theo tôi nên dịch chữ "sign" là "dấu hiệu" (hay "tín hiệu") hơn là "kí hiệu" vì từ "kí hiệu" có nghĩa hẹp hơn, và từ "semiotic" nên là "dấu hiệu học" (hay "tín hiệu học") hơn là "kí hiệu học". Chưa thấy ở VN có ngành học gọi là "Dấu hiệu học" nhỉ !
    Được Tran_Thang sửa chữa / chuyển vào 18:12 ngày 30/11/2008
  4. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    Cái bên ngoài là cái bên trong.
    The Outside Is the Inside
    Luận điểm về tính võ đoán (arbitrariness) của dấu hiệu (sign) (một cái tên sai thô thiển, không chỉ vì do chính Saussure thừa nhận) hẳn đã ngăn cản sự khác biệt triệt để giữa ngôn ngữ học và dấu hiệu đồ họa. Không còn nghi ngờ luận điểm này chỉ liên quan đến mối quan hệ tất yếu giữa kí hiệu (signifier) và được kí hiệu (signified) đặc biệt trong phạm vi mối quan hệ được cho là tự nhiên giữa tiếng nói và ý thức nói chung, giữa trật tự kí hiệu âm và nội dung được kí hiệu (?o mối ràng buộc tự nhiên duy nhất, mối ràng buộc thực sự duy nhất, mối ràng buộc âm thanh?, ?othe only natural bond, the only true bond, the bond of sound?). Chỉ những mối quan hệ giữa kí hiệu và được kí hiệu đặc biệt này được qui định bởi tính võ đoán. Trong phạm vi mối quan hệ ?otự nhiên? giữa kí hiệu ngữ âm và được kí hiệu nói chung, mối quan hệ giữa mỗi kí hiệu và được kí hiệu xác định là ?ovõ đoán?.
    Giờ thì ta xem cái toàn bộ của dấu hiệu xác định, được nói, và như 1 nốt căng được viết, như những kiến tạo vô căn (unmotivated), ta phải loại trừ bất kỳ mối quan hệ lệ thuộc tự nhiên, bất kỳ thứ bậc tự nhiên giữa kí hiệu và trật tự của chúng. Nếu viết biểu thị việc viết khắc và đặc biệt là sự kiến tạo lâu bền của dấu hiệu (và đây là cốt lõi tối giản duy nhất của khái niệm viết), thì viết nói chung bao trùm toàn bộ lĩnh vực dấu hiệu ngôn ngữ học.
    Trong lĩnh vực đó 1 loại kí hiệu được kiến tạo có thể xuất hiện, ?ođồ họa? trong ý thức hạn hẹp và kế thừa của từ, được chỉ dẫn bởi mối quan hệ nào đó với những kí hiệu được kiến tạo khác ?" do đó ?ođược viết?, thậm chí nếu chúng là ?ongữ âm? ?" các kí hiệu. Chính ý tưởng về sự kiến tạo ?" do đó cũng là tính võ đoán của dấu hiệu ?" không thể được nghĩ ra trước khả năng viết và bên ngoài lĩnh vực này. Hoàn toàn giản đơn, đó là, ngoài chính lĩnh vực đó, ngoài thế giới như không gian viết khắc, như việc mở rộng đến ánh sáng và đến không gian phân phối dấu hiệu, đến vai trò điều tiết (regulated play) sự khác biệt của chúng, thậm chí nếu chúng là ?ongữ âm?.
    Giờ thì ta cứ kiên trì sử dụng sự đối lập tự nhiên và kiến tạo, vật lý (physis) và danh pháp (nomos) (mà cũng có nghĩa, dĩ nhiên, là sự phân phối và phân hóa thực sự điều tiết bởi luật lệ) tuy bị quấy nhiễu bởi sự suy ngẫm về viết, nó vẫn thực hiện chức năng khắp nơi như sự tự chứng, đặc biệt trong các hàm ngôn ngôn ngữ học.
    Khi đó ta phải kết luận rằng chỉ những dấu hiệu được cho là tự nhiên, những cái mà Hegel và Saussure gọi là ?obiểu tượng?, thóat khỏi dấu hiệu học trở thành ngôn ngữ học. Nhưng chúng để lại 1 nốt căng bên ngoài lĩnh vực ngôn ngữ học như là khu vực dấu hiệu học tổng quát (We must then conclude that only the signs called natural, those that Hegel and Saussure call ?osymbols,? escape semiology as grammatology. But they fall a fortiori outside the field of linguistics as the region of general semiology).
    Luận điểm về tính võ đoán của dấu hiệu vì thế phủ nhận gián tiếp nhưng không thay đổi tuyên ngôn của Saussure khi ông ta xua đuổi việc viết đến bóng tối ngoài cùng ngôn ngữ học. Luận điểm này giải thích thành công quan hệ qui ước giữa âm vị (phoneme) và tự vị (grapheme) (trong viết ngữ âm, giữa âm vị, kí hiệu ?" được kí hiệu, và tự vị, kí hiệu thuần túy), nhưng cũng vì thế nó ngăn cản cái sau trở thành ?ohình ảnh? của cái trước. Giờ thì điều cần thiết là không xem viết như ?ongoại hệ thống? (external system), nó sẽ đưa đến việc áp đặt 1 ?ohình? (image), một ?ođại diện?(representation), hoặc một ?odạng? (figuration), một sự phản ảnh bề ngoài (exterior) của thực tế ngôn ngữ.
    Một chút can dự, ở đây là tối thiểu, là quả thực có 1 nhánh mẫu tự để ghi ý (chữ tượng ý, ideographic). Vấn đề quan trọng này được các nhà lịch sử viết thảo luận nhiều hơn.
    Điều quan trọng ở đây là cấu trúc đồng đại (synchronic) và nguyên lý mang tính hệ thống của viết ?" và viết ngữ âm nói chung ?" không có quan hệ đại diện mang tính ?otự nhiên?, không sự rập khuôn hay can dự, không có quan hệ ?obiểu tượng? trong ý thức Hegelian ?" Saussurian, không có quan hệ tượng hình (iconography) trong ý thức Peircian, được hàm ý.
    Vì thế ta phải nghi ngờ, nhân danh chính sự độc đoán của dấu hiệu, định nghĩa Saussure xem viết như ?ohình ảnh?(image) ?" do đó là biểu tượng tự nhiên ?" của ngôn ngữ.
    Không đề cập đến âm vị chính là thứ không thể tưởng tượng, và không sự hữu thị (visibility) nào có thể tương ứng với nó, nó đủ để ta xem xét đến những gì Saussure nói về sự khác biệt giữa biểu tượng (symbol) và dấu hiệu (sign) để rồi làm thế nào ông ta lại có thể đồng thời nói viết là ?ohình?(image) hay ?odạng? (figure) của ngôn ngữ và lại định nghĩa ngôn ngữ và viết là ?ohai hệ thống dấu hiệu riêng biệt? (two distinct systems of signs).
    Vì thuộc tính của dấu hiệu sẽ không phải là hình ảnh. Bằng 1 quá trình phơi bày bởi Freud trong ?oDiễn dịch những giấc mơ? (Interpretation of dreams), Saussure đã tích lũy những lý lẽ mâu thuẫn để đi đến 1 kết luận thỏa đáng : loại trừ viết.
    Quả thực, thậm chí trong phạm vi cái gọi là viết ngữ âm, kí hiệu ?ođồ họa? tham chiếu đến âm vị (phoneme) qua 1 chuỗi nhiều chiều, ràng buộc nó, như tất cả các kí hiệu, với những kí hiệu viết và nói khác, trong phạm vi 1 hệ thống ?otoàn diện?, mở rộng đối với tất cả khả năng của ý thức. Ta phải bắt đầu với khả năng của hệ thống toàn diện này (In fact, even within so-called phonetic writing, the ?ographic? signifier refers to the phoneme through a web of many dimensions which binds it, like all signifiers, to other written and oral signifiers, within a ?ototal? system open, let us say, to all possible investments of sense. We must begin with the possibility of that total system).
    Saussure vì thế chẳng bao giờ có thể nghĩ rằng viết thật sự là một ?ohình?, một ?odạng?, một ?ođại diện? của ngôn ngữ nói, một biểu tượng.
    Nếu ta xét rằng những ý niệm tuy cần thiết nhưng không tương xứng này để quyết định bề ngoài của viết, ta phải gộp luôn toàn bộ các giai tầng hàm ngôn của Saussure, khái niệm ở chương 6 (trong ?oĐại diện đồ họa của Ngôn ngữ?, Graphic representation of language), không mang tính khoa học chút nào cả.
    Khi tôi nói điều này, tôi không khai thác khái niệm và động lực cơ sở của F. de Saussure, nhưng phần nào là toàn bộ truyền thống phi phê phán mà ông ta thừa hưởng. Chức năng xa lạ của luận chứng này thuộc về khu vực gì của hàm ngôn, dục vọng mạch lạc này sản sinh chính nó như trong 1 giấc mơ ?" mặc dù nó gạn lọc giấc mơ hơn là cho phép chính nó được gạn lọc bởi nó ?" bằng 1 thứ logic mâu thuẫn ?Làm thế nào chức năng này khớp nối với toàn bộ hàm ngôn lý thuyết, xuyên suốt lịch sử khoa học? Hơn nữa, làm thế nào chính nó hoạt động trong phạm vi khái niệm khoa học?
    Nếu 1 ngày nào đó khi vấn đề này được thảo tỉ mỉ - khi những khái niệm qui định bởi chức năng này được định nghĩa bên ngoài tâm lý học (cũng như tất cả khoa học nhân loại), bên ngoài siêu hình học (mà giờ là những nhà ?oMarxist? hoặc ?ocấu trúc?), ta mới có thể tôn trọng mọi mức độ về tính tổng quát và hữu âm (articulation) - chỉ khi đó ta mới có thể tuyên bố 1 cách nghiêm khắc vấn đề lệ thuộc hữu âm (articulated appurtenance) của văn bản (lý thuyết hoặc ngược lại) đến toàn bộ khuynh hướng. Rõ ràng lúc này tôi cư xử với văn bản của Saussure chỉ như 1 ví dụ ấn tượng trong phạm vi bối cảnh nhất định mà không tuyên bố sử dụng các khái niệm qui định bởi chức năng mà tôi đã đề cập.
    Chứng minh của tôi như sau : chỉ số so sánh (indices) này hoặc 1 vài chỉ số so sánh khác (một cách tổng quát về việc xử lý khái niệm viết) đã cho ta phương tiện đảm bảo tiếp cận việc giải cấu trúc cái toàn thể vĩ đại nhất ?" khái niệm nhận thức và siêu hình học dĩ ngôn vi trung (logocentric metaphysics) ?" trong phạm vi mà nó được phát sinh, mà không đề cập đến vấn đề viết cấp tiến, đến các phương pháp phương Tây về phân tích, giải nghĩa, đọc, hoặc diễn dịch.
    Giờ ta phải nghĩ rằng viết bổ sung từ bên ngoài và đồng thời bổ sung từ bên trong cho nói, không phải là ?ohình ảnh? hay ?obiểu tượng? của nói, trong chính sự nói cũng sẵn có sự viết (Now we must think that writing is at the same time more exterior to speech, not being its ?oimage? or its ?osymbol,? and more interior to speech, which is already in itself a writing).
    Thậm chí trước khi nó liên kết với chạm (incision), khắc (engraving), vẽ (drawing) hay mẫu tự (letter), với kí hiệu nói chung tham chiếu đến 1 kí hiệu mà nó biểu thị, khái niệm đồ họa (đơn vị của hệ thống đồ họa) hàm ý cơ cấu dấu tích được kiến tạo, như khả năng chung cho tất cả hệ thống nghĩa.
    Nỗ lực của tôi giờ sẽ là hướng trực tiếp, chậm rãi đến việc tháo gỡ 2 khái niệm hàm ngôn cổ điển mà tôi nhất thiết vay mượn này. Nỗ lực này sẽ rất nặng nề và ta biết trước hiệu quả của nó sẽ không bao giờ là thuần túy và tuyệt đối.
    Dấu tích (trace) được kiến tạo này là ?ovô căn? (unmotivated) nhưng thường trực. Như từ ?ovõ đoán? theo Saussure, nó ?okhông nên hàm ý sự lựa chọn của kí hiệu tùy thuộc hoàn toàn vào người nói?. Một cách đơn giản, không có sự ?ogán ghép tự nhiên? (natural attachment) cho cái được kí hiệu trong hiện thực. Với chúng ta thì sự gián đoạn của ?ogán ghép tự nhiên? ấy đặt vấn đề ý tưởng về tự nhiên hơn là gán ghép. Đấy là tại sao từ ?okiến tạo? (institution) không nên diễn dịch quá vội vã trong hệ thống đối lập cổ điển.
    Ta không thể nghĩ về dấu tích được kiến tạo mà không nghĩ đến việc duy trì sự khác biệt trong phạm vi cấu trúc tham chiếu mà từ đó sự khác biệt xuất hiện đúng nghĩa và do đó cho phép giải phóng sự biến thiên nào đó giữa những thuật ngữ thuần túy.
  5. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    (tiếp)
    Sự vắng mặt của cái ngay-tại-đây (here-and-now), của hiện tại tiên nghiệm, của căn nguyên thế giới xuất hiện đúng nghĩa, tự hiện diện như sự vắng mặt tối giản trong phạm vi sự hiện diện của dấu tích, không phải là 1 thể thức siêu hình học thay thế cho khái niệm viết khoa học .
    Thể thức này, bên cạnh vấn đề siêu hình học, mô tả cấu trúc hàm nghĩa bởi ?otính võ đoán của dấu hiệu?, ngay khi ta nghĩ về khả năng của nó mà thiếu sự đối lập phát sinh giữa tự nhiên và qui ước, giữa biểu tượng và dấu hiệu, vân vân. Sự đối lập này có nghĩa chỉ sau khả năng của những dấu tích (trace). Tính ?ovô căn? của dấu hiệu đòi hỏi sự tổng hợp trong đó mặt kia (the other) hoàn toàn được loan báo mà không có bất cứ sự giản đơn, bất cứ sự đồng nhất, bất cứ sự tương tự hoặc liên tục nào ?" trong phạm vi những gì không là nó. Được loan báo đúng nghĩa là: ta có tất cả lịch sử, từ siêu hình học định nghĩa ?okhông-sống? (non-living) đến ?oý thức? (consciousness), qua tất cả các mức độ tổ chức động vật.
    Dấu tích (the trace), nơi mà quan hệ với mặt kia được đánh dấu, khớp nối với chính khả năng của nó, trong toàn bộ lĩnh vực thực thể, cái mà siêu hình học định nghĩa là hiện-tại (being-present) bắt đầu từ sự vận động sâu kín của những dấu tích. Ta phải nghĩ về dấu tích trước thực thể (The trace, where the relationship with the other is marked, articulates its possibility, in the entire field of the entity, which metaphysics has defined as the being-present starting from the occulted movement of the trace. The trace must be thought before the entity).
    Nhưng sự vận động của dấu tích cần được che dấu, nó sản sinh chính nó cũng như tự-che dấu (self-occultation). Khi mặt kia tự loan báo, nó tự-hiện diện trong sự tự-che dấu. Hệ thức này không mang tính lý thuyết, khi mà ta tin tưởng nó có phần vội vã. Tính ?olý thuyết? này là khoảnh khắc quyết định trong toàn bộ vận động của những dấu tích. Lĩnh vực thực thể, trước khi được quyết định như lĩnh vực hiện diện, cấu trúc theo những khả năng khác nhau ?" có tính di truyền và cấu trúc ?" của những dấu tích. Sự hiện diện của mặt kia như thế, có nghĩa như sự tự-che dấu, vẫn luôn bắt đầu và không cấu trúc thực thể nào thoát khỏi nó.
    Đấy là tại sao sự vận động ?ovô căn? đi từ một cấu trúc đến mặt kia khi ?odấu hiệu? (sign) vượt qua giai đoạn ?obiểu tượng? (symbol). Trong ý thức và theo cấu trúc xác định nào đó ta có căn cứ nói rằng không có sự bất động trong điều Saussure gọi là ?obiểu tượng? mà theo ông ta, tạm thời chưa liên quan đến dấu hiệu học (semiology) Cấu trúc chung những dấu tích vô căn (unmotivated trace) kết nối nhau trong phạm vi cùng 1 khả năng, chúng không thể phân chia ngoại trừ bởi sự trừu tượng, bởi cấu trúc quan hệ với mặt kia, bởi vận động trì hoãn và bởi ngôn ngữ học như viết.
    Không tham chiếu ngược đến tính ?otự nhiên?, sự vô căn của những dấu tích luôn khả dĩ (become). Quả thật không có những dấu tích vô căn: dấu tích là cái khả dĩ-vô căn (becoming-unmotivated) vô hạn định của chính nó. Trong ngôn ngữ Saussure, điều Saussure không nói nên hiểu: không có biểu tượng lẫn dấu hiệu mà chỉ là cái khả dĩ?"dấu hiệu của biểu tượng(there is neither symbol nor sign but a becoming-sign of the symbol).
    Vì thế, khỏi phải nói, dấu tích mà tôi nói đến không tự nhiên hơn văn hóa (nó không phải là nhãn hiệu (mark), dấu hiệu tự nhiên hay chỉ số (index) trong ý thức Husserl), không vật lý hơn tâm lý, sinh học hơn tinh thần. Nó khởi đầu từ cái mà từ đó tính khả dĩ ?" vô căn của dấu hiệu, và cùng với nó là tất cả sự đối lập chưa biết giữa vật lý và mặt kia của nó, có khả năng.
    Trong dự án dấu hiệu học, Peirce dường như chú ý hơn Saussure đến sự tối giản khả dĩ ?" vô căn này. Trong thuật ngữ của ông ta, ta phải nói về tính khả dĩ ?" vô căn của biểu tượng. Ý niệm về biểu tượng ở đây có vai trò tương tự vai trò của dấu hiệu mà Saussure đối lập chính xác với biểu tượng:
    Các biểu tượng phát triển. Chúng phát sinh bởi sự phát triển sai lạc của những dấu hiệu khác, đặc biệt từ những hình tượng (icons), hoặc từ những dấu hiệu tổng hợp dự phần vào bản chất tự nhiên của hình tượng và biểu tượng. Ta chỉ suy nghĩ với những dấu hiệu. Những dấu hiệu tinh thần này đều thuộc bản chất tổng hợp, thành phần biểu tượng của chúng gọi là khái niệm. Nếu ta tạo 1 biểu tượng mới thì tư tưởng của ta sẽ bao hàm luôn các khái niệm. Vì thế chỉ sự sai lạc của các biểu tượng mà một biểu tượng mới phát triển? (So it is only out of symbols that a new symbol can grow).
    Peirce tuân thủ 2 tình huống khẩn cấp có vẻ xung khắc nhau. Sai lầm ở đây là hy sinh cái này cho cái kia. Đấy là do biểu tượng (trong ý thức Peirce về ?otính võ đoán của dấu hiệu?) lại có căn nguyên vô?"biểu tượng (non-symbolic), một tiền trật tự tương đối: ?oCác biểu tượng phát triển. Chúng phát sinh bởi sự phát triển sai lệch của những biểu tượng khác, đặc biệt từ những hình tượng hay từ những dấu hiệu tổng hợp?. Nhưng những căn nguyên này phải không ảnh hưởng đến cấu trúc nguyên thủy của trường biểu tượng, của ý chí tự do (autonomy) trong một khu vực, một chuỗi phát sinh và một vai trò: ?oVì thế chỉ sự phát triển sai lệch của những biểu tượng mà 1 biểu tượng mới phát triển?.
    Nhưng cả 2 trường hợp hệ thống có căn nguyên gen (genetic root-system) đều tham chiếu từ dấu hiệu đến dấu hiệu. Không có cơ sở vô nghĩa ?" hiểu như sự vô nghĩa hoặc trực giác về thực tại ?" đủ để nó có thể tạo lập dưới vai trò và sự hình thành của dấu hiệu. Dấu hiệu học đã chẳng còn dựa trên logic (Semiotics no longer depends on logic).
    Logic theo Peirce chỉ là dấu hiệu học: ?oLogic trong ý thức chung, như tôi đã trình bày, chỉ là 1 cái tên khác của dấu hiệu học, như 1 sự cần thiết, hoặc hình thức, học thuyết dấu hiệu? (Logic, in its general sense, is, as I believe I ''have shown, only another name for semiotics (semeiotike), the quasi-necessary, or formal, doctrine of signs). Logic trong ý thức cổ điển, nói ?o1 cách chính xác?, logic phi hình thức bị điều khiển bởi giá trị sự thật, chiếm đóng dấu hiệu học chỉ ở mức độ xác định và cơ bản. Như ở Hussurl (nhưng tính tương tự, mặc cho nó là tư tưởng-kích động nhất, vẫn dừng ở đấy và ta phải áp dụng nó 1 cách thận trọng), mức độ thấp nhất, sự thành lập khả năng logic (hay dấu hiệu học) phù hợp với dự án ?oSuy đoán ngữ pháp? (Grammatica speculative) của Thomas d?TErfurl, được qui 1 cách sai lầm cho Scotus. Như Husserl, Peirce tham khảo từ nó là chính.
    Đó là vấn đề công phu, trong cả 2 trường hợp, học thuyết hình thức các điều kiện mà hàm ngôn phải thỏa mãn để có ý thức, để có ?onghĩa?, thậm chí nếu nó sai hoặc mâu thuẫn. Hình thái học tổng quát của nghĩa là không phụ thuộc mọi logic sự thực (The general morphology of that meaning is independent of all logic of truth).
    Khoa học dấu hiệu có 3 nhánh:
    Thứ I của Duns Scotus là ?oSuy đoán ngữ pháp? (Grammatica speculative). Ta có thể gọi là ngữ pháp thuần túy. Nó có nhiệm vụ xác định cái gì phải là sự thực hiện diện sử dụng bởi trí tuệ khoa học để chúng có thể thể hiện bất cứ ý nghĩa nào.
    Thứ II là ?o logic đích thực? (logic proper). Đó là khoa học về những gì có vẻ là sự thực thiết yếu đại diện của bất cứ trí tuệ khoa học nào để họ có thể nắm bắt bất cứ đối tượng nào có vẻ thực. Hoặc logic đích thực là khoa học hình thức về những điều kiện sự thực được thể hiện.
    Thứ III, theo mô phỏng Kant về bảo tồn các liên kết cũ của từ trong việc tìm kiếm các thuật ngữ cho các khái niệm mới, tôi gọi là ?otu từ thuần túy? (pure rhetoric). Nhiệm vụ của nó là xác định những qui luật mà theo đó một dấu hiệu sinh ra một dấu hiệu khác, đặc biệt một tư tưởng sinh một tư tưởng khác.

    Peirce đi rất xa theo hướng tôi gọi là giải-cấu trúc (de-construction) cái được kí hiệu tiên nghiệm mà trong thời gian này nọ sẽ lại chấm dứt sự tham chiếu từ dấu hiệu đến dấu hiệu.
    Tôi đã nhận biết chủ nghĩa thần ngôn trung tâm (logocentrism) và siêu hình hiện diện (metaphysics of presence) như tình trạng khẩn cấp, quyền lực, mang tính hệ thống, và dục vọng không kiềm nén đối với cái được kí hiệu như thế. Giờ thì Peirce xem tính không giới hạn của sự tham chiếu như tiêu chuẩn cho phép ta nhận biết quả thực ta đang xử lý một hệ thống dấu hiệu.
    Cái mở rộng hoạt động của nghĩa là cái khiến nó không thể gián đoạn. Sự vật tự nó là một dấu hiệu. (What broaches the movement of signification is what makes its interruption impossible. The thing itself is a sign).
    Tuyên bố không thể chấp nhận đối với Hussurl mà Hiện tượng học của ông đã để lại ?" trong ?oNguyên lý của những nguyên lý? (Principle of principles) ?" sự hoàn trả tới hạn và triệt để nhất của siêu hình học hiện diện (metaphysics of presence).
    Khác biệt giữa hiện tượng học Hussurl và Peirce là cơ bản vì nó liên quan khái niệm dấu hiệu và sự biểu lộ hiện diện, mối quan hệ giữa tiền-hiện diện (re-presentation) và hiện diện nguyên thủy của chính sự vật (sự thật). Về điểm này Peirce không còn nghi ngờ gì nữa gần hơn là người phát minh từ ?oHiện tượng học? (Phenomenology). Lambert quả thật đề xuất ?osự suy giảm lý thuyết sự vật thành lý thuyết dấu hiệu? (reduce the theory of things to the theory of signs). Dựa vào Hiện tượng học của Peirce, sự biểu lộ chính nó không bộc lộ sự hiện diện, nó tạo ra dấu hiệu.
    Ta có thể đọc trong ?oNguyên lý hiện tượng học? (Priciple of Phenomenology): ?oÝ tưởng biểu lộ là ý tưởng về một dấu hiệu?. Vì thế không có hiện tượng suy giảm dấu hiệu hoặc cái đại diện để vật được biểu thị có thể được phép tỏa sáng trong ánh sáng hiện diện của nó? (?oThe idea of manifestation is the idea of a sign?. There is thus no phenomenality reducing the sign or the representer so that the thing signified may be allowed to glow finally in the luminosity of its presence).
  6. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193

    (tiếp)
    Cái gọi là ?osự vật tự nó? (thing itself) luôn là đại diện được che đậy khỏi những chứng cớ trực giác trần tục. Sự đại diện chỉ hoạt động khi gia tăng sự diễn dịch mà chính nó cũng trở thành một dấu hiệu và cứ thế đến vô tận.
    Sự tự-đồng nhất (self-identity) của cái được kí hiệu không ngừng che dấu chính nó và luôn dịch chuyển (on the move). Thuộc tính của sự đại diện cũng là chính nó và tiếp nữa, được sản sinh như một cấu trúc tham chiếu, được phân chia từ chính nó. Thuộc tính của sự đại diện cũng không thích ứng, có thể nói gần như là chính nó. Cái được đại diện luôn sẵn là sự đại diện (The represented is always already a representamen). Định nghĩa dấu hiệu:
    Bất cứ cái gì quyết định (diễn giải) cái gì để tham chiếu đến 1 đối tượng mà chính nó tham chiếu cùng 1 cách, sự diễn giải này đến lượt nó cũng trở thành 1 dấu hiệu, đến bất tận?Nếu sự diễn giải liên tục này kết thúc thì dấu hiệu cũng hoàn trả lại tính không hoàn thiện. (Anything which determines something else (its interpretant) to refer to an object to which itself refers (its object) in the same way, this interpretant becoming in turn a sign, and so on ad infinitum. . . . If the series of successive interpretants comes to an end, the sign is thereby rendered imperfect, at least [Elements of Logic]).
    Ngay lúc có nghĩa thì cũng chỉ có các dấu hiệu mà thôi (From the moment that there is meaning there are nothing but signs). Ta suy nghĩ chỉ với những dấu hiệu. Nó có nghĩa là phá hủy ý niệm dấu hiệu ngay lúc mà, theo Nietzsche, tình trạng khẩn cấp của nó được thừa nhận quyền của mình 1 cách tuyệt đối.
    Ta có thể gọi vai trò vắng mặt của cái được kí hiệu tiên nghiệm là vai trò vô hạn, như cấu trúc của lý thuyết bản thể học (ontotheology) và siêu hình học hiện diện.
    Không ngạc nhiên khi siêu hình học va đập, tạo hình và hủy hoại vì căn nguyên của nó, khiến chính nó mang tên đúng nghĩa trong chính thời kỳ đó, khi từ chối cách ly ngôn ngữ học với ngữ nghĩa học (semantics) (mà tất cả các nhà ngôn ngữ học châu Âu, từ Saussure đến Hjemslev vẫn làm), lại loại trừ vấn đề ý nghĩa khỏi nghiên cứu của họ. Các nhà ngôn ngữ học Mỹ thường thích mô hình một trò chơi hơn (model of a game).
    Ở đây ta phải nghĩ viết như một trò chơi trong phạm vi ngôn ngữ (Cuốn ?oPhaedrus? kết án chính xác viết như 1 trò chơi ?" nhi học (paidia) ?" và đối chọi trò trẻ con như thế bằng sự hấp dẫn nói ở người lớn). Trò chơi này, được xem như sự vắng mặt cái được kí hiệu tiên nghiệm, không phải là 1 trò chơi dân gian như nó vẫn luôn được định nghĩa, vì mục đích bao hàm nó, bởi truyền thống triết học và bởi các nhà lý thuyết trò chơi cũng cho là như thế (hoặc những người theo hoặc xa rời Bloomfield, thích ngữ nghĩa học hơn tâm lý học hoặc một số phương pháp địa phương khác).
    Nếu nghĩ viết hoàn toàn là trò chơi thì những vấn đề bản thể và tiên nghiệm trước hết phải suy kiệt nghiêm trọng; vấn đề ý nghĩa của tồn tại; sự tồn tại của cái toàn thể và của nguồn gốc tiên nghiệm của thế giới ?" tính trần tục ?" phải được xuyên suốt, một cách kiên trì và nghiêm khắc; các vấn đề trào lưu phê phán của Hussurl và Heidegger phải được theo đuổi hiệu quả đến tận cùng, tính hiệu quả và gỉan đơn phải được bảo tồn.
    Thậm chí nếu nó bị gạch bỏ, không có nó những khái niệm trò chơi và viết mà tôi viện dẫn sẽ vẫn còn bó buộc trong phạm vi giới hạn khu vực và phạm vi những nhà kinh nghiệm và thực chứng, hoặc hàm ngôn siêu hình học. Bước chống đối mà những kẻ chủ trì hàm ngôn như thế để chống lại truyền thống tiền phê phán (precritical) và suy xét siêu hình học sẽ chẳng là gì mà chỉ là đại diện trần tục của quá trình riêng của họ. Vì thế trò chơi dân gian (the game of the world) phải được nghĩ đến trước tiên; trước toan tính hiểu tất cả các hình thức chơi của thế giới.
    Ngay tại lúc mở màn trò chơi, thì, ta đã ở trong phạm vi cái khả dĩ-vô căn (becoming-unmotivated) của biểu tượng. Liên quan đến tính khả dĩ này, sự đối lập lịch đại (diachronic) và đồng đại (synchronic) cũng được kế thừa. Sẽ không thể điều khiển ngữ pháp học một cách thích hợp (It would not be able to command a grammatology pertinently).
    Tính bất động của dấu tích nên được hiểu như một quá trình hơn là một trạng thái, như một trào lưu hoạt động, một sự tước bỏ động lực hơn là một cấu trúc được truyền lại. Khoa học về ?otính võ đoán của dấu hiệu?(the arbitrariness of the sign), khoa học về tính bất động của dấu tích, khoa học viết trước nói và khi nói, ngữ pháp học vì thế bao trùm 1 lĩnh vực vô tận trong phạm vi mà ngôn ngữ học sẽ, bằng sự trừu tượng, phác họa khu vực của riêng nó, trong giới hạn mà Saussure qui định cho nội hệ thống (internal system) của nó, cho cái được thận trọng xem xét lại trong mỗi hệ thống nói/viết trong xã hội và lịch sử.
    Bằng sự thay thế mà nó sẽ là bất cứ thứ gì trừ động từ, ta có thể thay thế Dấu hiệu học (Semiology) bằng Ngữ pháp học (Grammatology) trong chương ?oHàm ngôn Ngôn ngữ học tổng quát? (Course in general linguistics):
    Tôi sẽ gọi đó là (ngữ pháp học)? Vì khoa học chưa tồn tại, không ai có thể nói nó sẽ là gì, nhưng nó có quyền đối với sự tồn tại, một nơi tiến bộ chuẩn mực. Ngôn ngữ học không chỉ là 1 bộ phận khoa học tổng quát?, những quy luật ngữ pháp học được khám phá sẽ áp dụng cho ngôn ngữ học. (I shall call it [grammatology] .... Since the science does not yet exist, no one can say what it would be; but it has a right to existence, a place staked out in advance. Linguistics is only a part of [that] general science . . . ; the laws discovered by [grammatology] will be applicable to linguistics.)
    Lợi thế của sự thay thế này sẽ không chỉ là trao cho lý thuyết viết một tầm cỡ cần thiết chống lại sự đàn áp của dĩ ngôn vi trung và sự lệ thuộc vào ngôn ngữ học. Nó sẽ giải phóng chính dự án dấu hiệu học khỏi những gì, mặc cho sự bành trướng lý thuyết của nó, còn bị chi phối bởi ngôn ngữ học, được tổ chức như thể ngôn ngữ học chính là trung tâm và cứu cánh (telos) của nó.
    Thậm chí dấu hiệu học quả đúng là tổng quát và bao hàm hơn ngôn ngữ học, nó vẫn tiếp tục được điều chỉnh như thể là một trong những khu vực của ngôn ngữ học. Dấu hiệu ngôn ngữ học vẫn luôn là mẫu hình cho dấu hiệu học, nó chi phối dấu hiệu học như dấu hiệu-gốc (master-sign) và như mô hình sản sinh: một mẫu hình.
    Vì vậy ta có thể nói rằng những dấu hiệu hoàn toàn võ đoán mô tả đúng hơn những thứ khác mô tả lý tưởng của quá trình dấu hiệu học; đấy là tại sao ngôn ngữ, gồm tất cả các hệ thống biểu đạt phức tạp và phổ biến nhất, cũng mang tính tiêu biểu nhất; trong ý thức này ngôn ngữ học có thể trở thành mẫu hình-gốc của tất cả các chi nhánh dấu hiệu học mặc dù ngôn ngữ học chỉ là một hệ thống dấu hiệu học riêng biệt.
    Do đó xem xét lại trật tự phụ thuộc được qui định bởi Saussure, gần như đảo ngược quan hệ bộ phận thành cái toàn bộ, Barthes quả thật đã thực hiện mục đích thâm sâu nhất của cuốn Giáo trình (Course):
    Từ nay ta phải chấp nhận khả năng có thể đảo ngược định đề Saussure : Ngôn ngữ học không phải là 1 bộ phận của khoa học dấu hiệu tổng quát, mà chính dấu hiệu học mới là 1 bộ phận của ngôn ngữ học (From now on we must admit the possibility of reversing Saussure''s proposition some day: linguistics is not a part, even if privileged, of the general science of signs, it is semiology that is a part of linguistics. [Communications])
    Sự hoán vị mạch lạc này, gợi mở dấu hiệu học trở thành ?ochuyển ngữ học? (translinguitics), đưa ngôn ngữ học đến sự phát triển đầy đủ chi phối một cách lịch sử bởi siêu hình học dĩ ngôn vi trung, mà đối với nó quả thật chẳng có và sẽ chẳng có ?obất kỳ ý nghĩa nào ngoài tên gọi? (any meaning except as named).
    Bị chi phối bởi cái gọi là ?ovăn minh viết? mà ta kế thừa, văn minh của cái gọi là viết ngữ âm, như việc nói về ý thức tồn tại ở thần ngôn, trong cứu cánh của nó, được quyết định như sự tái thế (parousia). Sự đảo ngược Barthes phong phú và không thể thiếu để mô tả các sự kiện và thiên hướng của ý nghĩa trong phạm vi đóng của thời đại ngày nay và văn minh này đang trong quá trình biến mất ngay trong sự toàn cầu hóa.
    Giờ ta hãy xa rời những suy xét hình thức và cấu trúc. Ta hãy đòi hỏi một cách thực chất và cụ thể hơn, làm thế nào ngôn ngữ không đơn thuần là một loại viết, ?ocó thể so sánh với 1 hệ thống viết? ?" như Saussure viết một cách hiếu kỳ - mà còn là một dạng viết. Hơn nữa, vì viết không còn liên hệ đến ngôn ngữ học như một sự mở rộng hay tiền đồn, ta hãy hỏi làm thế nào ngôn ngữ là một khả năng dựa trên khả năng viết tổng quát.
    Để chứng minh điều này ta sẽ đồng thời xét đến cái gọi là ?osự chiếm đoạt? (usurpation), đó không thể là sự ngẫu nhiên không hay. Giả sử ngược với căn nguyên chung và do đó loại trừ sự tương đồng về ?ohình ảnh?, sự phát sinh, hoặc sự phản ánh mang tính đại diện. Vì thế ta sẽ trả lại cho ý nghĩa thực và khả năng cơ bản của nó, sự trong sáng và tính tương tự giáo khoa mà Saussure đã nói:
    Ngôn ngữ là hệ thống dấu hiệu diễn đạt các ý tưởng, vì thế có thể so sánh với viết, mẫu tự câm- điếc (alphabet of deaf-mutes), nghi thức biểu tượng, lễ giáo, tín hiệu quân sự, vân vân. Nhưng nó quan trọng nhất trong các hệ thống này. (Language is [comparable to] a system of signs that express ideas, and is therefore comparable to writing, the alphabet of deaf-mutes, symbolic rites, polite formulas, military signals, etc. But it is the most important of all these systems).
  7. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193

    (tiếp)
    Xa hơn, không phải ngẫu nhiên, trong 130 trang sau, ngay lúc lý giải sự khác biệt ngữ âm như điều kiện giá trị ngôn ngữ học (theo quan điểm vật chất ), ông ta lại phải mượn tất cả các nguồn sư phạm từ ví dụ viết:
    Do trạng thái đồng nhất của sự việc có thể được quan sát ở viết, một hệ thống dấu hiệu nữa mà ta sẽ sử dụng việc viết để rút ra vài so sánh chứng minh toàn bộ kết quả.
    Bốn khoản chứng minh, những mẫu hình vay mượn và nội dung viết theo sau.
    Rồi thì một lần nữa ta phải dứt khoát đưa Saussure đối chọi với chính ông. Trước khi được hoặc chưa ?ođược đánh dấu?, ?ođược đại diện?, ?ođược hình dung?, trong 1?ođồ họa?, dấu hiệu ngôn ngữ học hàm nghĩa 1 sự khởi nguồn viết. Từ nay về sau, không phải vì luận điểm về tính võ đoán của dấu hiệu mà tôi sẽ kháng cáo 1 cách trực tiếp, mà vì những gì Saussure đã kết hợp với nó như tương quan không thể thiếu mà dường như với tôi phần nào đặt cơ sở trước cho luận điểm về sự khác biệt như nguồn gốc giá trị ngôn ngữ học (the thesis of difference as the source of linguistic value). Theo quan điểm ngữ pháp học, hệ quả của đề tài này là giờ đây nó quá nổi tiếng (và dựa trên đó Plato đã phản ánh trong cuốn Nhà triết học, Sophist).
    Theo định nghĩa, sự khác biệt không bao giờ tự nó là sự phong phú hữu hình. Vì thế, sự cần thiết của nó mâu thuẫn với luận điệu về bản chất ngữ âm tự nhiên của ngôn ngữ. Cũng vì lẽ đó nó cạnh tranh với sự lệ thuộc được cho là tự nhiên của kí hiệu đồ họa.
    Đó là một hệ quả mà Saussure đã rút ra để chống lại những tiền đề định nghĩa nội hệ thống ngôn ngữ. Giờ ông ta phải loại trừ chính điều cho phép ông ta loại trừ viết: âm thanh và ?osự ràng buộc tự nhiên? của nó với nghĩa. Ví dụ: ?o cái kiến tạo ngôn ngữ là, như tôi sẽ chỉ sau, không liên quan đến đặc tính ngữ âm của dấu hiệu ngôn ngữ học?. Trong đoạn sau chỉ rõ sự khác biệt:
    Chẳng thể chỉ có âm thanh, yếu tố vật chất, thuộc về ngôn ngữ. Đó chỉ là thứ cấp, là thực thể được sử dụng. Mọi giá trị qui ước đều có đặc tính không bị xáo trộn với yếu tố hình thể được bổ sung?Dấu hiệu ngôn ngữ học?không phải là (về bản chất) ngữ âm nhưng vô hình ?" được kiến tạo không phải bởi thực thể vật chất mà là sự khác biệt tách riêng âm thanh ?" hình ảnh (sound-image) với tất cả các thứ khác. Thực thể lý tưởng hoặc ngữ âm mà 1 dấu hiệu chứa đựng kém quan trọng hơn những dấu hiệu bao quanh khác (It is impossible for sound alone, a material element, to belong to language. It is only a secondary thing, substance to be put to use. All our conventional values have the characteristic of not being confused with the tangible element which supports them. . . . The linguistic signifier . . . is not [in essence] phonic but incorporeal ?" constituted not by its material substance but the differences that separate its sound-image from all others. The idea or phonic substance that a sign contains is of less importance than the other signs that surround it)
    Không có sự qui giảm vấn đề ngữ âm này, sự khác biệt giữa ngôn ngữ và nói, dứt khoát đối với Saussure, sẽ không có tính nghiêm khắc. Sẽ là như nhau giữa các mặt đối lập nếu chúng kế thừa từ đó: giữa mật mã (code) và thông điệp (message), mẫu hình (pattern) và thường dụng (usage), vân vân. Kết luận: ?oÂm vị học (phonologythis) gánh chịu tính lặp lại ?" chỉ là một qui tắc phụ (của khoa học ngôn ngữ) và thuộc riêng về nói? (Phonologythis bears repeating ?" is only an auxiliary discipline [of the science of language] and belongs exclusively to speaking).
    Nói vì thế đã rút ra từ vốn viết, ngôn ngữ, và ở đây ta phải suy ngẫm về sự đồng lõa giữa 2 ?otính chất ổn định? này. Sự qui giảm ngữ âm bộc lộ sự đồng lõa này. Những gì Saussure nói, ví dụ, về dấu hiệu nói chung và những gì ông ta ?okhẳng định? qua ví dụ về viết, cũng có tác dụng với ngôn ngữ: ?oCác dấu hiệu bị khống chế bởi nguyên tắc dấu hiệu học tổng quát: tính liên tục được kết hợp để thay đổi đúng lúc; điều này được khằng định bởi hệ thống chính tả (phép chiếu trực giao), việc nói ở thể câm-điếc (deaf-mutes), vân vân.?
    Sự qui giảm về bản chất ngữ âm vì thế không chỉ cho phép sự khác biệt giữa một mặt là ngữ âm (nốt căng âm thanh hoặc sinh lý học (physiology), cơ quan phát âm) và mặt kia là âm vị học (phonology). Nó cũng biến chính âm vị học thành một ?oqui tắc phụ? (auxiliary discipline). Đây là hướng mà Sausure chỉ ra, đưa ta xa rời chủ nghĩa ngữ âm (phonologism) của những kẻ cho là đồng ý với ông ta ở điểm này: quả thật, Jakobson cho rằng dửng dưng với bản chất ngữ âm trong biểu cảm là không thể và không logic (Jakobson believes indifference to the phonic substance of expression to be impossible and illegitimate).
    Vì thế ông ta phê phán ngữ vị học (glossematic) ?" của Hjelmslev, đòi hỏi và thực hành việc làm mất tác dụng bản chất ấn tượng âm thanh này. Trong văn bản trích dẫn ở trên, Jakobson và Halle duy trì ?ođòi hỏi lý thuyết? trong nghiên cứu bản chất ấn tượng âm thanh không thể thay thế này (như nội dung theo kinh nghiệm và liên tưởng) là:
    1. Tính không thể thực thi (impracticable), vì:?người ta chú ý đến bản chất kêu vang trong các bước phân tích? (the sonorous substance [is taken into account] at every step of the analysis) (Jakobson và Halle). Nhưng đó có phải là ?otính không nhất quán khó chịu? (troubling discrepancy) như Jakobson va Halle đã nói? Ta có thể xem xét nó như 1 sự kiện có vai trò 1 ví dụ, như các nhà hiện tượng học luôn cần đến, luôn giữ nó trong tầm, như nội dung theo kinh nghiệm điển hình trong việc hiểu bản chất mà đúng ra không phụ thuộc vào nó?
    2. Tính không thể chấp nhận (inadmissible) trong nguyên tắc vì ta không thể xem dạng ngôn ngữ lấy bản chất bất biến (constant) đối lập với tính biến thiên (variable). Trong khi chứng minh thứ 2 mà cách thức Saussure đúng là tái xuất hiện trong phạm vi vấn đề quan hệ giữa nói và viết; trật tự viết là trật tự bề ngoài ?ovô thường? (occasional), ?ophụ trợ?(auxialiary), ?okí sinh?(parasitic). Lập luận của Jakobson và Halle gợi mở về một căn nguyên thực sự và viện dẫn đến tính chất thứ cấp của việc viết trong ý thức thông thường:?Chỉ sau khi đã nắm vững việc nói ta mới chuyển dần sang đọc và viết? (Only after having mastered speech does one graduate to reading and writing) Thậm chí định đề ý thức chung này được chứng minh chặt chẽ - điều mà tôi không tin (vì mỗi khái niệm của nó ấp ủ những vấn đề rộng lớn) - ta sẽ còn phải tiếp nhận sự đảm bảo thích đáng của nó trong lập luận. Thậm chí ?osau khi? ở đây là sự đại diện dung dị, nếu ta biết rõ những gì ta nghĩ và phát biểu khi chắc rằng ta học viết sau khi đã học nói, thì liệu có đủ để kết luận những gì kéo theo ?osau khi? ấy là kí sinh? Và kí sinh là gì? Và là gì nếu viết đúng là khiến ta xem xét lại logic của ta về kí sinh ?
    Trong 1 đoạn phê bình khác, Jakobson và Halle gợi đến sự bất hoàn hảo của đại diện đồ họa; sự bất hoàn hảo đó là do ?osự khác biệt chính yếu sắp xếp theo mẫu tự và âm vị? (the cardinally dissimilar patterning of letters and phonemes):
    Mẫu tự không bao giờ, hoặc chỉ do thiên vị, tái sinh sự khác biệt làm cơ sở cho các hoa văn mang tính âm vị và luôn bất chấp quan hệ mang tính cấu trúc của những khác biệt này (Letters never, or only partially, reproduce the different distinctive features on which the phonemic pattern is based and unfailingly disregard the structural relationship of these features.)
    Như tôi đã đề xuất ở trên: phải chăng tính không đồng dạng triệt để giữa 2 yếu tố - đồ họa và ngữ âm ?" đã loại trừ nguồn gốc? Phải chăng tính không thích đáng về đại diện đồ họa chỉ liên quan đến viết mẫu tự thông thường, mà chủ nghĩa hình thức ngữ vị về cơ bản không tham chiếu đến?
    Sau cùng, nếu ta chấp nhận tất cả các lập luận mà các nhà ngữ âm đã trình bày thì vẫn phải thừa nhận rằng họ lấy khái niệm?o khoa học? về từ nói (spoken word) chống lại khái niệm viết thông tục. Điều tôi muốn trình bày là ta không thể loại trừ viết khỏi kinh nghiệm tổng quát về ?oquan hệ mang tính cấu trúc của những nét cá biệt này? (the structural relationship of these features). Dĩ nhiên, đó cũng chỉ là sửa đổi khái niệm viết.
    Tóm lại, nếu những nhà phân tích phái Jakobson trung thành với Saussure trong vấn đề này, hẳn là đặc biệt với Saussure ở chương VI ? Trong chừng mực nào Saussure đã duy trì tính không chia cách của vấn đề và hình thức, mà đó vẫn là lập luận quan trọng nhất của Jakobson va Halle ?
    Vấn đề có thể được lặp lại trong trường hợp vị trí của Andre Martinet trong cuộc tranh luận này, người mà theo chương VI trong ?oGiáo trình? (Course) đối với mẫu tự. Và chỉ ở chương VI mà Martinet đã phân ly rạch ròi học thuyết, trong ?oGiáo trình?, về những điều làm lu mờ tính ưu tiên thực chất ngữ âm (phonic substance).
  8. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    (tiếp)
    Sau khi đã lý giải tại sao ?omột ngôn ngữ chết với chữ tượng ý hoàn chỉnh? (a dead language with a perfect ideography) là nói về việc truyền thông hiệu quả qua hệ thống chữ viết được tổng quát hóa, ?okhông thể có 1 tự do ý chí thực sự nào?, tuy nhiên tại sao ?omột hệ thống như thế là một thứ quá cá biệt mà ta có thể hiểu rõ tại sao các nhà ngôn ngữ muốn loại trừ nó khỏi lĩnh vực khoa học của họ?(such a system would be something so particular that one can well understand why linguists want to exclude it from the domain of their science), Martinet đã phê phán những kẻ, theo một khuynh hướng nào đó của Saussure, đặt vấn đề chính yếu về tính cách ngữ âm của dấu hiệu ngôn ngữ học:
    Sẽ phải cố gắng hơn nữa chứng minh rằng Saussure đúng khi ông tuyên bố ?ocái kiến tạo nên ngôn ngữ không?liên hệ đến tính chất ngữ âm của dấu hiệu ngôn ngữ học? và, xa hơn lời dạy ấy, ta có thể nói dấu hiệu ngôn ngữ học không nhất thiết phải có tính chất ngữ âm.
    Ở tại điểm này, nó không phải là vấn đề ?oxa rời? lời dạy của bậc thầy mà là đi theo và tiếp nối nó. Không làm gì nó là bám giữ điều Saussure ở chương VI đặc biệt giới hạn việc nghiên cứu hình thức và cấu trúc và phủ nhận những khám phá chí ít đáng ngờ học thuyết Saussure. Để tránh ?oxa rời?, ta sẽ mạo hiểm trở lại điểm thiếu sót này.
    Tôi tin rằng việc viết được tổng quát hóa không phải chỉ là ý tưởng một hệ thống được phát minh, một đặc điểm giả thiết hoặc một khả năng tương lai. Tôi nghĩ ngược lại ngôn ngữ nói hẳn thuộc về viết. Nhưng điều đó bao hàm việc bổ sung khái niệm viết mà ta nhất thời tiên liệu.
    Thậm chí nếu cho rằng ta không có khái niệm bổ sung, rằng ta đang xem xét 1 hệ thống thuần túy viết như 1 giả thiết về sau hay 1 giả thiết cơ bản, đối mặt với giả thiết đó, liệu nhà ngôn ngữ có từ chối chính mình phương tiện nghĩ suy và tổ hợp công thức về nó trong hàm ngôn lý thuyết của mình không ?
    Phải nhận ra rằng quan hệ song song giữa ?ongôn ngữ ngón tay? (dactylology) và ngữ âm này là hoàn toàn nằm trong tài liệu đồng đại không khác gì lịch đại, và thuật ngữ ấy kết hợp cái sau có thể được sử dụng cho cái trước, dĩ nhiên trừ khi thuật ngữ đó tham chiếu đến bản chất ngữ âm.
    Rõ ràng, nếu ta không khao khát loại trừ các hệ thống viết mà ta vừa hình dung khỏi lĩnh vực ngôn ngữ học, quan trọng nhất là bổ sung thuật ngữ truyền thống liên quan đến tính khớp nối ngữ âm của kí hiệu (articulation of signifiers) để loại trừ tất cả sự tham chiếu đến bản chất ngữ âm; như Louis Hjelmslev làm khi ông sử dụng từ ?oceneme? và ?ocinematics? thay vì ?ophoneme? và ?ophonematics?.
    Mặc dù dễ hiểu là đa số các nhà ngôn ngữ học do dự bổ sung một cách hoàn chỉnh cho tòa nhà thuật ngữ học truyền thống chỉ vì thuận lợi lý thuyết là có thể bao hàm luôn lĩnh vực khoa học của họ vài phương thức giả định thuần túy. Để khiến họ đồng ý cam kết một cuộc cách mạng như thế, họ phải chấp nhận là, trong các hệ thống ngôn ngữ học được chứng thực, họ không có thuận lợi trong việc xem xét bản chất ngữ âm của các đơn vị biểu đạt như đối với lợi ích trực tiếp.

    Một lần nữa, ta không nghi ngờ giá trị những lập luận về âm vị học này, là các giả định theo sau mà tôi đã cố gắng phơi bày ở trên. Một khi ta thừa nhận những lập luận này thì sẽ là ngớ ngẩn khi ta lại lúng túng đưa việc viết phát sinh vào, trong khu vực ngôn ngữ nói và trong phạm vi hệ thống phát sinh đó. Không chỉ là không tránh được chủ nghĩa vị chúng (ethnocentrism), mà tất cả đồn lũy trong phạm vi ảnh hưởng hợp pháp của nó khi đó cũng sẽ trở nên xáo trộn.
    Nó không phải là vấn đề phục hồi viết trong ý thức hạn hẹp, cũng không phải đảo ngược trật tự tính lệ thuộc khi nó là hiển nhiên. Chủ nghĩa âm vị không cho phép bất cứ đối tượng nào chừng nào ta còn bảo tồn những khái niệm nói và viết thông tục, những cái tạo nên cơ cấu lập luận vững chắc của chúng. Những khái niệm thông tục thường ngày, có ở ta ?" một cách đủ không mâu thuẫn ?" ngoài một lịch sử cũ, được giới hạn bởi những đồn lũy khó mà thấy được mặc mọi khắt khe của chính lập luận đó.
    Tôi có phần muốn gợi ý tính chất được cho là phát sinh của việc viết, tuy thực sự và đồ sộ, chỉ có thể với một điều kiện: là ngôn ngữ ?onguyên thủy?, ?otự nhiên?, vân vân, chưa bao giờ tồn tại, chưa bao giờ trinh nguyên mà việc viết chưa đả động đến, bản thân ngôn ngữ vẫn luôn là viết. Những khái niệm mới về nguồn gốc viết tôi muốn phác họa ở đây tôi sẽ tiếp tục gọi là viết chỉ vì nó chủ yếu liên thông với khái niệm viết thông tục.
    Cái sau đã không thể áp đặt chính nó về mặt lịch sử ngoại trừ bởi việc che đậy nguồn gốc viết, bởi khát khao thay thế mặt kia, bản sao và tác dụng của nó bởi tiếng nói để giảm bớt sự khác biệt. Nếu tôi cứ khăng khăng gọi viết là sự khác biệt thì cũng bởi trong việc ngăn chặn về mặt lịch sử, viết là, trong hoàn cảnh của nó, dành để biểu thị sự khác biệt lớn lao nhất. Nó đe dọa khát vọng nói năng ở ngay lân cận gần nhất, nó phá vỡ việc nói năng trong phạm vi và ngay lúc khởi đầu. Như ta bắt đầu thấy, ta không thể nghĩ về sự khác biệt mà không có các dấu tích (trace).
    Nguồn gốc viết (arche-writing) này, mặc dù khái niệm của nó được viện dẫn bởi chủ tố ?osự võ đoán của dấu hiệu? và sự khác biệt, không thể và sẽ không bao giờ được xem như đối tượng một khoa học (the object of a science). Chính nó đã không thể khiến nó qui về một hình thức hiện diện (presence). Cái sau chi phối mọi tính khách quan của đối tượng và mọi quan hệ tri thức. Đấy là tại sao tôi đã bị lôi cuốn vào việc xem sự mở rộng của Course (Giáo trình) như ?otiến bộ? (progress), đáp lại sự nghi ngờ về những luận điểm phi phê phán ở chương VI, chưa bao giờ mở màn cho một khái niệm?okhoa học? viết mới. Ta có thể nói như thế với chủ nghĩa đại số (algebraism) Hjelmslev, mà không còn nghi ngờ gì rút ra những kết luận nghiêm khắc nhất từ tiến bộ trên?
    Cuốn ?oNguyên lý ngữ pháp tổng quát? (Principle de grammaire générale) (1928) đã phân chia trong phạm vi học thuyết của cuốn ?oGiáo trình? (Course) nguyên lý âm vị và nguyên lý khác biệt: nó cô lập một khái niệm hình thức cho phép phân biệt giữa khác biệt hình thức và khác biệt ngữ âm, thậm chí trong phạm vi ngôn ngữ ?onói? (spoken). Ngữ pháp độc lập với ngữ nghĩa học và âm vị học (Grammar is independent of semantics and phonology).
    Sự độc lập đó chính là nguyên lý ngữ vị học, như là khoa học hình thức của ngôn ngữ. Hình thức của nó giả định rằng ?okhông có sự kết nối cần thiết giữa âm thanh và ngôn ngữ? (there is no necessary connection between sounds and language, trong ?oNguyên lý âm vị học?). Chính hình thức đó là điều kiện phân tích chức năng thuần túy. Ý tưởng về chức năng ngôn ngữ học và đơn vị ngôn ngữ học thuần túy ?" ngữ vị (glosseme) - khi đó loại trừ không chỉ việc xem xét thực chất biểu đạt (thực chất vật chất) mà còn thực chất nội dung (thực chất phi vật chất)
    Vì ngôn ngữ là hình thức, không phải thực chất (Saussure), ngữ vị theo định nghĩa độc lập về thực chất, phi vật chất (ngữ nghĩa, tâm lý và logic) và vật chất (ngữ âm, đồ họa, vân vân) (Hjelmslev và Uldall). Việc nghiên cứu chức năng ngôn ngữ, vai trò của nó, bao hàm thực chất ý nghĩa và, giữa những thực chất khả dĩ khác, thực chất âm thanh, được đặt xem kẽ nhau. Tính đồng nhất âm thanh và đồng nhất ý thức ở đây quả thực, như tôi đưa ra ở trên, tái đảm bảo kết thúc việc hoạch định.
    Hjelmslev đặt khái niệm riêng về việc phối hợp hay vai trò ngôn ngữ trong phạm vi di sản chủ nghĩa hình thức Saussure và lý thuyết giá trị của ông ta. Mặc dù ông tham chiếu đến việc so sánh giá trị ngôn ngữ học với ?ogiá trị hoán đổi trong khoa học kinh tế? (value of exchange) hơn là ?ogiá trị logic-toán thuần túy? (pure logico-mathematical value), ông chỉ định một giới hạn cho sự tương đồng này:
    Một giá trị kinh tế theo định nghĩa là một giá trị có 2 mặt: nó không chỉ đóng vai trò không đổi đối với đơn vị tiền tệ cụ thể, mà còn có vai trò biến thiên đối với số lượng hàng hóa cố định thỏa mãn nó như 1 tiêu chuẩn. Mặt khác trong ngôn ngữ học không có gì tương ứng với 1 tiêu chuẩn. Đó là tại sao là trò chơi cờ mà không phải là sự việc kinh tế là hình ảnh ngữ pháp chung thủy nhất còn lại ở Saussure. Sự phối hợp ngôn ngữ phân tích tận cùng là một trò chơi, không là gì hơn (An economic value is by definition a value with two faces: not only does it play the role of a constant vis-á-vis the concrete units of money, but it also itself plays the role of a variable vis-á-vis a fixed quantity of merchandise which serves it as a standard. In linguistics on the other hand there is nothing that corresponds to a standard. That is why the game of chess and not economic fact remains for Saussure the most faithful image of a grammar. The scheme of language is in the last analysis a game and nothing more. [Langue et parole, Essais linguistiques]).
  9. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193

    (tiếp)
    Trong cuốn ?oLời tựa một lý thuyết ngôn ngữ? (Prolegomena to a Theory of language, 1943), công bố sự đối lập biểu đạt/nội dung (expression/content) mà ông thay thế cho sự khác biệt kí hiệu/được kí hiệu (signifier/signified), trong đó mỗi thuật ngữ có thể được xem xét từ quan điểm hình thức hoặc thực chất, Hjelmslev phê phán ý tưởng một ngôn ngữ ràng buộc tự nhiên với thực chất biểu đạt ngữ âm (substance of phonic expression). Do sơ suất mà cho đến nay người ta vẫn xem ?ovề thực chất - biểu đạt ngôn ngữ nói bao gồm âm thanh? (the substance-expression of a spoken language should consist of ''sounds'').
    Vì thế, như Zwirners đã đặc biệt chỉ ra, việc nói đã không được lưu ý, và các thành phần nói nào đó có thể được thay thế bởi cử chỉ, và trên thực tế, theo Zwirners, không chỉ có cái gọi là cơ quan nói (cổ, miêng, và mũi), mà gần như mọi cơ vân cùng hợp tác trong việc rèn luyện ngôn ngữ ?otự nhiên?. Hơn nữa, có thể thay thế thực chất âm thanh-và-cử chỉ (sound- and- gesture) thông thường bằng bất cứ những thứ khác vốn dĩ thích hợp trong những ngoại tình huống thay đổi.
    Do vậy cùng 1 dạng ngôn ngữ học có thể được biểu thị trong viết, như với kí hiệu ngữ âm hoặc âm vị và với cái gọi là phép chiếu trực giao hay chính tà ngữ âm (phonectic orthographies), như ví dụ về tiếng Phần Lan. Ở đây là thực chất ?ođồ họa? như nó vẫn được gọi riêng biệt như thế và không cần phải hoán chuyển sang ?othực chất? ngữ âm để thấu hiểu. Và ?othực chất? đồ họa này có thể, chính xác theo quan điểm về thực chất, chỉ toàn những thứ hỗn tạp.

    Từ chối giả định về thực chất ?ophát sinh? (derivation) theo sau thực chất biểu đạt ngữ âm, Hjelmaslev đặt vấn đề này ra ngoài phạm vi phân tích cấu trúc và ngôn ngữ học.
    Hơn nữa nó không luôn là những gì có nguồn gốc và không nguồn gốc; ta không được quên rằng khám phá viết chữ theo mẫu tự được che dấu trong tiền lịch sử (prehistory). Bertrand Russell rất đúng khi kêu gọi chú ý đến việc ta không có phương tiện quyết định khi nào viết hoặc nói là hình thức biểu đạt có trước. Một đề cương triết học, để điều khẳng định dựa trên phân tích ngữ âm chỉ là một giả thiết có khả năng lịch lại; có thể, cũng dựa trên phân tích hình thức cấu trúc ngôn ngữ học. Nhưng trong bất cứ trường hợp nào, như ngôn ngữ học hiện đại thừa nhận, việc xem xét lịch đại không liên quan đến các mô tả đồng đại.
    H.J. Uldall đưa ra một trình bày đáng chú ý việc chủ nghĩa phê phán ngữ vị học có tác dụng đồng thời vừa dựa trên vừa chống lại Saussure; như tôi đã nói ở trên, không gian thích hợp của ngữ pháp học đồng thời mở và đóng đều từ cuốn ?oGiáo trình ngôn ngữ học tổng quát? (The course of general linguistics). Để chứng tỏ Saussure không phát triển ?otất cả các hệ quả lý thuyết khám phá của mình?, ông viết:
    Thậm chí quá tò mò khi ta xem các hệ quả thực tế đã được rút ra ít nhiều, quả thực đã có hàng nghìn năm trước Saussure, do chỉ qua khái niệm khác biệt giữa hình thức và thực chất mà ta có thể lý giải khá năng nói và viết tồn tại đồng thời như sự biểu đạt của một hoặc cùng 1 ngôn ngữ. Nếu một trong 2 thực chất này, dòng khí hay dòng mực (the stream of air or the stream of ink), là một phần tích hợp của chính ngôn ngữ, nó sẽ không thể đi từ cái này đến cái kia mà không có sự thay đổi ngôn ngữ.
    Không còn nghi ngờ là trường phái Copenhagen giải phóng 1 lĩnh vực nghiên cứu: trực tiếp chú ý không chỉ vào tính thuần túy của hình thức được giải phóng từ tất cả các ràng buộc ?otự nhiên? đối với 1 thực chất mà còn với tất cả, trong các địa tầng ngôn ngữ, những thứ phụ thuộc vào thực chất biểu đạt đồ họa. Sự mô tả được phân định nguyên thủy và nghiêm khắc này có thể có triển vọng. Hjelmslev thừa nhận rằng ?ophân tích viết mà không liên hệ đến âm thanh vẫn chưa được thực hiện? (an analysis of writing without regard to sound has not yet been undertaken).
    Trong khi hối tiếc về việc ?othực chất bút mực đã không nhận được cùng sự chú ý ở 1 bộ phận các nhà ngôn ngữ học khi mà họ đã quá hào phóng cho thực chất nước bọt? (the substance of ink has not received the same attention on the part of linguists that they have so lavishly bestowed on the substance of air). H.J Uldall giới hạn những vấn đề này và nhấn mạnh đến tính độc lập tương hổ của cả 2 thực chất biểu đạt này. Ông ta đặc biệt minh họa nó với sự việc là, trong phép chiếu trực giao hay chính tả (orthography), không có tự vị (grapheme) tương ứng với trọng âm phát âm (accent of pronunciation, với Rousseau đây là nỗi khổ, và là sự trói buộc đối với viết) và một cách tương hỗ, trong phát âm, không có âm vị (phoneme) tương ứng với khoảng cách các từ viết.
    Thừa nhận đặc trưng của viết, ngữ vị học (glossematics) không đơn thuần trao cho chính nó phương tiện mô tả yếu tố đồ họa. Nó chỉ cách làm thế nào đạt được yếu tố văn học, đến cái mà văn học đã trải qua văn bản đồ họa 1 cách tối giản, phân loại vai trò hình thức đối với thực chất biểu đạt xác định.
    Nếu có điều gì đó trong văn học mà không cho phép chính nó qui giảm về tiếng nói, về sử thi hay thơ ca, ta không thể đoạt lại nó ngoại trừ bằng việc cách ly triệt để sự ràng buộc kết nối vai trò hình thức (play of form) với thực chất biểu đạt đồ họa (cũng vì lẽ ấy nó được xem như ?ovăn học thuần túy? (pure literature), vì thế được tôn trọng tối thiểu, cũng như có thể giới hạn vai trò của nó. Phải chăng mong muốn giới hạn vai trò là không thể cưỡng lại).
    Mối quan tâm về văn học này được chứng minh một cách thực tế trong trường phái Copenhagen. Nó tháo gỡ lời cảnh báo của Rousseau và Saussure về nghệ thuật văn học. Nó cấp tiến hóa nỗ lực của những nhà hình thức học Nga, đặc biệt là O.PO.IAZ, những người chú ý đến tồn tại-viết-đọc (being-literacy) trong văn học, có lẽ họ ủng hộ trường hợp âm vị học và mô hình văn học mà nó chi phối, nhất là thơ ca.
    Nghĩa là trong phạm vi lịch sử và cấu trúc văn bản văn học nói chung, nó tránh được khuôn khổ ấy, xứng đáng là một thể loại mô tả mà tiêu chuẩn và điều kiện về khả năng ngữ vị học có lẽ được phân lập tốt hơn. Cũng có lẽ nó đã được chuẩn bị kỹ hơn để nghiên cứu về các địa tầng đồ họa thuần túy trong phạm vi cấu trúc văn bản văn học về lịch sử tính khả dĩ-viết-đọc (becoming-litaracy) trong văn học, nhất là ở ?otính hiện đại?(modernity) của nó.
    Không còn nghi ngờ một lĩnh vực nghiên cứu mới và phong phú đã được mở. Nhưng tôi không quan tâm chú yếu đến quan hệ song song hoặc sự bình đẳng có được về thực chất biểu đạt như thế. Rõ ràng là nếu thực chất ngữ âm đánh mất sự ưu tiên thì lợi thế không là của thực chất đồ họa, mà nó sẽ thích hợp với cùng một sự thay thế. Trong phạm vi mà nó giải phóng và không thể phủ nhận, ngữ vị học vẫn có tác dụng với khái niệm viết phổ biến.
    Tuy nhiên, với tính nguyên thủy và tối giản, ?ohình thức biểu đạt? (form of expression) tương quan với ?othực chất biểu đạt? (substance of expression) đồ họa vẫn còn rất riêng biệt. Nó mang tính lệ thuộc và phát sinh từ nguồn gốc viết mà tôi đã nói. Nguồn gốc viết này không chỉ có tác dụng trong hình thức và thực chất của biểu đạt đồ họa (graphic expression) mà còn trong những biểu đạt phi-đồ họa (non-graphic expression).
    Nó kiến tạo không chỉ các mẫu hợp thành hình thức cho mọi thực chất, đồ họa hay ngược lại mà còn là sự vận động của dấu hiệu-chức năng (sign-function) kết nối nội dung với sự biểu đạt, dù đó là đồ họa hay không. Đề tài này không thể có vị trí trong hệ thống Hjelmslev.
    Đó là do viết nguyên thủy (arche-writing), sự vận động khác biệt, nguồn gốc tổng hợp tối giản, mở rộng trong cùng khả năng, tạm thời cũng như quan hệ với mặt kia và ngôn ngữ, không thể, như điều kiện cho tất cả các hệ thống ngôn ngữ học, thiết lập một bộ phận của chính hệ thống ngôn ngữ học và được định vị như đối tượng trong lĩnh vực này (không có nghĩa nó có 1 lĩnh vực thực sự ở 1 nơi, 1 vị trí chuyển nhượng khác).
    Khái niệm của nó không thể nào làm giàu khoa học, thực chứng, và ?onội tại? (immanent, trong ý thức Hjelmslev) mô tả chính hệ thống đó. Do đó, người sáng lập ngữ vị học không còn nghi ngờ đặt vấn đề về sự thiết thực của nó, như những vật thải loại, gộp toàn bộ lại và hợp pháp hóa, mọi lý thuyết ngôn ngữ học cần thiết mà không phát sinh từ nội tại tối giản của hệ thống ngôn ngữ học. Ông ta hẳn đã nhìn thấy trong ý niệm đó một trong những lời kêu gọi trải nghiệm mà lý thuyết đã bỏ qua. Ông ta hẳn đã hiểu tại sao cái tên viết tiếp tục ?" được sử dụng cho ẩn số X đó đã trở nên quá khác biệt so với những gì luôn được gọi là ?oviết?.
    Tôi đã bắt đầu chứng minh từ này, đặc biệt sự thiết yếu truyền thống giữa khái niệm nguồn gốc - viết và khái niệm viết thông tục đã trải qua giải cấu trúc (deconstruction). Tôi sẽ tiếp tục công việc sau này. Khái niệm trải nghiệm ở đây là điều khó sử dụng nhất. Như mọi ý niệm tôi sử dụng ở đây, nó thuộc về lịch sử siêu hình học và ta có thể chỉ sử dụng nó với dấu xóa (erasure). ?oTrải nghiệm? luôn thiết kế quan hệ với sự hiện diện, dù quan hệ đó là hình thức ý thức hay không.
    Trong bất cứ trường hợp nào ta phải, tùy theo kiểu xoắn (sort of contortion) và luận điểm mà hàm ngôn bắt buộc phải trải qua, làm cạn kiệt các khái niệm trải nghiệm trước khi đạt được và để đạt được, bằng giải cấu trúc, nền tảng tối hậu (ultimate foundation). Đó là cách duy nhất đồng thời thoát khỏi phê phán trải nghiệm mang tính ?ochủ nghĩa kinh nghiệm? (empiricism) và ?ongây thơ? (naïve).
  10. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193

    (tiếp)
    Vì thế, ví dụ, trải nghiệm mà ?olý thuyết? của nó, theo Hjelmslev, ?ophải độc lập? thì không phải trải nghiệm trọn vẹn. Nó luôn tương ứng với 1 loại trải nghiệm thực sự và khu vực nào đó (lịch sử, tâm lý, sinh lý học, xã hội học, vân vân), bắt nguồn cho 1 khoa học mà chính nó vừa đồng thời vừa hoàn toàn nằm ngoài ngôn ngữ học. Đó cũng chẳng phải trường hợp trải nghiệm như với nguồn gốc viết.
    Khoảng cách các khu vực trải nghiệm hay toàn bộ trải nghiệm tự nhiên phải tìm ra lĩnh vực trải nghiệm tiên nghiệm. Trải nghiệm này chỉ có thể, như Hjelmslev, sau khi đã cách ly đặc trưng hệ thống ngôn ngữ học và ngăn chặn tất cả khoa học ngoại nhập và các suy đoán siêu hình học, ta đặt vấn đề về tính nguyên thủy tiên nghiệm của chính hệ thống, như hệ thống các đối tượng của một khoa học, và, một cách tương quan, của hệ thống lý thuyết nghiên cứu nó: đây là hệ thống khách quan và ?odiễn dịch? (deductive) mà ngữ vị học muốn trở thành.
    Không có nó, quá trình quyết định hoàn tất từ chủ nghĩa hình thức, với sự tôn trọng tính nguyên thủy của đối tượng, của ?ohệ thống nội tại những đối tượng? (the immanent system of its objects) của nó, sẽ bị quấy nhiễu bởi chủ nghĩa khách quan khoa học, theo một thứ siêu hình học vô cảm hoặc ngoan cố. Đây cũng là điều thường được chú ý trong công trình của trường phái Copenhagen. Đó cũng là để thoát khỏi việc rơi trở lại chủ nghĩa khách quan chất phác và tôi thích điều tiên nghiệm hơn sẽ được xem xét ở 1 nơi khác.
    Vì tôi tin rằng có sự loại trừ và xa rời chủ nghĩa phê phán tiên nghiệm. Để hiểu là sự xa rời không trở lại phạm vi thừa nhận 1 cách méo mó sự thiết yếu của một đường mòn. Con đường đó phải để lại dấu vết (track) trong văn bản. Có dấu vết ấy, bị bỏ rơi vào nội dung giản đơn của những kết luận của nó, văn bản siêu-tiên nghiệm (ultra-transcendental) sẽ gần như rập khuôn với văn bản tiền phê phán, không thể so sánh được.
    Giờ ta phải thiết lập và trù tính qui luật sự rập khuôn này. Cái tôi gọi là dấu xóa các khái niệm (erasure of concepts) phải ghi dấu các vị trí sự trù tính tương lai này. Ví dụ, giá trị nguồn gốc tiên nghiệm phải khiến cho tính thiết yếu của nó được cảm nhận trước khi để bị xóa. Khái niệm nguồn gốc-dấu tích (arche-trace) phải tuân theo cả hai: sự thiết yếu và sự gạch xóa. Quả thật mâu thuẫn và không thể chấp nhận trong phạm vi logic đồng nhất (logic of identity)
    Dấu tích không chỉ là sự biến mất của căn nguyên ?" trong phạm vi hàm ngôn mà ta duy trì và theo lối mòn mà ta theo nó, có nghĩa là căn nguyên thậm chí không biến mất, mà nó chưa bao giờ được kiến tạo ngoại trừ 1 cách tương hỗ với tính phi-căn nguyên (non-origin), dấu tích, vì thế trở thành căn nguyên của căn nguyên. Từ đó, làm sai lệch khái niệm dấu tích từ sự phối hợp cổ điển, mà sẽ phát sinh nó từ sự hiện diện hoặc từ căn nguyên phi-dấu tích (non-trace) và tạo nhãn mác chủ nghĩa kinh nghiệm, ta thực phải nói về một dấu tích nguyên thủy hoặc nguồn gốc-dấu tích (arche-trace).
    Mặc dù ta biết rằng khái niệm đó phá hủy tên của nó và nếu tất cả bắt đầu với dấu tích, trên hết thì vẫn không có dấu tích nguyên thủy. Khi đó ta phải định vị, như khoảnh khắc giản đơn hàm ngôn, sự qui giảm hiện tượng học và sự tham chiếu Husserl đến trải nghiệm tiên nghiệm. Nói chung đối với sự mở rộng khái niệm trải nghiệm ?" và với trải nghiệm tiên nghiệm, đặc biệt với Husserl ?" vẫn bị chi phối bởi chủ tố hiện diện, nó lôi cuốn vào sự vận động qui giảm của dấu tích.
    ?oHiện tại Sống động? (The Living Present) là hình thức trải nghiệm tiên nghiệm chung và tuyệt đối mà ta tham khảo ở Husserl. Trong các mô tả vận động trì hoãn (movement of temporalisation), tất thảy những điều không động chạm đến tính giản đơn và tính thống trị của hình thức dường như chứng tỏ quá đủ để hiện tượng học tiên nghiệm thuộc về siêu hình học. Nhưng nó phải đến những giới hạn do tác dụng gián đoạn.
    Trong sự trì hoãn và vận động nguyên thủy của mối quan hệ với bên ngoài, như Hussurl thực tế đã mô tả, tính phi-đại diện (nonpresentation or depresentation) là ?ocăn nguyên? cũng như sự đại diện. Đấy là tại sao tư tưởng về dấu tích có thể không còn tách rời khỏi hiện tượng học tiên nghiệm, hơn là qui giảm về nó. Đây hoặc kia, để đưa vấn đề trong thuật ngữ lựa chọn, để ép buộc hoặc để tin tưởng rằng chính ta bị ép buộc trả lời nó là có hoặc không, để hình dung sự phụ thuộc như lòng trung thành và không-phụ thuộc như tính chất phác, là làm xáo trộn chính các mức độ khác biệt, lối mòn hay phong cách. Trong việc giải cấu trúc nguồn gốc, ta không được lựa chọn.
    Vì thế tôi thừa nhận sự thiết yếu của việc xem xét tỉ mỉ khái niệm nguồn gốc-dấu tích. Làm thế nào sự thiết yếu đó hướng dẫn ta từ bên trong hệ thống ngôn ngữ ? Làm thế nào lối mòn dẫn ta từ Saussure đến Hjelmslev ngăn cấm ta tránh những dấu tích nguyên thủy ?
    Đoạn văn qua hình thức (form) là đoạn văn qua dấu khắc (imprint). Và ý nghĩa sự khác biệt nói chung sẽ dễ hiểu nếu tính đồng nhất của đoạn văn đôi ấy hiện rõ hơn.
    Trong cả 2 trường hợp, ta phải bắt đầu từ khả năng trung hòa thực chất ngữ âm.
    Mặt khác, yếu tố ngữ âm, thuật ngữ, sự phong phú được cho là dễ nhận biết sẽ không hiện ra như thế mà không có sự khác biệt hoặc đối lập đã tạo hình thức cho chúng. Đấy là ý nghĩa lời kêu gọi hiển nhiên nhất đến sự khác biệt như sự qui giảm thực chất ngữ âm.
    Ở đây sự xuất hiện và chức năng sự khác biệt giả định một sự tổng hợp nguyên thủy không được đặt trước bởi bất kỳ sự giản đơn tuyệt đối nào. Đấy hẳn là dấu tích nguyên thủy. Không duy trì đơn vị tối thiểu trải nghiệm thời gian, không dấu tích lưu giữ mặt kia, không sự khác biệt và không ý nghĩa nào xuất hiện.
    Đấy không phải là vấn đề sự khác biệt được kiến tạo ở đây, đúng hơn, trước tất cả xác quyết của nội dung, của sự vận động thuần túy tạo sự khác biệt. Dấu tích thuần túy là sự khác biệt (The pure trace is difference). Nó không phụ thuộc vào bất kỳ sự phong phú giác quan nào, âm thanh hay hình ảnh, ngữ âm hay đồ họa. Ngược lại, nó là điều kiện của sự phong phú đó.
    Mặc dù nó không tồn tại, mặc dù nó chưa bao giờ là một thực-tại (being-present) bên ngoài tất cả mọi sự phong phú, khả năng của nó bằng quyền lợi được đặt trước mọi thứ ta gọi là dấu hiệu (cái được kí hiệu/kí hiệu, nội dung/biểu đạt, vân vân), khái niệm hay hoạt động, động cơ hay giác quan. Sự khác biệt này vì thế không hợp lý hơn cái có thể nhận thức và nó cho phép sự khớp nối các dấu hiệu giữa chính chúng trong phạm vi cùng một trật tự trừu tượng ?" ví dụ 1 văn bản ngữ âm hay đồ họa ?" hoặc giữa 2 trật tự biểu đạt.
    Nó cho phép sự khớp nối nói và viết ?" trong ý thức thông tục ?" vì nó tạo lập sự đối lập siêu hình giữa sự hợp lý và cái có thể nhận thức, sau đó là giữa kí hiệu và được kí hiệu, biểu đạt và nội dung, vân vân. Nếu ngôn ngữ không sẵn có, trong ý thức đó, một sự viết, thì không có khả năng có ?oý niệm? phát sinh; và vấn đề cổ điển về mối quan hệ giữa nói và viết không thể phát triển. Dĩ nhiên, khoa học thực chứng về nghĩa có thể chỉ mô tả công trình và sự kiện về sự trì-biệt (differance), khả năng tạo sự khác biệt và sự hiện diện xác định.
    Không thể có 1 khoa học về chính sự khác biệt trong hoạt động của nó, như việc không thể có 1 khoa học về căn nguyên của chính sự hiện diện, hay chỉ là nói về sự phi-căn nguyên nào đó.
    Sự trì- biệt (differance) vì thế là đặc thù hình thức, nhưng mặt khác là dấu ấn-tồn tại của dấu ấn. Nó nổi tiếng vì Saussure phân biệt giữa ?oâm thanh-hình ảnh? (sound-image) và âm thanh khách quan. Ví thế ông ta tự cho cái quyền ?otối giản?, trong ý thức hiện tượng học và khoa học âm thanh vật lý vào lúc ông kiến tạo khoa học ngôn ngữ.
    Âm thanh-hình ảnh là cấu trúc hiện diện của âm thanh, là bất cứ thứ gì, trừ bản thân âm thanh. Nó là âm thanh-hình ảnh, được gọi là kí hiệu, duy trì cái tên được gán nghĩa không phải cho sự vật mà, chắc hẳn (nó được tối giản bởi hành động và chính ý tưởng ngôn ngữ), cho ?okhái niệm?, một ý niệm không hay lắm ở đây; ta có thể nói đó là lý tưởng của ý thức (ideality of the sense).
    .?oTôi đề xuất giữ lại từ ?odấu hiệu? (sign) để chỉ rõ cái toàn thể và để thay thế khái niệm âm thanh-hình ảnh tách biệt bởi cái được kí hiệu (signified) và kí hiệu (signifier)?. Âm thanh-hình ảnh là những gì được nghe (heard), không phải âm thanh được nghe mà là sự hiện-thính (being-heard) của âm thanh. Hiện-thính là hiện tượng mang tính cấu trúc và thuộc về trật tự cơ bản không giống với âm thanh thực trong cuộc sống. Ta không chỉ có thể chỉ phân chia sự tinh tế này mà còn với cả sự hỗn tạp mang tính quyết định tuyệt đối bằng sự qui giản hiện tượng học. Cái sau vì thế không thể thiếu đối với mọi phân tích hiện-thính, dù chúng có được thôi thúc bởi ngôn ngữ học, phân tâm học, hay những thiên kiến khác.

Chia sẻ trang này