1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Ngữ pháp học (hay khoa học viết). J. Derrida

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi Tran_Thang, 23/11/2008.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. van_oi

    van_oi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/08/2006
    Bài viết:
    2
    Đã được thích:
    0
    Chào Tran_Thang!
    Mình đang quan tâm tới Darrida vì trong đại học đang học về "Cái sự viết" (Schirftlichkeit), thiệt không dễ hiểu chút nào. Có phải cuốn sách bạn nói ở đây là "Grammatologie" không?
    Cuốn sách trong trường học mình dùng bản tiếng Đức, mù chết luôn và ước giá có bản tiếng Việt hay có ai giúp mình hiểu nội dung. Tran_Thang có thể giúp mình không?
    Text Tran_thang post ở đây có nhiều chỗ in nghiêng mình đọc không được.
    (Xin lỗi không biết xưng hô thế nào, đọc giọng văn nghiêm nghị của Tran_Thang thì mình nghĩ phải kêu Tran_Thang bằng bác?
  2. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    Chào bạn !
    Tôi khoảng ngoài băm, ít ngoại giao nên ít bạn bè, ai cũng có thể là bạn, miễn là hạp, không hạp không chơi...Tôi tìm hiểu cũng chỉ vì ...thích tìm hiểu. Bạn học ở Đức cơ ạ ? Đáng nể thật. Tôi lại là Việt kiều ...Campuchia, tôi cũng chẳng chịu thua ai.... Có lẽ chữ "tôi" nó tạo cảm tưởng nghiêm trang đấy thôi...
    Chính tôi cũng chưa hiểu hết, thậm chí dịch còn lủng củng, ví dụ như đoạn sau :
    ?oTôi đề xuất giữ lại từ ?odấu hiệu? (sign) để chỉ rõ cái toàn thể và để thay thế khái niệm âm thanh-hình ảnh tách biệt bởi cái được kí hiệu (signified) và kí hiệu (signifier)?. Âm thanh-hình ảnh là những gì được nghe (heard), không phải âm thanh được nghe mà là sự hiện-thính (being-heard) của âm thanh.
    ?oI propose to retain the word sign [signe] to designate the whole and to replace concept and sound-image respectively by signified [signifé] and signifier [signifiant].?
    Nên chữa lại là : "Tôi đề xuất giữ lại từ "dấu hiệu" để chỉ cái toàn thể và để thay thế khái niệm âm thanh-hình ảnh lần lượt bằng cái được kí hiệu kí hiệu"...
    Nguồn "Of grammatology" :
    http://www.marxists.org/reference/subject/philosophy/works/fr/derrida.htm
    Tôi đã tìm kiếm rồi, chưa thấy bản dịch tiếng Việt ...Bạn cứ nêu cụ thể ta cùng thảo luận.
    Được Tran_Thang sửa chữa / chuyển vào 16:08 ngày 21/01/2009
  3. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    (tiếp)
    Giờ thì ?oâm thanh-hình ảnh?, hiện diện c''''trúc của âm thanh, ?onội dung giác quan? (sensory matter) sống động và mang thông tin bởi k?Tbiệt, cái mà Hussrl định rõ là cấu trúc vật chất/hình vị (hylè/morphé), k?Tbiệt mọi hiện thực trần tục mà Saussure gọi là ?ohình ảnh tâm linh? (psychic image):?oCái sau (âm thanh-hình ảnh) không phải là âm thanh vật chất, một thứ vật lý thuần túy, mà là dấu ấn tâm lý của âm thanh, ấn tượng mà âm thanh tạo nên trong ý thức. Âm thanh-hình ảnh là những giác quan, và nếu tôi ngẫu nhiên gọi nó là ?ovật chất? (material), chỉ là trong ý thức ấy, và bằng cách phơi bày nó, với thuật ngữ kết hợp khác, k?Tniệm đó nói chung trừu tượng hơn? (The latter [the sound-image] is not the material sound, a purely physical thing, but the psychic imprint of the sound, the impression that it makes on our senses. The sound-image is sensors, and if I happen to call it ''''material,'''' it is only in that sense, and by way of opposing it, to the other term of the association, the concept, which is generally more abstract).
    Dù từ ?otâm linh? có lẽ không thuận tiện, trừ cho việc thực hành tính thận trọng hiện tượng học, thì tính nguyên thủy một khu vực nào đó đã được đánh dấu kỹ. Trước khi ch?Tminh nó, hãy lưu ý điều mà Jakobson và những nhà ng?Tngữ khác phê bình là ?oquan điểm trạng thái tính? (the mentalist point of view) là không cần thiết:
    Trong các tiếp cận đầu tiên, như Baudouin de Courtenay và tiếp sau, âm vị là âm thanh được tưởng tượng hoặc dự định, đối lập với âm thanh được phát ra như hiện tượng ?ongữ âm tâm lý? (psychophonetic) đối với một sự kiện ?ongữ âm vật lý? (physicphonectic). Nó là sự tương đương tâm lý mà âm thanh thể hiện ra bên ngoài.
    Dù ý niệm ?ohình ảnh tâm linh? (psychic image) được định nghĩa (theo tâm lý học tiền-hiện tượng về hình ảnh) từ nguồn cảm hứng tâm lý này, nó có thể được bảo vệ khỏi chủ nghĩa phê phán Jakobson bằng cách chứng minh: (i) nó có thể được bảo tồn mà không cần khẳng định ?onội ngôn (internal speech) của ta bị giới hạn đến những nét riêng biệt để đi đến loại trừ hình thể hay những nét không cần thiết? (ii) Phẩm chất tâm lý không còn nếu nó chỉ rõ một hiện thực tự nhiên, nội và không ngoại.
    Ở đây hiệu chỉnh của Husserl là tối cần thiết và biến đổi thậm chí tiền đề tranh luận. Hợp phần trải nghiệm sống thực sự, cấu trúc vật chất/hình vị (hyle/morphe) không phải là một hiện thực. Ví dụ như đối với đối tượng chủ ý và nội dung hình ảnh thì nó không thực sự thuộc về hoặc trần thế hoặc trải nghiệm sống, nó là hợp phần không thực của trải nghiệm sống. Hình ảnh tâm linh mà Saussure nói đến không phải là 1 nội thực (internal reality) sao chép 1 ngoại thực (external reality).
    Husserl, phê phán khái niệm ?ochân dung? này trong ?oIdee? cũng chỉ ra trong ?oKrisis? rằng làm thế nào hiện tượng học vượt qua đối lập tự nhiên mà từ đó tâm lý học và các khoa học khác tồn tại ?" giữa trải nghiệm?onội? và ?ongoại?. Do đó điều tối cần thiết là bảo tồn tính k?Tbiệt giữa âm thanh hiện diện (the appearing sound)diện mạo của âm thanh (the appearing of the sound) để thoát khỏi những nhầm lẫn xấu nhất và phổ biến nhất; và trong nguyên tắc có thể được mà không ?ocố gắng vượt qua tương phản giữa bất biến (invariance) và biến thiên (variability) bằng cách chỉ định cái trước là nội và cái sau là ngoại-trải nghiệm? (Jakobson).
    K?Tbiệt giữa bất biến và biến thiên không phân chia 2 khu vực với nhau, nó chia mỗi thứ trong phạm vi chính nó. Điều đó đủ biểu thị bản chất âm (phonè) không thể được đọc trực tiếp và trước tiên trong văn bản khoa học thông thường hay ngữ âm tâm lý-vật lý (psycho-physiophonetics).
    Khi đề phòng những điều này, ta sẽ nhận thấy trong khu vực đặc biệt của dấu ấn và dấu tích này, trong tính tạm thời trải nghiệm sống không thuộc t?Tgiới này hay ?ot?Tgiới kia?, không kêu vang hơn tỏa sáng, không thời khắc hơn thời điểm, thì k?Tbiệt sẽ xuất hiện giữa các yếu tố hay đúng hơn sản sinh ra chúng, khiến chúng lộ diện như thế và kiến tạo văn bản, những mắc xích và hệ thống các dấu tích.
    Những mắc xích và hệ thống này không thể phác thảo, trừ trong cơ cấu dấu tích hay dấu ấn. K?Tbiệt chưa được nghe đến giữa xuất hiện (appearing)diện mạo (appearance) hay giữa ?otrần thế? và ?otrải nghiệm sống? là điều kiện mọi k?Tbiệt và mọi dấu tích khác, và nó sẵn là 1 dấu tích. Khái niệm cuối vì thế là tuyệt đối và đúng lẽ ?ođứng trước? mọi vấn đề khó hiểu về sinh lý học liên quan dấu ấn tự nhiên (đvị chạm khắc) hoặc những mơ hồ siêu hình liên quan ý nghĩa hiện diện tuyệt đối mà dấu tích của nó được mở rộng đến việc giải mã.
    Dấu tích quả thật là căn nguyên tuyệt đối của ý thức nói chung. Nó khác gì lặp lại một lần nữa rằng không có căn nguyên tuyệt đối của ý thức nói chung. Dấu tích là k?Tbiệt dẫn đến hiển hiện và nghĩa. Dấu tích khớp nối với sống dựa trên không-sống (non-living), với căn nguyên mọi việc lặp, với căn nguyên lý tưởng, nó không lý tưởng hơn hiện thực, không dễ nhận thức hơn hiện hữu, không là ý nghĩa minh bạch hơn năng lực hồ đồ và không k?Tniệm siêu hình nào có thể mô tả nó.
    Vì nó là một nốt căng (fortiori) đứng trước dị biệt giữa các khu vực tri giác, trước âm thanh cũng như ánh sáng, liệu có 1 ý thức thiết lập 1 trật tự ?otự nhiên?, ví dụ giữa âm thanh-dấu ấn (sound-imprint) và dấu ấn hữu hình (visual imprint) ? Ta không nhìn thấy đồ ảnh (graphic image), ta không nghe được thính ảnh (acoustic image). Ta vẫn chưa nghe được k?Tbiệt giữa toàn thể các tính đồng nhất của tiếng nói. Và, k?Tbiệt trong chính những dấu khắc cũng vô hình.
    -------------------------------------------------
    Nhận xét :
    Vẫn có điều gì đó không ổn trong thuyết này, vì tác giả đi từ quan điểm ngữ âm. Vấn đề về ngữ âm và từ trong tiếng Việt còn phải bàn...Bạn không nên quá lệ thuộc vào thuyết này, nó có thể phá hủy cách đọc của bạn. Hãy thận trọng. (PT.)
    Được Tran_Thang sửa chữa / chuyển vào 09:52 ngày 03/02/2009
  4. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193

    Đính chính : Đoạn vàng trên xin chữa lại là : "...bằng cách đối lập với nó, đối với thuật ngữ kết hợp khác..."
    Tôi không phải chuyên nghiệp, thích dịch vì thích triết. Đôi khi vì quá chú trọng câu cú mà quên cả ý nghĩa của chúng
    ------------------------------------------------
    Bản lề (the hinge):
    Tôi cho rằng bạn mơ tìm 1 từ giản đơn để chỉ k?Tbiệt (difference) và khớp nối (articulation). Tôi đã tình cờ xác định nó trong từ điển Robert, đúng hơn, chỉ ra ý nghĩa đôi của nó. Từ đó là ?obản lề? (Pháp: brisure, Anh: hinge) ?" Khớp nối bản lề (hinged arculation) 2 dụng cụ gỗ - hay kim loại. Bản lề 1 con thoi? ?" Roger Laporte.
    Căn nguyên trải nghiệm kgian và tgian, k?Tbiệt viết, cơ cấu dấu tích, cho phép k?Tbiệt giữa kgian và tgian được khớp nối, xuất hiện đúng nghĩa, hài hòa trong trải nghiệm (hay đại loại, sống qua cùng 1 hình thể đích thực). Khớp nối này cho phép chuỗi đồ họa (hữu hình, có tính xúc giác, theo kgian) thích ứng, đôi khi 1 cách tuyến tính, với chuỗi nói (ngữ âm, theo tgian). Ta phải bắt đầu từ chính khả năng ban sơ tính khớp nối này. K?Tbiệt là khớp nối hữu âm (Difference is articulation).
    Đây là, quả thực, những gì Saussure nói, mâu thuẫn với chương VI:
    Vấn đề cơ quan phát âm (vocal apparatus) rõ ràng chiếm vị trí thứ 2 trong vấn đề ng?Tngữ. Một định nghĩa ng?Tngữ có tính khớp nối hữu âm (articulated language) có lẽ khẳng định kết luận trên. Trong tiếng Latin, ?oarticulus? nghĩa là thành viên, bộ phận hay phân đoạn phối hợp; áp dụng cho nói, khớp nối chỉ định hoặc phân đoạn chuỗi nói là các âm tiết (syllable) hoặc phân đoạn chuỗi ý nghĩa là các đvị tạo nghĩa (significant units)?Sử dụng định nghĩa thứ 2, ta có thể nói những gì là tự nhiên đ?Tvới nhân loại không phải ng?Tngữ nói mà là khả năng cấu trúc 1 ng?Tngữ; v?Tdụ: 1 hệ dấu hiệu riêng biệt, tương ứng những ý tưởng riêng biệt.
    Ý tưởng ?odấu ấn tâm linh? (psychic imprint) do đó liên quan chủ yếu ý tưởng khớp nối hữu âm. Không có k?Tbiệt giữa hiện hữu giác quan và hiện hữu sống động (hay ?odấu ấn tinh thần?), sự tổng hợp tạm thời, cho phép dị biệt xuất hiện trong chuỗi tạo nghĩa, không thể hoạt động. ?oDấu ấn? là phương tiện tối giản cũng như nói là tính bị động (passivity) nguyên thủy, nhưng trong ý thức bị động ấy mà mọi ẩn dụ nội tại hé lộ. Tính bị động này cũng liên hệ đến 1 qkhứ, đến cái luôn-sẵn-đó (always-already-there) mà không có phản ứng nguyên thủy nào có thể kiểm soát đầy đủ và thức tỉnh sự hiện diện. Bất khả về tái sinh này là bằng chứng hiển nhiên, tuyệt đối về 1 hiện diện nguyên thủy tham chiếu chúng ta 1 qkhứ tuyệt đối. Đó là những gì cho phép ta gọi dấu tích mà không thể kết luận trong tính gỉan đơn của 1 htại. Quả thật ta có thể phản đối, trong tổng hợp tối giản tính tạm thời, rằng bảo vệ là tối cần thiết như duy trì. Cả 2 chiều kích của chúng không tăng lên mà mặt này hàm ý mặt kia trong 1 kiểu cách xa lạ.
    Đúng thế, điều gì được ước lượng trong việc bảo vệ không đáp ứng hiện tại không kém sự tự đồng nhất của nó hơn việc nó đáp ứng hiện tại thì lại được duy trì trong dấu tích. Nhưng nếu ước lượng được ưu tiên, tính tối giản của cái luôn-sẵn-đó và bị động cơ bản gọi là tgian sẽ có nguy cơ lu mờ. Mặt khác nếu dấu tích tham chiếu đến 1 qúa khứ tuyệt đối, đó là do nó hỗ trợ ta nghĩ về 1 qúa khứ không còn được hiểu trong hình thức 1 hiện diện được sửa đổi, như 1 hiệntại-qúakhứ (present-past). Vì qúa khứ luôn biểu đạt hiện tại-qúa khứ, cái qúa khứ tuyệt đối được duy trì trong dấu tích không còn tương xứng khắt khe với tên ?oqúa khứ? nữa. Một cái tên nữa để xóa, đặc biệt khi những vận động kỳ lạ của dấu tích tuyên bố mức tồi đa mà nó có thể triệu hồi: tính dị biệt trì hoãn-trì hoãn (difference difers-difers). Với cùng cảnh báo và cùng dấu xóa, ta có thể nói bị động của nó cũng chính là liên hệ của nó với ?otương lai?. Các k?Tniệm về hiện tại, qúa khứ và tương lai, mọi thứ trong k?Tniệm tgian và lịch sử ngụ ý chứng tích của chúng ?" là k?Tniệm tgian s?Thình nói chung - không thể mô tả đấy đủ cấu trúc các dấu tích.
    Và giải cấu trúc tính giản đơn của hiện diện không chỉ chung qui là giải thích về những chân trời hiện diện tiềm năng, quả thực thuộc ?obiện chứng về bảo hộ và duy trì mà ta sẽ lắp đặt vào trung tâm (heart) của hiện tại thay vì vây quanh nó bằng chính nó. Nó không phải là vấn đề làm phức tạp cấu trúc tgian trong lúc bảo tồn tính đồng nhất (homogeneity) và tính liên tục (successivity) của nó, bằng ch?Tminh chẳng hạn qúa khứ - hiện tại kiến tạo tính nguyên thủy, bằng sự phấn hóa chính nó, 1 hình thức htại sống động. Phức tạp như thế, trong cùng hiệu ứng mà Husserl mô tả, còn tiếp diễn, mặc sự trơ lì qui giảm hiện tượng học, với chứng tích và hiện diện của 1 mô hình tuyến tính, khách quan, và thông tục. ?oBây giờ? B được kiến tạo đúng nghĩa bởi sự duy trì của?obgiờ? A và sự bảo hộ của?obgiờ? C; mặc mọi vai trò phát sinh từ nó, từ sự kiện mà mỗi trong 3 ?obgiờ? (Now-s) sản sinh cấu trúc trong chính nó, mô hình liên tục này sẽ ngăn chặn ?obgiờ-X? bằng việc chiếm chỗ ?obgiờ? A chẳng hạn, và sẽ ngăn chặn, bằng trì hoãn không thể chấp nhận đối với ý thức, 1 trải nghiệm được quyết định, trong chính hiện tại của nó, bởi 1 hiện tại sẽ không đạt tới tức thời mà sẽ ?otrước? (anterior) nó 1 cách đáng kể. Đó là vấn đề hiệu ứng trì hoãn (deferred effect) mà Freud đã nói. Tính tạm thời mà ông tham chiếu không thể là cái đem chính nó đến Hiện tượng học về ý thức hoặc về hiện diện và quả thực có lẽ ta tự hỏi bằng lẽ gì mà mọi thứ trong vđề ở đây vẫn gợi về tgian, về bây giờ, về hiện tại đi trước, về trì hoãn, .v.v.
    Trong nghi thức vĩ đại nhất của nó, vđề rộng lớn này vì thế sẽ được trình bày có hệ thống: nó là tính tạm thời (temporality) mô tả bởi Hiện tượng học tiên nghiệm càng mang tính ?obiện chứng? (dialectical) càng tốt, 1 nền tảng để các cấu trúc, ta nên gọi là các cấu trúc vô thức (unconscious structures), của tính tạm thời bổ nghĩa 1 cách dễ dàng, hoặc mô hình hiện tượng học kiến tạo chính nó, như tấm áo choàng của ng?Tngữ, của logic, chứng tích, sự đảm bảo cơ bản, bằng 1 tấm len (wool) chẳng phải của riêng nó? Và ?" đây là v?Tđề khó nhất ?" cái nào không còn chút trần tục? Không chỉ tình cờ mà Hiện tượng học tiên nghiệm của ý thức-nội thời (internal time-conciousness), vì quá thận trọng định vị tgian vũ trụ trong ngoặc đơn, phải, như ý thức và thậm chí như nội ý thức, sống 1 thời là 1 kẻ đồng lõa thời thế. Giữa ý thức, nhận thức (nội và ngoại), và ?otrần tục?, sự gián đoạn, thậm chí trong hình thức huyền ảo được qui giảm, có lẽ không thể.
    Đó là trong ý thức ?ochưa được nghe đến? (unheard) mà nói lại ở trong thế tục, có căn nguyên ở tính thụ động mà s?Thình nói chung gọi là tri giác (sensibility). Vì không có ng?Tngữ phi-ẩn dụ đối lập với các phép ẩn dụ ở đây, ta phải, như ý muốn của Bergson, nhân các phép ẩn dụ đối nghịch nhau. ?oƯớc muốn được tri nhận? (wish sensibilised) giờ là Maine de Biran, với 1 ý định dị biệt nhẹ nhàng, có tên gọi từ nguyên âm (vocalic word). Thần ngôn đó được in dấu trước tiên và dấu ấn đó là nguồn-viết của ng?Tngữ, biểu thị 1 cách đảm bảo, thần ngôn đó không phải là 1 chủ động sáng tạo, yếu tố sáng tạo không ngừng của từ siêu phàm ấy, vân vân. Nhưng không có nghĩa chỉ là 1 bước ra ngoài s?Thình nếu không gì hơn là 1 mẫu hình ?ovề với tính hữu hạn? (motif of ?oreturn to finitude?), với ?ocái chết của Thượng Đế? (God?Ts death), vân vân, là kết quả của sự vận động này. Nó mang tính k?Tniệm, mơ hồ và cần phải giải cấu. Chúng thuộc lý thuyết bản thể học mà họ tranh đấu chống lại. K?Tbiệt cũng là 1 cái gì đó khác với tính hữu hạn (Difference is also something other than finitude).
    Theo Saussure, bị động nói trước hết là quan hệ của nó với ng?Tngữ. Ta không thể phân biệt quan hệ giữa bị động và k?Tbiệt từ mối quan hệ giữa vô ý thức cơ bản của ng?Tngữ (như gốc rễ trong phạm vi ng?T ngữ) và kh?Tcách (như dấu lặng, quảng trống, chấm câu, khoảng lặng, vân vân) kiến tạo căn nguyên tạo nghĩa. Đó là vì ?ong?Tngữ là 1 hình thức, không là 1 thực chất? (language is a form and not a substance), 1cách nghịch lý, chủ động nói có thể và phải luôn rút ra từ đó. Nhưng nếu nó là 1 hình thức thì là vì ?otrong ng?Tngữ chỉ có những k?Tbiệt? (in language there are only differences). Kh?Tcách (lưu ý từ này chứng tỏ sự khớp nối hữu âm (articulation) về kgian và tgian, cái khảdĩ-kgian (becoming-space) của tgian và cái khảdĩ-tgian (becoming-time) của kgian) luôn khó nhận thức, phi-hiện tại, và phi-nhận thức. Theo nghĩa hẹp, nếu ta có thể vẫn sử dụng biểu đạt ấy 1 cách phi-hiện tượng học, là vì ở đây ta vượt qua chính những giới hạn hiện tượng học. Nguồn gốc-viết như kh?Tcách không thể xuất hiện đúng nghĩa trong phạm vi trải nghiệm hiện tượng học về hiện diện. Nó khiến tgian chết trong phạm vi hiện diện của hiện tại sống, trong hình thức chung của mọi hiện diện. Tgian chết đang trôi đi. Đó là tại sao, 1 lần nữa, mặc mọi khởi nguồn rời rạc mà cái trước có thể mượn cái sau, k?Tniệm dấu tích sẽ không bao giờ hợp nhất với hiện tượng học về viết. Như hiện tượng học về d?Thiệu nói chung, hiện tượng học về viết là không thể. Không trực giác nào có thể chứng thực ở nơi mà ?onhững khoảng trắng đảm nhiệm vai trò quan trọng? (the whites take on an importance).

    Được Tran_Thang sửa chữa / chuyển vào 18:47 ngày 16/02/2009
  5. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    (tiếp)
    Giờ có lẽ dễ hiểu hơn tại sao Freud nói về việc trong mơ để s-sánh với viết hơn là với 1 ng?T ngữ, với chữ tượng hình (hieroglyphic) hơn là viết ngữ âm. Và để hiểu tại sao Saussure nói ng?Tngữ ?okhông là chức năng của người nói? (not a function of the speaker). Có hoặc không, đồng lõa của những tác giả, mọi gi?Tđịnh phải hiểu thấu đáo hơn là những hoán vị giản đơn của s?Thình hiện diện hoặc ch?Tquan y?Tthức (conscious subjectivity). Đồng thời kiến tạo và dời chỗ, viết khác chủ thể, dù cái sau hiểu theo ý thức gì đi nữa. Ta không bao giờ có thể nghĩ viết với ảnh hưởng phạm trù chủ thể; tuy nó được sửa đổi, tuy nó được chu cấp y?Tthức và vô thức, nó vẫn qui về thực chất hiện diện không bị xáo trộn bởi ngẫu nhiên, hoặc qui về cùng sự đồng nhất trong hiện diện tự-liên hệ, với toàn bộ dòng l-sử của nó.
    Dòng l-sử đó rõ ràng không chảy trong ph-vi b-giới s?Thình. Để quyết định X như chủ thể thì không bao giờ nó là qu?Ttrình hiệp định thuần túy, nó không bao giờ là cử chỉ tương đồng liên hệ đến viết.
    Kh?Tcách viết là khả dĩ-vắng mặt (becoming-absent) khả dĩ-vô y?Tthức (becoming-unconscious) của chủ thể. Bằng vận động lôi-kéo/phát-sinh (drift/derivation) việc gi?Tphóng dấu hiệu lần lượt kiến tạo dục vọng hiện diện. Khả dĩ- hay lôi-kéo/phát-sinh đó không xảy ra cho chủ thể chọn nó hoặc để chính nó bị lôi kéo bởi nó 1 cách bị động. Do qu-hệ chủ thể với chính cái chết của nó, điều khả dĩ này là kiến tạo ch?Tquan. Trên mọi mức độ tổ chức đời sống, có thể nói, là k-tế cái chết (the economy of death). Mọi tự vị đều có bản chất chúc thư. Và vắng mặt ng?Tthủy của chủ thể viết cũng là vắng mặt sự vật hoặc cái được tham chiếu.
    Trong kh?Tcách bề ngang tôi nói ở đây, nó không đối lập với nó như mặt phẳng đối lập chiều sâu, thậm chí không cần thiết nói rằng kh?Tcách cắt, rơi, và làm rơi trong phạm vi vô thức: vô thức chẳng là gì nếu không có ngữ điệu (cadence) và trước ngắt giọng (caesura) này. Tạo nghĩa được hình thành chỉ trong phạm vi hố sâu dị biệt: của gián đoạn và trừu tượng (discreteness), của trệch hướng (diversion) và bảo tồn (reserve) những gì không x?Thiện. Bản lề ng?Tngữ như viết hay gián đoạn này, có thể, tại thời điểm đã định trong ph?Tvi ng?Tngữ học, gia tăng chống lại những định kiến có phần đáng duy trì. Từ bỏ nó, âm vị học quả thực phải từ bỏ luôn mọi dị biệt giữa viết và từ nói, do đó là cả ch?Tnghĩa âm vị. Những gì Jakobson nhận biết về mặt này là điều qu-trọng nhất đối chúng ta:
    Dòng văn nói, liên tục 1 cách t-nhiên, trước hết đối mặt với l?Tthuyết chính xác về truyền đạt trong tình huống?oliên quan đáng kể? hơn trường hợp 1 tập hợp gi?Thạn những hợp phần rời rạc, biểu thị bởi văn viết. Tuy nhiên, phân tích ng?Tngữ đã chuyển văn nói thành 1 chuỗi gi?Thạn những đvị thông tin c?Tbản. Những đvị riêng biệt tối hậu này, gọi là ?onhững nét khu biệt? (distinctive features), sắp thành những bó gọi là ?oâm vị? (phonemes), chúng lần lượt móc nối thành những chuỗi. Do đó h-thức ng?Tngữ hiển nhiên có cấu trúc hột (granular) và là đ?Ttượng mô tả định lượng.
    Bản lề đánh dấu tính bất khả mà 1 dấu hiệu, sự hòa hợp k?Thiệu và được k?Thiệu, sản sinh trong ph-vi phong phú của h-tại và hiện diện tuyệt đối. Đấy là tại sao không có nói trọn vẹn (full speech), tuy nhiên đa số có lẽ thích khôi phục nó bằng phương tiện hoặc phân tích tâm lý không ch?Tthức. Trước khi nghĩ đến qui giảm hoặc khôi phục y?Tnghĩa nói trọn vẹn, tự cho là sự thực, ta cần đòi hỏi v?Tđề nghĩa và căn nguyên của nó là khác nhau. Đấy là địa hạt còn bàn của dấu tích.
    Sao lại là dấu tích ? Điều gì khiến ta chọn từ này ? Tôi đã bắt đầu trả lời câu hỏi này ? Nhưng câu hỏi này hiển nhiên cho câu trả lời của tôi, đến nỗi vị trí của c?Tnày và của c?Tkia phải luôn dịch chuyển. Nếu từ và k?Tniệm chứa đựng y?Tnghĩa chỉ trong chuỗi dị biệt, người ta có thể ch?Tminh ng?Tngữ và lựa chọn thuật ngữ của họ, chỉ trong ph-vi 1 ch?Tđề ( định lượng kgian) và 1 ch?Tlược l-sử. Ch?Tminh này vì thế có thể chẳng bao giờ tuyệt đối và sau cùng. Nó tương ứng đ-kiện y?Tnghĩa và gi?Tthích sự cân nhắc l-sử. Vì thế, qua và trên hết những thứ tôi đ-nghĩa, 1 số thuộc về hàm ngôn thời nay đã dần áp đặt tôi chọn lựa này. Từ ?odấu tích? phải tham chiếu chính nó đến 1 số nhất định những hàm ngôn đương thời mà y?Tnghĩa của chúng tôi đã dự định xem xét.
    Không phải tôi chấp nhận chúng h-toàn. Nhưng từ ?odấu tích? th?Tlập mối nối sáng sủa nhất với chúng và cho phép tôi bỏ qua những t?Ttriển ch?Tminh hiệu lực của chúng trong những lĩnh vực này. Vì thế, tôi liên hệ k?Tniệm dấu tích này với trọng tâm công trình cuối của Emmanuel Levinas và bài phê bình b?Tthể luận của ông: qu-hệ đến qui nạp (illeity) cũng như đến b?Tđổi (alterity) q-khứ chưa bao giờ và có thể chẳng bao giờ sống trong căn nguyên hoặc thay đổi h-thức hiện diện. Hòa giải ở đây đ?Tvới khuynh hướng Heidegger - vì không phải trong t-tưởng Levinas ?" y?Tniệm này biểu thị, đôi khi xa rời hàm ngôn Heidegger, sự hủy hoại b?Tthể học, trong cùng lẽ thường, quyết định y?Tnghĩa t-tại như hiện diện và y?Tnghĩa ng?Tngữ như sự liên tục trọn vẹn của nói. Khiến điều ta nghĩ là ta hiểu trở nên bí ẩn bằng những từ ?ocận kề? (proximity), ?otức thì? (immediacy), ?ohiện diện? (presence), là mục đích sau cùng của tôi trong cuốn sách này. Giải cấu cái hiện diện hoàn thiện chính nó qua giải cấu y?Tthức, và do đó qua y?Tniệm tối giản dấu tích, như nó hiển hiện trong hàm ngôn Nietzsch và Freud. Và sau cùng, trong mọi lĩnh vực kh?Thọc, nhất là s?Tvật học, y?Tniệm này dường như đang có ưu thế và không thể thiếu.
    Nếu dấu tích, nguồn gốc-hiện tượng của ?okí ức? (arch-phenomenon of ?omemory?) được xét đến trước những đ?Tlập t-nhiên và v?Thóa, thú tính và nhân tính, .v.v, thuộc vận động tạo nghĩa, thì tạo nghĩa là ưu tiên được viết, dù nó có được khắc hay không, trong h-thức này nọ, với yếu tố ?ogiác quan? hay ?okhông gian? gọi là ?ob-ngoài? (exterior). Nguồn gốc-viết, đầu tiên là kh?Tnăng về từ nói, sau là ?ođồ họa? trong y?Tthức hẹp, nơi ph?Tsinh sự ?ochiếm đoạt?, bị lên án từ Plato đến Saussure, dấu tích này nói chung là mở màn của b-ngoài đầu tiên, quan hệ sống bí ẩn với mặt kia và của b-trong đối với b-ngoài: kh?Tcách. B-ngoài ?ok-gian? và ?okh?Tquan? mà ta tin là ta biết, như sự vật thân thuộc nhất trên đời, như chính sự thân thuộc, sẽ không xuất hiện mà không có ng?Tpháp (grammé), không có dị biệt như tạm thời, không có phi hiện diện của mặt kia được khắc ghi trong phạm vi y?Tthức h-tại, không có qu-hệ cái chết như c?Ttrúc cụ thể của hiện tại sống động. Ẩn dụ sẽ bị cấm (Metaphor would be forbidden).
    Hiện diện-vắng mặt (presence-absence) của dấu tích mà ta không nên gợi đến mơ hồ, đúng hơn là vai trò của nó (vì từ ?omơ hồ? đòi hỏi logic hiện diện, thậm chí khi nó không tuân theo logic ấy), mang những v?Tđề mẫu tự (letter) và tinh thần (spirit), thể xác và tâm hồn, của mọi v?Tđề mà tương đồng giữa chúng (affinity) tôi đã nói đến. Mọi thuyết nhị nguyên (dualism), mọi thuyêt bất tử tâm hồn hay tinh thần, cũng như mọi thuyết nhất nguyên (monism), nhà duy linh hay duy vật, biện chứng hay thông tục, đều là đề tài duy nhất của s?Thình mà toàn bộ l-sử của nó buộc phải đ?Ttranh cho sự qui giảm về những dấu tích. Lệ thuộc dấu tích vào hiện diện trọn vẹn được k?Tluận trong thần ngôn, thứ cấp của viết không tương xứng (beneath) với nói mơ tưởng sự phong phú của nó, đó là thiện chí đòi hỏi bởi thuyết b?Tthể-thần học, quyết định y?T nghĩa kh?Tcổ học (archaeology) và mạt thế học (eschatology) về t-tại như hiện diện, như tái thế, như cuộc sống không k?Tbiệt : 1 tên khác của cái chết, hoán dụ l-sử nơi danh xưng của Thượng Đế kềm giữ cái chết. Đấy là tại sao, dù vận động này b?Tđầu thời đại của nó trong h-thức chủ nghĩa Plato (Platonism), nó cũng kết thúc trong s?Thình vô hạn.
  6. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    (tiếp)
    Chỉ t-tại vô hạn mới có thể qui giảm k?Tbiệt trong hiện diện. Với y?Tthức đó, danh xưng của Thượng Đế, ít nhất như nó đã được tuyên ngôn trong ph-vi ch?Tnghĩa duy lý cổ điển (rationalism), là danh xưng của chính k?Tbiệt. Chỉ vô hạn thực chứng mới có thể vực dậy dấu tích, ?othăng hoa? nó, (Đề xuất gần đây xem ?oAufhebung? của Hegel dịch như sự thăng hoa (sublimation); việc dịch này có thể có giá trị mơ hồ như mọi việc dịch, nhưng tính cận kề mới đáng quan tâm ở đây). Vì thế ta không phải nói về ?othành kiến thần học?(theological prejudice), hay ch?Tnăng 1 cách rời rạc khi đó là v?Tđề ph-phú của thần ngôn; thần ngôn, như thăng hoa dấu tích, là thần học. Thuyết vô hạn luôn là ch?Tnghĩa dĩ ngôn vi trung (logocentrism), dù chúng có là thuyết sáng tạo (creationism) hay không. Chính Spinoza đã nói về đ-kiện ?" hay thần ngôn ?" là phương thức vô hạn tức thời của 1 thực chất siêu phàm (divine substance), thậm chí gọi đó là đứa con bất diệt của nó như trong ?oShort Treatise?. Cũng với thời đại này, ?ođạt đến hoàn thành? với Hegel, với thần học những k?Tniệm tuyệt đối như thần ngôn, mà mọi k?Tniệm phi-phê phán thừa nhận bởi những nhà ng?Tngữ học, thuộc về, ít nhất, khu vực mà họ phải thừa nhận ?" và làm thế nào 1 kh-học tránh nó ? ?" Bản án Saussure gi?Thạn ?onội ngữ hệ? (internal system of language).
    Đây chính là những k?Tniệm cho phép loại trừ viết : hình ảnh hay đại diện, giác quan (sensible) hay suy đoán (intelligible), t-nhiên hay v-hóa, t-nhiên hay kỹ thuật, v.v. Chúng liên kết mọi k?Tniệm s?Thình, đặc biệt với t-nhiên, kh?Tquan, và quyết định phát sinh k?Tbiệt giữa ngoài và trong.
    Và trên mọi thứ với ?ok?Tniệm t-gian thông tục? (vulgar concept of time). Tôi vay mượn biểu đạt này từ Heidegger. Nó phác họa, ở cuối ?oBeing and time?, k?Tniệm t-gian qua thuật ngữ vận động k-gian hoặc h-tại, và thống trị mọi tr?Thọc từ vật lý Aristotle đến logic Hegel. K?Tniệm này quyết định mọi b?Tthể học cổ điển, không sinh ra từ sự cẩu thả của nhà tr?Thọc hay từ nhầm lẫn l?Tthuyết. Nó là b?Tchất toàn bộ l-sử phương Tây (Occident), của những gì liên kết s?Thình và thuật ngữ kỹ thuật của nó. Ta sẽ thấy sau đó nó kết hợp tuyến tính của viết, và k?Tniệm tuyến tính của nói. Thuyết tuyến tính (linearism) này không nghi ngờ không thể phân chia từ thuyết âm vị; Nó cất cao tiếng nói với cùng 1 khu vực mà viết tuyến tính phục tùng theo. Toàn bộ thuyết Saussure về ?otuyến tính k?Thiệu? (linearity of the signifier) gi?Tthích từ quan điểm này.
    Thính hiệu (au***ory signifier) luôn tùy nghi với chiều t-gian. Yếu tố của nó hiện diện liên tiếp nhau, tạo thành chuỗi. Đặc tính này hiển nhiên khi chúng đại diện trong viết?K?Thiệu, mang tính thính giác, bộc lộ đơn độc đúng lúc mà từ đó nó có đặc tính sau: (a) nó đại diện 1 nhịp (span), và (b) nhịp này đo lường1 chiều; nó là 1 tuyến.
    Đây là điều mà Jakobson bất đồng Saussure, bởi việc thay thế đồng nhất tuyến bằng c?Ttrúc 1 ê-kip nhạc (musical staff), hay?ohợp âm?. Nghi vấn ở đây không phải là xác nhận của Saussure về b?Tchất tgian của hàm ngôn mà là k?Tniệm tgian chỉ dẫn việc xác nhận và phân tích này : t-gian tiếp nhận như chuỗi tuyến tính (linear successivity), như ?okế tiếp? (consecutivity). Mô hình này hoạt động bằng chính nó và mọi cái đều qua cuốn ?oCourse?, nhưng Saussure có vẻ không chắc về nó trong phép đảo chữ (anagram). Dù sao, giá trị của nó như mơ hồ đối với ông và đoạn văn đáng chú ý sau đặt v?Tđề còn bỏ ngỏ:
    Yếu tố tạo nên 1 từ tiếp sau 1 từ khác là sự thực mà nó sẽ tốt hơn cho nhà ng?Tngữ xem nó không đáng quan tâm vì nó là hiển nhiên, mà đúng hơn như sự thực tạo thuận lợi cho nguyên tắc trung tâm của mọi phản ảnh hữu ích về từ. Trong l?Tvực, đặc biệt vô cùng, mà tôi sắp bước vào, nói chung v?Tđề đặt ra như thế về l-tục hoặc không-l-tục, là vì luật lệ c?Tsở về từ ngữ của c-người.
    K?Tniệm t-gian tuyến tính vì thế là 1 trong những lập trường sâu sắc nhất (deepest adherences) của k?Tniệm dấu hiệu hiện đại đ?Tvới l-sử riêng của nó. Vì ở gi?Thạn đó, nó là k?Tniệm của chính dấu hiệu, và tương phản này (distinction), dù mỏng manh, giữa biểu đạt và các mặt được biểu đạt, vẫn mãi ràng buộc với l-sử b?Tthể học cổ điển. Quan hệ song song và tương ứng các mặt hoặc các bản không thay đổi. Tương phản này, xuất hiện đầu tiên trong logic Stoic, cần thiết cho kết nối các đề tài sư phạm thống trị bởi thần học vô hạn, ngăn cản ta trang trải món nợ hôm nay cho nó như 1 bất ngờ hoặc thuận tiện. Tôi đề xuất điều này tại điểm bắt đầu, và các lý do giờ đều đã rõ hơn. Dấu hiệu luôn được tham chiếu, như đối với tham chiếu của chính nó, đến 1 thứ đồ vật (res), 1 thực thể được sáng tạo hoặc gì đi nữa, trước hết được nghĩ đến và nói đến, khả suy (thinkable) và khả ngôn (speakable), trong h-tại thường trực của thần ngôn và trong chính hơi thở của nó.
    Nếu nó liên quan đến việc nói của 1 sinh vật hữu hạn (finite being), được sáng tạo hay không, bất luận trong 1 thực thể vũ trụ, qua trung gian những dấu hiệu, chúng có qu-hệ tức thời với thần ngôn suy xét nó trong ph?Tvi hiện diện và không là 1 dấu tích đối với nó. Với ng?Tngữ học hiện đại, nếu k?Thiệu là 1 dấu tích thì được k?Thiệu là 1 y?Tnghĩa khả suy về nguyên tắc trong ph-vi hiện diện đầy đủ 1 y?Tthức trực giác. Mặt được k?Thiệu, đ?Tvới khu vực mà nó vẫn được phân biệt 1 cách ng-thủy với mặt k?Thiệu, không được xem như là 1 dấu tích; đúng ra, k?Thiệu không nhất thiết nó là gì. Ở tận đáy sâu khẳng định này, phải đặt v?Tđề qu-hệ giữa ng?Tngữ học và ng?Tnghĩa học.
    Tham chiếu y?Tnghĩa cái được k?Thiệu khả suy và khả năng này, bên ngoài mọi k?Thiệu, vẫn luôn lệ thuộc thuyết b?Tthể-cứu cánh (onto-teleology) mà tôi vừa gợi đến. Vì thế y?Ttưởng về dấu hiệu phải giải c?Ttrúc qua suy ngẫm viết mà nó sẽ hợp nhất, như nó phải thế, với tháo gỡ l?Tthuyết b?Tthể-thần học, lặp đi lặp lại chính xác trong toàn thể của nó và khiến nó không bền vững trong hầu hết các chứng tích vững chắc. Ta cần được dẫn dắt đến điều này, ngay lúc dấu tích tác động toàn bộ dấu hiệu ở cả 2 mặt của nó. Được k?Thiệu, 1 cách căn nguyên và 1 cách chính yếu (không chỉ với tâm linh được sáng tạo và hữu hạn), là dấu tích, và cái vẫn luôn ở vị trí k?Thiệu là giả định ngây thơ mà trong ph-vi đó s?Thình thần ngôn, hiện diện và y?Tthức, phải phản ảnh ở viết như cái chết và nguồn sống của nó.
    ---------------------------------hết- ---------------------------------------------
  7. trahoanhat06

    trahoanhat06 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/09/2006
    Bài viết:
    23
    Đã được thích:
    1
    Mình rất thích những bài viết về ngôn ngữ, đặc biệt về tiếng Việt
    Nhưng hình như bạn Tran Thang dịch chưa được Việt hoá lắm thì phải
    Cấu trúc ..nothing but, có lẽ người ta hay dịch ..không gì khác ngoài...Viết không có gì khác hơn (ngoài) việc biểu đạt cho lời nói (vì văn nói có trước, văn viết có sau nên văn viết dùng để ghi lại, diễn đạt lại lời nói)
  8. trahoanhat06

    trahoanhat06 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/09/2006
    Bài viết:
    23
    Đã được thích:
    1
    Tran Thang thân mến, sao lại không tiếp tục post bài nữa. Mình không nghĩ là một vài nhận xét mang tính chủ quan có thể ảnh hưởng đến hứng thú nghiên cứu của bạn. Mình có suy nghĩ thế này:
    - Do Derrida là một triết gia (hơn là một nhà ngôn ngữ) người Pháp, mà người Pháp thì thường khó hiểu hơn người Mỹ (hic, lại nhận định chủ quan rồi), nên mình tìm đọc một số tài liệu về ngôn ngữ học của Mỹ trước.
    - Mình tìm đọc Noam Chomsky. Ông này hiện còn sống và có tư tưởng tiến bộ (đã từng tham gia phong trào Chống chiến tranh ở Việt Nam, ông ấy viêt "The Responsibility of Intellectuals"- một essay mà trí thức Việt Nam cần tìm đọc)
    - Khác với Derrida, Chomsky xây dựng lý thuyết ngôn ngữ trên cơ sở thực nghiệm, do vậy được đánh giá là tiệm cận gần hơn với thực tiễn, trong khi Derrida đôi khi bị coi là "nguỵ biện", "nguỵ triết học"
    Qua đây mình chỉ muốn trao đổi với Tran Thang những vấn đề ngôn ngữ rất khó nhằn (mình thấy còn khó hơn cả triết học nữa). Vì nó khó nên mình muốn đi từng bước một, tìm hiểu từng thuật ngữ. Có gì tiếp tục chia sẻ nhé
  9. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    Chào !
    Bận rộn nên không trả lời bạn ngay được...Mình cũng đã chuẩn bị 1 số bài bình luận về Derrida...Nhưng cũng đang phân vân có nên viết hẳn 1 bài luận cho ra trò, với quan điểm của riêng mình, hay chỉ để phân tán tản mạn...
    ...sẽ tìm đọc về Chomsky...Nhưng ng''ngữ mà chỉ có thực tiễn không thôi thì chán lắm...Tôi nghĩ các nhà ng''ngữ học và tr''học phương Tây, nhất là Derrida, họ khảo sát ng''ngữ theo kiểu toán học vi phân (đúng ra thì toán vi phân cũng đi từ tr''học=sự khúc chiết...)...Trước cũng như bạn, nghĩ ng''ngữ khó... Thật ra ng''ngữ mang tính chất võ đoán nên thấy khó...Có lẽ có 1 pha về biểu đạt : biểu đạt bằng lời nói (dễ mà khó ) và biểu đạt bằng dấu hiệu (khó mà dễ)...
    Cảm ơn đã góp ý về Anh ngữ...
  10. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    Tản mạn.
    The movements of deconstruction do not destroy structures from the outside. They are not possible and effective, nor can they take accurate aim, except by inhabiting those structures. Inhabiting them in a certain way, because one always inhabits, and all the more when one does not suspect it.
    Các trào lưu giải c''trúc không phá hủy c?Ttrúc từ bên ngoài. Chúng bất khả và vô hiệu cũng như không đạt mục đích xác đáng, ngoại trừ bằng cách sống với những c?Ttrúc này. Sống với chúng bằng cách nào đó, vì ta luôn cư trú, và tốt hơn hết khi ta không hoài nghi chúng.
    And the reading must always aim at a certain relationship, unperceived by the writer, between what he commands and what he does not command of the patterns of the language that he uses.
    Việc đọc phải luôn nhằm đến qu-hệ nào đó, mà t?Tgiả không nhận biết, giữa điều họ kiểm soát và không kiểm soát các mô hình ng?Tngữ được sử dụng.
    Therefore a sign is >anything which determines something else (its interpretant), to refer to an object to which itself refers (its object) in the same way, the interpretant becoming in turn a sign, and so on ad infinitum.< ([Peirce, Collected Papers] 2.300).
    Do đó dấu hiệu không chỉ là bất cứ cái gì quyết định 1 cái gì khác (sự diễn giải của nó), để chỉ đến 1 đ?Ttượng, mà chính đ?Ttượng này cũng chỉ (đến đ?Ttượng của nó) cùng 1 cách, diễn giải này đến lượt nó cũng trở thành 1 dấu hiệu, và cứ thế đến vô tận.
    A tragedy, then, is the imitation of an action that is serious and also, as having magnitude, complete in itself; in language with pleasurable accessories, each kind brought in separately in the parts of the work; in a dramatic, not in a narrative form; with incidents arousing pity and fear, wherewith to accomplish its catharsis of such emotions.
    Bi kịch là ở việc mô phỏng 1 h-động nghiêm túc và hoàn toàn từ chính nó, như thể nó trọng đại trong ng?Tngữ của những kẻ lấy sự đồng lõa làm vui, mỗi thứ ấy dự phần vào t?Tphẩm; 1 cách kịch nghệ mà không phải là h-thức tường thuật, với những tình tiết khơi dậy lòng thương xót và nỗi sợ, những thứ đó nhằm hoàn thiện sự phấn kích của chúng với những cảm xúc như thế.
    Semiology would show what constitutes signs, what laws govern them. Since the science does not yet exist, no one can say what it would be; but it has a right to existence, a place staked out in advance
    Dấu hiệu học chỉ ra những gì kiến tạo nên d?Thiệu, những gì chi phối chúng. Vì kh?Thọc lúc đó chưa tồn tại, không ai có thể nói điều gì sẽ xảy ra, nhưng nó có quyền tồn tại, 1 vị trí chuẩn mực cho tiến bộ.
    Nietzschean affirmation, that is the joyous affirmation of the play of the world and of the innocence of becoming, the affirmation of a world of signs without fault, without truth, and without origin which is offered to an active interpretation.
    Khẳng định Nietzche, 1 khẳng định hân hoan về vai trò của th?Tgiới và về tính ngây thơ khả dĩ, khẳng định về 1 th?Tgiới của d?Thiệu, không khuyết điểm, không sự thực, và không căn nguyên bi đẩy đến 1 sự diễn giải chủ động.
    Of Grammatology (1967) is an examination of the relation between speech and writing, and it is an investigation of how speech and writing develop as forms of language. Derrida argues that writing has often been considered to be derived from speech, and he says that this attitude has been reflected in many philosophic and scientific investigations of the origin of language. He says that the tendency to consider writing as an expression of speech has led to the assumption that speech is closer than writing to the truth or logos of meaning and representation. He explains that the development of language occurs through an interplay of speech and writing and that because of this interplay, neither speech nor writing may properly be described as being more important to the development of language.
    Ng?Tpháp học là kh?Tsát qu-hệ giữa nói và viết, và đây là nghiên cứu làm thế nào nói và viết ph?Ttriển như các h-thức ng?Tngữ. Derrida l-luận viết thường được xem như phát sinh từ nói, và quan điểm này đã được phản ảnh trong nhiều nghiên cứu tr?Thọc và kh?Thọc về căn nguyên ng?Tngữ. Ông nói khuynh hướng xem viết như 1 sự biểu đạt của nói đã dẫn đến giả định là nói gần với sự thật hoặc thần ngôn hơn viết về ý nghĩa và đại diện. Ông lý giải sự ph?Ttriển ng?Tngữ diễn ra qua 1 vai trò tr-gian giữa nói và viết và vì vai trò tr-gian này, cả nói lẫn viết đáng được xem là quan trọng cho sự ph?Ttriển ng?Tngữ.
    Of Grammatology is divided into two parts. Part I is entitled ?oWriting before the Letter,? and Part II is entitled ?oNature, Culture, Writing.? Part I describes tra***ional views of the origin of writing, and explains how these views have subordinated the theory of writing to the theory of speech. Part II uses this explanatory method to deconstruct various texts in such fields as linguistics (Saussure?Ts Course in General Linguistics), anthropology (Lévi-Strauss?Ts Tristes Tropiques), and philosophy (Rousseau?Ts Essay on the Origin of Languages).
    Ng?Tpháp học chia làm 2 phần. Phần I?oViết trước khi có Mẫu tự?, và phần II ?oTự nhiên, văn hóa, Viết?. Phần I mô tả quan điểm truyền thống về căn nguyên viết và lý giải làm thế nào những quan điểm này khiến l?Tthuyết viết phụ thuộc l?Tthuyết nói. Phần II dùng pp lý giải này để hủy-tạo những văn bản kh?Tnhau trong những l?Tvực như ng?Tngữ học, nhân chủng học, tr?Thọc.
    ?oLogocentrism? is the attitude that logos (the Greek term for speech, thought, law, or reason) is the central principle of language and philosophy.1 Logocentrism is the view that speech, and not writing, is central to language. Thus, ?ogrammatology? (a term that Derrida uses to refer to the science of writing) can liberate our ideas of writing from being subordinated to our ideas of speech. Grammatology is a method of investigating the origin of language which enables our concepts of writing to become as comprehensive as our concepts of speech.
    Quan điểm dĩ-ng?Tvi-trung cho rằng thần ngôn (thuật ngữ Hy lạp: nói, tư tưởng, luật pháp, hay lý trí) là nguyên tắc tr-tâm của ng?Tngữ và tr?Thọc. C?Tnghĩa dĩ ng?Tvi trung là quan điểm cho rằng nói, không phải viết, là tr-tâm ng?Tngữ. Vì thế, ng?Tpháp học có thể gi?Tphóng mô hình viết khỏi lệ thuộc mô hình nói. Ng?Tpháp học là 1 pp nghiên cứu căn nguyên ng?Tngữ cho phép những k?Tniệm viết của ta dễ hiểu như k?Tniệm nói.
    According to logocentrist theory, speech is the original signifier of meaning, and the written word is derived from the spoken word. The written word is thus a representation of the spoken word. Logocentrism asserts that language originates as a process of thought that produces speech, and it asserts that speech produces writing.
    Theo thuyết dĩ-ng?Tvi-trung, nói là d?Thiệu nghĩa nguyên thủy, và từ viết là phát sinh từ từ nói. Từ viết do đó biểu đạt cho từ nói. Dĩ ng?Tvi trung khẳng định ng?Tngữ khởi nguồn như 1 quá trình tư tưởng sinh lời nói, và khẳng định nói sinh viết.
    Logocentrism is promoted by the theory that a linguistic sign consists of a signifier which derives its meaning from a signified idea or concept. Logocentrism asserts the exteriority of the signifier to the signified. Writing is conceptualized as exterior to speech, and speech is conceptualized as exterior to thought. However, if writing is only a representation of speech, then writing is only a ?~signifier of a signifier.?T Thus, according to logocentrist theory, writing is merely a derivative form of language which draws its meaning from speech. The importance of speech as central to the development of language is emphasized by logocentrist theory, but the importance of writing is marginalized.2
    Dĩ ng?Tvi trung được nâng cấp bằng l?Tthuyết, rằng d?Thiệu ng?Tngữ học chứa đựng d?Thiệu phát sinh nghĩa của nó từ ý tưởng hoặc k?Tniệm được qui-chiếu. Dĩ ng?Tvi trung khẳng định tính cách bên ngoài của d?Thiệu đối với qui-chiếu. Viết được k?Tniệm hóa như bề ngoài đối với nói, và nói được k?Tniệm hóa như bề ngoài của tư tưởng. Tuy nhiên, nếu viết chỉ biểu đạt nói, thì viết chỉ là ?od?Thiệu của d?Thiệu?. Vì thế, theo dĩ ng?Tvi trung , viết chỉ đơn thuần là h-thức phát sinh của ng?Tngữ kéo theo nghĩa của nó từ nói. Sự quan trọng của nói như tr-tâm đối với sự ph?Ttriển của ng?Tngữ được nhấn mạnh bởi dĩ-ng?Tvi-trung, trong khi tầm qu-trọng của viết bị cách ly khỏi ph?Ttriển xã hội.
    A signifier may be either interior or exterior to other signifiers, according to their relation to the signified. Logocentrism asserts that speech has a quality of interiority, and that writing has a quality of exteriority. However, Derrida argues that the play of difference between speech and writng is the play of difference between interiority and exteriority. Writing cannot be fully understood if it is viewed merely as an external representation of speech. Logocentrism is inadequate if we want to understand the full importance of writing.
    D?Thiệu có thể hoặc là bên trong hoặc là bên ngoài đ?Tvới những d?Thiệu khác, theo qu-hệ của chúng với qui-chiếu. Dĩ-ng?Tvi-trung khẳng định nói có đặc tính bên trong và viết có đặc tính bên ngoài. Tuy nhiên Derrida l-luận rằng vai trò k?Tbiệt giữa nói và viết là vai trò k?Tbiệt giữa bên trong và bên ngoài. Viết không thể được hiểu đầy đủ nếu nó được xem đơn thuần như biểu đạt bên ngoài của nói. Dĩ-ng?Tvi-trung là không thỏa đáng nếu ta muốn hiểu vai trò đầy đủ của viết.
    The play of difference between interiority and exteriority reveals that writing is both exterior and interior to speech and that speech is both interior and exterior to writing. This play of difference between speech and writing also means that interiority and exteriority are erased. The outside is, and is not, the inside. Outside and inside become inadequate concepts to describe either speech or writing.
    Vai trò k?Tbiệt giữa bên trong và bên ngoài bộc lộ viết vừa là bề ngoài vừa là bề trong đ?Tvới nói và nói cũng vừa là bề ngoài vừa là bề trong đối với viết. Vai trò k?Tbiệt giữa nói và viết cũng có nghĩa tính chất bên trong và tính chất bên ngoài bị xóa. Cái bên ngoài là, và không là, cái bên trong. Bên ngoài và bên trong trở nên những k?Tniệm không tương xứng mô tả hoặc nói hoặc viết.
    According to logocentrist theory, speech may be a kind of presence, because the speaker is simultaneously present for the listener, but writing may be a kind of absence, because the writer is not simultaneously present for the reader. Writing may be regarded by logocentrist theory as a substitute for the simultaneous presence of writer and reader. If the reader and the writer were simultaneously present, then the writer would communicate with the reader by speaking instead of by writing. Logocentrism thus asserts that writing is a substitute for speech, and that writing is an attempt to restore the presence of speech.
    Theo dĩ-ng?Tvi-trung, nói có lẽ là 1 loại hiện diện, vì người nói đồng thời hiện diện đ?Tvới người nghe, nhưng viết có lẽ là 1 loại vắng mặt, vì người viết không đồng thời hiện diện đối người đọc. Dĩ-ng?Tvi-trung có lẽ xem viết như 1 sự thay thế sự hiện diện đồng thời của người viết và người đọc. Nếu kẻ đọc và người viết đồng thời hiện diện, thì người viết sẽ truyền đạt với người đọc bằng nói thay vì viết. Dĩ-ng?Tvi-trung vì thế khẳng định viết là 1 sự thay thế cho nói, và viết là 1 cố gắng khôi phục sự hiện diện của nói.
    Logocentrism is described by Derrida as a ?ometaphysics of presence,? which is motivated by a desire for a ?otranscendental signified.?3 A ?otranscendental signified? is a signified which transcends all signifiers, and is a meaning which transcends all signs. A ?otranscendental signified? is also a signified concept or thought which transcends any single signifier, but which is implied by all determinations of meaning.

    Derrida mô tả dĩ-ng?Tvi-trung như ?os?Thình hiện diện?, có động lực ở khát vọng về 1 ?ođ?Ttượng tiên nghiệm?. ?oĐ?Ttượng tiên nghiệm? là đ?Ttượn và ý nghĩa đi trước mọi dấu hiệu.? Một ?ođ?Ttượng tiên nghiệm? cũng là k?Tniệm hoặc tư tưởng được qui chiếu tiên nghiệm cho bất kỳ d?Thiệu đơn nào, nhưng được ám chỉ bằng mọi xác quyết của nghĩa.

    The ?otranscendental signified? may be deconstructed by an examination of the assumptions which underlie the ?ometaphysics of presence.? For example, if presence is assumed to be the essence of the signified, then the proximity of a signifier to the signified may imply that the signifier is able to reflect the presence of the signified. If presence is assumed to the essence of the signified, then the remoteness of a signifier from the signified may imply that the signifier is unable, or may only be barely able, to reflect the presence of the signified. This interplay between proximity and remoteness is also an interplay between presence and absence, and between interiority and exteriority.
    ?oĐ?Ttượng tiên nghiệm? có thể bị hủy-tạo bằng việc kh?Tsát giả định lớp dưới của ?os?Thình về hiện diện?. V?Tdụ, nếu hiện diện được giả định như b?Tchất của qui-chiếu, thì cận tính của d?Thiệu đ?Tvới qui chiếu có thể ám chỉ rằng d?Thiệu có thể phản ảnh hiện diện của cái qui-chiếu. Nếu hiện diện được giả định như b?Tchất của qui-chiếu, thì viễn tính của d?Thiệu đối với qui chiếu có thể ám chỉ rằng d?Thiệu là không thể, hoặc ít khả năng, phản ánh hiện diện của qui-chiếu. Vai trò tr-gian giữa cận và viễn này cũng là vai trò tr-gian giữa hiện diện và vắng mặt, giữa trong và ngoài.
    ?oDifferance? is a term which Derrida uses to describe the origin of presence and absence. Differance is indefinable, and it annot be explained by the ?ometaphysics of presence.? In French, the verb ?odifférer? means both ?oto defer? and ?oto differ.? Thus, differance may refer not only to the state or quality of being deferred, but to the state or quality of being different. Differance may be the con***ion for that which is deferred, and it may be the con***ion for that which is different. Differance may be the con***ion for difference.
    Trì-biệt là thuật ngữ Derrida sử dụng mô tả căn nguyên của hiện diện và vắng mặt. Không thể đ-nghĩa được trì-biệt, và cũng không thể lý giải bằng s?Thình hiện diện. Trong tiếng Pháp, động từ ?odifférer? vừa là ?otrì hoãn? vừa là ?otạo dị biệt?. Vì thế, trì-biệt có thể không chỉ qui về trạng thái hay phẩm chất bị trì hoãn, mà là trạng thái hay phẩm chất của 1 sự dị biệt. Trì-biệt có thể là đ-kiện mà đ?Tvới nó, nó bị trì hoãn, và có lẽ là đ-kiện mà đ?Tvới nó, nó là sự dị biệt. Trì biệt có thể là đ-kiện cho k?Tbiệt.
    Derrida explains that differance is the con***ion for the opposition of presence and absence.4 Differance is also the ?ohinge? between speech and writing and between inner meaning and outer representation.

    Derrida lý giải trì-biệt là đ-kiện của đối lập về hiện diện và vắng mặt. Trì-biệt cũng là ?ocái bản lề? giữa nói và viết và giữa nội nghĩa và đại diện bên ngoài.

    The term ?oarche-writing? is uded by Derrida to describe a form of language which cannot be conceptualized within the ?ometaphysics of presence.? ?oArche-writing? is an original form of language which is not derived from speech. ?oArche-writing? is a form of language which is unhindered by the difference between speech and writing. ?oArche-writing? is also a con***ion for the play of difference between written and non-written forms of language.
    Derrida dùng th-ngữ ?ocăn nguyên viết? để mô tả 1 h-thức ng?Tngữ không thể k?Tniệm hóa trong ph-vi ?os?Thình hiện diện?. ?oCăn nguyên viết? là h-thức nguyên thủy của ng?Tngữ không phát sinh từ nói. ?oCăn nguyên viết? là h-thức ng?Tngữ không bị cản trở bởi k?Tbiệt giữa nói và viết. ?oCăn nguyên viết? cũng là đ-kiện cho vai trò k?Tbiệt giữa h-thức ng?Tngữ viết và không-viết.
    Derrida contrasts the concept of ?oarche-writing? with the ?ovulgar? concept of writing. The ?ovulgar? concept of writing, which is proposed by the ?ometaphysics of presence,? is deconstructed by the concept of ?oarche-writing.
    Derrida nêu tương phản giữa k?Tniệm ?oviết-căn nguyên ? và k?Tniệm ?oviết-thông tục?. K?Tniệm ?oviết-thông tục?, được đưa ra bởi ?os?Thinh hiện diện?, được giải c''trúc bằng k?Tniệm ?oviết-căn nguyên?.

Chia sẻ trang này