1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Ngữ pháp học (hay khoa học viết). J. Derrida

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi Tran_Thang, 23/11/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    That a signified can itself play the role of a signifier is familiar to anyone who uses a dictionary and finds themselves going beyond the original definition to look up yet another word which it employs. This concept can be seen as going beyond Saussure''s emphasis on the value of a sign lying in its relation to other signs and it was later to be developed more radically by poststructuralist theorists. Another concept which is alluded to within Peirce''s model which has been taken up by later theorists but which was explicitly excluded from Saussure''s model is the notion of dialogical thought. It stems in part from Peirce''s emphasis on ''semiosis'' as a process which is in distinct contrast to Saussure''s synchronic emphasis on structure (Peirce 1931-58, 5.484, 5.488). Peirce argued that ''all thinking is dialogic in form. Your self of one instant appeals to your deeper self for his assent'' (Peirce 1931-58, 6.338). This notion resurfaced in a more developed form in the 1920s in the theories of Mikhail Bakhtin (Bakhtin 1981). One important aspect of this is its characterization even of internal reflection as fundamentally social.
    ----------------------------------
    Việc 1 dấu-hiệu có thể tự nó đóng vai trò 1 qui-chiếu là khá quen thuộc đối bất cứ ai sử dụng từ-điển và nhận thấy chính họ xa rời định nghĩa ban đầu để tìm kiếm ngay 1 từ khác mà nó ủy nhiệm. K?Tniệm này có thể hiểu như sự xa rời sự nhấn mạnh của Saussure về giá trị của dấu hiệu nằm trong mối quan hệ của nó với những dấu hiệu khác và sau đó được phát triển triệt để hơn bởi những nhà l?Tthuyết hậu c?Ttrúc. Một k?Tniệm nữa ám chỉ đến mô hình Peirce được tiếp tục bởi những nhà l?Tthuyết sau đó nhưng nó loại trừ hoàn toàn mô hình Saussure là ý niệm về tư tưởng mang tính đối thoại. Từ nay xuất phát 1 phần từ nhấn mạnh của Peirce về ?odấu hiệu học? như 1 qu?Ttrình tương phản rõ rệt với nhấn mạnh mang tính đồng đại của Saussure về c?Ttrúc. Peirce l-luận rằng ?omọi suy nghĩ là đối thoại bằng hình thức. Bản ngã của bạn trong khoảnh khắc kêu gọi cái bản ngã sâu kín hơn sự tán thành của nó?. Ý niệm này nổi bật lên trong 1 h-thức ph?Ttriển hơn vào năm 1920 trong l?Tthuyết của Mikhail Bakhtin. Một khía cạnh qu-trọng của l?Tthuyết này là sự mô tả tính cách của nó thậm chí về sự phản ảnh nội tại như c?Tbản xã hội.
    -----------------------------------------
    Peirce, clearly fascinated by tripartite structures, made a phenomenological distinction between the sign itself [or the representamen] as an instance of ''Firstness'', its object as an instance of ''Secondness'' and the interpretant as an instance of ''Thirdness''. Such unfamiliar terms are relatively modest examples of Peircean coinages, and the complexity of his terminology and style has been a factor in limiting the influence of a distinctively Peircean semiotics.
    --------------------------------------
    Peirce, bị mê hoặc hoàn toàn bởi c?Ttrúc 3 thành phần, đã tạo sự k?Tbiệt mang tính hiện tượng học giữa chính dấu hiệu (hay cái đại diện) như trường hợp ?oĐệ nhất?, Đối tượng của nó như ?oĐệ nhị? và cái diễn đạt như ?oĐệ tam?. Những thuật ngữ xa lạ như thế 1 cách tương đối là những v?Tdụ khiêm tốn nhất về h-thống Peirce, và tính phức tạp về thuật ngữ và phong cách Peirce đã là 1 nhân tố gi?Thạn ảnh hưởng 1 cách rõ ràng dấu hiệu học Peirce.
    ------------------------------------------
    Variants of Peirce''s triad are often presented as ''the semiotic triangle'' (as if there were only one version). Here is a version which is quite often encountered and which changes only the unfamiliar Peircean terms (Nöth 1990, 89):
    ? Sign vehicle: the form of the sign;
    ? Sense: the sense made of the sign;
    ? Referent: what the sign ''stands for''.
    ---------------------------------------------------------
    Sự biết đổi về bộ 3 của Peirce thường được xem như ?otam giác dấu hiệu học? (như thể chỉ có 1 dạng). Đây là 1 dạng hoàn toàn thường gặp và làm thay đổi những thuật ngữ xa lạ của Peirce.
    - Phương-tiện-dấu-hiệu: là h-thức của dấu hiệu.
    - Ý thức: ý thức tạo bởi dấu hiệu.
    - Qui-chiếu: điều mà dấu hiệu ?othay mặt?.
    ------------------------------------------------
    One fairly well-known semiotic triangle is that of Ogden and Richards, in which the terms used are (a) ''symbol'', (b) ''thought or reference'' and (c) ''referent'' (Ogden & Richards 1923, 14). The broken line at the base of the triangle is intended to indicate that there is not necessarily any observable or direct relationship between the sign vehicle and the referent. Unlike Saussure''s abstract signified (which is analogous to term B rather than to C) the referent is an ''object''. This need not exclude the reference of signs to abstract concepts and fictional entities as well as to physical things, but Peirce''s model allocates a place for an objective reality which Saussure''s model did not directly feature (though Peirce was not a naive realist, and argued that all experience is mediated by signs). Note, however, that Peirce emphasized that ''the dependence of the mode of existence of the thing represented upon the mode of this or that representation of it... is contrary to the nature of reality'' (Peirce 1931-58, 5.323). The inclusion of a referent in Peirce''s model does not automatically make it a better model of the sign than that of Saussure. Indeed, as John Lyons notes:
    -----------------------------------------------
    Một tam giác dấu hiệu khá nổi tiếng là của Ogden và Richards, trong đó thuật ngữ được sử dụng là (a) ?obiểu tượng?, (b) ?otư tưởng hay tham khảo? và (c) ?oqui-chiếu?. Đường chấm cạnh đáy của tam-giác dung để chỉ rằng không nhất thiết có qu-hệ đáng có và trực tiếp giữa phương-tiện-dấu-hiệu và qui-chiếu. Không giống qui-chiếu trừu tượng của Saussure (tương ứng với đỉnh B hơn là C của tam-giác), cái qui-chiếu này là 1 ?ođối tượng?. Nó không cần bao hàm tư tưởng của dấu hiệu để trừu tượng hóa các k?Tniệm và thực-thể hư cấu cũng như sự-vật vật lý, mà mô hình Peirce qui định 1 nơi dành cho hiện thực khách quan mà mô hình Saussure không trực tiếp đề cao (mặc dù Peirce không phải là nhà duy thực ngây thơ, và l-luận rằng mọi kinh nghiệm đều qua trung gian những dấu hiệu). Tuy nhiên cần lưu ý rằng Peirce nhấn mạnh ?osự phụ thuộc về phương thức tồn tại của sự-vật được biểu đạt dựa trên phương thức biểu đạt này nọ của nó?là đối lập với tính tự nhiên của hiện thực. Sự bao gồm về 1 cái qui-chiếu của mô hình Peirce không tự khiến nó tốt hơn mô hình dấu hiệu của Saussure. Quả nhiên, như Lyons nhận xét:
    ---------------------------------------------
    There is considerable disagreement about the details of the triadic analysis even among those who accept that all three components, A, B and C, must be taken into account. Should A be defined as a physical or a mental entity? What is the psychological or ontological status of B? Is C something that is referred to on a particular occasion? Or is it the totality of things that might be referred to by uttering the sign...? Or, yet a third possibility, is it some typical or ideal representative of this class? (Lyons 1977, 99)
    ------------------------------------------
    Có sự bất đồng đáng kể về chi-tiết của phép phân tích tam-giác thậm chí giữa những người chấp nhận tất thảy 3 thành phần A, B và C, họ cũng phải bị xem xét. Nên định nghĩa đỉnh A như thực-thể vật chất hay tinh thần ? Còn trạng thái tâm lý và bản thể học của B là gì ? C có phải là 1 cái-gì-đó được chỉ đến vào 1 dịp cá biệt ? Hoặc nó có phải là toàn bộ sự-vật được chỉ đến bằng cách phát ra dấu hiệu ?? Hoặc, còn khả năng thứ 3, nó có phải là sự biểu đạt đặc trưng hay lý tưởng nào đó của tầng lớp này?
    -------------------------------------
    The notion of the importance of sense-making (which requires an interpreter - though Peirce doesn''t feature that term in his triad) has had a particular appeal for communication and media theorists who stress the importance of the active process of interpretation, and thus reject the equation of ''content'' and meaning. Many of these theorists allude to semiotic triangles in which the interpreter (or ''user'') of the sign features explicitly (in place of ''sense'' or ''interpretant''). This highlights the process of semiosis (which is very much a Peircean concept). The meaning of a sign is not contained within it, but arises in its interpretation. Whether a dyadic or triadic model is adopted, the role of the interpreter must be accounted for - either within the formal model of the sign, or as an essential part of the process of semiosis. David Sless declares that ''statements about users, signs or referents can never be made in isolation from each other. A statement about one always contains implications about the other two'' (Sless 1986, 6). Paul Thibault argues that the interpreter features implicitly even within Saussure''s apparently dyadic model (Thibault 1997, 184).
    ------------------------------------------
    Ý niệm về sự quan trọng của việc tạo ý thức (đòi hỏi 1 cái diễn-đạt ?" dù Peirce không đề cao thuật ngữ đó trong bộ 3 của ông) như 1 sự lôi cuốn về truyền đạt đặc biệt và các nhà l-luận truyền thông nhấn mạnh tầm qu-trọng qu?Ttrình tích cực về diễn đạt, và vì thế loại bỏ hệ thức về ?onội dung? và ý nghĩa. Nhiều trong số những nhà l?Tluận cũng nói đến tam-giác dấu hiệu học mà trong đó người diễn đạt (hay ?ongười sử-dụng?) của dấu hiệu có vai trò rõ ràng (thay cho ?oý thức? hay?cái diễn đạt?). Điều này nêu bật quá trình dấu hiệu học (rất giống khái niệm của Peirce). Ý nghĩa của dấu hiệu không nằm trong phạm vi chính nó, mà nảy sinh ở việc diễn giải về chúng. Dù mô hình bộ đôi hay bộ ba có được chấp nhận, thì vai trò của người diễn đạt phải được xét đến ?" hoặc trong phạm vi mô hình chính thức về dấu hiệu, hoặc như 1 phần chính yếu của quá trình ng?Tngữ học. David Sless tuyên bố rằng ?onhững tuyến bố về người sử dụng, dấu hiệu hay qui-chiếu có thể chẳng bao giờ được hình thành 1 cách riêng biệt với nhau. Tuyên bố về 1 thứ luôn bao hàm về 2 thứ kia?. Paul Thibault lập luận rằng người diễn đạt hoàn toàn có vai trò chính thậm chí trong phạm vi mô hình bộ ba của Saussure.

Chia sẻ trang này